Nghiên cứu địa danh tỉnh Đồng Nai

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- Nguyễn Thái Liên Chi NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH TỈNH ĐỒNG NAI Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ TRUNG HOA Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu địa danh là một lĩnh vực không mới với thế giới nhưng lại khá mới mẻ với nước ta. Những bí ẩn của ngành địa danh học cùng với niềm háo hức muốn khám phá

pdf250 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2355 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu địa danh tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vẻ đẹp của quê hương dưới góc nhìn ngôn ngữ học thông qua hệ thống địa danh của tỉnh khiến tôi mạnh dạn đăng ký làm luận văn với đề tài: “Nghiên cứu địa danh tỉnh Đồng Nai”. Qua đây, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS. TS. Lê Trung Hoa - giảng viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh - đã tận tâm chỉ bảo cho tôi từng li từng tí một trong quá trình thực hiện luận văn và cung cấp cho tôi nhiều tài liệu khoa học quý báu. Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô thuộc ngành Ngôn ngữ học, trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh đã giảng dạy và truyền cho tôi những kiến thức sâu sắc, hướng dẫn cho tôi về cách thực hiện luận văn tốt nghiệp một cách nhiệt tình. Cảm ơn phòng Sau Đại học trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu luận văn. Cảm ơn UBND tỉnh Đồng Nai, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Đồng Nai, Ban Tôn giáo và ban Dân tộc tỉnh Đồng Nai đã giúp đỡ tôi trong việc tìm kiếm những tư liệu cần thiết để hoàn thành nội dung luận văn. Cảm ơn ông Nguyễn Thành Trí - Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Đồng Nai đã hỗ trợ cho tôi một số tư liệu về địa danh; và xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đặc biệt là người cha kính yêu của tôi đã ủng hộ về tinh thần lẫn vật chất giúp tôi hoàn thành luận văn. Vẫn còn nhiều thiếu sót trong luận văn này, vì vậy, kính mong quý thầy cô tiếp tục chỉ dẫn để luận văn đạt kết quả tốt. Xin chân thành cảm ơn! Biên Hòa, ngày 3 tháng 8 năm 2009 Nguyễn Thái Liên Chi DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. Ký hiệu - [x, tr.y]: x là tên tác phẩm, tài liệu trích dẫn ghi theo số thứ tự trong phần Tài liệu tham khảo ở cuối luận văn, tr.y là số trang. Trường hợp tác phẩm có từ hai trang trở lên thì số trang được ngăn cách với nhau bằng dấu gạch ngang. Ví dụ: [99, tr.14], [59, tr.14-15]. - → : biến đổi thành. - / / : phiên âm âm vị học. - [ ] : phiên âm ngữ âm học. 2. Quy ước về cách viết tắt - BH : thành phố Biên Hòa. - cf : dẫn theo tác giả. - CM : huyện Cẩm Mỹ. - ĐN : tỉnh Đồng Nai. - ĐQ : huyện Định Quán. - LT : huyện Long Thành. - NT : huyện Nhơn Trạch. - TB : huyện Trảng Bom. - TN : huyện Thống Nhất. - TP : huyện Tân Phú. - TT : thị trấn. - TXLK : thị xã Long Khánh. - VC : huyện Vĩnh Cửu. - XL : huyện Xuân Lộc. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Địa danh là một bộ phận đặc biệt của từ vựng, có nguồn gốc và ý nghĩa riêng, nằm trong đối tượng của bộ môn từ vựng học. Bên cạnh việc nhận biết, hiểu rõ những đặc điểm ngôn ngữ trong các phương thức cấu tạo của hàng loạt tên gọi, địa danh còn cung cấp nguồn tư liệu quý giá cho nhiều ngành khoa học khác như dân tộc học, địa lý học, lịch sử học, khảo cổ học, văn hóa học… Vì vậy, công việc nghiên cứu địa danh có ý nghĩa và có giá trị rất lớn. Giống như một “đài kỷ niệm”, nghiên cứu địa danh có thể giúp phác thảo được bức tranh toàn cảnh về sự ra đời của một tộc người, một dân tộc; về sự giao thoa, tiếp xúc, bảo lưu những giá trị lịch sử, văn hóa của một địa bàn trong những giai đoạn, thời kỳ khác nhau. Không những góp phần phản ánh đời sống ngôn ngữ, nghiên cứu địa danh còn phản ánh những biểu hiện của sự biến đổi và phát triển tiếng Việt. Địa danh ở Đồng Nai cũng mang những đặc điểm chung đó. Trên bước đường hình thành và phát triển, vùng Đồng Nai đã sản sinh ra những tên đất, tên làng xóm tạo thành một hệ thống địa danh phản ánh những nét đặc trưng của vùng đất “gian lao mà anh dũng”. Theo quy luật tất yếu của cuộc sống, nhiều tên gọi vẫn tồn tại bền vững mặc bao thăng trầm của lịch sử nhưng cũng có những địa danh ít được nhắc tới hoặc bị trôi vào quên lãng. Quá trình khảo sát, sưu tầm, phân tích, giải thích địa danh tỉnh Đồng Nai giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về lịch sử, văn hóa, địa hình, những di tích, thắng cảnh… của địa phương. Bên cạnh đó, nghiên cứu địa danh tỉnh Đồng Nai còn nhằm bổ sung một phần tư liệu cho ngành địa danh học của Việt Nam - vốn chưa có một công trình nghiên cứu về toàn bộ địa danh cả nước. Sự phong phú, đa dạng của địa danh tỉnh Đồng Nai đã thu hút sự quan tâm của khá nhiều người trong và ngoài tỉnh thể hiện qua nhiều công trình, bài viết khác nhau. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu địa danh ở Đồng Nai dưới góc độ ngôn ngữ. Dẫu biết rằng đây là một đề tài không đơn giản, còn nhiều vấn đề lý luận phức tạp, nhiều ý kiến chưa thống nhất, nhưng với mong muốn được thỏa mãn những thắc mắc bấy lâu nay về những cái tên rất gần gũi với nơi mình sinh sống, và trên hết là góp một phần nhỏ nhoi về những tiền đề lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu địa danh nói chung, nên chúng tôi chọn đối tượng này để nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Nghiên cứu địa danh ở Việt Nam Ở nước ta, giai đoạn phôi thai, có một số bộ sách sử, địa chí ghi chép và giải thích nhiều địa danh, nhưng chủ yếu chỉ giải thích địa danh ở góc độ địa lý - lịch sử hay dưới một góc độ nào đó. Những tác phẩm nổi bật là Dư địa chí (soạn năm 1435) của Nguyễn Trãi, Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ XV) của Ngô Sĩ Liên, Ô châu cận lục (1553) của Dương Văn An, Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806) của Lê Quang Định, Lịch triều hiến chương loại chí (soạn trong 10 năm 1809 - 1819) của Phan Huy Chú, Gia Định thành thông chí (1820) của Trịnh Hoài Đức, Đại Nam nhất thống chí (soạn xong năm 1882) của Quốc sử quán triều Nguyễn, Nomenclature des communes du Tonkin (classées par cantons, phu, huyen ou chau et par provinces) (Tự vựng làng xã ở Bắc Kỳ) (1928) do Ngô Vĩ Liên biên soạn và cuốn Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ An trở ra) do Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn (1981). Có thể xem giai đoạn hình thành của địa danh học Việt Nam bắt đầu từ những năm 60, khi mà các vấn đề liên quan đến địa danh và lý luận về địa danh đã được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử, địa lý, văn hóa, ngôn ngữ… Tác giả Thái Văn Kiểm tiếp cận địa danh ở góc độ lịch sử - văn hóa trong tác phẩm Đất Việt trời Nam (1960). Đào Duy Anh sử dụng phương pháp nghiên cứu địa lý học lịch sử trong tác phẩm Đất nước Việt Nam qua các đời (1964) đã xác lập, phân định lãnh thổ và từng khu vực, bàn về quá trình diên cách, thay đổi địa danh trong lịch sử… Người đầu tiên nghiên cứu địa danh dưới góc độ ngôn ngữ học là Hoàng Thị Châu với bài Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông (1964). Hai tác giả Trần Thanh Tâm trong bài Thử bàn về địa danh Việt Nam (1976) và Nguyễn Văn Âu trong Một số vấn đề về địa danh học ở Việt Nam (2000) đã nêu một số vấn đề cơ bản về địa danh và địa danh học Việt Nam. Ngoài những công trình trên, còn có thể kể đến những tác phẩm có liên quan đến địa danh học như Đinh Văn Nhật với Phương pháp vận dụng địa danh học trong nghiên cứu địa lý học, lịch sử cổ đại Việt Nam (1984); Sự hình thành và diễn biến của các tên làng người Việt cho đến năm 1945 (1987) của Bùi Thiết; Nguyễn Quang Ân với Việt Nam, những thay đổi địa danh và địa giới các đơn vị hành chính 1945-1997 (1997)… Nổi cộm nhất trong giai đoạn hình thành là sự xuất hiện của những luận án nghiên cứu địa danh học ở Việt Nam xuất phát từ bình diện ngôn ngữ học và sự ra đời của nhiều từ điển địa danh. Với luận án Phó Tiến sĩ Những đặc điểm chính của địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh (1990) và sau đó in thành sách Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (địa danh thành phố Hồ Chí Minh) (1991), tác giả Lê Trung Hoa đã trình bày khá hệ thống những vấn đề về địa danh mang tính thiết thực bao gồm định nghĩa địa danh, nguyên tắc, phân loại địa danh, phương thức đặt địa danh, cấu tạo địa danh, ý nghĩa và nguồn gốc địa danh, giá trị phản ánh hiện thực. Tác giả Nguyễn Kiên Trường đã vận dụng những lý luận cơ bản của địa danh học hiện đại để hoàn thành luận án Phó Tiến sĩ Những đặc điểm chính của địa danh Hải Phòng (sơ bộ so sánh với một số vùng khác) (1996). Luận án đưa ra cách phân loại địa danh theo chức năng giao tiếp và hệ quy chiếu đồng đại - lịch đại, một nét mới trong nghiên cứu địa danh. Ngoài hai luận án trên, Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường còn có hàng loạt bài viết trình bày cụ thể về địa danh của một số địa phương khác hay những khía cạnh khác trong nghiên cứu địa danh. Chẳng hạn như Lê Trung Hoa với Tìm hiểu ý nghĩa và nguồn gốc một số thành tố chung trong địa danh Nam Bộ (1983), Tìm hiểu ý nghĩa và nguồn gốc chung “Cái” trong địa danh Nam Bộ (1988), Địa danh bằng chữ và địa danh bằng số (1999), Chung quanh thuật ngữ “địa danh” (2000), Nghĩ về công việc của người nghiên cứu địa danh và biên soạn từ điển địa danh (2000), Những nguyên nhân làm thay đổi và sai lệch một số địa danh Việt Nam trong tiếng dân tộc (2002), Địa danh hành chính ở Việt Nam (2002), Địa danh học Việt Nam (2006)… Một số bài viết của Nguyễn Kiên Trường đó là Vài suy nghĩ về việc khảo sát hệ thống tên riêng địa lý ở Việt Nam (1993), Tìm hiểu về địa danh học (1994), Thử tìm hiểu sự bảo lưu tên Nôm làng xã dưới góc độ ngôn ngữ và văn hóa (1994), Vài vấn đề liên quan đến công tác thống nhất hóa cách ghi địa danh ở Việt Nam (1995), Địa danh biên giới Tây nam và những dữ liệu cơ bản để nghiên cứu, hoạch định, xây dựng đường biên (1996)… Gần đây là hai luận án tiến sĩ của Từ Thu Mai Nghiên cứu địa danh Quảng Trị (2003) và Những đặc điểm chính của địa danh Dak Lăk (2005) của Trần Văn Dũng; cùng với hai luận văn thạc sĩ: Văn hóa qua địa danh Việt ở tỉnh Đồng Nai (2006) của Võ Nữ Hạnh Trang, và Những đặc điểm chính của địa danh ở Vĩnh Long (sơ bộ có so sánh với địa danh một số vùng khác) (2008) của Nguyễn Tấn Anh. Bên cạnh đó là bốn cuốn từ điển địa danh đáng chú ý: Sổ tay địa danh Việt Nam (1995) của Đinh Xuân Vịnh, Sổ tay địa danh Việt Nam (1998) của Nguyễn Dược - Trung Hải, Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng (1998) do Ngô Đăng Lợi chủ biên và Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh (2003) do Lê Trung Hoa chủ biên. Như vậy, tính đến thời điểm hiện nay, các công trình về địa danh học ở nước ta đã xác lập được cơ sở lý luận, cũng như đối tượng và phương pháp nghiên cứu địa danh. 2.2. Nghiên cứu địa danh ở Đồng Nai Nhìn chung, các công trình viết về những địa danh ở Đồng Nai không nhiều. Một số công trình thiên về việc giải thích những địa danh như cù lao Phố, Đồng Nai… Những địa danh khác cũng được nhắc đến nhưng còn sơ sài. Có thể kể ra một số tác phẩm sau đây: Cuốn sách xưa nhất đề cập đến địa danh ở Đồng Nai là Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn. Tác giả đã đồng nhất đất Đồng Nai với cả vùng Nam Bộ. Tác phẩm thứ hai là Gia Định thành thông chí (1820) của Trịnh Hoài Đức đã giải thích nguồn gốc địa danh núi Nữ Tăng (tục danh núi Thị Vãi ở Long Thành) và Đại phố Châu (tục danh cù lao Phố ở Biên Hòa). Năm 1875, Trương Vĩnh Ký trong Petit cours de géographie de la Basse Cochinchine (Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ) giới thiệu một số khái niệm lịch sử về Nam Kỳ xưa. Trong đó, tác giả hệ thống hóa địa lý hành chính Nam Kỳ vào thế kỷ XIX và đưa ra bảng so sánh giữa tục danh và tên chữ Hán của tỉnh Biên Hòa qua các địa danh về hải khẩu, sông rạch, cù lao và núi non bên cạnh những tỉnh khác. Đại Nam nhất thống chí (biên soạn xong năm 1882) của Quốc sử quán triều Nguyễn cũng nhắc đến và giải thích một số địa danh của tỉnh Biên Hòa như tên núi (núi Đất, núi Đỏ, núi Kí Sơn…), tên sông (sông Phước Long, sông Bối Diệp, sông Thất Kỳ…), tên chợ (chợ Lộc Dã, chợ Bình Thảo, chợ Thiết Tượng…), tên cầu (cầu Vạc, cầu Tân Bản, cầu Ván…). Còn Nguyễn Siêu trong Phương Đình dư địa chí (1960) nêu lý giải mới về Biên Hòa. Lương Văn Lựu qua tác phẩm Biên Hòa sử lược toàn biên (1960 - 1972) gồm 5 tập đã giới thiệu một cách khái quát lịch sử, địa lý, nhân vật ở tỉnh Đồng Nai từ trước đến nay, trong đó tác giả có đưa ra và giải thích một số địa danh ở Đồng Nai. Trong Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Biên Hòa (Đồng Nai, Sông Bé, Bà Rịa, Vũng Tàu) (1994), Nguyễn Đình Đầu trình bày những thay đổi về địa danh hành chính của tỉnh Đồng Nai (khi ấy còn gọi là trấn Biên Hòa, rồi đến tỉnh Biên Hòa) từ năm 1808 đến năm 1994. Tác giả đã thống kê những địa danh làng bắt đầu bằng những chữ như An, Bình, Chánh, Hưng, Long… và giải thích ý nghĩa của chúng. Tại cuộc hội thảo “Biên Hòa 300 năm” (6/1997), hai tác giả Đỗ Quyên với bài viết Danh xưng Đồng Nai trong Miền Đông Nam Bộ lịch sử và phát triển và Lê Trung Hoa trong tham luận Nguồn gốc, ý nghĩa và quá trình phát triển của địa danh Đồng Nai đã giải thích về xuất xứ và nguồn gốc của địa danh Đồng Nai khá thuyết phục. Vương Hồng Sển trong Tự vị tiếng Việt miền Nam (1993) nói đến khá nhiều địa danh xưa ở Đồng Nai như núi Lò Thổi, rạch Nước Lộn, suối Đồng Heo… và giải thích một số tên gọi như rạch Đông, rạch Bà Ký, cù lao Phố… Một số công trình khác đề cập đến những địa danh ở Đồng Nai như Huỳnh Ngọc Trảng với bài vè Các đường sông lục tỉnh (1998), Bùi Đức Tịnh với Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ (1999)… Gần đây là cuốn Truyện kể về đất nước và con người Đồng Nai (1996) của Nguyễn Yên Tri, Nhớ Biên Hòa (2005) của Khôi Vũ, Biên Hòa sử lược diễn ca (2005) của Đinh Quang Dữa… Ngoài những công trình kể trên, còn có một số bài báo, hay sách địa chí cũng đề cập đến địa danh ở Đồng Nai và một vài địa danh khác. Như vậy, cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về khía cạnh ngôn ngữ của địa danh tỉnh Đồng Nai. Hiện tại chỉ có công trình nghiên cứu địa danh ở Đồng Nai về mặt văn hóa của tác giả Võ Nữ Hạnh Trang (luận văn Thạc sĩ, 2006). Vì vậy, nghiên cứu địa danh tỉnh Đồng Nai về mặt ngôn ngữ hiện nay là điều cần thiết phải làm. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ hệ thống địa danh tỉnh Đồng Nai. Luận văn sẽ tập trung khảo sát tên gọi các đối tượng địa lý tồn tại trên địa bàn. Cụ thể đó là địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên hay còn gọi là địa danh chỉ địa hình (núi, đồi, gò, sông, rạch…), địa danh chỉ các công trình xây dựng (cầu, đường, bến phà, bến đò, chợ…), địa danh hành chính (thành phố, thị trấn, thị xã, phường, xã, ấp…), địa danh vùng (khu công nghiệp, giáo xứ…). Về phạm vi nghiên cứu, luận văn chủ yếu mô tả, khảo sát những địa danh về mặt ngôn ngữ trên diện đồng đại và bước đầu tìm hiểu về một số nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh thuộc vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn Đồng Nai. 4. Mục đích nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi tập trung tìm hiểu về phương thức đặt địa danh, phương thức cấu tạo, những chuyển biến về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, cũng như một số nguồn gốc, ý nghĩa của địa danh tỉnh Đồng Nai. Nội dung được trình bày một mặt mô tả những địa danh thuần Việt, Hán Việt, địa danh dân tộc thiểu số và ngoại lai nhằm minh họa thêm một số vấn đề có tính chất lý luận về địa danh học; một mặt làm sáng rõ những giá trị phản ánh hiện thực của địa danh. Qua đó, thấy được mối quan hệ giữa địa danh học với các ngành khoa học khác như địa lý học, khảo cổ học, văn hóa học, nhân chủng học, xã hội học, dân tộc học… 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp thu thập và xử lý tư liệu Thu thập tư liệu là công việc đầu tiên của người nghiên cứu địa danh. Tư liệu chúng tôi thu thập được bao gồm nhiều nguồn tư liệu khác nhau. 5.1.1. Tư liệu lưu trữ hành chính từ trước đến nay của các tỉnh, thành phố, huyện, xã, ấp… Tư liệu này tồn tại dưới dạng các công báo, niên giám, tác phẩm, hoặc có thể là văn bản đánh máy, viết tay của các viên chức địa phương còn lưu trữ lại. Những tư liệu này có tính pháp lý, tính chính xác cao, có thể cho biết sự ra đời, biến đổi hoặc mất đi của các địa danh, nhất là địa danh hành chính. 5.1.2. Bản đồ các loại về địa hình, hành chính, kinh tế, quân sự… của tỉnh Đồng Nai và các huyện thị trong tỉnh là tư liệu quý giúp cho việc xác định tọa độ, vị trí, địa điểm của từng địa danh. Qua việc khảo sát bản đồ, chúng tôi phát hiện được những loại địa danh nào xuất hiện nhiều ở địa bàn nào, từ đó xác định nguồn gốc, ý nghĩa của từng nhóm địa danh đó. Việc đối chiếu các bản đồ qua từng thời điểm khác nhau có thể giúp xác định được sự ra đời, chuyển biến của các địa danh về mặt ngữ âm hay ngữ nghĩa. Có những địa danh cũ mất đi và có những địa danh mới xuất hiện. 5.1.3. Các báo địa phương, sách địa phương chí về địa bàn, các bài báo viết về địa phương, một số tác phẩm văn học viết về địa phương… giúp người nghiên cứu địa danh đỡ mất thì giờ trong việc tìm hiểu địa danh. Đây là những tư liệu do chính người địa phương viết hay người am hiểu về địa phương thực hiện. 5.1.4. Các sách lý luận về địa danh học và ngôn ngữ học cũng như nguồn tư liệu từ các loại từ điển khác nhau rất cần thiết cho việc nghiên cứu địa danh. Sách viết về ngôn ngữ học và địa danh học ở trong và ngoài nước là những nguồn tư liệu cơ bản, cần thiết để giúp người nghiên cứu xác định đúng hướng và ít tốn thời gian trong công việc của mình. Còn các từ điển viết về địa danh, từ điển từ cổ, từ điển phương ngữ… giúp xác định được thời điểm và thời gian ra đời của các địa danh. 5.1.5. Tư liệu điền dã được người nghiên cứu quan sát, thu thập, ghi chép và chọn lọc trong quá trình đi thực tế. Những tư liệu này phục vụ cho việc lập bảng thống kê, phân loại từng nhóm địa danh và giúp giải thích nguồn gốc, ý nghĩa, thời điểm ra đời cũng như những biến đổi của địa danh một cách chính xác. 5.2. Phương pháp thống kê, phân loại, miêu tả Đây là phương pháp bắt buộc phải có khi bắt tay vào nghiên cứu địa danh và cũng là phương pháp chủ yếu được vận dụng trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Dựa vào nguồn tư liệu đã được thu thập, chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại và miêu tả các địa danh để thấy rõ số lượng từng loại. Từ đó, có thể rút ra đặc điểm riêng của từng loại và đặc điểm chung của địa danh toàn vùng. Chẳng hạn sau khi thống kê, phân loại, chúng tôi chia địa danh thành các loại như địa danh chỉ địa hình, địa danh chỉ công trình xây dựng, địa danh hành chính, địa danh thuần Việt, địa danh Hán Việt… Trên kết quả phân loại, tiếp theo người nghiên cứu sẽ miêu tả những phương thức định danh, cách cấu tạo địa danh, những chuyển biến của nó. 5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu 5.3.1. So sánh, đối chiếu đồng đại Phương pháp so sánh đối chiếu đồng đại là phương pháp tìm ra những nét tương đồng và dị biệt của địa danh vùng này so với địa danh vùng khác. Chẳng hạn, nếu như ở Vĩnh Long, yếu tố Cái xuất hiện nhiều trong địa danh thì ở Đồng Nai rất khó tìm thấy địa danh mang yếu tố này (ngoại trừ hai di tích Cái Lăng và Cái Vạn thuộc huyện Long Thành). Hoặc do sự khác biệt về địa lý mà Hải Phòng có nhiều đối tượng địa lý ở vùng biển và ven biển (như biển, bãi biển, cửa biển, đá ngầm, cát, bán đảo…) nhưng lại có ít từ chỉ sông nước. Còn ở Đồng Nai, sông rạch là chủ yếu, điển hình là con sông Đồng Nai lớn nhất tỉnh và vì vậy mà cũng có nhiều từ chỉ sông nước hơn so với Hải Phòng (như sông, rạch, bàu, vàm, lòng tắt, hóc, tắt…). 5.3.2. So sánh, đối chiếu lịch đại Sử dụng phương pháp này để xác định nguồn gốc và ý nghĩa ban đầu của địa danh, tức là quan tâm đến mặt ngữ âm của tiếng Việt và quy luật biến đổi của nó trong lịch sử. Tuy nhiên, ở phương pháp này, chúng tôi chỉ chú ý đối với một số đối tượng nhất định nếu có cứ liệu cụ thể. Địa danh vốn mang trong mình nhiều mặt khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử, xã hội… vì vậy, nghiên cứu địa danh cần áp dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, liên ngành, đa ngành. Có như vậy, kết quả nghiên cứu mới đầy đủ, rõ ràng và mang tính khoa học hơn. 6. Bố cục của luận văn Luận văn chia làm ba phần. Ngoài phần dẫn luận và phần kết luận, phần chính của luận văn có bốn chương: Chương 1: Những tiền đề lý luận và thực tiễn Chương 2: Cấu tạo địa danh tỉnh Đồng Nai Chương 3: Đặc điểm về mặt chuyển biến Chương 4: Nguồn gốc - ý nghĩa của một số địa danh ở Đồng Nai và giá trị phản ánh hiện thực. Chương 1 NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Những tiền đề lý luận 1.1.1. Định nghĩa Theo tác giả An Chi thì Toponymie là một danh từ của tiếng Pháp hiện đại, có nghĩa là địa danh học. Đây là một từ phái sinh bằng hậu tố “-ie” từ danh từ toponyme, có nghĩa là địa danh. Toponyme gồm hai hình vị căn tố (top(o) và onyme) bắt nguồn từ hai danh từ Hy Lạp cổ là topos (có nghĩa là nơi chốn) và onoma (có nghĩa là tên) [20, tr.47-48]. Vậy địa danh là gì? Có phải nó chỉ đơn giản được hiểu là tên nơi chốn, hay tên các đối tượng địa lý hoặc tên đất? Thực tế, vấn đề định nghĩa địa danh cho đến nay vẫn còn nhiều bàn cãi, không thống nhất, mỗi nhà nghiên cứu đều tùy theo phương pháp tiếp cận mà đưa ra những định nghĩa khác nhau. Dưới đây là một vài định nghĩa về địa danh của các tác giả trong và ngoài nước. “Địa danh là tên gọi các địa điểm được biểu thị bằng những từ riêng. Đó là các tên gọi địa lý, địa danh hay toponymia” [98, tr.1]. Đây là định nghĩa của A. V. Superanskaja. Bà giải thích “Những địa điểm, mục tiêu địa lý đó là những vật thể tự nhiên hay nhân tạo với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất, từ những vật thể lớn nhất (các lục địa và đại dương) cho đến những vật thể nhỏ nhất (những ngôi nhà, vườn cây đứng riêng rẽ) đều có tên gọi” [98, tr.13]. Theo G. M. Kert thì: “Địa danh là tên gọi được đặt cho các đối tượng địa lý, ra đời trong một khu vực có người sinh sống, được tạo ra bởi một cộng đồng dân cư, một tộc người. Chúng là một phần không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày và các hoạt động chính trị - xã hội ở nơi đó” (cf. Nguyễn Tấn Anh) [4, tr.16]. Tác giả cuốn [104, tr.11] cho rằng: “Địa danh của một vùng hay của một nước là tổng thể các tên riêng đặt ra để gọi các đơn vị địa lý tự nhiên hay nhân văn của vùng ấy hay nước ấy”. Nhìn chung, các tác giả nước ngoài chỉ mô tả một cách khái quát địa danh và xem địa danh là tên gọi các đối tượng địa lý. Còn ở nước ta, một số nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra định nghĩa về địa danh theo cách hiểu của mình. Chẳng hạn như tác giả Nguyễn Văn Âu tiếp cận địa danh theo góc độ địa lý - văn hóa và quan niệm: “Địa danh học (toponymie) là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về tên địa lý các địa phương” [6, tr.5], “Địa danh là tên đất, gồm tên sông, núi, làng mạc… hay là tên các địa phương, các dân tộc” [5, tr.5]. Tác giả Bùi Đức Tịnh cho rằng: “Địa danh là một danh từ có nghĩa tổng quát để chỉ tên gọi các loại vật thể tự nhiên được phân biệt về phương diện địa lý, các vị trí cần phân biệt trong sinh hoạt xã hội và các đơn vị được xác định trong tổ chức hành chính hay quân sự” [110, tr.10]. Tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ học có các tác giả sau: Hoàng Thị Châu định nghĩa: “Địa danh hay là tên địa lý (toponym, geographical name) là tên vùng, tên sông, tên núi, là tên gọi các đối tượng địa hình khác nhau, tên nơi cư trú, tên hành chính,… được con người đặt ra” [139]. Tác giả Lê Trung Hoa sau khi phân loại địa danh theo các đối tượng địa lý (theo tiêu chí tự nhiên và không tự nhiên) và theo nguồn gốc ngữ nguyên của địa danh, đã đưa ra định nghĩa như sau: “Địa danh là những từ hoặc ngữ, được dùng làm tên riêng của các địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chánh, các vùng lãnh thổ và các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều. Trước địa danh ta có thể đặt một danh từ chung chỉ tiểu loại địa danh đó: sông Hương, huyện Mộ Đức (Quảng Ngãi), vùng Ba Vì, thành phố Cần Thơ, đường Nguyễn Du…” [53, tr.18]. Trong luận án Phó Tiến sĩ khoa học ngữ văn năm 1996, Nguyễn Kiên Trường viết: “Địa danh là tên riêng chỉ các đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” [122, tr.16]. Từ Thu Mai hiểu địa danh theo cách hiểu của A. V. Superanskaja: Địa danh là những từ ngữ chỉ tên riêng của các đối tượng địa lý có vị trí xác định trên bề mặt trái đất. Mặc dù nằm trong hệ thống những loại hình khác nhau nhưng các đối tượng địa lý bao giờ cũng xuất hiện trong thực tế với những cá thể độc lập [72, tr.19]. Trần Văn Dũng quan niệm: “Địa danh là tên gọi những đối tượng địa lý tự nhiên và địa lý do con người kiến tạo” và “Các đối tượng do con người kiến tạo (có thể gọi là địa lý nhân văn) bao gồm: địa lý nơi cư trú, địa lý chỉ các công trình xây dựng” [30, tr.15]. Hoàng Tất Thắng với bài Địa danh học và việc nghiên cứu địa danh các tỉnh Trung Trung Bộ, tác giả cho rằng: “Địa danh là tên gọi của địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ nào đó” [143]. Trong một số từ điển của nước ta, các tác giả thường giải thích địa danh theo lối chiết tự có nghĩa là tên đất. Như Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh cho rằng địa danh là “tên các miền đất (nom de terre)” [2, tr.268]. Hoàng Phê trong Từ điển tiếng Việt cũng định nghĩa: “Địa danh là tên đất, tên địa phương” [85, tr.314]. Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích: “Địa danh là tên gọi các lãnh thổ, các điểm quần cư (làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố), các điểm kinh tế (vùng nông thôn, khu công nghiệp), các quốc gia, các châu lục, các núi, đèo, cao nguyên, thung lũng, đồng bằng, châu thổ, sông, hồ, vũng, vịnh, biển, eo biển, đại dương có tọa độ địa lý nhất định ghi lại trên bản đồ. Địa danh có thể phản ánh quá trình hình thành, đặc điểm của các yếu tố địa lý tự nhiên và lịch sử với những nét đặc sắc về kinh tế, xã hội của các lãnh thổ” [127, tr.780]. Rõ ràng, mỗi tác giả đều có cách hiểu, cách lý giải khác nhau về khái niệm địa danh. Tuy nhiên, điều đầu tiên có thể thấy là khái niệm địa danh nếu chỉ hiểu theo cách lý giải như trong Hán Việt từ điển hay Từ điển tiếng Việt thì quá đơn giản. Địa danh không chỉ là tên gọi của các đối tượng địa lý, dùng riêng cho tên đất mà còn là tên gọi của các đối tượng chỉ địa hình thiên nhiên, công trình xây dựng, các vùng lãnh thổ… Còn định nghĩa theo như Từ điển bách khoa Việt Nam lại không có tính khái quát, tuy dài nhưng lại thiếu. Chẳng hạn thiếu tên các đơn vị hành chính như quận, thôn, ấp…, tên các khu kinh tế như khu thương mại, khu du lịch…, tên các công trình xây dựng như cầu, đường, công viên… Nguyễn Văn Âu thì chỉ quan tâm đến các đối tượng tự nhiên. Thực ra, trong địa danh, bên cạnh các đối tượng tự nhiên còn có các đối tượng nhân tạo chiếm một tỉ lệ khá lớn. Cách giải thích của Hoàng Thị Châu lại quá thiên về chức năng định danh trong ngôn ngữ. Định nghĩa của hai tác giả Trần Văn Dũng và Từ Thu Mai có nhiều nét tương đồng với Nguyễn Kiên Trường. Địa danh rất gần gũi với con người, do con người đặt ra, như vậy có địa danh chỉ các đối tượng địa lý tự nhiên và nhân tạo. Ở đây, chúng tôi không đưa ra một định nghĩa riêng về địa danh mà chấp nhận định nghĩa theo tiêu chí loại hình của tác giả Lê Trung Hoa. 1.1.2. Đối tượng nghiên cứu của địa danh học Địa danh học là một ngành của ngôn ngữ học, chuyên nghiên cứu ý nghĩa, nguồn gốc và những biến đổi của địa danh. Bên cạnh đó, nghiên cứu địa danh học còn cần phải chỉ ra được các phương thức đặt địa danh và phân tích cách cấu tạo địa danh, phát hiện những nguyên nhân chi phối sự ra đời, hành chức và tiêu vong của địa danh. Như vậy, đối tượng của địa danh học chính là địa danh. Như đã trình bày ở trên, địa danh bao gồm các đối tượng tự nhiên và các đối tượng nhân tạo. Tuy nhiên, có một điểm cần lưu ý là đối với những tên đình, chùa, miếu, miễu, nhà thờ, nhà hát, công ty, trường học, cơ quan, viện, khách sạn… chúng ta có nên xem là địa danh hay không? Một số tác giả cho là có (như các tác giả trong Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng, Từ điển Hà Nội - Địa danh) nhưng phần lớn, nhiều nhà nghiên cứu lại không đồng tình với quan điểm này. Thực ra, ngành từ vựng học có một ngành nhỏ là danh xưng học (onomasiologie) chuyên nghiên cứu tên riêng chia ra ba nhánh nhỏ là nhân danh học, hiệu danh học và địa danh học. Trong đó, nhân danh học chuyên nghiên cứu tên riêng của con người gồm họ, tên chính, tên đệm, tự, hiệu, bút danh… Còn hiệu danh học chuyên nghiên cứu tên các thiên thể, nhãn hiệu, biển hiệu, tổ chức… Địa danh học cũng nghiên cứu tên riêng nhưng liên quan đến một vùng lãnh thổ nhất định và có tính bền vững. Như đã nói ở trên, địa danh học chuyên nghiên cứu về nguồn gốc, ý nghĩa và những chuyển biến của địa danh; tức là lấy những từ, ngữ được dùng để đặt tên riêng của địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chính, các công trình xây dựng, các vùng lãnh thổ về không gian hai chiều làm đối tượng nghiên cứu. Điều này có nghĩa là giữa địa danh học và hiệu danh học có đối tượng nghiên cứu khác nhau. Vì vậy, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả Lê Trung Hoa rằng “Tên các công trình thiên về không gian hai chiều là địa danh (như tên cầu, đường, công viên..), còn tên các công trình thiên về không gian ba chiều (như tên chùa, nhà thờ, trường học, cơ quan…) là hiệu danh” [47, tr.14-15]. 1.1.3. Phân loại địa danh Để có thể giúp cho việc nghiên cứu địa danh diễn ra thuận lợi và đạt kết quả cao, người ta thường tiến hành phân loại địa danh thành các kiểu, nhóm khác nhau. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề phức tạp mà cho đến nay vẫn chưa có được một cách phân loại thống nhất giữa các nhà nghiên cứu địa danh. Các nhà nghiên cứu địa danh học phương Tây và Xô Viết thường phân loại địa danh dựa trên hai tiêu chí ngữ nguyên và đối tượng. Theo tài liệu của tác giả Lê Trung Hoa cung cấp [53, tr.9-11], thì hai nhà địa danh học người Pháp là A. Dauzat và Charles Rostaing không phân loại địa danh một cách cụ thể nhưng các tác giả đều chia địa danh thành nhiều loại dựa vào tiêu chí ngữ nguyên. A. Dauzat trong cuốn La toponymie francaise đã chia địa danh làm bốn phần: 1. Vấn đề những cơ sở tiền Ấn - Âu; 2. Các danh từ tiền La tinh về nước trong thủy danh học; 3. Các từ nguyên Gô-loa - La Mã của vùng Auvergne và Vel._.ay. Còn Charles Rostaing trong cuốn Les noms de lieux ngoài việc dựa vào ngữ nguyên ông còn kết hợp với đối tượng địa lý để chia địa danh ra làm 11 loại: 1. Những cơ sở tiền Ấn - Âu; 2. Các lớp tiền Xên-tích; 3. Lớp Gô-loa; 4. Những phạm vi Gô-loa - La Mã; 5. Các sự hình thành La Mã; 6. Những đóng góp của tiếng Giéc - manh; 7. Các hình thức của thời phong kiến; 8. Những danh từ có nguồn gốc tôn giáo; 9. Những hình thái hiện đại; 10. Các địa danh và tên đường phố; 11. Tên sông và núi. Hai tác giả G. P. Smolicnaja và M. V. Gorbanevskij trong cuốn Toponimija Moskvy chia địa danh làm bốn loại: 1. Phương danh (tên các địa phương); 2. Sơn danh (tên núi, đồi, gò…); 3. Thủy danh (tên các dòng chảy, ao, vũng…); 4. Phố danh (tên các đối tượng trong thành phố). Trong khi đó, A. V. Superanskaja với Chto takoe toponimika? lại chia địa danh thành bảy loại: 1. Phương danh; 2. Thủy danh; 3. Sơn danh; 4. Phố danh; 5. Viên danh (tên các quảng trường); 6. Lộ danh (tên các đường phố); 7. Đạo danh (tên các đường giao thông trên đất, dưới đất, trên nước, trên không). Như vậy, nhóm các tác giả Xô-viết này đã chia địa danh dựa vào tiêu chí đối tượng mà địa danh biểu thị. Nhìn chung cách phân loại địa danh của các tác giả nước ngoài vẫn còn thiếu tính khái quát, chưa xác định rõ ràng tiêu chí phân loại. Ở Việt Nam, Đặng Xuân Bảng (1828 - 1910) là người đã đề cập đến vấn đề phân loại địa danh từ rất sớm qua cuốn Sử học bị khảo, phần Địa lý khảo. Sau đó, tác giả Hoàng Thị Châu trong bài viết Về việc tìm sử liệu trong ngôn ngữ dân tộc [16, tr.44-47] cũng nói đến việc phân loại địa danh thành hai hệ thống là tiểu địa danh (gồm: tên thôn xóm, gò đồi, khe suối, đầm hồ…) và đại địa danh (gồm: tên lục địa, đại dương, nước, vùng, thủ đô, thành phố, sông, biển…). Năm 1976, Trần Thanh Tâm trong Thử bàn về địa danh Việt Nam [99, tr.60- 73] đã chia địa danh Việt Nam thành sáu loại: 1. Loại đặt theo địa hình và đặc điểm; 2. Loại đặt theo vị trí không gian và thời gian; 3. Loại đặt theo tín ngưỡng, tôn giáo, lịch sử; 4. Loại đặt theo hình thái, đất đai, khí hậu; 5. Loại đặt theo đặc sản, nghề nghiệp và tổ chức kinh tế; 6. Loại đặt theo sinh hoạt xã hội. Tiếp theo là hai cuốn Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh [50, tr.24-27] và Địa danh học Việt Nam [53, tr.15-16] của Lê Trung Hoa. Dựa vào hai tiêu chí tự nhiên/không tự nhiên (tức là theo đối tượng) và tiêu chí ngữ nguyên, tác giả đã phân địa danh thành những loại sau: Theo đối tượng gồm có: 1. Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên (còn gọi là địa danh chỉ địa hình); 2. Địa danh chỉ các đối tượng nhân tạo gồm có ba loại: địa danh chỉ các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều, địa danh hành chính và địa danh vùng (không có ranh giới rõ ràng). Theo ngữ nguyên gồm có: 1. Địa danh thuần Việt; 2. Địa danh Hán Việt; 3. Địa danh bằng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số (Chăm, Khmer, Ba Na, Ê Đê, Gia Rai, Tày, Thái, Mường…); 4. Địa danh ngoại ngữ (chủ yếu là địa danh gốc Pháp, ngoài ra còn có gốc Indonesia, Malaysia). Nguyễn Văn Âu [5], [6] phân địa danh theo ba cấp: loại, kiểu và dạng. Trong đó, có 2 loại (tự nhiên và kinh tế - xã hội), 7 kiểu (thủy danh, sơn danh, lâm danh, làng xã, huyện thị, tỉnh, thành phố và quốc gia) và 12 dạng (sông ngòi; hồ đầm; đồi núi; hải đảo; rừng rú; truông, trảng; làng, xã; huyện, quận; thị trấn; tỉnh; thành phố và quốc gia). Tác giả Nguyễn Kiên Trường phân loại địa danh Hải Phòng dựa vào ba tiêu chí. Tiêu chí loại hình gồm nhóm địa danh chỉ đối tượng địa lý tự nhiên và nhóm địa danh chỉ đối tượng địa lý nhân văn (gồm các tiểu nhóm: 1. nhóm địa danh cư trú - hành chính và các địa danh gắn với hoạt động của con người, do con người tạo nên; 2. nhóm địa danh đường phố và địa danh chỉ công trình xây dựng). Theo tiêu chí nguồn gốc ngữ nguyên, tác giả chia địa danh thành các tiểu loại có nguồn gốc khác nhau: nguồn gốc Hán Việt, nguồn gốc thuần Việt, nguồn gốc từ tiếng Pháp, nguồn gốc từ phương ngữ Quảng Đông, nguồn gốc khác như Tày - Thái, Việt - Mường…, nguồn gốc hỗn hợp và địa danh chưa xác định được nguồn gốc. Ngoài ra, tác giả còn bổ sung thêm tiêu chí thứ ba là chức năng giao tiếp (biệt xưng, tự xưng, giản xưng, tục xưng…) và theo hệ quy chiếu đồng đại - lịch đại (cổ, cũ, hiện nay) [122, tr.41-50]. Tiếp thu ý kiến của những người đi trước, tác giả Trần Văn Dũng chia địa danh Dak Lăk thành hai nhóm lớn: nhóm địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên và nhóm địa danh chỉ các đối tượng do con người kiến tạo (gồm hai loại nhỏ là địa danh chỉ đối tượng nơi cư trú và địa danh chỉ các công trình xây dựng). Theo ngữ nguyên, tác giả chia địa danh làm năm loại: 1. Loại địa danh gốc bản địa (đặt theo cách và tiếng của các dân tộc thiểu số tại chỗ - các cư dân sống lâu đời trên địa bàn); 2. Loại địa danh thuần Việt; 3. Loại địa danh Hán - Việt; 4. Loại địa danh gốc khác; 5. Loại địa danh chưa xác định được nguồn gốc. Ngoài ra, xét về mặt ý nghĩa, tác giả còn phân địa danh thành hai loại: loại địa danh có ý nghĩa rõ ràng và địa danh mang tính võ đoán hoặc còn ý kiến bàn luận [30, tr.21-22]. Có thể thấy, cách phân loại của Hoàng Thị Châu và Trần Thanh Tâm chưa mang tính cụ thể, rõ ràng, nhất là giữa phương thức đặt địa danh và cách phân loại. Còn Nguyễn Văn Âu dựa vào đặc điểm địa lý - xã hội để phân loại nhưng trùng lặp, rối rắm và thiếu tính lôgic. Trần Văn Dũng cho rằng các tổ chức cơ sở dưới phường, xã, thị trấn như buôn, ấp đều không phải là đơn vị hành chính, vì vậy, tác giả không dùng tiêu đề địa danh hành chính trong khi phân loại. Hơn nữa, tên gọi và cách đặt tên gọi các điểm dân cư (dù là đơn vị hành chính hay không, dù là tên dân gian hay tên do chính quyền đặt) đều có những đặc điểm cơ bản giống nhau. Thật ra, giữa địa danh do dân gian đặt và các địa danh ghi trong văn bản nhà nước có điểm khác nhau. Địa danh do dân gian đặt không xác định được ranh giới, diện tích và dân số. Ngược lại, địa danh do chính quyền trung ương hay địa phương đặt có ranh giới rõ ràng, có thể xác định được diện tích, dân số. Cách phân loại địa danh của Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường có nhiều điểm đáng lưu ý, mang tính hợp lý, có tiêu chí rõ ràng có thể áp dụng cho mọi vùng địa danh. Dựa vào hai tác giả này, chúng tôi phân loại địa danh Đồng Nai theo hai tiêu chí sau: Theo đối tượng, dựa vào tiêu chí tự nhiên/không tự nhiên, có hai nhóm địa danh: 1. Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên (địa danh chỉ địa hình); 2. Địa danh chỉ các đối tượng nhân tạo. Ở nhóm thứ hai này, chúng tôi lại chia thành ba loại nhỏ hơn là địa danh chỉ các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều (địa danh chỉ công trình xây dựng); địa danh chỉ các vùng lãnh thổ không có ranh giới rõ ràng (địa danh vùng) và địa danh chỉ các đơn vị hành chính (địa danh hành chính). Theo ngữ nguyên, chúng tôi chia địa danh thành hai loại lớn: Địa danh thuần Việt và địa danh không thuần Việt. Trong loại địa danh không thuần Việt, chúng tôi lại chia nhỏ thành các tiểu loại: 1. Địa danh có nguồn gốc Hán Việt; 2. Địa danh có nguồn gốc hỗn hợp; 3. Địa danh có nguồn gốc từ tiếng dân tộc thiểu số (như Chăm, Khmer, Chơro, S’tiêng…); 4. Địa danh có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài (như địa danh gốc Pháp, gốc Malaysia…); 5. Địa danh chưa xác định được nguồn gốc. Ngoài hai tiêu chí chính như trên, trong quá trình khảo cứu, chúng tôi cũng quan tâm đến những địa danh được dùng làm tên chính thức trong các văn bản hàng ngày và những địa danh dân gian (tên nôm) do nhân dân tự đặt. Những địa danh dân gian vốn trước đây không được thừa nhận trên văn bản nhưng lại được nhân dân sử dụng hàng ngày một cách không chính thức; càng về sau, những địa danh này lại càng giữ một vai trò quan trọng và trở thành chính thức. Cũng có thể phân loại địa danh theo tiêu chí cũ/mới: 1. Tên cổ, tên cũ; 2. Tên hiện nay. 1.2. Những tiền đề thực tiễn 1.2.1. Vài nét về lịch sử và địa giới hành chính tỉnh Đồng Nai 1.2.1.1. Lịch sử Nếu lấy thời điểm năm 1698, năm mà Chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào xây dựng thiết chế hành chánh ở vùng đất mới - vùng Đồng Nai làm cột mốc, thì tính đến nay, tỉnh Đồng Nai đã có số tuổi là 311 năm. Tuy nhiên, qua các di chỉ tìm được ở Hàng Gòn, Dốc Mơ, Dầu Giây, Cầu Sắt, Suối Linh, Bình Đa, Dốc Chùa, Cái Vạn… các nhà khảo cổ học và nhân chủng học đã xác minh dấu tích của con người cổ trên đất Đồng Nai xuất hiện cách đây hàng vạn năm. Từ hậu kỳ đồ đá mới, người Việt cổ từ miền gò đồi đã đi xuống chinh phục lưu vực sông Đồng Nai và tạo dựng nền văn minh Đồng Nai. Cũng giống như lịch sử khẩn hoang của người Việt ở Nam Bộ, vùng đất Đồng Nai chỉ mới thực sự được khai phá khoảng vài ba trăm năm gần đây bởi những lưu dân miền Thuận Quảng, Bắc Hà liều mình vượt biển tìm đất sống từ thế kỷ XVI. Nguyên do là các tập đoàn vua quan Lê - Mạc rồi các chúa Trịnh - Nguyễn vì quyền lợi ích kỷ của dòng họ đã gây ra nhiều trận đánh làm cho nhân dân khổ sở, điêu đứng. Bên cạnh đó là nạn quan lại tham nhũng, các địa chủ lớn nhỏ bóc lột người nông dân lao động quá mức nên nỗi khổ càng chồng chất. Vì vậy, vùng Đồng Nai khi ấy đã tiếp nhận một làn sóng di cư của người dân miền Thuận Quảng, Bắc Hà vào đất Đồng Nai sinh sống. Nơi đầu tiên mà các lưu dân này dừng chân là Mọi Xoài (Mô Xoài) ở Bà Rịa và tiếp theo là nhiều nhóm người ngược sông Đồng Nai đến khai phá vùng Long Thành, Bến Gỗ, Bình Đa, cù lao Phố, chợ Đồn… Năm 1679, nhà Minh ở Trung Quốc sụp đổ. Nhóm người Hoa gồm Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn, Trần Thượng Xuyên không khuất phục nhà Thanh đã đem 50 chiến thuyền, 3.000 binh lính thân tín và gia quyến đến xin thuần phục chúa Nguyễn ở Thuận Hóa. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã thu nhận họ và cho vào khai khẩn, mở mang vùng đất phương nam. Nhóm Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn đến Mỹ Tho (Tiền Giang). Nhóm người Hoa theo Trần Thượng Xuyên đầu tiên định cư và buôn bán ở Bến Gỗ (nay thuộc xã An Hòa, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai), nhưng sau xét thấy Đông Phố (còn gọi là Nông Nại Đại Phố, tức cù lao Phố ngày nay) có vị trí thuận lợi hơn cho việc buôn bán, nên ông đã quyết định di chuyển cả đoàn đến Đông Phố sinh sống. Như vậy, những lưu dân người Việt đã kề vai sát cánh cùng các bà con dân tộc bản địa Chơro, Mạ, S’tiêng và những người Hoa tị nạn biến vùng đất hoang trở thành vùng đất sống. Khi rừng hoang lùi dần, xóm làng ngày càng tăng thêm, thì tất yếu cần phải có một tổ chức chính quyền chặt chẽ để dễ bề cai trị, bảo đảm an ninh cho dân chúng. Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, tập 2, viết: “Năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai ông Nguyễn Hữu Kính làm kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố (Giản Phố) ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Đặt Trấn Biên dinh (tức Biên Hòa) và Phiên Trấn dinh (tức Gia Định) sai quan vào cai trị…” [64, tr.81]. Hai huyện Phước Long và Tân Bình đều thuộc phủ Gia Định. Mỗi huyện gồm một số tổng, mỗi tổng có nhiều xã hoặc làng. Mỗi đơn vị phủ, huyện, tổng, xã, làng đều cử người đứng đầu. Chúa Nguyễn còn cho những người có vật lực ở Ngũ Quảng chiêu mộ thêm người vào mở mang đất đai, đặt thôn làng, lân, ấp; chuẩn định thuế đinh điền; lúc ấy, dân số của Trấn Biên và Phiên Trấn hơn 40.000 hộ. Người Hoa ở Trấn Biên lập xã Thanh Hà, người Hoa ở Phiên Trấn lập xã Minh Hương. Như vậy, huyện Phước Long lúc bấy giờ rất rộng bao gồm các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương và một phần tỉnh Bình Phước ngày nay. Năm 1747, nhóm Hoa kiều Lý Văn Quang làm phản, tụ tập 300 người đánh cướp dinh Trấn Biên, giết Nguyễn Cư Cẩn; Cai cơ Tống Phước Đại đánh dẹp, bắt được Lý Văn Quang và đồng đảng 57 người, giải về Trung Quốc. Năm 1776, quân Tây Sơn đánh chiếm thành Gia Định, trấn giữ đất Đồng Nai. Trong hai năm 1782 và 1783, hai lần quân Tây Sơn đã đánh bại đoàn quân của Nguyễn Ánh ở cửa sông Cần Giờ và sông Lòng Tàu Tháng 9 năm 1787, châu Đại Phố (cù lao Phố) bị quân Tây Sơn chiếm đóng. Nhân Tây Sơn bận đối phó với chúa Trịnh phía Bắc, Nguyễn Ánh với sự giúp đỡ của Thiên Địa Hội (Trung Quốc) và súng đạn tàu đồng do Pigneaux de Béhaine cầu viện từ phương Tây, Nguyễn Ánh khôi phục lực lượng, chiếm lại Trấn Biên năm 1788; xây thành Bát quái ở Gia Định năm 1790; củng cố hệ thống phòng thủ, tích trữ lương thực, lập đồn điền cày cấy ở Đồng Môn, Bà Rịa. Đến năm 1792, Nguyễn Ánh hoàn toàn làm chủ đất Trấn Biên, Gia Định. Sau khi chấm dứt nhà Tây Sơn (1802), Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định, Trấn Biên dinh thành Biên Hòa trấn. Năm 1832 Lê Văn Duyệt mất. Nguyễn Văn Quế và bố chánh Bạch Xuân Nguyên vốn có hiềm thù, dựng vụ án Lê Văn Duyệt. Vua Minh Mạng cho xiềng mộ Lê Văn Duyệt, bãi bỏ chức tổng trấn, chia các trấn thành lục tỉnh. Tỉnh Biên Hòa có từ đây. Giận vì Lê Văn Duyệt bị ngược đãi, năm 1833 Lê Văn Khôi (con nuôi của Lê Văn Duyệt) tạo phản chiếm thành Phiên An; mãi đến năm 1835, Lê Văn Khôi bệnh mất, nhà Nguyễn mới dập tắt được cuộc binh biến, bắt giết cả thảy 1.831 người đem chôn chung gọi là mả ngụy. Hai lần Lê Văn Khôi đánh chiếm Biên Hòa. Như vậy, thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, dưới sự thống trị của triều đình nhà Nguyễn, nước Việt Nam, trong đó có vùng Đồng Nai trở thành một miếng mồi ngon cho thực dân Pháp đang rắp tâm chiếm đoạt. Ngày 25 tháng 2 năm 1861, đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị thương, rút về Biên Hòa. Ngày 18 tháng 12 năm 1861, giặc Pháp chiếm Biên Hòa. Mặc dù triều đình đã ký nhượng ba tỉnh miền Đông cho thực dân Pháp (Hòa ước Nhâm Tuất, 1862) nhưng ở Biên Hòa - Đồng Nai, các sĩ phu yêu nước vẫn lãnh đạo nhiều phong trào đấu tranh chống lại giặc Pháp dưới nhiều hình thức khác nhau. Như cuộc đấu tranh của “Bình Tây đại nguyên soái” Trương Định, nghĩa sĩ Đoàn Văn Cự xây dựng Bưng Kiệu thành căn cứ, chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang (1905), hay như Trại Lâm Trung - Biên Hòa, một tổ chức yêu nước có vũ trang đã mở cuộc tiến công đồng loạt vào các nhà làng, khám đường Biên Hòa, dinh chủ tỉnh Biên Hòa giải thoát nhiều thanh niên bị thực dân Pháp cưỡng ép đi lính… Tuy vậy, những cuộc nổi dậy đó đều bị dìm trong biển máu. Với tinh thần yêu nước mãnh liệt lại gặp được những tư tưởng cách mạng vô sản của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, từ những năm 1925, 1926 trở đi, nhân dân Biên Hòa Đồng Nai đã đứng dậy, với Phú Riềng đỏ, với Bình Phước - Tân Triều bất khuất, cùng cả nước làm nên cách mạng tháng tám - 1945 thành công. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, lịch sử Đồng Nai đã ghi lại những biến cố trọng đại, những chiến công vang dội như các trận đánh ở La Ngà (1-3-1948), ở cầu Bà Kiên, dọc các quốc lộ 1, 15, ở khám Tân Hiệp (2-12- 1956), ở Nhà Xanh (B.I.F) (7-7-1959), ở sân bay Biên Hòa (31-10-1964), Tổng kho Long Bình (tháng 6, 10, 11, 12 - 1966; tháng 2-1967; 1968 và tháng 8-1972), chiến thắng rừng Sác… Đặc biệt là với chiến dịch Xuân Lộc, giải phóng thị xã Long Khánh tháng 4 năm 1975, quân và dân Đồng Nai đã đập tan nơi phòng thủ cuối cùng của chính quyền Mỹ - ngụy ở hướng đông nam Sài Gòn, góp phần làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. 1.2.1.2. Địa giới hành chính a. Giai đoạn 1698 - 1861 Địa giới hành chính của Đồng Nai được xác định kể từ năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong, thành lập dinh Trấn Biên (huyện Phước Long) và dinh Phiên Trấn (huyện Tân Bình) thuộc phủ Gia Định. Từ đó đến nay, hệ thống hành chính ấy đã nhiều lần thay đổi theo sự biến thiên của lịch sử. Dinh Trấn Biên là tiền thân của tỉnh Biên Hòa sau này. Còn huyện Phước Long có 4 tổng (Bình An, Long Thành, Phước An và Tân Chánh), lúc bấy giờ là vùng đất rộng lớn bao gồm các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu và một phần tỉnh Bình Thuận, các quận 2, 9, Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Năm 1776, Đông Định Vương Nguyễn Lữ đánh bại chúa Nguyễn, trấn giữ đất Đồng Nai, đổi dinh Trấn Biên thành Biên Trấn. Đầu thế kỷ XIX (1802), dưới thời vua Gia Long, phủ Gia Định được đổi thành trấn Gia Định. Năm 1808, nhà Nguyễn đổi phủ Gia Định ra Gia Định thành, các dinh đổi ra trấn, đơn vị hành chánh có tính quân quản cấp tỉnh. Dinh Trấn Biên đổi thành trấn Biên Hòa (tức là tỉnh ở nơi bờ cõi không có xung đột). Huyện Phước Long thành phủ Phước Long. Bốn tổng: Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An nâng thành bốn huyện. Đến đời Minh Mạng (1832), trấn đổi thành tỉnh - đơn vị hành chánh có tính dân sự. Trấn Biên Hòa thành tỉnh Biên Hòa, gồm một phủ Phước Long và 4 huyện. Miền đất Nam Bộ thời kỳ này có tên gọi là Nam Kỳ lục tỉnh, đó là các tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Long Hồ (còn gọi là Vĩnh Long), An Giang và Hà Tiên. Năm 1837, ngoài phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa đặt thêm phủ Phước Tuy và thêm hai huyện: Long Khánh (cắt từ một phần huyện Phước An cũ) và Ngãi An (tách từ huyện Bình An cũ ra). Năm 1838, phủ Phước Long có thêm huyện Phước Bình (cắt từ huyện Phước Chánh và Bình An). Năm 1851, bỏ 3 huyện: Phước Bình, Long Khánh và Ngãi An. b. Giai đoạn 1861 - 1954 Sau hòa ước Nhâm Tuất (1862), Biên Hòa cùng với Gia Định, Định Tường trở thành nhượng địa thuộc Pháp; thực dân Pháp nhiều lần thay đổi đơn vị hành chính vì mục tiêu quân sự và khai thác thuộc địa, đến cuối năm 1899 mới tạm ổn định với các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Đồng Nai Thượng được thành lập từ địa bàn tỉnh Biên Hòa cũ. Năm 1863, công báo Pháp ghi tỉnh Biên Hòa gồm 2 phủ và 4 huyện, 23 tổng, 281 thôn, xã. Năm 1864, đô đốc Lagrandière chia tỉnh Biên Hòa thành 2 tiểu khu: Biên Hòa và Bà Rịa. Năm 1865, soái phủ Nam Kỳ chia tỉnh Biên Hòa thành 5 sở tham biện: Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Long Thành, Bảo Chánh. Năm 1866, tỉnh Biên Hòa được chia làm 6 địa hạt: Biên Hòa, Bà Rịa, Long Thành, Thủ Đức, Bình An, Bảo Chánh. Năm 1867, tỉnh Biên Hòa có 5 sở tham biện (Biên Hòa, Bà Rịa, Bình An, Long Thành, Ngãi An), 34 tổng, 368 thôn, xã. Năm 1868, xóa bỏ Tòa Tham biện Thủ Đức, nhập vào Tòa Tham biện Sài Gòn. Từ đó Thủ Đức tách khỏi Biên Hòa. Theo bản đồ Boilloux in năm 1881, tỉnh Biên Hòa có 9 tổng, 126 làng. Theo lịch An Nam thông dụng năm 1897, tỉnh Biên Hòa có 14 tổng, 168 làng. Năm 1901, tỉnh Biên Hòa có 14 tổng, 151 làng (theo Monographie de la province de Biên Hòa, 1901). Năm 1924, Biên Hòa có 17 tổng, 172 làng (theo Monographie de la province de Biên Hòa, 1924). Năm 1939, tỉnh Biên Hòa có 5 quận: Châu Thành, Long Thành, Xuân Lộc, Tân Uyên và núi Bà Rá, 16 tổng, 119 xã (theo Thời sự cẩm nang, trong Tự vị tiếng Việt miền Nam, Vương Hồng Sển, 1992). Như vậy, hệ thống hành chính từ nửa cuối thập niên 20 của thế kỷ XX là tỉnh - quận - tổng - xã. Năm 1950, Biên Hòa được chia làm 6 quận: Châu Thành, Tân Uyên, Long Thành, Sông Bé (núi Bà Rá), Xuân Lộc và núi Chứa Chan. Trong chống Pháp, do yêu cầu chỉ đạo chiến trường, tháng 5 năm 1951, hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một hợp thành tỉnh Thủ Biên; Bà Rịa và Chợ Lớn hợp thành tỉnh Bà Chợ. Tỉnh Thủ Biên có hai thị xã: Biên Hòa và Thủ Dầu Một và 7 huyện. c. Giai đoạn 1954 - 1975 Địa bàn tỉnh Biên Hòa cũ thay đổi rất nhiều lần từ sau hiệp định Genève tháng 7 - 1954. Tháng 5 - 1955, tỉnh Thủ Biên tách thành hai tỉnh: Biên Hòa và Thủ Dầu Một. Từ tháng 10 - 1960 đến tháng 3 - 1963, tỉnh Biên Hòa tách thành hai tỉnh: Biên Hòa và Long Khánh (theo ranh giới do chính quyền Sài Gòn phân vạch). Từ tháng 9 - 1960 đến tháng 7 - 1961, lập lại tỉnh Thủ Biên do sáp nhập tỉnh Biên Hòa (mới) và tỉnh Thủ Dầu Một. Và từ tháng 7 - 1961, tỉnh Thủ Biên tách thành ba tỉnh: Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Phước Thành. Từ tháng 3 đến tháng 12 năm 1963, chính quyền cách mạng hợp nhất ba tỉnh Biên Hòa, Long Khánh và Bà Rịa gọi là tỉnh Bà Biên, nhưng đến cuối năm lại tách ra như cũ, rồi nhập lại vào năm 1966. Đến năm 1967, ba tỉnh trên lại tách thành tỉnh Bà Rịa - Long Khánh và tỉnh Biên Hòa. Tháng 9 - 1965, lập tỉnh U1 gồm thị xã Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu và huyện Trảng Bom. Như vậy, Đồng Nai có tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, Biên Hòa và U1. Tháng 12 - 1966, tách Long Thành, Nhơn Trạch, Bình Sơn Ship, quận 9 và Nam Thủ Đức thành Phân khu 4. Đồng Nai gồm có Bà Rịa - Long Khánh, U1, Phân khu 4. 1971, sáp nhập Phân khu 4, Bà Rịa - Long Khánh thành Phân khu Bà Rịa. Tháng 10 năm 1972, lập lại tỉnh Bà Rịa - Long Khánh và Biên Hòa. Sau hiệp định Paris năm 1973, tỉnh Biên Hòa lại chia ra gồm Biên Hòa nông thôn và Biên Hòa thị xã. Tháng 10 năm 1973, lập tỉnh căn cứ Tân Phú. Nhìn chung, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, địa giới hành chính Đồng Nai đã bị thay đổi nhiều lần theo ý đồ quân sự của cả hai bên. Các tỉnh được chia nhỏ ra, cấp tổng tồn tại thêm ít năm rồi bị bãi bỏ, các quận cũng bị chia nhỏ. d. Giai đoạn 1975 đến nay Ngày 1/1/1976, Chính phủ quyết định sáp nhập 3 tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa - Long Khánh và Tân Phú thành tỉnh Đồng Nai (*). Từ năm 1978 đến nay, thêm nhiều lần điều chỉnh đơn vị hành chính nữa, đến năm 1995 tỉnh Đồng Nai mới được ổn định như hiện nay. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, cắt huyện Duyên Hải nhập về thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 30 tháng 5 năm 1979, thành lập Đặc khu Vũng Tàu Côn Đảo, tách Thị xã Vũng Tàu và xã Long Sơn huyện Châu Thành khỏi địa phận tỉnh Đồng Nai. Ngày 9 tháng 12 năm 1982, lập huyện Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai. Ngày 28 tháng 12 năm 1982 sáp nhập huyện Trường Sa vào tỉnh Phú Khánh (sau này thuộc tỉnh Khánh Hòa). Ngày 12 tháng 8 năm 1991, thành lập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu gồm Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo và 3 huyện của tỉnh Đồng Nai là Long Đất, Châu Thành, Xuyên Mộc. * Theo phân chia của Chính phủ cách mạng miền Nam. Còn theo sự phân chia của chính quyền Sài Gòn thì tỉnh Đồng Nai được sáp nhập từ 3 tỉnh Biên Hòa, Long Khánh và Phước Tuy. Ngày 26 tháng 3 năm 1994, chia huyện Long Thành ra 2 huyện: Long Thành và Nhơn Trạch. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, lập lại huyện Vĩnh Cửu từ thị xã Vĩnh An. Ngày 10 tháng 5 năm 1995, thành phố Biên Hòa thuộc tỉnh Đồng Nai được công nhận là đô thị loại II. Lập thêm 2 huyện mới là Trảng Bom và Cẩm Mỹ. Đồng thời địa giới một số xã, phường, ấp có sự điều chỉnh phù hợp. Như vậy, thực trạng các đơn vị hành chánh cơ sở của tỉnh Đồng Nai cơ bản ổn định với 1 thành phố Biên Hòa, 1 thị xã Long Khánh, 9 huyện: Long Thành, Nhơn Trạch, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Định Quán, Tân Phú, Trảng Bom, Cẩm Mỹ và 173 xã, phường, thị trấn. Việc thay đổi địa giới hành chính nhiều lần như vậy chứng tỏ vùng đất Đồng Nai luôn được chính quyền chú trọng, do đó địa danh tỉnh, huyện, làng xã cũng có nhiều biến đổi và xáo trộn theo các sự kiện lịch sử. Hầu hết những tên đất, tên làng, tên huyện vẫn còn đó và mỗi tên gọi đều có một giá trị và ý nghĩa riêng. 1.2.2. Tổng quan về địa lý, kinh tế, xã hội Tỉnh Đồng Nai có tổng diện tích là 5.903.940 km2, chiếm 1,76% diện tích toàn quốc và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ. Phía đông tỉnh Đồng Nai giáp với tỉnh Bình Thuận, phía đông bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, tây bắc giáp tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước, nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây giáp với thành phố Hồ Chí Minh. Địa phận tỉnh Đồng Nai được giới hạn trong phạm vi tọa độ địa lý sau: từ 10 độ 30 phút đến 11 độ 36 phút vĩ độ bắc, từ 106 độ 46 phút đến 107 độ 36 phút kinh độ đông. 1.2.2.1. Nằm trên vùng trung du, Đồng Nai có địa hình theo hướng thấp dần từ bắc xuống nam, từ đông sang tây. Điểm cao nhất là đỉnh núi Chứa Chan với 836m so với mực nước biển, thuộc địa phận huyện Xuân Lộc. Nhìn chung đất của Đồng Nai có địa hình tương đối bằng phẳng với ba dạng địa hình chính: Dạng địa hình núi thấp có độ cao thay đổi từ 200m - 800m, chiếm khoảng 8% diện tích tự nhiên của tỉnh, phân bố chủ yếu ở phía bắc của tỉnh và một phần phía đông của huyện Xuân Lộc. Dạng địa hình lượn sóng có độ cao thay đổi từ 20m - 200m, chiếm khoảng 80% diện tích tự nhiên của tỉnh và có xu hướng giảm dần từ đông sang tây. Dạng địa hình đồng bằng có độ cao nhỏ hơn 20m, chiếm 12% diện tích tự nhiên của tỉnh, phân bố tập trung ở phía tây và tây nam của tỉnh. 1.2.2.2. Đất đai của tỉnh phì nhiêu, toàn tỉnh có tổng diện tích 589.473 ha. Dựa vào nguồn gốc và chất lượng đất, có thể chia thành ba nhóm chung sau: (1) Các loại đất hình thành trên đá bazan gồm đất đá bọt, đất đen, đất đỏ có độ phì nhiêu cao, chiếm 39,1% diện tích tự nhiên (229.416 ha), phân bố ở phía bắc và đông bắc của tỉnh. Các loại đất này thích hợp cho các cây công nghiệp ngắn và dài ngày như: cao su, cà phê, tiêu… (2) Các loại đất hình thành trên phù sa cổ và trên đá phiến sét như: đất xám, nâu xám, loang lổ chiếm 41,9% diện tích tự nhiên (246.380 ha), phân bố ở phía nam, đông nam của tỉnh. Các loại đất này thường có độ phì nhiêu kém, thích hợp cho các loại cây ngắn ngày như đậu, đỗ… và một số cây ăn trái, cây công nghiệp dài ngày như cây điều… (3) Các loại đất hình thành trên phù sa mới như đất phù sa, đất cát phân bố chủ yếu ven sông Đồng Nai, sông La Ngà, thích hợp với nhiều loại cây trồng như cây lương thực, hoa màu, rau quả… Tình hình sử dụng đất của tỉnh những năm qua có biến động ít nhiều, nhưng đến nay, Đồng Nai vẫn là tỉnh có quy mô đất nông nghiệp lớn nhất Đông Nam Bộ. 1.2.2.3. Đồng Nai có khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, phân làm hai mùa tương phản nhau: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Tháng 4 và tháng 11 là thời kỳ chuyển tiếp giữa mùa khô sang mùa mưa và ngược lại giữa mùa mưa sang mùa khô. Nhiệt độ bình quân năm là 25o-26oC. Lượng mưa tương đối cao khoảng 1.500mm đến 2.700mm phân bố theo vùng và theo vụ. Số giờ nắng trung bình trong năm 2007 là: 2.183 giờ. Độ ẩm trung bình năm 2007 là 81%. Với những đặc điểm trên, Đồng Nai đã sớm hình thành những vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn và dài ngày, những vùng cây ăn quả nổi tiếng… có giá trị xuất khẩu cao. 1.2.2.4. Lòng đất Đồng Nai chứa nhiều khoáng sản quý, nổi tiếng như vàng, thiếc, nhôm, chì kẽm đa kim; nhiều mỏ đá, có các loại đá quý, đá ốp lát, cao lanh, sét màu, sét gạch ngói, đá vôi, than bùn, cát sông,… dùng làm vật liệu xây dựng và làm hàng xuất khẩu; thạch anh mạch được sử dụng trong luyện kim, hình thành những làng gốm, lu, gạch, ngói nổi tiếng như Tân Vạn, Bửu Hòa, Hóa An… 1.2.2.5. Mật độ sông suối của tỉnh Đồng Nai khá dày 0,5 - 1,2 km/km2, song phân phối không đều. Phần lớn sông suối tập trung ở phía bắc và dọc theo sông Đồng Nai về hướng tây nam. Sông Đồng Nai là sông lớn nhất ở miền Đông Nam Bộ, bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, đoạn chảy qua tỉnh dài 220 km. Các phụ lưu lớn của sông Đồng Nai bao gồm sông La Ngà, sông Bé, sông Sài Gòn. Hệ thống sông rạch của vùng ngập mặn Nhơn Trạch khá dày, bình quân 1,2 km/km2. Ngoài ra, Đồng Nai còn có nhiều sông suối nội tỉnh như sông Mã Đà, sông Lá Buông, sông Ray, sông Thị Vải, suối Rết, suối Tre… Không chỉ cung cấp nước phục vụ cho nông nghiệp, sinh hoạt, sông Đồng Nai còn cung cấp cho tỉnh nhiều tiềm năng thủy điện. Trị An là một trong những công trình thủy điện lớn của đất nước, có công suất khoảng 400 MW. Ở Đồng Nai không có hồ tự nhiên, chỉ có một số đầm lầy và hồ nhân tạo, nhằm điều tiết cho sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt là hồ Trị An có diện tích 323 km2 được sử dụng khai thác tổng hợp cho các nhu cầu: phát điện, cấp nước, nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái. 1.2.2.6. Rừng Đồng Nai thuộc loại rừng nhiệt đới, diện tích rừng chiếm khoảng 45% diện tích tự nhiên, tiêu biểu là vườn Quốc Gia Cát Tiên mà ngày nay vẫn còn giữ lại được những loài quý hiếm như tê giác một sừng, bò Ben Teng, nai Catoong, sóc bay... Hệ động thực vật của rừng ở Đồng Nai phong phú đa dạng với nhiều loại gỗ quý như cẩm, gõ, trắc, căm xe, bằng lăng…; nhiều loại cây thuốc như tô mộc, sa nhân…; các loại thú lớn như voi, tê giác, hổ, nai… và hàng trăm các loại chim thú, loài bò sát khác. Bên cạnh rừng nguyên thủy Nam Cát Tiên, Ðồng Nai còn có đủ loại sơn lâm. Ðó là rừng đước, rừng tràm ven biển, rừng nguyên liệu giấy, rừng cây gỗ quý nhân tạo, rừng tre, lồ ồ nguyên sinh, tái sinh rậm rạp thiên tạo, bạt ngàn rừng cao su, bạt ngàn rừng trái cây và hàng ngàn đồi núi nhấp nhô khắp rừng già, cao nguyên, thành phố, đồng bằng ven biển. 1.2.2.7. Đồng Nai có hệ thống đường giao thông thuận lợi, có nhiều tuyến đường huyết mạch quốc gia đi qua. Hệ thống quốc lộ với tổng chiều dài 244,5 km đã và đang được nâng cấp mở rộng thành tiêu chuẩn đường cấp I, II đồng bằng (Quốc lộ 1 nối liền thành phố Hồ Chí Minh - miền Bắc qua Đồng Nai; quốc lộ 51 Biên Hòa đi Vũng Tàu), cấp III đồng bằng như QL 20. Ngoài ra Đồng Nai còn có hệ thống đường liên tỉnh số 2, 3, 16, 24, 25 tạo điều kiện tốt cho giao thông vận chuyển hàng kinh tế, quân sự. Trong tương lai, Đồng Nai còn có các tuyến đường cao tốc như đường cao tốc TP. HCM - Long Thành - Dầu Giây; đường cao tốc Dầu Giây - Đà Lạt; đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu. Ngoài ra, Đồng Nai còn mở rộng phát triển giao thông nối với các tỉnh, thành phố lân cận như cầu đường quận 9 TP. HCM sang Nhơn Trạch; cầu Thủ Biên nối huyện Vĩnh Cửu với tỉnh Bình Dương… Bên cạnh hệ thống đường bộ có chiều dài 3.339 km, trong đó gần 700 km đường nhựa, Đồng Nai còn có tuyến đường sắt Bắc - Nam xuyên ngang dài gần 100 km với 8 ga: Trảng Táo, Gia Ray, Bảo Chánh, An Lộc, Dầu Giây, Bàu Cá, Trảng Bom, Long Khánh, Hố Nai và Biên Hòa. Hệ thống cảng biển của Đồng Nai nằm trong quy hoạch cảng nhóm 5 đang trình Chính phủ phê duyệt. Cảng biển nhóm 5 bao gồm khu vực thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà Rịa Vũng Tàu là nhóm cảng biển quan trọng trong khu vực kinh tế trọng điểm phía nam, nằm trên sông Đồng Nai, Nhà Bè, Lòng Tàu, Thị Vải, có sức thu hút lớn đối với các nhà đầu tư. Có thể kể ._. lên buồng tôi trên kia được. Chiều hôm đó, người vợ đi hầu hoàng hậu về, trao cho Thủ Huồng một tờ lịch được phép đi xem mọi nơi trừ cung vua và hoàng hậu. Hắn dạo quanh đây đó, rồi đến nhà ngục. Tiếng kêu khóc, tiếng thét la ở trong ngục vang dội làm cho hắn bồn chồn. Qua mấy nơi quỷ sứ mổ bụng, móc mắt, cắt tay, hắn thấy quả nơi đây là nơi trả báo những tội lỗi của con người ở trần thế, đúng như lời đồn của người đời. Sau cái bàn xẻo thịt là cả một kho gông. Trong đó có cái gông đặc biệt: nó vừa to vừa dài làm bằng những thanh gỗ lớn. Thủ Huồng lân la hỏi người cai ngục thì được biết những cái gông này dành cho những người làm điều ác ở trần gian. Hắn hỏi tiếp: - Thế cái gông to đó là của ai vậy? Cai ngục giở cuốn sổ dày tra tên, và chỉ vào hàng chữ đọc: Võ Thủ Hoằng, tục danh là Thủ Huồng, nguyên quán Ðại Nam Quốc, Gia Ðịnh tỉnh, Phúc Chánh huyện. Nghe nói đến tên mình, Thủ Huồng giật mình, mặt xám ngắt. Lát sau hắn lấy được bình tình. Hắn hỏi tiếp: - Hắn ở trần gian có tội gì? Cai ngục nhìn vào trang sổ, và nói: - Khi làm thơ lại, hắn bẻ mặt ra trái làm bao nhiêu việc oan nghiệt đến nỗi tội ác hắn chép kín cả mấy trang giấy đây. Này nghe tôi đọc này: Năm Ất Sửu hắn sửa hai chữ ngộ sát thành cố sát làm cho hai mẹ con Thị Nhàn bị chết để cho anh họ chiếm đoạn gia tài. Việc này Thủ Huồng được mười nén vàng, mười nén bạc và một trăm quan tiền. Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lại ở thôn Bình Ca bị hai năm 87 tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vàng để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng. Năm… Thủ Huồng sợ tái mặt, không ngờ nhứt nhứt mỗi việc từ nhỏ đến lớn của mình trên trần gian, dưới này đều rõ mồn một. Thủ Huồng ngắt lời, hỏi lảng sang chuyện khác: - Thế vợ hắn có đeo gông không hở ông? - Ồ! Ai làm người nấy chịu chứ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt, đã xuống đây rồi. Thủ Huồng lại hỏi gặng: - Ví như hắn muốn hối cải được không? Cai ngục đáp: - Ðã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải đã cướp được đó bố thí cho hết đi. Từ biệt cai ngục, với những nơi tra khảo tội nhân khủng khiếp, Thủ Huồng không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ nghe chồng đòi về, lại đưa chồng ra khỏi Diêm đình, và tiễn chồng đến cuối đoạn đường tối tăm mù mịt. Lúc sắp chia tay hắn bảo vợ: - Tôi về trang trải công nợ, có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống. Mình nhớ lên đón tôi nghe. Về đến Gia Ðịnh, Thủ Huồng mạnh tay bố thí. Hắn tập hợp người nghèo khó trong vùng lại, phát cho họ tiền, lúa. Hắn đem ruộng đất của mình cúng cho làng, cho chùa, chia cho họ hàng thôn xóm. Hắn mời hết sư sãi các chùa quanh vùng tới nhà mình cúng cơm, tốn kém kể tiền vạn. Cứ như thế ba năm, Thủ Huồng tính ra đã phá tán được ba phần tư cơ nghiệp. Nhớ lại lời hẹn, hắn lại khăn gói lên đường tìm đến chợ Mãnh Ma. Ở đây, hắn lại nhờ vợ đưa xuống cõi âm một lần nữa. Lần này, mục đích chính của Thủ Huồng là đến chỗ cũ xem lại các gông. Trở lại nhà ngục, Thủ Huồng thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão cai 88 ngục ba năm về trước. Duy chỗ kho để gông thì có ít nhiều thay đổi. Bên cạnh những cái còn nguyên hình như xưa, lại có những cái trước nhỏ nay lớn lên. Ðặc biệt cái gông dành cho chính mình thì bây giờ teo lại nhiều, tuy còn to hơn cái gông thường một tí. Thủ Huồng lân la hỏi cai ngục: - Cái gông to để nơi này trước kia tôi nhớ hình như to lắm thì phải? - Ðúng đấy, có lẽ gần đây trên dương thế, thằng cha ấy biết chuộc lỗi, nên nó đã nhỏ lại. Nếu hắn gắng nữa, thì rồi sẽ có phúc lớn. Thủ Huồng trở lại trần gian, và trở về Gia Ðịnh. Hắn lại tiếp tục bố thí. Lần này, hắn bán tất cả những gì còn sót lại, kể cả ngôi nhà để ở. Hắn đến Biên Hòa dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật. Rồi hắn xuôi sông Ðồng Nai để làm việc nghĩa cuối cùng. Hồi đó, từ Ðồng Nai về Gia Ðịnh phải đi đường sông. Ngã ba sông Ðồng Nai và sông Sài Gòn, lúc đó còn hoang vu, chưa có ai đến ở. Do vậy ghe thuyền qua lại lỡ con nước phải dừng lại, nhưng ở đây không có quán xá, chợ búa nên rất bất tiện. Thủ Huồng quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn trên bè có dựng nhà, có đủ chỗ nghỉ, có sẵn nồi niêu, đồ dùng, gạo củi và mắm muối. Những thứ ấy hắn dùng để tiếp rước người qua lại, nhất là những người khốn khó lỡ đường. Hắn cho họ trú tại bè của mình năm ba ngày, mà không nhận của ai một cắc bạc. Hắn làm công việc đó mãi cho đến ngày hắn chết. Ngày nay ở cù lao Phố (tỉnh Ðồng Nai) còn có một ngôi chùa tương truyền do Thủ Huồng lập, mang tên là chùa Thủ Huồng. Con rạch chảy ngang qua đường Tân Vạn vòng lên quốc lộ 1 do chính Thủ Huồng vét, nên gọi là rạch Thủ Huồng, chiếc cầu đá trên đường gần sông Ðồng Nai - Tân An cũng được gọi là Thủ Huồng vì cầu được chính ông ta bắc, và chỗ ngã ba sông Ðồng Nai và sông Sài Gòn được gọi là sông Nhà Bè để ghi nhớ lòng tốt của Thủ Huồng đối với khách qua lại trên sông đó (Nguyễn Hữu Hiếu sưu tầm). 89 7. Trị An - Thác trên s. Đồng Nai, thuộc huyện Vĩnh Cửu. Tại đây có nhà máy thủy điện công suất 360. 000kw, xây dựng trong các năm 1984 - 1988. - Thị trấn của huyện Vĩnh Cửu. Trị An là giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Đây là ước vọng của nhà cầm quyền và nhân dân vì thác này có tới bảy bậc rất nguy hiểm, có thể gây chết người. Bên cạnh ý nghĩa đích thực này, còn có bốn truyền thuyết kể về những mối tình ngang trái của các cặp tình nhân một cách hoang đường. Dưới đây, chúng tôi xin trích đăng một trong bốn truyền thuyết trên. Ngày xưa, ở vùng Ðồng Nai, có một bộ tộc du mục thuộc dân tộc Châu Mạ, chuyên sống bằng nghề nương rẫy và săn bắt thú rừng. Ðứng đầu bộ tộc này là tù trưởng Xora Ðin, tuy râu tóc đã bạc phơ, nhưng ông còn rất khỏe mạnh. Xora Ðina là con trai lớn của tù trưởng Xora Ðin, được cha truyền nghề cung ná từ nhỏ nên sớm trở thành tay thiện xạ. Trong một ngày, Xora Ðina có thể dễ dàng hạ hai con hổ. Chàng còn có thể hạ được cả loài cá sấu hung dữ đã một thời gây khủng khiếp ở vùng giáp Sông Bé và sông Ðồng Nai. Lúc bấy giờ ở thượng nguồn sông Ðồng Nai có nàng Ðiểu Du là trưởng nữ của tù trưởng Ðiểu Lôi, người Châu Ro. Ðiểu Du say mê tập tành phóng lao với chí hướng nối nghiệp cha. Chính cô đã trừ được con voi một ngà hung dữ ở vùng Ðạt Bo. Tiếng thơm bay xa. Tài thiện xạ của Xora Ðina gây được sự cảm mến trong lòng Ðiểu Du. Và Xora Ðina cũng muốn được gặp mặt người con gái nổi tiếng về tài phóng lao ở miền thượng lưu con sông. Năm nọ, trời hạn hán. Các con suối lớn nhỏ đều khô cạn. Cả người lẫn thú đổ xô ra sông tìm nước uống. Một hôm trời chuyển dông, mây đen chao đảo trên vòm trời. Một chiếc xuồng độc mộc chở một thiếu nữ tất tả xuôi mau vào bờ. Bỗng một con cá sấu từ dưới nước nổi lên và đuổi theo chiếc xuồng. Lập tức hai mũi lao từ tay Ðiểu Du phóng nhanh về phía con cá sấu. Nó bị thương nên càng vùng vẫy lồng 90 lộn, há miệng định nuốt chửng cả chiếc xuồng và người con gái. Trong cơn nguy hiểm, may sao thuyền của Xora Ðina vừa kịp xuất hiện. Nhanh như chớp, chàng bắn liền hai phát tên. Cá sấu trúng tên chạy được một đoạn thì chìm nghỉm. Xora Ðina và Ðiểu Du quen nhau từ đó. Họ trở thành đôi bạn xuôi ngược dòng sông. Dần dần họ yêu nhau. Mối tình của hai người được Xora Ðina và Ðiểu Lôi chấp thuận. Theo phong tục hồi đó, trước ngày cưới, Xora Ðina phải về ở rể bên đàng gái. Xora Ðin cho con trai mình chiếc tù và căn dặn: - Gặp trắc trở thì thổi tù và, sẽ có người đến giúp. Xora Ðina lên con ngựa trắng tiến về miền thượng lưu. Ði một đoạn đường, gặp con suối cạn, Xora Ðina phải dìu ngựa qua các gộp đá lổm chổm. Ðột nhiên từ trên cây cổ thụ một con hổ xám phóng xuống ôm choàng lấy Xora Ðina. Ðó là một gã đàn ông đội lốt hổ. Nó vừa đánh nhau với Xora Ðina vừa hăm dọa: - Thần Hổ đây! Tao sẽ giết mày vì mày có tội Xora Ðina nào phải tay vừa… Thần hổ bị đánh gã, bèn xông tới toan cướp ngựa. Con ngựa trắng hí lanh lảnh chồm lên dữ dội, thần hổ bị ngựa đá, phóng nhanh vào rừng. Ði thêm được một đồi ngắn, Xora Ðina đã thấy Ðiểu Du ra đón chàng ở bìa rừng. Ðàng xa Ðiểu Lôi cũng vừa tới. Nhân lúc ngồi nghỉ, Xora Ðina hỏi Ðiểu Du: - Vùng này có hổ không em? Ðiểu Du cười đáp: - Thằng thầy mo Sang Mô đó. Nó bày trò hù dọa dân làng. Nó oán em lắm, vì em không ưng nó. Thấy bóng Sang Mô loáng thoáng gần đó, Xora Ðina lên tiếng: - Mời anh Sang Mô đến uống rượu với chúng tôi. 91 Sang Mô đến, hắn trừng mắt nói với Xora Ðina: - Anh là kẻ xa lạ, đến đây để làm gì? Một lát, hắn nhìn Xora Ðina cười nham hiểm: - Nghe nói anh nổi tiếng về tài thiện xạ. Vậy ta thách anh: nếu anh bắn trúng cái lá trót trên cành cây ta đang cầm trong tay thì ta sẽ nhường Ðiểu Du cho anh. Hắn bẻ một nhánh quýt rừng và giơ lên. Hắn vừa thách vừa lắc lắc bàn tay khiến nhánh quýt run rẩy như gặp gió. - Nào bắn đi! Dừng một phút, Xora Ðina quát lớn: - Thần hổ coi đây! Sang Mô giật mình, ngừng tay. Xora Ðina bắn mũi tên xuyên qua chiếc lá chót. Mọi người reo hò hoan hỉ. Lễ cưới diễn ra trọng thể. Ðâm trâu, mời rượu, múa hát… Dân làng ca ngợi đôi trai gái bằng tiếng hát và tiếng cồng chiêng vang dậy. Riêng Sang Mô tức tối, kiếm cách trả thù. Năm sau, Ðiểu Du sanh được một con trai. Ngày đứa bé ra đời, trời mưa tầm tã, Sang Mô nhân đó tung tin: “Ðiểu Du sanh ra ma qủi, rồi sẽ có nạn mất mùa đói kém!” Do đồn nhảm, Sang Mô bị Ðiểu Du gọi đến quở phạt. Hắn càng oán giận. Năm sau nữa, trong một chuyến đi săn chung với Ðiểu Lôi, Sang Mô đã sát hại viên tù trưởng bằng một mũi tên bắn lén sau lưng. Rồi hắn cùng mươi tên phản loạn khác kéo về suối Ðạt Bo để giết luôn vợ chồng Xora Ðina. Canh hai đêm đó, ngôi nhà của vợ chồng Xora Ðina bỗng dưng bốc cháy. Xora Ðina chỉ kịp thét lớn: “Có kẻ đốt nhà!”. Rồi ẵm con cùng Ðiểu Du thoát khỏi vùng lửa. 92 Cuộc xô xát diễn ra ác liệt. Mãi lo che chở cho con, Xora Ðina bị thất thế. Còn Ðiểu Du sau một lúc chống cự cũng bị bọn Sang Mô bắt. Xora Ðina xông tới cứu vợ. Ðứa con tuột khỏi tay chàng văng xuống đất. Bỗng một cánh bóng mảnh mai lao nhanh đến và ôm lấy thằng bé chạy thoát vào rừng. Sang Mô gào lên: - Ðuổi theo, trừ cho tiệt nòi! Nhưng bóng con ngựa trắng của Xora Ðina chở Sang My trên lưng đã biến mất trong rừng. Cho dù em gái ta, cũng cứ bắn, tên bay vun vút. Sang Mô còn đốt cháy rừng hòng ngăn cản em gái mình chạy thoát. Tức giận, Sang Mô nghiến răng trói chặt vợ chồng Xora Ðina quăng xuống một chiếc xuồng có chất sẵn một thứ nhựa cây dễ cháy, rồi thả xuồng trôi theo dòng nước chảy xiết. Sang Mô cho chèo xuồng rượt theo và cứ nhắm vào xuồng của Xora Ðina mà buông những phát tên lửa. Ðến một bậc đá, xuồng bị cản lại. Xora Ðina đã kịp tháo dây trói tay và rút tù ra thổi một hồi dài. Hàng trăm người ở miền hạ lưu nghe tiếng tù và liền đổ xô ra bờ sông, nhảy qua những gộp đá, tiến tới chiếc xuồng đang bốc cháy ngùn ngụt. Mọi người ngậm ngùi trước cái chết đau đớn của Xora Ðina và Ðiểu Du. Vừa lúc ấy con ngựa trắng chở Sang My và đứa bé cũng chạy tới. Trên lưng Sang My có hai mũi tên cắm sâu. nàng chỉ kịp trao đứa bé cho ông già Xora Ðin rồi ngã gục xuống ngựa. Xora Ðin vuốt mắt cho Sang My. - Ngàn đời ta tri ân nàng đã cứu cháu ta. Còn con ngựa trắng thì ngước đầu nhìn ra phía ngọn lửa đang bốc cháy. Không thấy chủ, nó hí lên một hồi dài buồn thảm rồi phóng mình xuống dòng thác xoáy. Trong khi đó bà con đã bắt trói Sang Mô và mười tên phản loạn đem nạp cho Xora Ðin. Những tên nghe lời dụ dỗ mua chuộc của Sang Mô được Xora Ðin xóa 93 tội. Còn Sang Mô bị trói chặt vào chỗ nó gây ra tội ác. Tù trưởng Xora Ðin giương ná và lắp một mũi tên ngắm vào Sang Mô. Mọi người hồi hộp chờ đợt. Bỗng ông hạ ná và hô một tiếng “Pa” ngắn gọn, rồi quẳng ná xuống dòng thác. Ông muốn cho đời sau hiểu rằng: Hố hận thù phải được lấp bằng. Mọi người nên sống với nhau trong tình thương lớn. Vì lòng tri ân đối với Sang My, ông tha chết cho Sang Mô. Sang Mô dập đầu lạy Xora Ðin rồi ôm xác Sang My bước xuống xuồng, nước mắt lã chã. Từ đó, người trong vùng gọi thác này là thác Tri Ân, sau đọc trại thành Trị An [100, tr.314-320]. D. Nguồn gốc - ý nghĩa một số địa danh phân theo nhóm từ ngữ 1. Nhóm từ ngữ chỉ địa hình thiên nhiên * Danh từ chung Dốc: Chỗ đất lên cao. Dốc ở chỗ đỉnh cao của nó cũng là một vị trí để dánh dấu trên một trục lộ [110, tr.25]. Ví dụ: dốc 47 (LT), dốc Ngô Quyền (BH), dốc Kim Liên (VC)… Đảo: Khoảng đất lớn có nước bao quanh, khoảng cách với đất liền tương đối khá xa, ở sông, hồ, biển hoặc đại dương. Ví dụ: đảo Đồng Trường (VC), đảo Bà Hào (VC)… Đèo: Chỗ thấp, dễ vượt qua nhất trên đường giao thông đi qua các đỉnh núi [85, tr.306]. Ví dụ: đèo Mẹ Bồng Con (TXLK), đèo Con Rắn (TXLK)… Gò: Chỗ đất cao, hẹp hơn giồng về mặt diện tích nhưng có độ cao cao hơn. Ở Nam Bộ, khoảng đất cao nổi lên giữa vùng đất ruộng, chỉ dùng làm mộ địa, được gọi là gò. Một vùng đất cao hơn các chỗ khác trong cùng một giồng cũng gọi là gò [110, tr.19]. Ví dụ: gò Dầu (LT), gò Ông Sảnh (BH), gò Dê (VC). Hang: Khoảng trống sâu tự nhiên hay được đào vào trong lòng đất. Ví dụ: hang Nai (NT), hang Dơi (TXLK), hang Bạch Hổ (ĐQ)… 94 Hòn: Chỉ đảo ở gần bờ biển hoặc một chỗ đất cao trong đất liền nhưng gần bờ biển [110, tr.19]. Ví dụ: hòn Dĩa (ĐQ), hòn Sư Tử (ĐQ)… Rừng: Vùng đất rộng có nhiều cây cối mọc lâu năm. Ví dụ: rừng Mã Đà (VC), rừng Sác (NT), rừng Lá (XL)… Vườn: Khu đất trồng trọt ổn định, thường có rào giậu, trồng các loại rau, quả, cây cảnh, cây làm thuốc... cho nhu cầu gia đình, hay để bán sản phẩm hoặc cho nhu cầu kinh tế văn hóa của một tập thể của cộng đồng quốc gia [140]. Ví dụ: vườn Ngô (TB). * Thành tố chung Đồi: Dạng địa hình lồi, có sườn thoải, độ cao không cao quá 200 mét. Ví dụ: ấp Đồi Rìu (TXLK), ấp Đồi Hai (XL), ấp Đồi Phước Khả (LT)… Núi: Địa hình lồi, sườn dốc, nổi cao lên trên mặt đất, thường cao trên 200 mét [85, tr.742]. Ví dụ: hồ Núi Le (XL), ấp Núi Đỏ (TXLK), ấp Núi Tung (TXLK), xã Núi Tượng (TP)… 2. Nhóm từ ngữ có liên quan đến sông nước * Danh từ chung Hồ: nơi đất trũng chứa nước, thường là nước ngọt, tương đối rộng và sâu, nằm trong đất liền. Ví dụ: hồ Long Ẩn (BH), hồ Phú Cường (ĐQ), hồ Trị An (VC)… Thác: Chỗ dòng nước chảy vượt qua một vách đá cao nằm chắn ngang lòng sông, suối rồi đổ mạnh xuống [85, tr.908]. Ví dụ: thác Đá Hàn (TN), thác Hòa Bình (TB), thác Trời (TXLK)… * Thành tố chung Rạch: Do tiếng Khmer prêk chuyển thành, là nhánh tương đối lớn của một con sông. Nói chung rạch nhỏ hơn sông và lớn hơn mương, xẻo. Đây là nơi ghe thuyền có thể đi lại được. Theo Lê Trung Hoa, xét về ngữ âm, prêk có thể chuyển thành rạch là vì tổ hợp phụ âm có âm lỏng r bị rụng phụ âm đầu chỉ còn r đã khá phổ 95 biến: drap - (tấm) ra, grève - (làm) reo… và vần êk có thể chuyển thành thành ach, tương tự méc - mác, (cù) léc - nách, vêk mục (tiếng Khmer) - vạch mặt [50, tr.120]. Ví dụ: cầu Rạch Chiếc (LT), suối Rạch Đông (VC), chợ Rạch Đông (VC), ấp Rạch Bảy (NT), … Sông: Dòng nước tự nhiên có kích thước tương đối lớn, chảy thường xuyên trên mặt đất, thuyền bè thường đi lại được, có nguồn cung cấp là nước từ khí quyển trong phạm vi lưu vực của sông và chảy trong lòng sông. Ví dụ: hồ Sông Mây (TB), xã Sông Thao (TB), xã Sông Trầu (TB), cầu sông Buông (LT)… Suối: Dòng nước tự nhiên ở miền đồi núi, chảy thường xuyên hoặc theo mùa, do nước mưa hoặc nước ngầm chảy ra ngoài mặt đất tạo nên [85, tr.874]. Ví dụ: rạch Suối Cả (LT), hồ Suối Bí (TN), hồ Suối Vác (ĐQ), chợ Suối Son (ĐQ)… 3. Nhóm từ chỉ tên các công trình xây dựng * Danh từ chung Bến đò: Nơi tàu thuyền, xe cộ dừng lại để hành khách lên xuống, xếp dỡ hàng hóa. Ví dụ: bến đò An Hảo (BH), bến đò Mỹ Quới (VC), bến đò Trạm (BH)… Bến phà: Điểm bố trí ở bờ sông, nơi chưa có cầu vượt sông trên tuyến đường bộ, dùng phà chở hành khách và phương tiện vận tải qua sông [127, tr.192]. Ví dụ: bến phà 107 (ĐQ). Bến xe: Nơi ở các điểm đầu mối và đầu tuyến xe khách liên tỉnh, có các công trình phục vụ hành khách [85, tr.58]. Ví dụ: bến xe Biên Hòa (BH), bến xe Long Thành (LT)… Bùng binh: Nơi có nhiều ngả đường tỏa đi khắp hướng. Bùng binh bị nói chệch thành bồn binh. Ban đầu, bùng binh được hiểu là khúc sông rộng lớn mà tròn, ở đó ghe thuyền thường trở đầu lại. Từ “bùng binh” này sau chuyển thành từ chỉ công trình xây dựng giữa giao lộ trong thành phố [50, tr.70]. Ví dụ: bùng binh Biên Hùng (BH), bùng binh Tam Hiệp (BH), bùng binh Tân Phong (BH)… 96 Cảng: Nơi có những công trình xây dựng và trang thiết bị phục vụ cho tàu thuyền cập bến, bốc dỡ hàng hóa, hành khách lên xuống, sửa chữa phương tiện vận tải thủy, bảo quản hàng hóa và thực hiện các công việc khác phục vụ quá trình vận chuyển đường thủy [127, tr.352]. Ví dụ: cảng Long Thành (LT), cảng Đồng Nai (BH), cảng Phước Thái (LT)… Chiến khu: căn cứ địa cách mạng, khu vực tác chiến rộng lớn có ý nghĩa chiến lược trong thời kỳ chống ngoại xâm. Ví dụ: chiến khu Đ (VC), chiến khu Bình Đa (BH)… Chợ: Vị trí tập hợp nhiều người do nhu cầu mua và bán, nơi đó những người mua bán tụ tập vào những thời gian nhất định, có một nhà chợ thường không đủ rộng cho tất cả những người mua bán sử dụng và có những cửa hàng hoạt động thường xuyên trong những căn nhà nhất định [110, tr.27-28]. Ví dụ: chợ Lò Bò (BH), chợ Sặt (BH), chợ Tân Phong (BH), chợ Cây Me (TN)… Công viên: Vườn chung, rộng lớn, trồng nhiều cây xanh và hoa, là nơi mọi người có thể nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí. Ví dụ: công viên Biên Hùng (BH), công viên Giồng Sắn (NT), công viên Hòa Bình (TXLK)… Cống: Công trình ngầm hoặc lộ thiên để nước tự chảy qua, dùng vào việc lấy nước, tháo nước hoặc điều tiết nước [85, tr.212]. Ví dụ: cống Chợ (TN), cống Lớn (LT), cống Hộp (XL)… Cư xá: Khu nhà tập thể, nhiều tầng. Ví dụ: cư xá 5 Tầng (BH), cư xá Phúc Hải (BH)… Chung cư: Nhà cao tầng để ở, được thiết kế theo kiểu có từng căn hộ riêng biệt khép kín [85, tr.183]. Ví dụ: chung cư Thanh Bình… Đập: Công trình thủy công bằng đất đá hoặc bê tông chắn ngang sông, suối tạo ra độ chênh lệch mực nước trước và sau công trình để dâng cao mực nước. Ví dụ: đập Bình Hòa (XL), đập Cây Chanh (LT), đập Cây Da (TN)… 97 Địa đạo: Hệ thống công trình phòng thủ được đào sâu trong lòng đất, gồm một số đường hầm, nối liền các trận địa ở những hướng khác nhau, để trú ẩn và cơ động chiến đấu. Trong địa đạo có dự trữ nước, lương thực, vũ khí và có nơi ăn ở, sinh hoạt [127, tr.780]. Ví dụ: địa đạo Nhơn Trạch (NT), địa đạo Suối Linh (TB)… Đường thủy: Đường đi trên mặt nước sông, biển, kênh, hồ, dùng cho tàu thuyền (nói khái quát) [85, tr.359]. Ví dụ: đường thủy Đồng Nai, đường thủy Lô Gia, đường thủy Lòng Tàu… Ga: Gốc Pháp là gare. Đây là công trình kiến trúc làm nơi để hành khách lên xuống các phương tiện giao thông và làm những thủ tục cần thiết. Tùy theo loại phương tiện giao thông có ga đường sắt, ga hàng không… Ví dụ: ga Hố Nai (BH), ga Trảng Táo (XL), ga Dầu Giây (TN)… Hương Lộ: Đường nối các xã trong tỉnh. Ví dụ: hương lộ 2 (LT), hương lộ 19 (NT)… Kênh (kinh): Công trình dẫn nước đào đắp hay xây trên mặt đất bằng phương tiện cơ giới hoặc thủ công, phục vụ thủy lợi, giao thông: đào kênh dẫn nước vào đồng [54, tr.184 - 185] (tập 1). Ví dụ: kênh Phước Hưng (LT), kênh Bửu Hòa (BH), kênh Tập Đoàn 1+2 (LT)… Lâm trường: Cơ sở sản xuất chuyên về nghề rừng [85, tr.551]. Ví dụ: lâm trường Hiếu Liêm (VC), lâm trường Vĩnh An (VC), lâm trường Xuân Lộc (XL)… Nông trường: Cơ sở sản xuất nông nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân, do nhà nước tổ chức và trực tiếp quản lý [85, tr.740]. Ví dụ: nông trường Cẩm Mỹ (CM), nông trường Cao Su Bình Sơn (LT), nông trường Tân Lộc (TN)… Quốc lộ: Đường lớn liên tỉnh do chính phủ quản lý. Ví dụ: quốc lộ 20, quốc lộ 51, quố lộ 1A… Sân bay: Khoảng đất rộng có tổ hợp các công trình, thiết bị chuyên dùng để đảm bảo cho máy bay đỗ và lên xuống, bảo dưỡng… Ví dụ: sân bay Biên Hòa (BH). 98 Sân vận động: Sân rộng xây dựng theo quy cách nhất định để tập luyện và thi đấu, biểu diễn các hoạt động thể dục, thể thao. Ví dụ: sân vận động Đồng Nai (BH). Thành cổ: Công trình xây đắp kiên cố bằng đất, đá, gạch và hào nước bố cục theo nhiều kiểu dáng khác nhau phục vụ mục đích quân sự của các quốc gia hay các địa phương thời cổ, thường bao quanh một khu vực dân cư trọng yếu (thủ đô, thành phố lớn…) để phòng thủ. Ví dụ: thành Biên Hòa (BH). Tỉnh lộ: Đường nối các huyện trong tỉnh do địa phương quản lý, phân biệt với quốc lộ [85, tr.998]. Ví dụ: tỉnh lộ 16, tỉnh lộ 762, tỉnh lộ 769, tỉnh lộ Hiếu Liêm… Trại giam: Nơi tập trung nhiều người đến ở trong một thời gian theo một yêu cầu nhất định. Ví dụ: trại giam B5 (BH), trại giam K4 (TXLK)… Trạm bơm: Tập hợp các công trình và các thiết bị bơm tạo thành. Trạm bơm thông thường bố trí một số thiết bị bơm với khả năng đóng mở theo yêu cầu về lưu lượng nước cần bơm. Trạm bơm cũng có thể gồm chỉ một thiết bị bơm đơn lẻ đặt trên giá đỡ di động hoặc đặt trên phao có kèm theo thiết bị khởi động và điều chỉnh chế độ công tác của tổ máy bơm. Xa lộ: Đường hai chiều thật rộng, có tráng nhựa. Ví dụ: xa lộ Hà Nội (BH). * Thành tố chung Cầu: Công trình xây dựng bằng tre, bằng cây, bằng gạch hay bằng cốt sắt bắc từ bên này qua bên kia ngang qua một con sông hay dòng suối hay một chỗ đất trũng… để tiện đi lại. Ví dụ: suối Cầu Ba (XL), suối Cầu Vạc (LT), suối Cầu Mới (LT), rạch Cầu Mít (LT)… Lộ: Đường lớn. Tên lộ chủ yếu do dân gian đặt, còn tên đường được tạo ra bởi nhà cầm quyền. Ví dụ: xã Lộ 25 (TN), ấp Lộ 25 (TN), ấp Lộ Đức (TB)… 99 4. Nhóm từ ngữ chỉ tên các đơn vị hành chính * Danh từ chung Ấp: Làng, xóm nhỏ được lập nên ở nơi mới khai khẩn [85, tr.19]. Ví dụ: ấp Ba Buông (XL), ấp Bảo Vệ (TB), ấp Cầu Xéo (LT)… Huyện: Đơn vị hành chính dưới tỉnh, gồm nhiều xã. Ví dụ: huyện Định Quán, huyện Vĩnh Cửu, huyện Tân Phú… Khu phố: Đơn vị hành chính tương đương cấp huyện, thành lập trong các thành phố lớn, đông dân. Ví dụ: khu phố Bình Dương (BH), khu phố Phú Bình 1 (TXLK), khu phố Thái Hòa (BH)… Phường: Đơn vị quản lý hành chính cấp cơ sở ở các thành phố, thị xã Việt Nam hiện nay. Cấp phường có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Ví dụ: phường Bửu Hòa (BH), phường Bình Đa (BH), phường Quang Vinh (BH)… Thành phố: Khu vực tập trung dân cư với quy mô lớn, là trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, văn hóa, khoa học - công nghệ của một vùng, một địa phương. Ví dụ: thành phố Biên Hòa. Thị trấn: Khu vực tập trung dân cư, sinh hoạt chủ yếu là sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp, quy mô nhỏ hơn thị xã [85, tr.938]. Ví dụ: thị trấn Long Giao (CM), thị trấn Vĩnh An (VC), thị trấn Trảng Bom (TB)… Thị xã: Khu vực tập trung đông dân cư, sinh hoạt chủ yếu là sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp, quy mô nhỏ hơn thành phố nhưng lớn hơn thị trấn [85, tr.939]. Ví dụ: thị xã Long Khánh. Thôn: Điểm tụ cư của người dân ở vùng nông thôn, gồm nhiều xóm và là một phần của làng hoặc xã. Ví dụ: thôn Ba (LT), thôn Hai (LT), thôn Mười Một (LT)… Tiểu khu: Đơn vị hành chính cơ sở ở thành phố, dưới khu phố (quận); phường [85, tr.992]. Ví dụ: tiểu khu Ba Mươi (ĐQ), tiểu khu Ba Mươi Sáu (ĐQ)… 100 Xã: Đơn vị hành chính cấp cơ sở ở nông thôn, gồm nhiều thôn, ấp, xóm. Ví dụ: xã Phú Điền (TP), xã Hiệp Hòa (BH), xã Cẩm Đường (LT)… 5. Nhóm từ ngữ chỉ vùng Giáo xứ: Đơn vị cơ sở của giáo hội Công giáo, dưới giáo hạt, do một linh mục chánh xứ trông coi [85, tr.395]. Ví dụ: giáo xứ Đại An (VC), giáo xứ Tân Xuân (TXLK), giáo xứ Vườn Ngô (TB)… Khu công nghiệp: Nơi tập hợp các nhà máy chế biến tài nguyên và các sản phẩm nông nghiệp thành tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Ví dụ: khu công nghiệp Amata (BH), khu công nghiệp An Phước (LT), khu công nghiệp Hố Nai (TB)… 6. Nhóm từ ngữ chỉ tên cây cỏ Bàng: Tức cói, loại cỏ cao bộng ruột, mọc nhiều ở đồng ruộng, được giã dập đan bao cà ròn, đệm, nóp. Ví dụ: cầu Rạch Bàng (NT). Bom: Còn gọi là cây chùm bao, là loại dây leo mọc nhiều ở Nam Bộ. Ví dụ: huyện Trảng Bom. Bù cạp: Thứ cây tạp có bông giống như bông điệp, trái tròn dài, người ta dùng nó để ăn trầu, vỏ nó dùng làm thuốc chống rét. Ví dụ: dốc Bù Cạp (LT). Chà là: Cây thuộc loại cau, dừa, quả to bằng quả nhót, vị ngọt, ăn được. Ví dụ: cầu Chà Là (NT). Gáo: Có tên khoa học là sarcocephalus cordatus, cây thân gỗ hay mọc hoang ở khe suối, chân đồi. Hoa màu vàng hoặc trắng vàng, phiến lá có dạng hình trái xoan, cành tập trung ở phần ngọn, quả có vị chua. Ví dụ: xã Cây Gáo (TB), chợ Cây Gáo (TB). Lát: Cây gỗ to cùng họ với xoan, gốc có bành lớn, lá kép lông chim, hoa màu vàng nhạt, gỗ có vân đẹp, thuộc loại gỗ quý [85, tr.547]. Ví dụ: bàu Lát (VC). 101 Le: Cây thuộc họ lúa, mọc ở rừng, thân nhỏ và cứng, có hình dạng giống cây trúc [85, tr.557]. Ví dụ: núi Le (XL). Môn: Cây cùng họ với ráy, lá to hình mũi tên, củ chứa nhiều tinh bột, dùng để ăn [85, tr.504]. Ví dụ: núi Môn (XL). Muồng: Tên khoa học là Cassia chi cây họ Vang (Caesalpiniacene) gồm 400 loài, chủ yếu là cây gỗ và cây bụi, một số là loài cây thân thảo. Hoa có nhiều màu sắc khác nhau, từ trắng vàng đến đỏ… Ví dụ: suối Muồng (VC). Trịnh Hoài Đức viết rằng: “Cây thiết tuyền (tục danh là muồng), lá nhỏ màu xanh, sắc gỗ đỏ, bền cứng, có thể làm rường nhà, cột nhà. Trong lõi có lỗ hổng nhỏ, trong lỗ có phấn vàng. Người Mọi dùng để bôi vết thương hay nhọt rất hay” [41, tr.164]. Su: Có tên khoa học là carapa obovata. Cây rừng sác, giống cây ổi, xuống đất lâu mục, gỗ mịn, vân gỗ đẹp như vân cẩm lai, có màu đỏ như gỗ đỏ và cây bên, người ta hay dùng làm nọc, cừ [50, tr.60]. Ví dụ: suối Su (XL). Cao su: Gốc Pháp là caoutchouc. Đây là loại cây công nghiệp nhiệt đới lâu năm, họ thầu dầu, thân thẳng đứng, có nhiều mạch mủ trong lớp vỏ lụa, lá kép lông chim có 3 lá chét. Cây có nguồn gốc ở lưu vực sông Amazon, từ cuối thế kỷ XIX, được phát triển mạnh sang Đông Nam Á và Châu Phi nhiệt đới, trở thành cây công nghiệp quan trọng, trồng nhiều nơi để lấy mủ chế biến cao su [127, tr.362-363]. Ví dụ: nông trường Cao Su Cẩm Mỹ (CM), nông trường Cao Su Ông Quế (CM)… Ngoài ra còn có các loại cây sau xuất hiện trong địa danh ở Đồng Nai, đó là: cầy (ấp Cây Cầy - VC), dầu (chợ Cọ Dầu - CM), cam xe (khu Cam Xe - LT), trà my (suối Trà My - ĐQ), mù u (cầu Mù U - NT), xoài (núi Xoài - ĐQ, ấp Cây Xoài - VC), sung (kênh Cây Sung - LT), tre (rạch Suối Tre - LT, sông Tre - TB, ấp Bàu Tre - LT), tràm (rạch Tràm - NT, cầu Đồng Tràm - BH), me (chợ Cây Me - TN, chợ Láng Me - CM), trầu (sông Trầu - TB, xã suối Trầu - LT), đa (suối Cây Đa - CM, ấp Cây Đa - XL), sung (suối Cây Sung - VC), quýt (suối Quýt - CM, chợ Suối Quýt - LT), nho (suối Nho - TN, xã Suối Nho - ĐQ), sen (ấp Bàu Sen - XL), táo (ấp 102 Trảng Táo - XL), gòn (xã Hàng Gòn - TXLK, khu Hàng Gòn - LT), mít (ngã ba Vườn Mít - BH, cầu Mít - NT), mít nài (ấp Mít Nài - ĐQ), dừa (cầu Rạch Dừa - LT), bí (cầu Suối Bí - TN), chôm chôm (cầu Chôm Chôm - TB), trâm (ấp Bàu Trâm - TXLK), sắn (ấp Bến Sắn - NT), dầu (ấp Cây Dầu - TP), điệp (ấp Cây Điệp - TB, chợ Cây Điệp - TB), điều (ấp Cây Điều - TB). 7. Nhóm từ ngữ chỉ tên các động vật và bộ phận của động vật Cá: Lớp động vật có xương sống ở nước, thân phủ nhiều vảy, hô hấp bằng mang, bơi bằng vây. Cá ở trong địa danh Bến Cá là ở miền Tây, có hai loại nổi tiếng là cá bay và cá linh. Ngoài ra còn có hàng chục loại cá nước ngọt sinh sống ở miền sông này. Ví dụ: làng cổ Bến Cá (VC), ấp Bàu Cá (XL), rạch Cá (NT)… Chồn: Thú ăn thịt sống ở rừng, hình dạng giống cầy nhưng mõm ngắn hơn, mắt to, lông mềm, rậm, màu xám giống thân cây, sống ở vùng trung du, miền núi và trong rừng. Ví dụ: suối Chồn (TXLK) Cò: Chim có chân cao, cổ dài, mỏ nhọn, sống gần nước và ăn các động vật ở dưới nước. Ví dụ: ấp Bến Cò (NT). Cọp: Thú dữ lớn, lông màu vàng có vằn đen. Ví dụ: suối Cọp (VC). Cựa gà: Nhánh sông trông như cựa con gà. Ví dụ: sông Cựa Gà Lầy (NT). Le le: Chim sống ở nước, hình dạng giống vịt nhưng nhỏ hơn, mỏ nhọn [85, tr.558]. Ví dụ: tắt Le Le (NT) Nai: Thú lớn cùng họ với hươu, lông màu nâu sẫm, lông thưa ngắn, có 2 sừng, mỗi sừng có 3 nhánh. Ở Việt Nam nai sống ở rừng rậm, có thể kiếm ăn ở ven làng bản, chúng ăn lá non, chồi mềm, cây bụi, cỏ non, quả rừng rụng… Ví dụ: hố Nai (BH), hang Nai (NT), sông Đồng Nai… Ó: Chim thuộc loại diều hâu, thường gặp về mùa đông ở các sông hay ao hồ. Ví dụ: đảo Ó (VC). 103 Sấu: Nói tắt từ “cá sấu”, là loài bò sát lớn ở nước. Đầu dẹt, bằng, mõm dài, đuôi rất khỏe dẹt bên, hình bơi chèo, phủ các phiến sừng, da dày, mắt nằm cao. Cá sấu là loài bò sát hung dữ, hoạt động về đêm, phân bố chủ yếu ở nhiệt đới, sống ở sông hồ, ao đầm, số ít sống ở ven biển [140]. Ví dụ: bàu Sấu (TP), đập Suối Sấu (TXLK)… Vạc: Chim có chân cao, thuộc loại cò, thường đi ăn đêm, kêu rất to. Ví dụ: cầu Vạc (LT), suối Cầu Vạc (LT). Ngoài ra còn có những động vật sau: ngực (bàu Ngựa - ĐQ), vịt (cù lao Vịt - VC), rắn (núi Con Rắn - CM), dơi (đồi Hang Dơi - TP), dê (đập Suối Dê Chạy - VC), kênh kênh (hóc Kênh Kênh - TP), sư tử (hòn Sư Tử - ĐQ), voi (hòn Voi Phục - ĐQ), le le (tắt Le Le - NT), rết (sông Rết - TB), cua (lòng tắt Cua - NT), nhạn (sông Nhạn - LT), khỉ (cầu Khỉ - TN), heo (ngã ba Cua Heo - LK)… 104 PHỤ LỤC 3 MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ ĐỊA DANH Ở ĐỒNG NAI 1. BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH ĐỒNG NAI 105 2. Đá Ba Chồng (Định Quán) 3. Cầu La Ngà (Định Quán) và rừng Nam Cát Tiên (Tân Phú) 106 4. Núi Chứa Chan (Xuân Lộc) 5. Khu du lịch Suối Tre (Long Khánh) 107 6. Thác Giang Điền (Trảng Bom) 7. Cảng Gò Dầu B (Long Thành) 108 8. Địa đạo Nhơn Trạch (Nhơn Trạch) 9. Khu du lịch Đồi Sơn Thủy (Cẩm Mỹ) 109 10. Bến đò Kho (Biên Hòa) 11. Giáo xứ Lộc Lâm (Biên Hòa) 110 12. Khu du lịch Làng Bưởi Tân Triều (Vĩnh Cửu) 13. Khu du lịch Cao Minh (Vĩnh Cửu) 111 14. Nông trường Cao Su Dầu Giây (Thống Nhất) 15. Giáo xứ Dốc Mơ (Thống Nhất) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7429.pdf
Tài liệu liên quan