Tài liệu Nghiên cứu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài văn bản văn học lớp 11 qua hai bộ sách ngữ văn chuẩn và nâng cao: ... Ebook Nghiên cứu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài văn bản văn học lớp 11 qua hai bộ sách ngữ văn chuẩn và nâng cao
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3104 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài văn bản văn học lớp 11 qua hai bộ sách ngữ văn chuẩn và nâng cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------
ĐỖ THỊ HẢI
NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG CÂU HỎI HƯỚNG DẪN
HỌC BÀI VĂN BẢN VĂN HỌC LỚP 11 QUA HAI BỘ
SÁCH NGỮ VĂN CHUẨN VÀ NÂNG CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------
ĐỖ THỊ HẢI
NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG CÂU HỎI HƯỚNG DẪN
HỌC BÀI VĂN BẢN VĂN HỌC LỚP 11 QUA HAI BỘ
SÁCH NGỮ VĂN CHUẨN VÀ NÂNG CAO
Chuyên ngành: LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN - TIẾNG VIỆT
MÃ SỐ: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. PHAN TRỌNG LUẬN
THÁI NGUYÊN - 2008
3
Lời cảm ơn
Với tấm lòng thành kính, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc tới G.S Phan Trọng Luận - người thầy đã tận tâm,
nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu
hoàn thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa
Ngữ Văn -Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã
tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu đề tài.
Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo và
nghiên cứu khoa học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên, thư viện trường Đại học Sư phạm đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để em hoàn thành luận văn .
Xin cảm ơn Ban giám đốc và các bạn đồng nghiệp Trung
tâm GDTX huyện Võ Nhai đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành
nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
Thái nguyên, tháng 11 năm 2008
Tác giả
Đỗ Thị Hải
4
MỤC LỤC
Trang
Phần 1: Phần mở đầu.....................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................2
3. Mục đích nghiên cứu...................................................................................3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................3
6. Giả thuyết khoa học.....................................................................................4
7. Lịch sử vấn đề.............................................................................................4
8. Cấu trúc luận văn.........................................................................................7
Phần 2: Nội dung.............................................................................................8
Chƣơng 1: Khảo sát hệ thống CHHDHB (phần thơ hiện đại) trong hai bộ
SGK Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11 (NXB giáo dục, 2007)................8
1. Mục đích khảo sát.......................................................................................8
2. Thống kê, phân loại....................................................................................8
2.1 Thống kê số lượng câu hỏi......................................................................8
2.2 Phân loại câu hỏi.....................................................................................9
3. Những ưu điểm và hạn chế của hệ thống câu hỏi (Phần thơ hiện đại)......13
3.1 Ưu điểm.................................................................................................14
3.1.1 Số lượng câu hỏi...............................................................................14
3.1.2 Câu hỏi sáng tạo...............................................................................14
3.1.3 Câu hỏi mang tính hệ thống ............................................................17
3.1.4 Câu hỏi có tính then chốt..................................................................19
3.1.5 Câu hỏi vừa sức................................................................................21
3.1.6 Câu hỏi khó......................................................................................21
3.2 Nhược điểm...........................................................................................22
5
3.2.1 Câu hỏi còn chưa chú ý đến việc đọc diễn cảm cho học sinh..........22
3.2.2 Câu hỏi có dung lượng kiến thức lớn và khó, chưa phù hợp với thời
gian và khả năng nhận thức của học sinh.......................................................23
3.2.3 Cách đặt câu hỏi..............................................................................23
3.3 Kết luận................................................................................................25
Chƣơng 2: Tiêu chí xây dựng hệ thống CHHDHB tác phẩm văn chƣơng
trong SGK Ngữ văn......................................................................................28
1. Cơ sở lí luận cho việc xây dựng hệ thống câu hỏi.....................................28
1.1 CHHDHB thể hiện tư tưởng đổi mới phương pháp dạy học.................28
1.2 Thể hiện rõ chức năng định hướng của CHHDHB...............................33
1.3 Vận dụng những thành tựu của thi pháp học hiện đại vào hệ thống
CHHDHB.......................................................................................................36
1.4 Vận dụng thành tựu của ngành ngôn ngữ học hiện đại vào CHHDHB......39
1.5 Vận dụng những ưu điểm của dạy học nêu vấn đề...............................42
2. Những tiêu chí xây dựng hệ thống CHHDHB trong SGK Ngữ văn.........46
2.1 Câu hỏi phải định hướng cho học sinh khám phá giá trị nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm..................................................................................47
2.2 Câu hỏi thể hiện được đặc trưng thi pháp của tác phẩm.......................48
2.3 Câu hỏi có tính hệ thống.......................................................................50
2.4 Câu hỏi khơi gợi tình cảm, cảm xúc, tâm hồn của học sinh..................53
2.5 Câu hỏi phải chuẩn bị tâm thế cho học sinh học trên lớp......................55
2.6 Câu hỏi cần phù hợp với trình độ và thời gian thực tế của học sinh.....56
Chƣơng 3: Thể nghiệm – xây dựng câu hỏi hƣớng vào một số bài học cụ
thể...................................................................................................................58
1. Giới thuyết chung......................................................................................58
2. Xây dựng câu hỏi cho bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử...............58
6
2.1 Bảng đối chiếu hệ thống câu hỏi sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao với
câu hỏi luận văn...............................................................................................58
2.2 Thuyết minh cho câu hỏi luận văn........................................................60
3. Xây dựng câu hỏi cho bài “Tôi yêu em” của Puskin.................................62
3.1 Bảng đối chiếu hệ thống câu hỏi sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao với
câu hỏi luận văn..............................................................................................62
3.2 Thuyết minh cho câu hỏi luận văn........................................................64
4. Kết luận rút ra từ câu hỏi thể nghiệm........................................................65
Phần 3: Kết luận chung.................................................................................67
Phụ lục............................................................................................................70
Tài liệu tham khảo.........................................................................................80
1
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1 Dạy học văn là một quá trình nhận thức trải qua nhiều công đoạn
khác nhau. Mỗi công đoạn có một vai trò, nhiệm vụ riêng. Trong đó, câu hỏi
hướng dẫn học bài (CHHDHB) là một công đoạn rất quan trọng, có tác dụng
quyết định chất lượng học tập, tạo tâm thế cho học sinh chiếm lĩnh tác phẩm,
giúp học sinh hình thành và rèn luyện một phương pháp tự tìm hiểu, tự khám
phá và cảm nhận tác phẩm văn học.
1.2 Hệ thống CHHDHB trong tác phẩm văn chương không phải là vấn
đề mới mẻ nhưng trong quan niệm cũng như trong cách vận dụng của giáo
viên phổ thông còn nhiều lúng túng. Cần phải khẳng định rằng, hệ thống câu
hỏi trong sách giáo khoa (SGK) không chỉ quan trọng đối với học sinh mà còn
giúp giáo viên xây dựng cho mình một phương án dạy tối ưu, đạt hiệu quả
cao. Giáo án của giáo viên không thể không tính đến nội dung và cách thức
xõy dựng của những câu hỏi trong SGK. Câu hỏi mà học sinh chuẩn bị ở nhà
theo SGK và câu hỏi trong giáo án của giáo viên tuy có sự khác nhau nhưng
cùng hướng đến một mục đích chung là giúp học sinh tự mình tìm hiểu tác
phẩm bằng cách tự học, tự suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo. Vì thế chúng có liên
quan mật thiết và hỗ trợ cho nhau.
Tuy vậy, nhiều giáo viên trong quá trình soạn bài và lên lớp chưa quan
tâm đúng mức tới CHHDHB trong SGK, chưa thể hiện được mối liên hệ giữa
những vấn đề mà học sinh chuẩn bị ở nhà với những vấn đề mà thầy cô phát
vấn trên lớp. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy học văn
trong nhà trường phổ thông.
Với đề tài này của luận văn, chúng tôi muốn góp một phần nhỏ việc
thay đổi cách nhìn nhận và vận dụng câu hỏi trong SGK đối vói quá trình dạy
và học của giáo viên.
2
13 CHHDHB trong SGK thể hiện được rất rõ tư tưởng đổi mới hay
chưa đổi mới phương pháp. Vì vậy việc đi sâu, nghiên cứu, tìm hiểu, để nhận
định những đóng góp quan trọng vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học
văn trong nhà trường phổ thông hiện nay là công việc cần thiết.
1.4 Đổi mới phương phỏp dạy học văn theo định hướng coi học sinh là
chủ thể sỏng tạo phải là sự thay đổi toàn diện và đồng bộ, trong đó có sự thay
đổi của hệ thống câu hỏi trong SGK. Nhưng để đi đến sự hoàn thiện của công
việc đổi mới cần phải có sự cố gắng từ nhiều phía, đặc biệt là những nhà sư
phạm và đông đảo giáo viên. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy chúng tôi chọn
nghiên cứu đề tài về hệ thống CHHDHB trước hết là để rút kinh nghiệm, trên
cơ sở đó đưa ra những đề xuất nhằm góp phần tích cực vào quá trình đổi mới
phương pháp dạy học văn.
Trên đây là những lý do để chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài '' Nghiên
cứu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài văn bản văn học lớp 11 qua hai
bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao'' cho luận văn thạc sỹ của mình. Chúng
tôi cho rằng, kết quả của việc khảo sát đánh giá, xem xét hệ thống câu hỏi
trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao sẽ là một yếu tố quan trọng góp
phần nâng cao chất lượng dạy học văn ở nhà trường phổ thông.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống câu hỏi trong hai bộ sách Ngữ văn
chuẩn và nâng cao lớp 11.
Khảo sát đánh giá các CHHDHB phần thơ hiện đại trong hai bộ sách
Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11. (Nhà xuất bản Giáo dục- 2007). Hệ thống
câu hỏi gồm 8 bài với 33 câu hỏi trong sách Ngữ văn chuẩn và 44 câu hỏi
trong sách Ngữ văn nâng cao.
3
3. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích khoa học của luận văn là khảo sát và đánh giá hệ thống
CHHDHB phần thơ hiện đại trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao để
rút ra một số kinh nghiệm bổ ích cho việc xác định một quan niệm và phương
pháp đúng đắn về cách soạn CHHDHB tác phẩm văn chương ở nhà trường.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi hy vọng góp một phần nhỏ bé vào việc
hoàn thiện, đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà
trường phổ thông.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Khảo sát và đánh giá một cách khách quan, có căn cứ CHHDHB trong
hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11.
Đưa ra những đề xuất có tính tiêu chí nhằm góp phần xây dựng vào quá
trình hoàn thiện của CHHDHB trong SGK từ quá trình khảo sát.
Soạn thể nghiệm câu hỏi để đề xuất hướng vào một số bài học tác phẩm
văn chương (phần thơ hiện đại) trong chương trình lớp 11.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra, thống kê, phân loại: Điều tra thực tiễn giáo viên
và học sinh để có cách nhìn nhận rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của
hệ thống CHHDHB trong SGK Ngữ văn lớp 11.
Thống kê, phân loại để khảo sát những ưu điểm, tư tưởng đổi mới cũng
như những hạn chế của hệ thống câu hỏi.
Tìm hiểu các công trình nghiên cứu về hệ thống câu hỏi trong dạy học
văn nói chung và CHHDHB trong SGK Ngữ văn lớp 11 nói riêng để xác định
được những căn cứ làm cơ sở lý luận ban đầu để tiếp tục nghiên cứu.
Trên cơ sở lí luận, những tiêu chí xây dựng câu hỏi đã đưa ra, kết hợp
với kinh nghiệm dạy học, chúng tôi tiến hành thể nghiệm câu hỏi cho một số
bài học tác phẩm văn chương phần thơ hiện đại trong SGK Ngữ văn lớp 11.
4
6. Giả thuyết khoa học:
CHHDHB trong SGK nếu được biên soạn tốt thì sẽ là minh chứng cụ
thể cho sự đổi mới về phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà
trường.
Từ đó góp phần xây dựng một quan niệm đầy đủ hơn về hệ thống câu
hỏi trong SGK Ngữ văn, nhằm rèn luyện năng lực tự cảm thụ tác phẩm văn
chương cho học sinh THPT và tạo điều kiện kết hợp được giữa việc tổ chức
hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của trò ở trên lớp.
7. Lịch sử vấn đề:
Có thể khẳng định rằng, vấn đề hệ thống câu hỏi trong quá trình dạy
học không phải là vấn đề mới. Nó đã được đặt ra từ rất lâu trong lịch sử dạy
học. Trước Công nguyên Xôcrat (429-399 TCN), một triết gia Hy lạp cổ đại
nhằm mục đích lôi cuốn, kích thích tính chủ động tích cực, sự tự vận động đã
sử dụng phương pháp đặt câu hỏi khi giảng bài triết học cho các môn đệ.
Ngày nay, với sự lớn mạnh không ngừng của các ngành khoa học trong
mọi lĩnh vực, vấn đề câu hỏi trong dạy học văn đã thu hút được sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu. Các công trình ở nước ngoài có thể kể đến một số
công trình như:
''Phương pháp luận dạy văn học'' do IA. Rez chủ biên, tác giả đã cho
rằng: ''Xây dựng hệ thống câu hỏi lô gíc chặt chẽ có thể dẫn dắt một cách liên
tục sự suy nghĩ của học sinh từ quan sát đến phân tích hiện tượng, từ những
kết luận mang tính chất bộ phận đến những kết luận khái quát hơn. Hệ thống
câu hỏi tạo nên cuộc đàm thoại gợi tìm, không những phải đưa học sinh đến
những tri thức tự tìm lấy, mà còn phải chỉ ra các phương hướng, phương
pháp nhằm đạt tới các tri thức đó nữa.'' [ 24, tr.57 ]
Trong ''Phương pháp giảng dạy văn học ở nhà trường phổ thông'', tác
giả Nhikônxki đã nhấn mạnh ''Các câu hỏi đặt ra cho học sinh phải tạo ra
5
cho các em khả năng trả lời câu hỏi tương đối tự do và có khả năng để các
em thảo luận, bàn bạc.'' [ 20 ]
Hai tác giả đã đề cập tới việc dạy học văn ở nhà trường với những góc
độ khác nhau nhưng việc vận dụng vào thực tiễn còn hạn chế, dù câu hỏi đã
có ý nghĩa về phương pháp luận.
Ở Việt Nam, vấn đề câu hỏi trong quá trình dạy học văn mới xuất hiện
trong thế kỷ XX có thể kể đến những công trình nghiên cứu như: ''Cảm thụ
văn học, giảng dạy văn học'', ''Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường''
của G.S Phan Trọng Luận. ''Phương pháp dạy học văn'' tập I của G.S Phan
Trọng Luận và G.S -T.S Nguyễn Thanh Hùng. Các công trình đó đã có bàn
luận về câu hỏi trong dạy học văn.
Câu hỏi được nghiên cứu gắn với phương pháp dạy học cụ thể có:
''Câu hỏi trong giảng văn của'' Trương Dĩnh, Tiểu luận ''Những cơ sở
khoa học của phương pháp đặt câu hỏi gợi mở trong dạy học tác phẩm văn
chương'' của Hoàng Dư. Hai tác giả đã đi sâu nghiên cứu câu hỏi trong
phương pháp dạy học văn. Tác giả Trương Dĩnh đề cập đến ''nghệ thuật hỏi
trên lớp'' nhưng hình thức hỏi còn chưa tạo thành các khâu trong quá trình lô
gíc, chưa lập thành hệ thống để dẫn dắt học sinh khám phá tác phẩm.
Luận văn tốt nghiệp đại học của Dương Thị Mai Hương, đề tài '' nhận
xét câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài trong SGK văn 11 PTTH'' khoá 1989-
1993. Đề tài đã chú ý khảo sát câu hỏi cụ thể, có cơ sở lý luận và đề xuất câu
hỏi phù hợp với đối tượng học sinh nhưng mới chỉ dừng lại ở sự thể nghiệm
cụ thể chứ chưa nâng khái quát lên thành vấn đề cần đi sâu nghiên cứu.
Luận văn thạc sĩ của Dương Thị Quy, đề tài ''Câu hỏi hướng dẫn chuẩn
bị bài trong SGK văn PTTH''- ĐHSP Hà Nội, 1996. Từ việc khảo sát và nhận
xét kết quả, luận văn đã đưa ra cơ sở lí luận và tiêu chí xây dựng câu hỏi
6
chuẩn bị bài. Tuy nhiên, phần nhận xét chưa mang tính khái quát vấn đề, một
số tiêu chí xây dựng câu hỏi chưa thật sự khoa học.
''Hệ thống câu hỏi trong SGK văn học bậc PTTH phần tác phẩm văn
học Việt Nam'' của Nguyễn Quang Cương- luận án tiến sĩ khoa học, ĐHSP
Hà Nội, 2000 và ''Câu hỏi nêu vấn đề trong giảng văn ở THPT'' của Nguyễn
Thị Ngân - luận án tiến sĩ khoa học, ĐHSP Hà Nội, 2001. Các tác giả đều cho
rằng việc sử dụng hệ thống câu hỏi là một biện pháp, quy trình đem lại hiệu
quả cao cho giờ học văn theo khuynh hướng phát huy tính tích cực của chủ
thể người học, coi học sinh là bạn đọc sáng tạo, kích thích tư duy tìm tòi, phát
hiện và khám phá của học sinh. Đây là những luận án nghiên cứu thuộc hệ
thống câu hỏi trên lớp và câu hỏi nêu vấn đề.
Tóm lại: Trong tầm bao quát và mức độ hiểu biết của bản thân, nhìn
chung các luận văn, luận án đã chú trọng đến câu hỏi phần chuẩn bị bài ở nhà
của học sinh trong SGK, nghiên cứu trên nền tảng phương pháp luận. Càng về
sau, các luận văn, luận án đã rút ngắn hơn khoảng cách giữa lí luận và thực
tiễn, câu hỏi ngày càng có sự phân hoá rõ nét, đáp ứng yêu cầu không ngừng
đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường phổ thông. Một số công
trình từ việc xác định cơ sở lí luận đã đề xuất những tiêu chí xây dựng hệ
thống câu hỏi trong SGK. Tuy nhiên, để đi đến thống nhất về một lý thuyết
câu hỏi thực sự khoa học còn là cả một quá trình cần được hoàn thiện về lí
thuyết và thực thi về biện pháp. Điều này dễ hiểu vì sao những tiêu chí xây
dựng câu hỏi mà các luận văn và luận án đưa ra vẫn còn nhiều điểm chưa
thống nhất.
8. Cấu trúc luận văn:
Luận văn gồm 82 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài
liệu tham khảo, phần nội dung được thể hiện trong 3 chương:
7
Chƣơng 1: Khảo sát hệ thống CHHDHB tác phẩm văn chương (phần
thơ hiện đại) trong SGK Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11.
Chƣơng 2: Tiêu chí xây dựng hệ thống CHHDHB tác phẩm văn
chương (phần thơ hiện đại) trong SGK Ngữ văn.
Chƣơng 3: Xây dựng câu hỏi thể nghiệm cho một số tác phẩm phần
thơ hiện đại trong SGK Ngữ văn lớp 11.
8
PHẦN 2: NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHẢO SÁT HỆ THỐNG CHHDHB (PHẦN THƠ HIỆN ĐẠI) TRONG
HAI BỘ SGK NGỮ VĂN CHUẨN VÀ NÂNG CAO LỚP 11
(NXB GIÁO DỤC, 2007)
1. Mục đích khảo sát:
1.1 Nhận định những thành công và chỉ ra những hạn chế của hệ
thống CHHDHB trong SGK Ngữ văn lớp 11. Chúng tôi xem xét câu hỏi đã
thực sự chú trọng tới tính sáng tạo của chủ thể học sinh hay mới chỉ dừng ở
mức độ tái hiện đơn giản như trước đây? Câu hỏi đã phù hợp với quy luật cảm
thụ văn chương, quy luật nhận thức của học sinh THPT chưa? Câu hỏi đã thể
hiện đặc trưng riêng của thể loại văn học chưa? Câu hỏi đã có tính hệ thống
dẫn dắt học sinh đi vào tác phẩm hay chưa?...
1.2 CHHDHB là nơi biểu hiện rõ nhất tư tưởng đổi mới của những
người biên soạn sách, đồng thời giúp chúng ta nhìn nhận và khẳng định được
bước đường phát triển của hệ thống CHHDHB trong SGK.
1.3 Kết quả của việc khảo sát giúp chúng tôi nhìn nhận, đánh giá
CHHDHB trong SGK được khách quan. Từ đó đưa ra những đề xuất, Những
thể nghiệm riêng nhằm góp phần xây dựng cho sự hoàn thiện của hệ thống
CHHDHB trong SGK.
2. Thống kê, phân loại:
2.1 Thống kê số lƣợng câu hỏi:
Phạm vi khảo sát: CHHDHB tác phẩm văn chương (phần thơ hiện đại)
trong SGK Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11. (NXB Giáo dục, 2007)
Tổng số bài khảo sát: 08 bài.
9
Số câu hỏi trong SGK Ngữ văn chuẩn: 33, bình quân 4,1 câu hỏi/1 bài học.
Số câu hỏi trong SGK Ngữ văn nâng cao: 44, bình quân 5,5 câu hỏi/1
bài học.
Tổng số câu hỏi trong hai bộ sách là 77 câu.
2.2 Phân loại câu hỏi:
Bảng phân loại:
Loại
câu hỏi
Số lƣợng
câu hỏi (%)
Ví dụ
Tái
hiện
Sách Ngữ văn chuẩn:
8/33 (24,2%)
Sách Ngữ văn nâng
cao: 10/44 (22,7%)
1. Tố Hữu đã dùng những hình ảnh nào để
chỉ lí tưởng và biểu hiện niềm vui sướng,
say mê khi bắt gặp lí tưởng?
( CHHDHB ''Từ ấy'' trang 44, tập 2 - sách
Ngữ văn chuẩn)
2. So sánh bản dịch thơ với bản dịch nghĩa,
tìm những chỗ chưa sát với nguyên tác (chú
ý câu 2 và câu 3)
(CHHDHB “Chiều tối” trang 42, tập 2 -
Sách Ngữ văn chuẩn)
3. Dựa vào cảnh ngộ của tác giả (xem phần
tiểu dẫn) hãy nhận xét nghệ thuật miêu tả
thiên nhiên trong 2 câu đầu của bài thơ.
(CHHDHB ''Chiều tối'' trang 76, tập 2 -
Sách Ngữ văn nâng cao)
4. Bài thơ được viết như một dòng cảm xúc
hối hả tuôn trào, nhưng vẫn tuân theo một
bố cục khá rõ ràng, thể hiện mạch triết lí sâu
10
sắc và chặt chẽ. Hãy tìm bố cục ấy.
(CHHDHB ''Vội vàng'' trang 29, tập 2 -
Sách Ngữ văn nâng cao)
Sáng
tạo
Sách Ngữ văn
chuẩn:24/33 (72,7%)
Sách Ngữ văn nâng
cao: 30/44 (68,1%)
1. Bài thơ gợi cho anh (chị) những cảm nghĩ
gì về tâm hồn Puskin và về tình yêu?
(CHHDHB ''Tôi yêu em'' trang 60, tập 2 -
Sách Ngữ văn chuẩn)
2. Hỡnh ảnh thiên nhiên, sự sống quen
thuộc được tác giả cảm nhận và diễn tả như
thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong
quan niệm của Xuân Diệu về cuộc sống,
tuổi trẻ và hạnh phúc?
(CHHDHB ''Vội vàng'' trang 23, tập 2 -
Sách Ngữ văn chuẩn)
3. Hãy nêu cảm nhận của anh (chị) về bức
tranh thiên nhiên được thể hiện trong bài
thơ. Câu đề từ ''bâng khuâng trời rộng nhớ
sông dài'' có mối liên hệ đối với hình ảnh
tạo vật thiên nhiên và tâm trạng của tác giả
được thể hiện trong bài?
(CHHDHB ''Tràng giang'' trang 50, tập 2 -
Sách Ngữ văn nâng cao)
4. Cõu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà?” có
chút hoài nghi. Theo anh (chị), đó là nỗi
hoài nghi của sự chán đời hay của niềm tha
thiết với cuộc đời? Tại sao?
CHHDHB ''Đây thôn Vĩ Dạ'' trang 47, tập 2
11
- Sách Ngữ văn nâng cao)
Dẫn
dắt, gợi
mở
Sách Ngữ văn chuẩn:
14/33 (42,4%)
Sách Ngữ văn nâng
cao: 20/44 (45,4%)
1. Điệp khúc nào làm nổi bật cảm xúc chủ
đạo của bài thơ? Bài thơ dường như là lời từ
giã cho một mối tình không thành, lời từ giã
của Puskin có gì đặc biệt?
(CHHDHB ''Tôi yêu em'' trang 60, tập 2 -
Sách Ngữ văn chuẩn)
2. Giọng điệu trữ tình chuyển biến như thế
nào từ hai câu 1-2 sang hai câu 3-4 và từ
câu 5-6 sang hai câu 7-8? Diễn biến tâm
trạng phức tạp của nhân vật trữ tình được
thể hiện tinh tế ra sao?
(CHHDHB ''Tôi yêu em'' trang 60, tập 2 -
Sách Ngữ văn chuẩn)
3. Mỗi khổ thơ trong bài đều chứa đựng câu
hỏi. Các câu hỏi ấy đã góp phần tạo nên âm
điệu riêng của bài thơ. Âm điệu ấy đã thể
hiện mạch tâm trạng gì của tác giả?
CHHDHB ''Đây thôn Vĩ Dạ'' trang 47, tập 2
- Sách Ngữ văn nâng cao)
4. Anh (chị) có cảm nhận như thế nào về âm
điệu chung của toàn bài thơ? Âm điệu ấy đó
gúp phần thể hiện tâm trạng gì của tác giả
trước thiên nhiên?
(CHHDHB ''Tràng giang'', trang 50, tập 2 -
Sách Ngữ văn nâng cao)
12
Câu hỏi
vừa sức
Sách Ngữ văn chuẩn:
30/33 (90%)
Sách Ngữ văn nâng
cao: 39/44 (88,,6%)
1. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm
hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một
đoạn rất hiện thực. Đó là đoạn thơ nào? Tìm
hiểu ý nghĩa đoạn thơ đó. Theo anh (chị) hai
nguồn cảm hứng này ở thi sĩ Tản Đà có mối
liên hệ với nhau như thế nào?
(CHHDHB ''Hầu trời'' trang 17, tập 2 - Sách
Ngữ văn chuẩn)
2. Sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm
của nhà thơ được thể hiện ra sao?
(CHHDHB ''Từ ấy'' trang 44, tập 2 - Sách
Ngữ văn chuẩn)
3. Cảm xúc trong 2 câu thơ: ''Tôi yêu em âm
thầm không hy vọng- Lúc rụt rè khi hậm
hực lòng ghen'' có gì đặc biệt? Nó hé mở
trạng thái tình cảm gì trong nhân vật trữ
tình?
(CHHDHB ''Tôi yêu em'' trang 167, tập 2 -
Sách Ngữ văn nâng cao)
4. Hình ảnh lũ than rực hồng ở cuối bài thơ
có ý nghĩa như thế nào trong bức tranh
chiều tối của tác giả? Điều này thể hiện đặc
điểm gì của tâm hồn Hồ chí Minh?
(CHHDHB ''Chiều tối'' trang 76 , tập 2 -
Sách Ngữ văn nâng cao)
13
Câu hỏi
khó
Sách Ngữ văn chuẩn:
3/33 (9%)
Sách Ngữ văn nâng
cao: 5/44 (11,3%)
1. Có gì đáng chú ý trong tứ thơ và bút
pháp của bài thơ?
(CHHDHB “Đây thôn Vĩ Dạ” trang 39, tập
2 - Sách Ngữ văn chuẩn)
2. Nhận xét chung về giá trị tư tưởng và
nghệ thuật của bài thơ.
(CHHDHB ''Hầu Trời'' trang 12, tập 2 -
Sách Ngữ văn nâng cao)
3. Màu sắc cổ điển của bài thơ thể hiện ở
đâu và như thế nào? Vì sao người ta thường
nói thơ nghệ thuật của Hồ Chí Minh tuy rất
cổ điển nhưng vẫn là thơ hiện đại? Hãy
phân tích bài ''Chiều tối'' để giải thích và
chứng minh.
(CHHDHB ''Chiều tối'' trang 76 , tập 2-
Sách Ngữ văn nâng cao)
3. Những ƣu điểm và hạn chế của hệ thống câu hỏi (phần thơ hiện đại):
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy hệ thống câu hỏi phần thơ hiện đại
trong 2 bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao có những ưu điểm rất lớn, bên
cạnh đó còn có những hạn chế nhất định.
3.1 Ƣu điểm:
Những thành công của hệ thống câu hỏi được biểu hiện trên những
phương diện sau:
14
3.1.1 Số lƣợng câu hỏi:
Kết quả khảo sát cho thấy tổng số câu hỏi ở bộ sách Ngữ văn chuẩn là
33 câu/8 bài, bình quân 4,1 câu/1 bài.
Ở sách Ngữ văn nâng cao là 44 câu/8 bài, bình quân 5,5 câu/1 bài.
Số lượng câu hỏi như vậy là tương đối hợp lí, phù hợp với điều kiện
học tập của học sinh và tương quan giữa các môn học khác. Nếu số lượng câu
hỏi quá ít cho một bài học sẽ khó có thể giúp học sinh chiếm lĩnh hết các giá
trị cơ bản của bài học. Ngược lại, nếu số lượng câu hỏi quá nhiều, học sinh sẽ
không đủ thời gian hoặc không đủ kiên nhẫn để chuẩn bị, dễ gây tâm lí chán
nản.
3.1.2 Câu hỏi sáng tạo:
Sách Ngữ văn chuẩn: 24/33 (72,7%)
Sách Ngữ văn nâng cao: 30/44 (68,1%)
Câu hỏi mang tính sáng tạo là những ưu điểm vượt trội của hệ thống
CHHDHB. Loại câu hỏi nàychiếm tỉ lệ lớn là biểu hiện rõ nhất của phương
pháp dạy học mới, phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học sinh.
Trong SGK Ngữ văn cũ, câu hỏi sáng tạo chưa được chú ý đúng mức, nhiều
câu còn ở dạng tái hiện. Giáo sư Lê Trí Viễn, một người vừa dạy học vừa viết
sách từ những năm 1950, là một trong những tác giả của bộ sách giáo khoa
văn THPT khi nhìn nhận lại sách giáo khoa của mình cũng phải thừa nhận
rằng: “Kinh nghiệm của tôi khiến cho tôi có chỗ chưa hài lòng về hệ thống
câu hỏi hướng dẫn của SGK”[30]
Trong luận văn thạc sĩ, đề tài ''Câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài trong
SGK văn THPT'' của Dương Thị Quy, tác giả đã nhận xét: ''Câu hỏi đã có sự
chú ý dẫn dắt học sinh vào tác phẩm xong việc làm mới dừng lại ở sự tái hiện,
nặng về tái hiện hơn là sáng tạo'' [ 23 ]
15
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Quang Cương, đề tài ''Hệ thống câu hỏi
trong SGK văn học- bậc PTTH- phần tác phẩm văn học Việt Nam'' cũng đã
nhận xét: ''Học sinh ở nhà do có nhiều thời gian suy nghĩ; hơn nữa lại có thể
tham khảo tài liệu hướng dẫn ngoài, vì thế rất cần quan tâm đến loại câu hỏi
sáng tạo, buộc học sinh suy nghĩ tìm tòi trước khi đến lớp, tránh tình trạng
các em chỉ cần xem SGK và trả lời một cách quá dễ dàng'' [ 2 ]
Như vậy chúng tôi có thể nhận định, câu hỏi sáng tạo trong SGK Ngữ
văn chuẩn và nâng cao (phần thơ hiện đại) so với sách cũ đã tăng rõ rệt. Đa số
các câu hỏi đều thiên về tính sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học coi học sinh là bạn đọc, phát huy tính tích cực, chủ động, tự
giác của người học. Câu hỏi sáng tạo phong phú và đa dạng, có nhiều cách
hỏi, cách nêu vấn đề khác nhau, tuỳ thuộc vào tính chất, đặc điểm riêng của
mỗi bài học. Từ những câu hỏi đó yêu cầu học sinh phải biết so sánh, phân
tích, đánh giá, gợi mở...đánh thức sự sáng tạo tiềm ẩn trong mỗi học sinh.
Trong phạm vi luận văn để tiện cho việc nghiên cứu, tìm hiểu, đồng thời căn
cứ vào đặc điểm, tính chất riêng của câu hỏi, chúng tôi tạm phân ra các dạng
nhỏ của câu hỏi sáng tạo như sau:
3.1.2.1 Câu hỏi có tính nêu vấn đề:
Đây là loại câu hỏi nhằm hướng dẫn học sinh xâu chuỗi các vấn đề,
các chi tiết và sự kiện trong tác phẩm, từ đó học sinh nắm bắt kiến thức một
cách hệ thống, lô gíc và toàn diện. “Nhằm tìm cách làm cho hoạt động nhận
thức của học sinh thành tự giác, phát triển tư duy cho các em, phát triển kĩ
năng độc lập giải quyết các nhiệm vụ nhận thức phức tạp”. [24, tr.67]
Câu hỏi nêu vấn đề chứa đựng dung lượng rộng lớn bao gồm một khối
lượng tư liệu rộng rãi, nó mang tính chất tổng hợp, gợi lên giữa cái đã biết và
cái chưa biết trong nhận thức của học sinh. Loại câu hỏi này, SGK Ngữ văn
cũ ít khi đề cập đến.
16
Câu hỏi nêu vấn đề thường lôi cuốn học sinh, tác động đến tâm lí, thị
hiếu, cảm xúc, kích thích trí thông minh, óc tưởng tượng, kĩ năng sáng tạo của
học sinh, từ đó các em phát hiện ra những vấn đề cốt lõi, trọng tâm trong tác
phẩm. Vì thế câu hỏi nêu vấn đề luôn có ý nghĩa đối với khoa học sư phạm và
thực tiễn giảng dạy ở các bộ môn.
Ví dụ 1: Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm
kín không? Vì sao?
(CHHDHB ''Tràng giang'', trang 30, tập 2- Sách Ngữ văn chuẩn)
Ví dụ 2: Ở khổ thơ thứ 3, nhà thơ bộc lộ tâm sự của mình như thế nào?
Chút hoài nghi trong câu thơ ''Ai biết tình ai có đậm đà?'' có biểu hiện niềm
tha thiết với cuộc đời không? Vì sao?
(CHHDHB ''Đây thôn Vĩ Dạ'' trang 47, tập 2- sách Ngữ văn chuẩn)
Ví dụ 3: Lí tưởng Cộng sản đã đem đến cho Tố Hữu sự thức tỉnh về
mối quan hệ tình cảm mới như thế nào? Vì sao sự thức tỉnh về quan hệ tình
cảm ấy lại đem đến cho Tố Hữu sức mạnh và niềm vui?
(CHHDHB ''Từ ấy'', trang 88, tập 2- Sách Ngữ văn nâng cao)
Ví dụ 4: Tại sao có thể nói tình yêu thiên nhiên ở đây cũng chứa đựng
lòng yêu nước thầm kín?
(CHHDHB ''Tràng giang'', trang 50, tập 2- Sách Ngữ văn nâng cao)
3.1.2.2 Câu hỏi dẫn dắt, gợi mở:
Phần lớn câu hỏi dẫn dắt gợi mở góp phần tác động đến tư duy sáng tạo
của học sinh. Nó kích thích hứng thú, mang lại niềm say mê học tập và định
hướng cho học sinh biết tìm ra con đường để đi tới chân lý. Sau đây là một số
ví dụ.
Ví dụ 1: Tư duy mới mẻ, táo bạo và khát vọng hành động của nhà chí sĩ
cách mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước được biểu lộ như thế nào?
17
Dựa trên cảm xúc của tác giả và những hình ảnh nghệ thuật trong bài thơ,
chú ý tìm hiểu các vấn đề sau:
- Quan niệm mới về chí làm trai và tư thế, tầm vóc của con người trong
vũ trụ.
- Ý thức trách nhiệm cá nhân trước thời cuộc.
- Thái độ quyết liệt trước._. tình cảnh đất nước và những tín điều xưa cũ.
- Khát vọng hành động và tư thế buổi lên đường.
(CHHDHB ''Lưu biệt khi xuất dương'', trang 5, tập 2 - Sách Ngữ văn
chuẩn)
Ví dụ 2: Anh (chị) có cảm nhận như thế nào về âm điệu chung của toàn
bài thơ?Âm điệu ấy đã góp phần thể hiện tâm trạng gì của tác giả trước thiên
nhiên?
(CHHDHB ''Tràng giang'', trang 50, tập 2- Sách nâng cao)
3.1.3 Câu hỏi mang tính hệ thống:
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy đa số các CHHDHB sau mỗi bài học
đều nằm trong một thể thống nhất, nhằm làm nổi bật những giá trị chính của
tác phẩm. Sau đây là hai ví dụ trong hai bộ sách về hệ thống CHHDHB ''Tôi
yêu em'' của Puskin:
Sách Ngữ văn chuẩn, trang 60, tập 2:
Câu 1: Điệp khúc nào làm nổi bật cảm xúc chủ đạo của bài thơ?Bài
thơ dường như là lời từ giã cho một mối tình không thành. Lời từ giã của
Puskin có gì đặc biệt?
Câu 2: Giọng điệu trữ tình chuyển biến như thế nào từ hai câu 1-2
sang hai câu 3-4 và từ hai câu 5-6 sang hai câu 7-8? Diễn biến tâm trạng
phức tạp của nhân vật trữ tình được thể hiện tinh tế ra sao?
Câu 3: Tại sao có thể nói hai câu kết là bất ngờ, hàm chứa nhiều ý vị?
18
Câu 4: Bài thơ gợi cho anh (chị) những cảm nghĩ gì về tâm hồn Puskin
và về tình yêu?
Sách Ngữ văn nâng cao, trang 167, tập 2:
Câu 1: Đọc diễn cảm bài thơ, lưu ý cụm từ "Tôi yêu em" và vị trí của
cụm từ này trong toàn bài, hãy tìm hiểu kết cấu bài thơ và diễn biến tâm trạng
của nhân vật trữ tình.
Câu 2; Tình cảm phức tạp, tế nhị của nhân vật trữ tình trong bài thơ
đựơc Puskin diễn tả tinh tế như thế nào qua 4 câu thơ đầu?
Câu 3: Cảm xúc trong hai câu thơ: "Tôi yêu em âm thầm không hy
vọng- Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen" có gì đặc biệt? Nó hé mở trạng thái
tình cảm gì trong nhân vật trữ tình?
Câu 4: Xu hướng vươn tới sự cao cả trong tư tưởng, tình cảm là đặc
trưng cơ bản của thơ Puskin. Phân tích hai câu thơ cuối để chứng minh.
Chúng ta thấy rất rõ, các câu hỏi của bài thơ trong hai bộ SGK đều nằm
trên một chỉnh thể, tạo nên một hệ thống liền mạch, có tác dụng định hướng,
dẫn dắt học sinh đi vào khám phá, chiếm lĩnh giá trị nội dung và nghệ thuật,
phù hợp với nhận thức của học sinh. Hai hệ thống câu hỏi đã làm nổi bật được
vấn đề trọng tâm của tác phẩm. Đó là vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình
trong tình yêu: Chân thành, say đắm, vị tha, cao thượng.
So với câu hỏi của bài ''Tôi yêu em'' trong SGK cũ thì câu hỏi trong
sách mới có nhiều ưu điểm hơn. Chúng tôi xin được dẫn ra để người đọc tiện
đối sánh.
Cõu hỏi trong SGK cũ:
Câu 1: Dựa vào cách chấm câu, tìm xem bài thơ gồm mấy câu, mấy ý
lớn và xác định kết cấu của nó.
19
Câu 2: Nhân vật trữ tình giãi bày tâm trạng theo lô gíc lí trí hay theo
mạch cảm xúc? Hai cách này có mâu thuẫn với nhau không? Mãnh lực tình
yêu của nhân vật trữ tình.
Câu 3: Tìm hiểu quan hệ giữa em và nhân vật trữ tình.
Câu 4: Qua bài thơ này, đặc biệt là câu cuối hãy hình dung nhân vật
trữ tình là người như thế nào (ích kỉ hay vị tha, thấp kém hay cao thượng)?
Câu 5: Puskin sử dụng những thủ pháp tu từ gì trong bài thơ này?
Điều thể hiện rõ trong hệ thống câu hỏi ở SGK cũ còn nặng về câu hỏi
tái hiện, đơn giản, chưa tạo nên một hệ thống liền mạch để hướng dẫn học
sinh tìm hiểu tác phẩm văn học từ nhiều phương diện nhằm bồi dưỡng một
cách toàn diện năng lực văn học cho các em.
3.1.4 Câu hỏi có tính then chốt:
Vấn đề then chốt của tác phẩm có thể hiểu là những vấn đề quan trọng
nhất, có tác dụng quyết định tới sự phát triển của toàn bộ tác phẩm. Qua khảo
sát, chúng tôi thấy hệ thống CHHDHB trong SGK đều có những câu then
chốt.
Ví dụ 1: Vấn đề quan trọng nhất trong bài thơ ''Vội vàng'' của Xuân
Diệu là niềm khao khát sống mãnh liệt, sống hết mình và quan niệm về thời
gian, về tuổi trẻ và hạnh phúc. Tư tưởng đó được thể hiện qua một hình thức
nghệ thuật điêu luyện: Sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc và luận lí,
giọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh
thơ.
Những câu hỏi mang tính then chốt trong SGK Ngữ văn chuẩn
(trang 23) là:
Câu2: Xuân Diệu cảm nhận về thời gian như thế nào? Vì sao nhà thơ
có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh chóng của thời
gian?
20
Câu 3: Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc được tác giả cảm
nhận và diễn tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của
Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc.
Câu 4: Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu
trong đoạn thơ cuối của bài thơ. Nhà thơ đã sáng tạo được hình ảnh nào mà
anh (chị) cho là mới mẻ, độc đáo nhất?
Ví dụ 2: Vấn đề then chốt của bài thơ ''Từ ấy'' là niềm vui sướng, say
mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cách mạng và tác
dụng kỳ diệu của lí tưởng với cuộc đời nhà thơ.
Những câu hỏi mang tính then chốt trong SGK Ngữ văn nâng cao
(trang 88) là:
Câu 1: Tìm hiểu tâm trạng của Tố Hữu trong giây phút bắt gặp lí
tưởng cộng sản. Qua hình ảnh ''Mặt trời chân lí chói qua tim'' có thể hiểu
quan niệm của nhà thơ về lí tưởng cộng sản như thế nào?
Câu 3: Lí tưởng cộng sản đã đem đến cho Tố Hữu sự thức tỉnh về mối
quan hệ tình cảm mới như thế nào? Vì sao sự thức tỉnh về quan hệ tình cảm
ấy lại đem đến cho Tố Hữu sức mạnh và niềm vui?
Tóm lại: Hệ thống CHHDHB văn bản văn học (phần thơ hiện đại)
trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao có nhiều ưu điểm đáng kể.
Trong đó nổi bật nhất là việc đưa ra số lượng lớn câu hỏi sáng tạo ở nhiều
mức độ khác nhau, định hướng được nhiều hình thức hoạt động của học sinh,
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, khơi gợi cảm xúc, suy nghĩ
của các em.
3.1.5 Loại câu hỏi vừa sức:
Qua khảo sát, tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy phần lớn CHHDHB trong
hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao (phần thơ hiện đại) phần lớn phù hợp
với đối tượng học sinh. Nếu chịu khó tìm hiểu kĩ tác phẩm và nắm vững yêu
21
cầu về kiến thức đặt ra của bài học, các em sẽ giải quyết được đúng hướng đa
số những câu hỏi đưa ra trong SGK. Xin dẫn một số ví dụ như sau:
Ví dụ 1: Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh ngôn từ, nhịp điệu
trong đoạn thơ cuối của bài thơ. Nhà thơ đã sáng tạo được hình ảnh nào mà
anh (chị) cho là mới mẻ, độc đáo nhất?
(CHHDHB ''Vội vàng'', trang 23, tập 2- Sách Ngữ văn chuẩn)
Ví dụ 2: Hình ảnh lò than rực hồng ở cuối bài thơ có ý nghĩa như thế
nào trong bức tranh chiều tối của tác giả? Điều này thể hiện đặc điểm gì của
tâm hồn Hồ Chí Minh?
(CHHDHB ''Chiều tối'', trang 76, tập 2- Sách Ngữ văn nâng cao)
3.1.6 Câu hỏi khó:
Tuy không chiếm số lượng nhiều, nhưng loại câu hỏi này có tác dụng
phân loại, phát huy năng lực văn chương của học sinh khá, giỏi. Nếu câu hỏi
vừa sức phù hợp vói đa số các đối tượng học sinh thì câu hỏi khó lại đòi hỏi
học sinh phải có năng khiếu văn chương, năng lực tư duy tổng hợp mới có thể
trả lời được. Có thể nói đây là loại câu hỏi mang tính sáng tạo cao.
Ví dụ 1: Có gì đáng chú ý trong tứ thơ và bút pháp của bài thơ?
(CHHDHB “Đây thôn Vĩ Dạ” trang 39, tập 2 - Sách Ngữ văn chuẩn)
Ví dụ 2: Hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” thật giản dị, cũng
thật giàu sức gợi. Hãy dùng những hiểu biết và trí tưỏng tượng của mình để
cảm nhận và tái tạo vẻ đẹp của hình ảnh ấy.
(CHHDHB “Đây thôn Vĩ Dạ” trang 50, tập 2 - Sách Ngữ văn nâng
cao)
3.2 Nhƣợc điểm:
Qua khảo sát và tham khảo ý kiến từ phía đồng nghiệp, chúng tôi thấy
hệ thống CHHDHB trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao còn có
những hạn chế nhất định. Điều này hết sức bình thường và tất nhiên, bởi theo
22
giáo sư Phan Trọng Luận “Không thể có ảo tưởng về một cuốn sách giáo
khoa nhất là sách Ngữ văn hoàn hảo 100%”, Secbina cũng đó từng nhận xột
“Văn học nhà trường là một vấn đề cực kì phức tạp”. Nhược điểm biểu hiện
trên những khía cạnh sau:
3.2.1 Câu hỏi còn chƣa chú ý đến hoạt động đọc của học sinh:
Trong tiếp nhận văn học nói chung và tiếp nhận văn chương trong nhà
trường nói riêng thì đọc văn bản là một khâu vô cùng quan trọng, là chìa khoá
đầu tiên mở đường cho chủ thể tiếp nhận đi vào thế giới nghệ thuật của tác
phẩm, bởi “Đọc văn có nghĩa là chuyển đổi tác phẩm nghệ thuật thành một
vũ trụ tình cảm và cảm xúc thẩm mĩ trong tư duy hình tượng cho riêng mình.
Có thể nói đọc văn thực sự là một khoa học và nghệ thuật của tư duy ngôn
ngữ, là lao động và sáng tạo” ( Nguyễn Thanh Hùng).
G.S Phan Trọng Luận đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đọc văn ''Đọc
sẽ làm âm vang lên những tín hiệu của cuộc sống mà nhà văn định gửi gắm.
Âm vang của lời đọc kích thích quá trình tri giác, tưởng tượng và tái hiện
hình ảnh.'' Như vậy, con đường đi vào tác phẩm nhất thiết phải từ đọc, gắn
liền với việc đọc. Đọc phải là một hình thức có tính chất đặc thù của nhận
thức về văn học.
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy CHHDHB phần thơ hiện đại trong
hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao cũn chưa chú ý tới hoạt động đọc của
học sinh.Theo chúng tôi, khi xây dựng CHHDHB cần có những câu hỏi cho
học sinh đọc ở nhà vì mỗi tiết học trên lớp chỉ có 45 phút, bên cạnh việc cung
cấp cho các em một số lượng kiến thức, giáo viên khó có thể có đủ thời gian
để hướng dẫn học sinh đọc tốt trên lớp nếu không cho các em đọc trước ở
nhà.
23
3.2.2 Câu hỏi còn có dung lƣợng kiến thức lớn và khó, chƣa phù
hợp với thời gian và khả năng nhận thức của học sinh:
Tuy không nhiều nhưng ở một số bài cách đặt câu hỏi còn chưa phù
hợp với thời gian và khả năng nhận thức của học sinh. Có thể dẫn ví dụ như
sau:
Ví dụ 1: Màu sắc cổ điển của bài thơ thể hiện ở đâu và như thế nào? Vì
sao người ta thường nói thơ nghệ thuật của Hồ Chí Minh tuy rất cổ điển
nhưng vẫn là thơ hiện đại? Hãy phân tích bài ''Chiều tối'' để giải thích và
chứng minh.
Việc phân tích bài thơ chỉ có thể thực hiện được ở lớp dưới sự hướng
dẫn của giáo viên. Học sinh hầu như không có khả năng tự phân tích một bài
thơ khi không có những định hướng của người thầy. Câu hỏi này mang tính
chất một đề văn chứ không phải là một câu hỏi hướng dẫn. Hơn nữa, với câu
hỏi này học sinh phải dùng nhiều thời gian học ở nhà mới hoàn thành được,
trong khi học tới phổ thông trung học các em còn phải học nhiều môn khác,
mà chương trình đề ra cho mỗi môn cũng khá nặng nề, mụn nào cũng phải
làm đủ bài tập cũ, chuẩn bị bài mới. Với dung lượng nặng nề học sinh dễ chán
nản, bỏ mà không soạn văn.
3.2.3 Cách đặt câu hỏi :
Trong hệ thống CHHDHB ở hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao,
phần thơ hiện đại còn nhiều câu hỏi có từ “hãy”.
Vớ dụ, hệ thống câu hỏi bài “Chiều tối” ở sách Ngữ văn nâng cao
trang tập 2 gồm 5 câu:
Câu 1. Dựa vào cảnh ngộ của tác giả (xem phần tiểu dẫn) hãy nhận xét
nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong hai câu đầu của bài thơ.
Câu 2. Anh (chị) hãy nêu nhận xét về thủ pháp nghệ thuật mà tác giả
dùng để tả màn đêm đã buông xuống ở câu cuối bài thơ.
24
Câu 3. Hình ảnh lò than rực hồng ở cuối bài thơ có ý nghĩa như thế nào
trong bức tranh chiều tối của tác giả? Điều này thể hiện đặc điểm gì của tâm
hồn Hồ chí Minh?
Câu 4. Màu sắc cổ điển của bài thơ thể hiện ở đâu và như thế nào? Vì
sao người ta thường nói thơ nghệ thuật của Hồ Chí Minh tuy rất cổ điển như-
ng vẫn là thơ hiện đại? Hãy phân tích bài ''chiều tối'' để giải thích và chứng
minh.
Câu 5. Học thuộc lòng bản phiên âm và bản dịch bài thơ.
Trong 5 câu hỏi này có đến 3 câu dùng từ “hãy”: “Hãy nhận xét”, “Hãy nêu
nhận xét”, “Hãy phân tích”.
Hệ thống câu hỏi bài “Vội vàng” ở sách Ngữ văn chuẩn trang 23, tập 2
gồm 4 câu:
Câu 1. Bài thơ có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn
Câu 2. Xuân Diệu cảm nhận về thời gian như thế nào? Vì sao nhà thơ
có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh chóng của thời
gian?
Câu 3. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc được tác giả cảm nhận
và diễn tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của Xuân
Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc.
Câu 4. Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu
trong đoạn thơ cuối của bài thơ. Nhà thơ đã sáng tạo được hình ảnh nào mà
anh (chị) cho là mới mẻ, độc đáo nhất?
Trong 4 câu hỏi thì có 2 câu dùng từ “hãy”: “Hãy chỉ ra”, “Hãy nhận
xét”.
Cách đặt câu hỏi như vậy giống như những mệnh lệnh, mang tính chất áp đặt.
Điều này dễ gây tâm lí nặng nề, ít tạo tâm thế học tập cho học sinh.
25
Theo chúng tôi, cách đặt câu hỏi cần có sự khéo léo, tế nhị để gây hứng
thú trong quá trình tự tìm hiểu, tự khám phá và rèn luyện tư duy sáng tạo cho
học sinh.
3.3 Kết luận:
Nhìn chung hệ thống CHHDHB trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và
nâng cao lớp 11 (phần thơ hiện đại) đã bộc lộ nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, sự
hoàn thiện cũng chưa thể khẳng định được. Thành công lớn nhất là những câu
hỏi mang bản chất sáng tạo đã được chú trọng, kích tích được tư duy sáng tạo,
hứng thú học tập, phù hợp với qui luật tiếp nhận và trình độ nhận thức của
nhiều đối tượng học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học văn cũng có nghĩa là đổi mới cả hệ
thống câu hỏi (kể cả CHHDHB trong SGK cũng như câu hỏi mà giáo viên
đưa ra trên lớp). Qua khảo sát, nghiên cứu chúng tôi nhận thấy hệ thống
CHHDHB phần thơ hiện đại trong hai bộ sách chuẩn và nâng cao lớp 11 thể
hiện rất rõ tư tưởng đổi mới phương pháp dạy học của các nhà biên soạn. Tổ
chức và hướng dẫn cho học sinh tự đọc - hiểu, tự khám phá, tự tiếp nhận và
chiếm lĩnh các giá trị của tác phẩm văn học bằng một hệ thống câu hỏi đa
dạng, phong phú, hấp dẫn mang tính khoa học, tính nghệ thuật sư phạm, để
rồi khi đến lớp “Mỗi tiết học bình thường học sinh được hoạt động nhiều hơn,
thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ
nhiều hơn trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập” [ 7 ]
Biểu hiện bao trùm nhất của tinh thần đổi mới là việc chú trọng đưa ra
những câu hỏi có tính sáng tạo. Mức độ khó, dễ của loại câu hỏi này tuy
không giống nhau nhưng đều hướng đến một mục đích chung là nhằm phát
huy được tính độc lập suy nghĩ, tìm tòi khám phá, sáng tạo của học sinh trong
quá trình chiếm lĩnh tác phẩm văn chương. Loại câu hỏi này luôn đặt học sinh
26
trước tình huống phải tư duy, động não để giải quyết những vấn đề mà câu
hỏi đặt ra. Có thể đưa ra một số câu hỏi như sau:
Ví dụ 1: Bài thơ gợi cho anh (chị) những cảm nghĩ gì về tâm hồn
Puskin và về tình yêu?
(CHHDHB ''Tôi yêu em'', trang 60, tập 2-Sách chuẩn)
Ví dụ 2: Câu thơ ''Ai biết tình ai có đậm đà'' có chút hoài nghi. Theo
anh (chị), đó là nỗi hoài nghi của sự chán đời hay của niềm tha thiết với cuộc
đời? Tại sao?
(CHHDHB ''Đây thôn Vĩ Dạ'' trang 47, tập 2- Sách nâng cao)
Hai câu hỏi trên, vừa có tính định hướng, dẫn dắt, gợi mở, đồng thời
kích thích được tinh thần độc lập, tư duy sáng tạo của các em. Khi được hỏi
như vậy học sinh không thể không có sự phản ứng về tư duy, không thể
không suy nghĩ để trả lời.
Ví dụ 3: Theo anh (chị) những yếu tố nào đã tạo nên sức lôi cuốn mạnh
mẽ của bài thơ này?
(CHHDHB ''Lưu biệt khi xuất dương'', trang 5, tập 2- Sách chuẩn)
Với câu hỏi như vậy sẽ kích thích được những rung động và cảm
nhận của mỗi cá thể học sinh, thôi thúc sự tìm tòi cũng như động viên các em
thể hiện thái độ và sự lựa chọn của mình trước các tình huống. Bởi vì: “Học
sinh THPT đã có khả năng tư duy lí luận, đã xuất hiện những kĩ năng suy
luận có giả thiết, sử dụng giả thiết để giải quyết nhiệm vụ trí tuệ. Các hoạt
động trí tuệ của học sinh đã chứa đựng những yếu tố sáng tạo. Học sinh đã
biết sử dụng nhiều nguồn kiến thức để tư duy, có khả năng phân tích tổng
hợp, khái quát hóa những vấn đề phức tạp của tài liệu học tập. Học sinh đã
có năng lực tự chọn phương thức giải quyết vấn đề, có khả năng kiểm tra và
hoài nghi khoa học” [ 21 ]
27
Tóm lại: Những câu hỏi trên là những câu hỏi mang tính sáng tạo. Nó
dẫn dắt, định hướng cho học sinh. Các em cảm thấy mình được đề cao, tôn
trọng, được chú ý, được tự do bày tỏ cách hiểu, cách suy nghĩ của bản thân, từ
đó rèn luyện học sinh tích cực và sáng tạo trong nhận thức. Trả lời được mỗi
câu hỏi sáng tạo là các em đã tự nâng được kiến thức của mình lên, đồng thời
rèn luyện cho mình phương pháp học tập tích cực.
28
Chƣơng 2
TIÊU CHÍ XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHHDHB
TÁC PHẨM VĂN CHƢƠNG TRONG SGK NGỮ VĂN
1. Cơ sở lí luận cho việc xây dựng hệ thống câu hỏi:
Một giờ dạy học tác phẩm văn chương có chất lượng tốt là giờ dạy học
mà học sinh có sự chuẩn bị bài một cách cẩn thận trước khi đến lớp. Có thể
nói chuẩn bị bài ở nhà là một khâu không thể thiếu nếu muốn đạt kết quả cao
trong những giờ dạy học tác phẩm văn chương. Vấn đề đặt ra là câu hỏi cho
học sinh chuẩn bị bài ở nhà phải dựa trên cơ sở những lí luận xác định. Để
cho các em đi theo con đường tiếp cận tác phẩm một cách tốt nhất, chúng tôi
xác định một số cơ sở lí luận như sau:
1.1 CHHDHB thể hiện đƣợc tƣ tƣởng đổi mới phƣơng pháp dạy học:
Định hướng chung về đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động của học sinh. Nghị quyết Trung ương II xỏc định
rừ: “Xây dựng con người và thế hệ thiết tha, gắn bó với lí tưởng độc lập và
chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa của dân tộc; có năng lực tiếp thu tinh hoa của văn hóa
nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam; có ý thức
cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học
và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi, có tác
phong công nghiệp, có tính tổ chức kỉ luật, có sức khỏe; là những người thực
tế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dăn của
Bác Hồ”. (Trích Nghị quyết Trung ương 2, 12/1996)
29
Luật giáo dục, điều 24 cũng chỉ ra: “Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh; phự hợp
với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.”
Trước đây cố vấn Phạm Văn Đồng đã từng nhắc nhở “Chúng ta phải
làm thế nào bằng giáo dục phổ thông, qua giáo dục phổ thông mà rèn luyện
cho học sinh có bộ óc để suy nghĩ, để tiếp thu cái gì đó có giá trị sau đó tự
học và tự vận dụng sáng tạo” [ 3 ]
Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông nhằm
hướng đến mục đích là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy
học theo phương pháp dạy học tích cực, thay đổi phương pháp dạy học truyền
thống coi học sinh là “bình chứa kiến thức” của thầy sang phương pháp tích
cực “coi học sinh là chủ thể sáng tạo,” chú ý nhiều tới việc cung cấp cách
thức tìm ra chân lí chứ không phải là “truyền đạt chân lí.” Đổi mới cách học,
cách dạy như thế, kết quả là:
Từ năm này đến năm khác, qua biết bao nhiêu lần làm để học, tìm
hiểu giải quyết vấn đề, xử lí tình huống, chắc chắn học sinh biết làm, biết
cách làm, cách học, cách giải quyết vấn đề, cách ứng xử thích nghi với cuộc
sống. “Làm” dần dần trở thành “biết làm”, “muốn làm”, và cuối cùng
“muốn tồn tại và phát triển” trong cộng đồng như một con người tự chủ,
năng động và sáng tạo. [ 22 ]
Nhận xét về lối dạy cổ truyền, G.S Phan Trọng Luận viết:
Sai lầm cơ bản của cái gọi là giảng văn truyền thống hay của lối
phân tích văn chương trong nhà trường nhiều thập kỷ qua là nhận thức không
đúng về người học sinh, là thiếu hiểu biết khoa học về hoạt động chức năng
của người học sinh trong quá trình tiếp cận tácphẩm văn chương, là phương
30
pháp nhận thức phiến diện, tách biệt các yếu tố của quá trình gọi là giảng
văn - vốn là một thể thống nhất biện chứng. Học sinh được coi là một khách
thể thụ động, một đối tượng chịu sự tác động từ phía giáo viên bằng hệ thống
biện pháp sư phạm bên ngoài. [ 16 ]
Nhận xét của giáo sư chỉ rõ, đã từ lâu lối dạy học văn trong nhà trường
chúng ta chỉ cần biết đến văn bản văn chương, chỉ quan tâm đến nghệ thuật và
tài năng khám phá chỗ sâu, chỗ độc đáo của tác phẩm văn chương, để rồi tìm
ra những thủ pháp lôi cuốn học sinh cảm thông, đồng điệu với những gì giáo
viên đã tìm tòi, phát hiện được. Học sinh không trực tiếp rung cảm với tác
phẩm, thiếu đi sự giao tiếp cần có giữa nhà văn - tác phẩm với bạn đọc học
sinh. Tình trạng đó đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp
ứng được yêu cầu của xã hội ngày càng phát triển.
Khắc phục nhược điểm của lối dạy học văn cũ, mọi biện pháp cơ chế
dạy học mới đều hướng vào học sinh, vì học sinh, giúp học sinh tự khám phá
chiếm lĩnh kiến thức, có ý thức suy nghĩ tìm tòi sáng tạo và tự phát triển. Cú
nghĩa là phương pháp dạy học mới đó “Tạo cơ hội cho người học, cho đối
tượng, cái trung tâm phát huy được cái trí tuệ, cái thông minh của mình” [ 4 ]
Và “Học sinh phải được coi là những đối tượng có sẵn tiềm năng mà
người giáo viên có nhiệm vụ đánh thức và tạo điều kiện để những tiềm năng
đó được phát triển tối đa, đặc biệt là tiềm năng sáng tạo” [ 29 ]
Cơ chế dạy học văn mới có mối quan hệ tương tác nhiều chiều (tương
tác của ba mối quan hệ vốn có giữa tác phẩm với nhà văn, với người giáo viên
và với bản thân học sinh). Chúng ta có thể hình dung qua sơ đồ sau:
N
G H
31
Ở sơ đồ trên, học sinh giữ vị trí chủ thể tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm
cũng như giáo viên. Học sinh cảm thụ, tiếp nhận tác phẩm dưới sự định
hướng, dẫn dắt của giáo viên. Giáo viên là người trung gian giữa nhà văn và
học sinh, là người đứng ra tổ chức quá trình học sinh tiếp nhận, chiếm lĩnh tác
phẩm. Như vậy “Thông báo cung cấp thông tin có sẵn không còn là chức
năng chính của người dạy nữa, mà thay vào đó là tạo ra các tình huống sao
cho khi thực hiện người học có được sự chuyển biến cả về kiến thức và các
thao tác tư duy, vốn là công cụ để thu được kiến thức đó” [1]
Học sinh phải chuẩn bị bài ở nhà, phải có những trăn trở, suy nghĩ về
các câu hỏi nêu trong SGK thì các em mới có thể trở thành chủ thể học tích
cực. “Việc nêu lên những câu hỏi để học sinh chuẩn bị bài trong phần hướng
dẫn học tập gần như là chiếc chìa khóa của việc cải cách giảng dạy (...) Có
thể nói phần này quyết định sự thành công của việc dạy và học theo sách
mới” [14]
Như vậy, việc tìm hiểu bài học (tác phẩm) của học sinh bằng những
CHHDHB có tính chất quyết định cho sự thành công của giờ dạy học tác
phẩm văn chương. Hệ thống câu hỏi cần phải tạo cơ sở cho học sinh phát huy
được tính độc lập suy nghĩ, tìm tòi, khám phá sáng tạo của mình. Câu hỏi phải
trở thành niềm say mê, thành hứng thú, thành nhu cầu bức thiết của chính học
sinh chứ không phải của chủ thể nào khác. Câu hỏi phải mang tính chủ thể
nhưng vẫn phải làm cho học sinh trở thành đối tượng được giáo dục theo
những mục đích đã đề ra của nhà trường, đó là: phát triển tri thức, phát triển
tư tưởng, tình cảm để từ đó hình thành nhân cách con người mới. Hơn thế
nữa, CHHDHB phải có tính định hướng vào các vấn đề cơ bản, then chốt mà
giáo viên sẽ dẫn dắt học sinh đi sâu tìm hiểu trên lớp. Hệ thống câu hỏi cần
đặt học sinh trước những “chướng ngại,” những “tình huống cần giải quyết”
nhằm huy động được tối đa những năng lực trí tuệ và tinh thần của học sinh
32
để các em tự khám phá, tự phát hiện để khi đứng trước quen thuộc hay hoàn
toàn mới, học sinh vẫn đủ khả năng giải quyết một cỏch tốt nhất và hiệu quả
nhất. Chỉ có bằng con đường tự mình “hành động” như thế mọi tri thức mới
được hình thành một cách nhanh chóng và khắc sâu trong mỗi học sinh.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi khi dạy bài “Vội vàng” của Xuân Diệu như
sau:
(1) Bốn câu thơ đầu của bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu muốn tắt
nắng, buộc gió, đó là điều không thể, là điều rất vô lí nhưng điều này cũng
hết sức có lí. Theo em tại sao?
(2) Đoạn đầu bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu xưng “tôi” nhưng đến
cuối bài thơ lại thay bằng đại từ “ta”. Theo em tác giả có dụng ý gì không?
Cách đặt câu hỏi như vậy khơi dậy hoạt động bên trong của học sinh,
tạo cho các em có nhu cầu nhận xét, đánh giá, tranh luận và phát triển tư duy,
phải tự mình suy nghĩ, đưa ra những ý kiến của riêng mình để giải quyết vấn
đề đặt ra của câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất buộc học sinh nhận thức vấn đề từ ý
nghĩa sâu sắc của bài thơ. Điều Xuân Diệu muốn là vô lí bởi nó tráii với quy
luật tự nhiên nhưng điều aos trở thành rất có lí vì nó phù hợp với lòng người.
Câu hỏi thứ hai yêu cầu học sinh lí giải sự thay đổi trong cách sử dụng
đại từ của tác giả, đó là sự khát khao giao cảm với đời, muốn hòa vào cái rung
cảm và nhịp đập với mọi người để đồng cảm, sẻ chia.
Quá trình học sinh lí giải, đưa ra ý kiến riêng để trả lời các câu hỏi cũng
là quá trình hình thành tư duy sáng tạo. Tự các em khám phá, phát hiện ra chứ
không phải thầy tìm tri thức hộ. Lúc này câu hỏi thực sự là người dẫn đường
trên hành trình tìm hiểu tác phẩm, hướng học sinh không chỉ dừng ở bề ngoài
mà còn khám phá cả những tầng ẩn sâu.
Trong hệ thống câu hỏi, mỗi thao tác là một khâu dẫn dắt học sinh đi từ
khám phá này sang khám phá khác để tìm hiểu, phân tích cái mà học sinh cần
33
tìm, đó là điều tác phẩm “chưa nói”. Quá trình các em tham gia khám phá tác
phẩm theo từng cấp độ thể hiện trong hệ thống câu hỏi cũng chính là quá trình
đào tạo cho các em khát vọng và mong muốn được tìm điều thú vị nhất diễn
ra trong tác phẩm, để từ đó các em biết đánh giá, biết nhận thức bằng quan
niệm riêng. Và như vậy học sinh sẽ được phát triển toàn diện về trí tuệ, tâm
hồn, nhân cách và năng lực.
1.2 Thể hiện rõ chức năng định hƣớng của CHHDHB:
1.2.1 CHHDHB giúp học sinh sơ bộ chiếm lĩnh tác phẩm:
Sư phạm hiện đại chú trọng tới việc tổ chức các hoạt động học tập cho
học sinh vì sự hình thành kiến thức bằng con đường tự khám phá là có hiệu
quả nhất. Với việc chuẩn bị bài ở nhà, học sinh bước đầu xây dựng sự hiểu
biết, khám phá tác phẩm theo từng cấp độ mà câu hỏi đề ra. Quá trình làm
việc ở nhà của học sinh là dữ kiện, là tiền đề cho hoạt động trên lớp. Chiếm
lĩnh tác phẩm bao giờ cũng trải qua các giai đoạn tổng - phân - hợp, cho nên
chuẩn bị bài ở nhà nằm trong giai đoạn đầu. CHHDHB là người dẫn dắt các
em tự chiếm lĩnh tác phẩm, giúp các em bước đầu đi vào thế giới của tác
phẩm, định hướng cho học sinh tìm ra các nút then chốt trong tác phẩm. Từ sự
cảm thụ của bản thân, học sinh là người tự tìm hiểu tác phẩm một cách sáng
tạo. Bởi vậy, CHHDHB như những công cụ và những định hướng ban đầu
giúp học sinh tiếp cận tác phẩm một cách đúng hướng.
''Việc chuẩn bị một bài văn chu đáo trước khi đến lớp đối với học
sinh có ý nghiã quan trọng trong việc lĩnh hội trên lớp. Quá trình chuẩn bị
bài văn vừa là quá trình gạn lọc những ấn tượng ban đầu để tiếp cận hình
tượng, tính cách, để lĩnh hội chủ đề tác phẩm, vừa là chuẩn bị cơ sở cho sự
tiếp thu lời giảng của thầy giáo'' [19]
34
1.2.2 CHHDHB định hƣớng cho học sinh vào những vấn đề
trung tâm cốt lõi của tác phẩm:
Dạy học văn là phải tìm ra được mức độ cần đi đến chứ không phải dạy
tất cả những gì có. Điều đặt ra với CHHDHB trong SGK Ngữ văn là theo
hướng nào để giúp học sinh tìm ra cái hay, cái đẹp, đi vào những vấn đề trung
tâm cốt lõi của tác phẩm nghệ thuật. Điều đó đồng nghĩa với việc định hướng
cho học sinh nắm bắt được chiều sâu của tác phẩm.
Theo G.S - T.S Nguyễn Thanh Hùng, trong tài liệu “Định hướng học
tập cho học sinh vào chiều sâu tacc phẩm trong qúa trình dạy học” đã nhận
định: ''Chiều sâu của tác phẩm văn chương là giá trị độc đáo của tư tưởng
nghệ thuật (tư tưởng chủ đề) biểu hiện nội dung chân-thiện-mĩ rõ ràng trong
một hình thức nghệ thuật sáng tác tương ứng.''
Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu:
''Chiều sâu tác phẩm là chiều sâu cụ thể nhưng đã hoà quyện vào
đấy những khái quát triết học và đời sống. Chiều sâu biểu hiện trong cái cụ
thể đời thường cái hiện thực tầng đáy của cuộc sống và ở đấy cái lí tưởng, cái
vĩnh cửu thoát thai từ sự nhào nặn của cái mới và lương tri đạo đức và lẽ
sống ngàn đời'' (Văn nghệ số 32, 12/08/1989)
Như vậy ta có thể hiểu chiều sâu tác phẩm là cái vừa trừu tượng vừa cụ
thể. Cụ thể ở tính hấp dẫn bắt nguồn từ ngôn ngữ với vẻ đẹp tự thân của nó, từ
nhân vật, bố cục, và chính vẻ đẹp toát ra từ từng chi tiết. Trừu tượng là ở sự
khái quát cao hơn của cái cụ thể. Hai vấn đề này kết hợp, đan xen nhau một
cách chặt chẽ. Chiều sâu là sự phản ánh cuộc sống một cách sinh động chứ
không phải là cái gì bất biến, cúng đờ trong tác phẩm. Nó phải xuất phát từ
tác phẩm, từ tư tưởng tình cảm, cảm nhận về đời sống của tác giả thông qua
phương thức trình bày nghệ thuật.
35
Do vậy, định hướng vào chiều sâu là con đường ngắn nhất giúp học
sinh thâm nhập tác phẩm văn học. Muốn đi sâu phải đi từng bước, từ cụ thể
đến khái quát, từ trực quan đến trừu tượng. Các bước đó theo G.S Phan Trọng
Luận gồm ba bước:
Bước một: Tri giác hình tượng ngôn ngữ, đây là quá trình đọc tái
hiện tác phẩm qua những chi tiết nổi bật.
Bước hai: Đọc với sức mạnh hồi tưởng, liên tưởng, tưởng tượng, bằng
vốn kinh nghiệm bản thân để hoàn chỉnh bức tranh tác phẩm.
Bước ba: Phân tích, so sánh tổng hợp khái quát để xác định chủ đề tác
phẩm, buớc này cũng soi sáng cho việc chọn lựa hình ảnh, sự việc, biện pháp
nghệ thuật mà tác giả sử dụng. [15]
Ý kiến trên của G.S Phan trọng Luận cho thấy con đường đi vào tác
phẩm văn chương là con đường trải qua nhiều chặng, nhiều giai đoạn để đi từ
bề ngoài đến bề trong tác phẩm.
Câu hỏi phải từng bước, từ tái hiện đến liên tưởng, tưởng tượng, từ gần đến
xa, từ cụ thể đến khái quát, từ dễ đến khó, tập trung vào định hướng hoạt động
phân tích, cắt nghĩa để khám phá các lớp nghĩa tiềm ẩn trong tác phẩm. Và
như vậy, kiến thức không tĩnh tại, siêu hình, tách rời đối tượng tiếp nhận mà
nó được chuyển hoá vào bên trong bằng chính những hoạt động nhận thức
của bản thân thể tiếp nhận thông qua con đường vật chất hoá ._.
Tử?
59
thiu hoa bắp lay”?
Câu 5: Khổ thơ thứ hai có câu
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó-
Có chở trăng về kịp tối nay.” Chữ
“kịp” gợi lên điều gì về mối tâm tư
đầy uẩn khúc của tác giả?
Câu 6: Câu thơ “Ai biết Tình ai có
đậm đà” có chút hoài nghi. Theo anh
(chị) đó là nỗi hoài nghi của sự chán
đời hay của niềm tha thiết với cuộc
đời? Tại sao?
Câu 7: Học thuộc lòng bài thơ.
Câu hỏi 1: Câu hỏi này đòi hỏi học sinh đọc bài thơ nhiều lần và phải
huy động trí tưởng tượng của mình để thực sự tham gia vào thế giới của tác
phẩm, được sống cùng tác phẩm. Từ đó mới thấy được bức tranh thôn Vĩ đẹp,
tươi sáng, trong trẻo, gợi cảm và đầy sức sống. Qua bức tranh thôn Vĩ ở khổ
một, học sinh còn hình dung ra tâm trạng hân hoan, phấn chấn, niềm vui khi
nhận được tín hiệu tình cảm của người trong mộng (dù chỉ là trong cảm nhận
của nhà thơ), niềm hi vọng lóe sáng về tình yêu, hạnh phúc.
Câu hỏi 2: Đây là câu hỏi so sánh, gợi mở để dẫn dắt học sinh phân
tích sự vận động của tứ thơ từ khổ một sang khổ hai, từ niềm hân hoan trước
cảnh đẹp và tình người thôn Vĩ, thi tứ Hàn Mặc Tử vụt bay đến một cõi miền
đau thương đối lập, gợi sự chia lìa, tan tác. Với câu hỏi này, học sinh còn tìm
ra được một sáng tạo thẩm mĩ mới mẻ, độc đáo của hình tượng thơ Hàn Mặc
60
Tử là hình ảnh “sông trăng”. Hình ảnh này như một nét vẽ thơ mộng, chất
chứa cái thần thái, “linh hồn” của cảnh sắc thiên nhiên xứ sở.
Câu hỏi 3: Câu hỏi cho học sinh tiếp tục so sánh, phát hiện, tìm ra sự
vận động khác nhau của ba khổ thơ. Mỗi khổ là một sự bứt phá của thi tứ,
không tuân theo mạch lô gíc thông thường nhưng vẫn có chỗ liền nhau, đó là
trạng thái xúc cảm. Mỗi khổ là một bức tranh riêng về Vĩ Dạ, tưởng như
không ăn khớp với nhau nhưng thực ra nó vẫn nằm trong mạch cảm xúc
chung của cả bài: Cảnh thôn Vĩ đẹp, người thôn Vĩ duyên dáng đang vẫy gọi
thi nhân nhưng thi nhân không thể trở về vì mặc cảm số phận. Bởi thế đằng
sau câu chữ kia ẩn chứa nỗi buồn, nỗi đau đời và niềm khát khao sự đồng cảm
của người đời.
Câu hỏi 4: Câu hỏi đã hướng dẫn học sinh nhận diện và phân tích được
giá trị thẩm mĩ của câu hỏi tu từ. Hồn thơ Hàn Mặc Tử là sự tuôn trào mãnh
liệt cảm xúc và câu hỏi tu từ được nhà thơ sử dụng như một thứ nghệ thuật
riêng của mình để bộc lộ thế giới tâm hồn, tình cảm. Dòng chảy của chuỗi
phát ngôn trữ tình được tạo thành bởi ba câu hỏi nghi vấn cuối mỗi khổ thơ và
mối quan hệ giữa các bức tranh phong cảnh chỉ là dòng chảy của một quá
trình tâm trạng chứa đựng bên trong hai mặt sáng và tối giống như hai đối cực
của một thể thống nhất thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau.
Ý thứ nhất của câu hỏi mở ra hướng giải quyết vấn đề ở ý hai và ý ba.
Câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải vận dụng năng lực văn chương kết hợp với
tư duy tổng hợp khái quát để phát huy khả năng sáng tạo, tình cảm thẩm mĩ.
Cảm nhận được lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt, khát khao tình yêu, khát
khao giao cảm với đời của hồn thơ Hàn Mặc Tử nghĩa là các em đã nắm bắt
được chiều sâu của tác phẩm
Tóm lại: Theo chúng tôi, bốn câu hỏi trên phù hợp với con đường nhận
thức, khám phá tác phẩm của học sinh. Có những câu hỏi là sự kết hợp giữa
61
hai yếu tố tái hiện và sáng tạo, có những câu hỏi khơi gợi trí liên tuởng, tưởng
tượng cao. Tất cả đều nhằm mục đích phát huy tính tích cực, chủ động học tập
của học sinh.
3. Xây dựng câu hỏi cho bài “Tôi yêu em” của Puskin.
2.1 Bảng đối chiếu hệ thống câu hỏi sách Ngữ văn chuẩn và nâng
cao với câu hỏi luận văn.
Câu hỏi của sách chuẩn
và sách nâng cao
Câu hỏi của luận văn
Sách chuẩn:
Câu 1: Điệp khúc nào làm nổi bật
cảm xúc chủ đạo của bài thơ? Bài thơ
dường như là lời từ giã cho một mối
tình không thành. Lời từ giã của
Puskin có gì đặc biệt.
Câu 2: Giọng điệu trữ tình chuyển
biến như thế nào từ hai câu 1-2 sang
hai câu 3-4 và từ hai câu 5-6 sang hai
câu 7-8? Diễn biến tâm trạng phức
tạp của nhân vật trữ tình được thể
hiện tinh tế ra sao?
Câu 3: Tại sao có thể nói hai câu kết
là bất ngờ, hàm chứa nhiều ý vị?
Câu 4: Bài thơ gợi cho anh (chị)
những cảm nghĩ gì về tâm hồn Puskin
và về tình yêu?
Câu 1: Đọc bài thơ nhiều lần và em
hãy cho biết cụm từ mở đầu “tôi yêu
em”so với câu dịch nghĩa trong phần
chú thích thì bản dịch thơ cụm từ này
đã chuyển dịch hết nghĩa chưa? Vì
sao?
Câu 2: Giọng điệu trữ tình chuyển
biến từ câu 1 đến câu 8 như thế nào?
Sự chuyển biến đó đã phơi mở đáy
sâu tâm hồn nhân vật trữ tình những
lớp sóng tình cảm phức tạp nhưng lại
rất tế nhị ra sao?
Câu 3: Điệp khúc thứ ba gắn liền với
hai câu cuối. Theo em hai câu kết có
bất ngờ và hàm chứa nhiều ý vị
không? Vì sao? Từ đó nêu những cảm
62
Sách nâng cao:
Câu 1: Đọc diễn cảm bài thơ, lưu ý
cụm từ “tôi yêu em” và vị trí của cụm
từ này trong bài, hãy tìm hiểu kết cấu
bài thơ và diễn biến tâm trạng của
nhân vật trữ tình.
Câu 2: Tình cảm phức tạp, tế nhị của
nhân vật trữ tình trong bài thơ được
Puskin diễn tả tinh tế như thế nào qua
bốn câu thơ đầu?
Câu 3: Cảm xúc trong hai câu thơ
“tôi yêu em âm thầm không hy vọng-
Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen”có
gì đặc biệt? Nó hé mở trạng thái tình
cảm gì trong nhân vật trữ tình?
Câu 4: Xu hướng vươn tới sự cao cả
trong tư tưởng, tình cảm là đặc trưng
cơ bản của thơ Puskin. Phân tích hai
câu thơ cuối để chứng minh.
nhận của em về nhân vật trữ tình.
Câu 4: Bài thơ trong sáng giản dị đến
mức gần như không cần một chú giải
nào, hình ảnh thơ không mĩ lệ, không
sử dụng các biện pháp tu từ nhưng
vẫn cuốn hút người đọc. Theo em sức
hấp dẫn của bài thơ ở đâu? Qua bài
thơ hãy rút ra những quan niệm đúng
đắn về tình yêu và thái độ ứng xử văn
hóa trong tình yêu.
Câu 5: Học thuộc bài thơ.
3.2 Thuyết minh cho câu hỏi luận văn.
Câu hỏi 1: Câu hỏi này sẽ giúp cho học sinh tìm ra được tận cùng ý
nghĩa giá trị của tác phẩm, tránh được những sai lầm chỉ quan tâm phân tích
câu chữ trong bài thơ dịch mà bỏ sót những ý nghĩa giá trị ẩn sâu trong bề mặt
câu chữ. “yêu” trong bản dịch thơ khác với “đã yêu” trong bản dịch nghĩa.
63
“Đã yêu” nghĩa là có khoảng cách quá khứ - hiện tại. Tình yêu đẩy về quá
khứ và thoạt nghe không mãnh liệt bằng “tôi yêu em” nhưng không phải vì
thế mà bản dịch nghĩa làm cho bài thơ giảm giá trị. Lí trí của nhân vật trữ tình
cương quyết bao nhiêu thì tình cảm lại mãnh liệt hơn bấy nhiêu, nó trào dâng,
nhấn chìm lí trí xuống để trái tim tự cất tiếng hát. Và như vậy vô hình chung
bản dịch thơ không thể hiện được hết điều này. Câu hỏi 1 là phương tiện cho
học sinh đi vào khám phá bài thơ.
Câu hỏi 2: Đây là câu hỏi mang tính gợi mở nhằm phát huy khả năng
sáng tạo, giúp cho học sinh khám phá nội tâm nhân vật trữ tình, hướng các em
tìm ra sự chuyển biến giọng điệu trữ tình: Từ phân vân, ngập ngừng tới kiên
quyết dứt khoát rồi day dứt, dằn vặt và cuối cùng là thiết tha, điềm tĩnh.
Khi đã tìm ra được sự chuyển biến giọng điệu, các em sẽ thấy được
những lớp sóng tình cảm: yêu đương cháy bỏng trong âm thầm, cuồng nhiệt
trong vô vọng, đắm đuối đến bối rối. Âu lo, thắc thỏm, trăn trở, day dứt, và
rồi sôi nổi mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực của một trái tim yêu.
Trả lời được câu hỏi này là các em đã đi được vào chiều sâu của tác
phẩm.
Câu hỏi 3: Với câu hỏi nêu vấn đề này sẽ khích lệ học sinh tìm tòi, phát
hiện, lí giải để đưa ra ý kiến của riêng mình. Quá trình lí giải, đưa ra ý kiến
cũng là quá trình tư duy sáng tạo, giúp các em tìm ra được sự bất ngờ của hai
câu kết, đó là nhân vật trữ tình quên đi cái tôi của mình để vươn tới cái cao cả
của tình yêu chân thành, cao thượng.
Từ ý thứ nhất của câu hỏi, học sinh sẽ tìm ra câu trả lời cho ý thứ hai.
Câu hỏi này không chỉ giúp cho các em dừng lại ở việc chiếm lĩnh giá trị của
một tác phẩm mà quan trọng hơn là các em cảm nhận và hiểu được vẻ đẹp của
tình yêu và tâm hồn Puskin: chân thành, say đắm, nhân hậu và cao cả.
64
Câu hỏi 4: Câu hỏi nhằm yêu cầu học sinh tìm hiểu giá trị nghệ thuật
của bài thơ. Đó là ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu nhạc điệu. Vẻ ngọc của
bài thơ sáng lên chủ yếu ở xu hướng vươn tới sự cao cả trong tâm hồn và tư
tưởng. bên cạnh đó, câu hỏi này còn chú trọng đến chức năng tác động của
văn bản đối với bạn đọc học sinh. Câu hỏi rèn cho các em kĩ năng đánh giá
bằng quan điểm và suy nghĩ sâu sắc của mình, kích thích các em bộc lộ cảm
xúc, suy nghĩ bên trong, tạo bước chuyển trong tình cảm và nhận thức.
Khi đã trả lời được ba câu hỏi trên, đến câu hỏi này học sinh sẽ rút ra
được những quan niệm đúng đắn về tình yêu như: tình yêu phải xuất phát từ
hai phía, phải xuất phát từ những tình cảm chân thành, say đắm, mãnh liệt, vị
tha...Từ quan niệm đúng đắn đó mới có được thái độ ứng xử văn hóa trong
tình yêu.
Câu hỏi 5: Câu hỏi này không mang tính bắt buộc nhưng khích lệ học
sinh học thuộc để khi đến lớp, dưới sự định hướng của thầy cô các em sẽ lĩnh
hội bài học tốt hơn.
Tóm lại nếu học sinh giải quyết được 5 câu hỏi trên thì về cơ bản dã
đáp ứng được yêu cầu kiến thức mà bài học đặt ra. Các câu hỏi được sắp xếp
theo hệ thống lô gíc, câu trước là bước đệm cho câu sau, thiên về tính sáng tạo
nhằm tác động vào tính tích cực, chủ động của các em.
4. Kết luận rút ra từ câu hỏi thể nghiệm:
Từ những câu hỏi thể nghiệm của hai bài “Đây thôn Vĩ Dạ” và “Tôi
yêu em”, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Câu hỏi đưa ra cho mỗi bài học đều nằm trong một thể thống nhất,
mang tính gợi mở, định hướng cho học sinh nắm bắt sơ bộ được giá trị nội
dung và nghệ thuật của văn bản văn chương.
Chúng tôi chú trọng đến những câu hỏi sáng tạo khiến học sinh phải
cân nhắc kĩ trước khi trả lời, gợi ra những liên tưởng, tưởng tượng, tạo hứng
65
thú cho học sinh. Với những loại câu hỏi như vậy, học sinh không chỉ dừng
lại ở việc phát hiện mà còn được định hướng vào chiều sâu những chi tiết và
các nút then chốt của bài học. Do vậy câu hỏi có khả năng kích lệ các em tìm
tòi, giải đáp và kết quả là các em không chỉ khắc sâu được kiến thức mà còn
được rèn luyện khả năng tư duy sáng tạo.
Chúng tôi còn quan tâm đến cách đặt câu hỏi nhằm tác động vào cảm
xúc, tâm hồn và tình cảm của học sinh. Điều này có nghĩa là câu hỏi phải có
tác dụng nuôi dưỡng cảm xúc, nhân cách và tâm hồn cho học sinh.
Khi đưa ra câu hỏi cho mỗi bài học, chúng tôi chú trọng đến tính vừa
sức của câu hỏi. Tức là câu hỏi phù hợp với trình độ tiếp nhận tác phẩm văn
chương của học sinh. Nếu chịu khó tìm hiểu và nắm vững yêu cầu về kiến
thức đặt ra trong bài học thì đa số các em sẽ giải quyết đúng hướng những câu
hỏi đưa ra. Bên cạnh đó, những câu hỏi này buộc học sinh phải hoàn toàn độc
lập suy nghĩ, tìm hiểu ở nhà. Nghĩa là sau khi chuẩn bị bài ở nhà thì các em đã
có thể tự mình thâm nhập và nắm bắt tác phẩm một cách cơ bản (dĩ nhiên là
theo cách tiếp nhận của các em). Quá trình học ở trên lớp chỉ là sự điều chỉnh,
uốn nắn, bổ sung qua trao đổi với thầy, với bạn để khẳng định và củng cố cho
cách hiểu, cách cảm của chính bản thân các em.
Mục đích mà chúng tôi đặt ra trong các câu hỏi thể nghiệm tất cả không
nằm ngoài việc hướng vào đối tượng học sinh, chủ thể tiếp nhận của quá trình
dạy học. Tất cả hướng đến phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo,
đem lại niềm hứng thú trong học tập cho học sinh.
66
PhÇn 3: KÕt luËn chung
CHHDHB là một khâu cực kỳ quan trọng, quyết định hiệu quả dạy và
học tác phẩm văn chương, đồng thời cũng thể hiện sự nghiên cứu công phu
trên cơ sở những hiểu biết khoa học của các ngành khoa học liên quan như:
ngôn ngữ, thi pháp, sư phạm hiện đại...
CHHDHB còn là một vấn đời sự khoa học vì cho đến nay chưa được
nghiên cứu công phu và chưa được quan tâm thỏa đáng. Lịch sử nghiên cứu
vấn đề về câu hỏi còn có phần mờ nhạt, những công trình nghiên cứu về câu
hỏi trong SGK mới chỉ ở mức độ khiêm tốn. Vì thế việc đưa ra những giải
pháp để xây dựng một tiêu chí thống nhất cho hệ thống CHHDHB là việc làm
cần thiết, thường xuyên và phải được chú trọng hơn.
Hệ thống câu hỏi trong hai bộ sách giáo khoa Ngữ văn chuẩn và nâng
cao đã bộc lộ rõ ý đồ đổi mới của người biên soạn, ®ó là chú trọng đến tính
sáng tạo của người học qua những câu hỏi có tính sáng tạo cao. Tuy nhiên do
chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của CHHDHB nên nhiều giáo viên vẫn còn
tình trạng tùy tiện, thiếu đầu tư chính đáng trong dạy và học. Số lượng câu hỏi
được giáo viên vận dụng để khai thác và làm sáng tỏ bài giảng còn ít. Mối
quan hệ giữa câu hỏi trong SGK văn học và câu hỏi trên lớp trong giờ giảng
văn của giáo viên còn lỏng lẻo, ít hỗ trợ cho nhau. Điều quan trọng đặt ra là
nếu như không có sự cố gắng nỗ lực từ phía giáo viên thì không những không
đổi mới được phương pháp dạy học văn mà vô hình chung chúng ta lại dễ trở
về với lối mòn dạy học cũ. Với đề tài này của luận văn, chúng tôi hy vọng góp
một phần nhỏ vào việc thay đổi cách nhìn nhận và vận dụng CHHDHB trong
SGK đối với quá trình dạy và học của giáo viên.
CHHDHB theo chúng tôi là một khâu then chốt liên quan đến quá trình
học tác phẩm văn chương của học sinh. Hệ thống câu hỏi phong phú, toàn
67
diện, đồng bộ, thống nhất và có cơ sở khoa học thì sẽ hình thành và rèn luyện
cho học sinh kĩ năng bình giá, phân tích và năng lực tự tiếp nhận tác phẩm
văn học tốt hơn. Khi đặt ra câu hỏi tức là đã đặt học sinh vào một vấn đề nào
đó cần giải quyết, buộc các em phải động não, suy nghĩ tìm ra lời giải đáp, từ
đó chủ động tiếp thu kiến thức. Điều này gây được tâm thế hứng thú học tập
văn bản, tạo được hiệu quả cao trong việc học ở nhà cũng như ở trên lớp của
học sinh.
Bên cạnh đó hệ thống CHHDHB còn là khâu then chốt liên quan đến
hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Một giáo án tốt, có tính chất khoa học, hiện
đại thì không thể thiếu hệ thống câu hỏi hướng vào học sinh, giúp học sinh tự
chiếm lĩnh tri thức, phải có sự đắn đo, cân nhắc tới từng đối tượng học sinh và
không thể không dựa vào hệ thống CHHDHB. Giáo viên có thể vận dụng
sáng tạo để xây dựng cho mình một hệ thống câu hỏi chuẩn xác và thiết thực,
có tác dụng rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh, từ đó góp phần mang đến
một giờ dạy học tác phẩm văn chương có chất lượng tốt.
Chúng ta chỉ có thể có một hệ thống câu hỏi cho giờ dạy học văn tốt
khi CHHDHB trong SGK được biên soạn công phu và chuẩn xác, kết hợp với
sự tích cực, chủ động và sáng tạô trong suy nghĩ của mỗi giáo viên đứng lớp.
Mặc dù vậy, chúng ta có thể khẳng định hệ thống CHHDHB trong
SGK hiện hành chưa phải đã hoàn thiện. Bên cạnh những mặt đã đạt được thì
vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định. Đây cũng là điều dễ hiểu, vì đổi mới
phương pháp dạy học văn nói chung và đổi mới hệ thống câu hỏi trong SGK
nói riêng cần phải có thời gian lâu dài và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác.
Bởi vậy chúng ta chỉ có thể nhìn nhận, đánh giá nó trong sự vận động và phát
triển mà thôi.
Nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy học Ngữ văn luôn luôn là mục
tiêu hướng đến của ngành giáo dục nói chung và của các thầy cô giáo trực tiếp
68
làm công tác giảng dạy văn học nói riêng. Thực hiện đề tài này, cùng với lòng
nhiệt huyết nghề nghiệp, chúng tôi mong muốn góp mét phần nhá vào việc
nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học văn chương trong nhà trường phổ
thông, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Người viết mong được sự góp ý của các nhà khoa học, các nhà sư
phạm, các anh, chị, em đồng nghiệp.
69
PHô lôc
Câu hỏi phần thơ hiện đại trong hai bộ sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao.
Bài: Xuất dƣơng lƣu biệt (Phan Bội Châu)
Sách chuẩn (Trang 5, tập 2)
1. Đọc tiểu dẫn, chú ý bối cảnh lịch
sử đất nước và những ảnh hưởng từ
nước ngoài để hiểu bài thơ.
2. Tư duy mới mẻ, táo bạo và khát
vọng hành động của nhà chí sĩ cách
mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu
nước được biểu lộ như thế nào? Dựa
trên cảm xúc của tác giả và những
hình ảnh nghệ thuật trong bài thơ, chú
ý tìm hiểu các vấn đề sau:
- Quan niệm mới về chí làm trai và tư
thế, tầm vóc của con người trong vũ
trụ.
- Ý thức trách nhiệm cá nhân trước
thời cuộc.
- Thái độ quyết liệt trước tình cảnh
đất nước và những tín điều xưa cũ.
- Khát vọng hành động và tư thế buổi
lên đường.
3. Anh (chị) có nhận xét gì về hai câu
Sách nâng cao (Trang 5, tập 2)
1. Giải nghĩa bốn câu đầu của bài thơ
và làm rõ ý thức về hoài bão, sứ mệnh
của nhân vật trữ tình - người thanh
niên trước thời cuộc.
2. Tìm trong hai câu 5-6 những từ
ngữ thể hiện thái độ quyết liệt và tình
cảm đau đớn của nhà thơ trước thực
trạng đất nước. Riêng trong câu 6,
nhà thơ đã bày tỏ thái độ như thế nào
đối với nền tư tưởng, học vấn cũ của
nước nhà?
3. Hai câu 7-8 thể hiện mong muốn
70
6 và 8 của bản dịch thơ so với nguyên
tác (đối chiếu với phần dịch nghĩa).
4. Theo anh (chị) những yếu tố nào đã
tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ của bài
thơ này?
gì của tác giả? Dựa theo bản dịch
nghĩa hãy phân tích vẻ đẹp hào hùng
của hình tượng “muôn lớp sóng bạc
cùng bay theo”.
4. Theo anh (chị) vì sao bài thơ có
được sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với
thế hệ thanh niên yêu nước đầu thế kỷ
XX?
Bài: Hầu trời (Tản Đà)
Sách chuẩn (Trang 17, tập 2)
1. Anh (chị) hãy phân tích khổ thơ
đầu. Cách vào đề của bài thơ gợi cho
người đọc cảm giác như thế nào về
câu chuyện mà tác giả sắp kể?
2. Tác giả kể lại chuyện mình đọc thơ
cho Trời và Chư tiên nghe như thế
nào? (Thái độ của tác giả, của chư
tiên và những lời khen của Trời).
Qua đoạn thơ đó , anh (chị) cảm nhận
những điều gì về cá tính nhà thơ và
niềm khao khát chân thành của thi sĩ?
Nhận xét về giọng kể của tác giả.
Sách nâng cao (Trang 12, tập 2)
1. Thuật lại câu chuyện “Hầu Trời”
của Tản Đà trong bài thơ và làm rõ tài
hư cấu của tác giả (Chú ý cách phân
tích, cách tạo tình hưống, chọn chi
tiết, dựng đối thoại, bố trí các cảnh,
miêu tả tâm lí đa dạng của nhân vật.
2. Chuyến “Hầu Trời” bằng tưởng
tượng đã giúp nhà thơ nói được gì về
bản thân cùng quan niệm mới của ông
về văn và nghề văn?
71
3. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là
cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài
lại có một đoạn rất hiện thực. Đó là
đoạn thơ nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn
thơ đó. Theo anh (chị) hai nguồn cảm
hứng này ở thi sĩ Tản Đà có mối liên
hệ với nhau như thế nào?
4. Về mặt nghệ thuật, bài thơ này có
gì mới và hay? (Chú ý các mặt: thể
loại, ngôn từ, cách biểu hiện cảm xúc,
hư cấu nghệ thuật...)
3. Tìm các chi tiết thể hiện ý thức cá
nhân của tác giả.
4. Chỉ ra nét cách tân của bài thơ ở
giọng điệu và cách dùng các yếu tố
thuộc khẩu ngữ.
5. Nhận xét chung về giá trị tư tưởng
và nghệ thuật của bài thơ.
Bài: Vội vàng (Xuân Diệu)
Sách chuẩn (Trang 22, tập 2)
1. Bài thơ có thể chia làm mấy đoạn?
Nêu ý chính của từng đoạn.
2. Xuân Diệu cảm nhận về thời gian
như thế nào? Vì sao nhà thơ có tâm
trạng vội vàng, cuống quýt trước sự
tôi qua nhanh chóng của thời gian?
Sách nâng cao (Trang 29, tập 2)
1. Bài thơ được viết như một dòng
cảm xúc hối hả tuôn trào, nhưng vẫn
tuân theo một bố cục khá rõ ràng, thể
hiện mạch triếtl lí sâu sắc và chặt chẽ.
Hãy tìm bố cục ấy.
2. Đọc toàn bài, anh (chị) có cảm
nhận thế nào về nhạc điệu của bài
thơ? Nhạc điệu ấy được tạo ra bằng
những thủ pháp gì?
72
3. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen
thuộc được tác giả cảm nhận và diễn
tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét
mới trong quan niệm của Xuân Diệu
về cuộc sông, tuổi trẻ và hạnh phúc.
4. Hãy nhận xét về đặc điểm của hình
ảnh, ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn
thơ cuối của bài thơ. Nhà thơ đã sáng
tạo được hình ảnh nào mà anh (chị)
cho là mới mẻ, độc đáo nhất?
3. Tác giả cảm nhận về thời gian như
thế nào? Phân tích đoạn từ câu 14 đến
câu 24 để làm nổi bật cảm nhận đó.
4. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen
thuộc quanh ta được tác giả cảm nhận
và diễn tả một cách hấp dẫn như thế
nào? Điều ấy thể hiện quan niệm gì
của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ
và hạnh phúc?
5. Phân tích nghệ thuật sử dụng ngôn
từ (điệp từ, tính từ...) trong đoạn thơ
từ câu 31 đến câu 39, qua đó làm nổi
bật tuyên ngôn về lẽ sống của Xuân
Diệu.
6. Qua bài thơ có thể hình dung cái
tôi của Xuân Diệu như thế nào?
7. Học thuộc lòng bài thơ.
73
Bài: Tràng giang (Huy Cận)
Sách chuẩn (Trang 30, tập 2)
1. Anh (chị) hiểu thế nào về câu thơ
đề từ “Bâng khuâng trời rộng sông
dài”? Đề từ đó có mối liên hệ gì với
bức tranh thiên nhiên và tâm trạng
của tác giả trong bài thơ?
2. Nêu cảm nghĩ về âm điệu chung
của toàn bài thơ.
3. Vì sao nói bức tranh thiên nhiên
trong bài thơ đậm màu sắc cổ điển mà
vẫn gần gũi, thân thuộc?
4. Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm
đượm lòng yêu nước thầm kín
không? Tại sao?
Sách nâng cao (Trang 50, tập 2)
1. Anh (chị) có cảm nhận như thế nào
về âm điệu chung của toàn bài thơ?
Âm điệu ấy đã góp phần thể hiện tâm
trạng gì của tác giả trước thiên nhiên?
2. Hãy nêu cảm nhận của anh (chị) về
bức tranh thiên nhiên được thể hiện
trong bài thơ. Câu đề từ “Bâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài” có
mối liên hệ gì đối với hình ảnh tạo vật
thiên nhiên và tâm trạng của tác giả
được thể hiện trong bài?
3. Hãy phát biểu nhận xét về hình
thức tổ chức câu thơ và việc sử dụng
lời thơ trong các cặp câu sau:
- Sóng gợn tràng giang buồn điệp
điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
- Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
4. Hình ảnh “Củi một cành khô lạc
mấy dòng” và hình ảnh “Chim
nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” gợi
cho anh (chị) những cảm nghĩ gì?
74
5. Phân tích những đặc sắc nghệ thuật
của thơ (thể thơ thất ngôn, thủ pháp
tương phản, các từ láy, các biện pháp
tư từ...)
5. Tại sao có thể nói tình yêu thiên
nhiên ở đây cũng chứa đựng lòng yêu
nước thầm kín?
6. Học thuộc lòng bài thơ
Bài: Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)
Sách chuẩn (Trang 39, tập 2)
1. Phân tích nét đẹp của phong cảnh
và tâm trạng của tác giả trong khổ thơ
đầu.
2. Hình ảnh gió, mây, sông ,trăng
trong khổ thơ thứ hai gợi cảm xúc gì?
3. Ở khổ thơ thứ ba, nhà thơ bộc lộ
tâm sự của mình như thế nào? Chút
hoài nghi trong câu thơ “Ai biết tình
ai có đậm đà” có biểu hiện niềm tha
thiết với cuộc đời không? Vì sao?
4. Có gì đáng chú ý trong tứ thơ và
Sách nâng cao (Trang 47, tập 2)
1. Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ
nghiêng về một cảnh sắc, một tâm
tình. Hãy nêu nhận xét về sắc thái
khác nhau ở mỗi khổ thơ và mạch
liên kết giữa các khổ.
2. Mỗi khổ thơ trong bài đều chứa
đựng câu hỏi. Các câu hỏi ấy đã góp
phần tạo nên âm điệu riêng của bài
thơ.
Âm điệu ấy đã thể hiện mạch tâm
trạng gì của tác giả?
3. Hình ảnh „”nắng hàng cau mới lên”
thật giản dị cũng thật giàu sức gợi.
Hãy dùng những hiểu biết và trí
tưởng tượng của mình để cảm nhận
và tái tạo vẻ đẹp của hình ảnh ấy.
4. Anh (chị) có cảm nhận gì về ý
75
bút pháp của bài thơ nghĩa của hai câu thơ “Gió theo lối
gió mây đường mây – Dòng nước
buồn thiu hoa bắp lay”
5. Khổ thơ thú hai có câu “Thuyền ai
đậu bến sông trăng đó – Có chở trăng
về kịp tối nay” chữ “kịp” gợi lên điều
gì về mối tâm tư đầy uẩn khúc của tác
giả?
6. Câu thơ “Ai biết tình ai có đậm
đà” có chút hoài nghi. Theo anh
(chị), đó là nỗi hoài nghi của sự chán
đời hay của niềm tha thiết với cuộc
đời? Tại sao?
7. Học thuộc lòng bài thơ.
Bài: Chiều tối (Hồ Chí Minh)
Sách chuẩn (Trang 42, tập 2)
1. So sánh bản dịch thơ với bản dịch
nghĩa, tìm những chỗ chưa sát với
nguyên tác (chú ý câu 2 và câu 3)
2. Phân tích bức tranh thiên nhiên và
cảm xúc của nhà thơ trong hai câu thơ
đầu.
Sách nâng cao (Trang 76, tập 2)
1. Dựa vào cảnh ngộ của tác giả (xem
phần tiểu dẫn) hãy nhận xét nghệ
thuật miêu tả thiên nhiên trong hai
câu đầu của bài thơ.
2. Anh (chị) hãy nêu nhận xét về thủ
pháp nghệ thuật mà tác giả dùng để tả
màn đêm đã buông xuống ở câu cuối
76
3. Bức tranh đời sống được cảm nhận
trong hai câu sau như thế nào?
4. Nhận xét về nghệ thuật tả cảnh và
sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ.
bài thơ.
3. Hình ảnh lò than rực hồng ở cuối
bài thơ có ý nghĩa như thế nào trong
bức tranh chiều tối của tác giả? Điều
này thể hiện đặc điểm gì của tâm hồn
Hồ chí Minh?
4. Màu sắc cổ điển của bài thơ thể
hiện ở đâu và như thế nào? Vì sao
người ta thường nói thơ nghệ thuật
của Hồ Chí Minh tuy rất cổ điển
nhưng vẫn là thơ hiện đại? Hãy phân
tích bài “Chiều tối” để giải thích và
chứng minh.
5. Học thuộc lòng bản phiên âm và
bản dịch bài thơ.
Bài: Từ ấy (Tố Hữu)
Sách chuẩn (Trang 44, tập 2)
1. Tố Hữu đã dùng những hình ảnh
nào để chỉ lí tưởng và biểu hiện niềm
vui sướng, say mê khi bắt gặp lí
tưởng?
Sách nâng cao (Trang 88, tập 2)
1. Tìm hiểu tâm trạng của Tố Hữu
trong giây phút bắt gặp lí tưởng cộng
sản. qua hình ảnh “Mặt trời chân lí
chói qua tim”, có thể hiểu quan niệm
của nhà thơ về lí tưởng cộng sản như
thế nào?
77
2. Khi được ánh sáng của lí tưởng soi
rọi, nhà thơ đã có những nhận thức
mới về lẽ sống như thế nào?
3. Sự chuyển biến sâu sắc trong tình
cảm của nhà thơ được thể hiện ra
sao?
4. Nhận xét về các biện pháp tu từ
dùng trong bài thơ. Có gì đáng chú ý
trong nhịp điệu của các câu thơ?
2. Nhận xét đặc điểm chung về giá trị
biểu cảm của các từ ngữ: bừng (nắng
hạ), chói (qua tim), rất đậm (hương),
rộn (tiếng chim).
3. Lí tưởng cộng sản đã đem đến cho
Tố Hữu sự thức tỉnh về mối quan hệ
tình cảm mới như thế nào? vì sao sự
thức tỉnh về quan hệ tình cảm ấy lại
đem đến cho Tố Hữu sức mạnh và
niềm vui?
4. Nhận xét về giọng điệu chung của
bài thơ.
5. Qua những từ lặp lại ở đầu câu: Để
(câu 6-7), là (câu 10-11), anh (chị)
hãy nêu cảm nhận của mình về nhịp
thơ và tác dụng biểu cảm của nó.
6. Học thuộc lòng bài thơ.
78
Bài: Tôi yêu em (Puskin)
Sách chuẩn (Trang 60, tập 2)
1. Điệp khúc nào làm nổi bật cảm xúc
chủ đạo của bài thơ? Bài thơ dường
như là lời từ giã cho một mối tình
không thành. Lời từ giã của Puskin có
gì đặc biệt?
2. Giọng điệu trữ tình chuyển biến
như thế nào từ câu hai câu 1-2 sang
hai câu 3-4 và từ câu 5-6 sang hai câu
7-8? diễn biến tâm trạng phức tạp của
nhân vật trữ tình được thể hiện tinh tế
ra sao?
3. Tại sao có thể nói hai câu kết là bất
ngờ, hàm chứa nhiều ý vị?
4. Bài thơ gợi cho anh (chị) những
cảm nghĩ gì về tâm hồn Puskin và về
tình yêu?
Sách nâng cao (Trang 167, tập 2)
1. Đọc diễn cảm bài thơ, lưu ý cụm từ
“tôi yêu em” và vị trí của cụm từ này
trong bài, hãy tìm hiểu kết cấu bài thơ
và diễn biến tâm trạng nhân vật trữ
tình.
2. Tình cảm phức tạp, tế nhị của
nhân vật trữ tình trong bài thơ được
Puskin diễn tả tinh tế như thế nào qua
bốn câu thơ đầu?
3. Cảm xúc trong hai câu thơ “Tôi
yêu em âm thầm không hy vọng- Lúc
rụt rè khi hậm hực lòng ghen” có gi
fđặc biệt? Nó hé mở trạng thái tình
cảm gì trong nhân vật trữ tình?
4. Xu hướng vươn tới sự cao cả trong
tư tưởng, tình cảm là đặc trưng cơ
bản của thơ Puskin. Phân tích hai câu
thơ cuối để chứng minh.
79
Tài liệu tham khảo
1. Đinh Quang Báo (11/2003), Bản chất của phương pháp dạy học mới,
Dạy và học ngày nay, số 13.
2. Nguyễn Quang Cương (2000), Hệ thống câu hỏi trong SGK văn học,
Luận án tiến sĩ, trường Đại học sư phạm Hà Nội.
3. Phạm Văn Đồng, Dạy văn là quá trình rèn luyện toàn diện, Tạp chí
NCGD, số 28.
4. Phạm Văn Đồng (12/1992), Phương pháp dạy học phát huy tính tích
cực- một phương pháp vô cùng quý báu, NCGD.
5. Lê Bá Hán -Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ
văn học, trang 202-203.
6. Nguyễn Trọng Hoàn (2003), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học
tác phẩm văn chương, Nxb Giáo dục Hà Nội.
7. Trần Bá Hoành (2003), Lí luận cơ bản về dạy và học tích cực, Dự án
giáo viên trung học cơ sở, Bộ GD&ĐT.
8. Nguyễn Thanh Hùng (23/9/1989), Bản chất văn học và vấn đề đổi
mới trong dạy học văn, Báo văn nghệ số 38.
9. Nguyễn Thanh Hương (2001), Dạy học văn ở trường phổ thông, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
10. Nguyễn Xuân Lạc, bài 18, Ôn tập phương pháp đọc hiểu và kiểm
tra, Sách Ngữ văn 11 bộ 2 tập II, Ban KHXH&NV.
11. Nguyễn Lai (1991), Ngôn ngữ và sáng tạo văn học, Khoa học xã
hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Lai (1990), Tiếp nhận văn học, một số vấn đề thời sự, Báo
văn nghệ số 28.
13. Lê-nin (1976), Bút kí triết học, Sự thật, Hà Nội.
80
14. Nguyễn Lộc (1990), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lí
giáo dục PTTH phục vụ cải cách giáo dục, môn văn lớp 10, Hà Nội.
15. Phan Trọng Luận (1983), Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học, Nxb
Giáo dục.
16. Phan Trọng Luận (1999), Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở
trường THPT (sách bồi dưỡng giáo viên), Giáo dục Hà Nội.
17. Phan Trọng Luận (2005), Phan Trọng Luận tuyển tập, Nxb Giáo
dục.
18. Phan Trọng Luận (1977), Phân tích tác phẩm văn chương trong nhà
trường, Nxb Giáo dục.
19. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương bạn đọc sáng tạo, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
20. Nhikônxki (1978), Phương pháp giảng dạy văn học ở nhà trường
phổ thông, Nxb Giáo dục.
21. A.V.Petrovski (1982), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư ph¹m tập
I, Nxb Giáo dục.
22. Trần Hồng Quân (1995), Cách mạng về phương pháp sẽ đem lại sức
sống mới, bộ mặt mới cho giáo dục, NCGD số 1.
23. Dương Thị Quy (1996), Câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài trong SGK
văn THPT, luận văn thạc sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội.
24. I.A.Rez (1983), Phương pháp luận dạy văn học, Nxb Giáo dục.
25. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
26. Trần Đình Sử (12/2/1998), Môn văn thực trạng và giải pháp, Báo
văn nghệ số 7.
27. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Tác phẩm mới, Hà Nội.
28. Trần Đình Sử - Phương Lựu - Nguyễn Xuân Nam (1987), Lí luận
văn học tập II, Nxb Giáo dục.
81
29. Đỗ Ngọc Thống (4/2003), Chương trình Ngữ văn THPT có gì mới?
Tạp chí văn học tuổi trẻ số 4.
30. Lê Trí Viễn (5/1975), Giáo dục văn hóa thẩm mĩ, NCGD.
31. Viện khoa học giáo dục (1993), Mục tiêu chung của chương trình
môn văn-tiếng Việt ở trườngPTTH chuyên ban, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9227.pdf