Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học Nông nghiệp hà nội
---------------
đỗ văn mạnh
nghiên cứu cung cấp dịch vụ công
cho phát triển doanh nghiệp
ở thị xã tam điệp - ninh bình
luận văn thạc sĩ kinh tế
Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.31.10
Người hướng dẫn khoa học: gs.ts. đỗ kim chung
Hà nội – 2008
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo về một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng
115 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp - Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mọi việc giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Đỗ Văn Mạnh
Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các Thày Cô giáo Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Khoa sau đại học, Bộ môn Phát triển nông thôn trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi thực hiện bản luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến GS. TS. Đỗ Kim Chung đã hướng dẫn giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Bình, Cục thống kê tỉnh Ninh Bình, Sở lao động thương binh và xã hội tỉnh Ninh Bình, Trung tâm xúc tiến thương mại Ninh Bình, Phòng thống kê Thị xã Tam Điệp, Phòng kinh tế thị xã Tam Điệp, Phòng tài nguyên môi trường thị xã Tam Điệp và các doanh nghiệp trên địa bàn Thị xã Tam Điệp đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã động viên khích lệ và giúp đỡ tôi hoàn thành khoá học!
Hà nội, ngày 16 tháng 09 năm 2008
Tác giả luận văn
Đỗ Văn Mạnh
mục lục
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt iv
Danh mục các bảng v
Danh mục các hình, hộp vi
Danh mục các chữ viết tắt
DN
Doanh nghiệp
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
CTCP
Công ty cổ phần
CTTNHH
Công ty trách nhiện hữu hạn
ĐKKD
Đăng ký kinh doanh
DV
Dịch vụ
TM
Thương mại
XD
Xây dựng
XTTM
Xúc tiến thương mại
DT
Doanh thu
HĐKD
Hoạt động kinh doanh
HĐTC
Hoạt động tài chính
Danh mục bảng
STT
Tên bảng
Trang
3.1. Phân bố sử dụng đất tự nhiên của Thị xã Tam Điệp năm 2007 35
3.2. Tình hình dân số và lao động của Thị xã Tam Điệp - Ninh Bình 37
3.3. Tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế Thị xã Tam Điệp 38
3.4 . Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thời kỳ 2005 - 2007 39
3.5. Số lượng doanh nghiệp điều tra ở Thị xã Tam Điệp 46
4.1. Số doanh nghiệp theo loại hình doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp 52
4.2. Các chỉ tiêu cơ bản của các loại doanh nghiệp năm 2007 53
4.3. Số doanh nghiệp theo qui mô lao động của Tam Điệp, 2005-2007 54
4.4. Số lượng và tỷ trọng doanh nghiệp theo ngành của Tam Điệp 55
4.5. Qui mô lao động và vốn trung bình của doanh nghiệp ở Tam Điệp 56
4.6. Một số kết quả chủ yếu của doanh nghiệp ở Tam Điệp 56
4.7. Số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh của Thị xã Tam Điệp, 2005 -2007 61
4.8. Số doanh nghiệp được thuê đất, giao đất ở Thị xã Tam Điệp, 2002-2007 65
4.9. Kết quả đào tạo cho các doanh nghiệp 70
4.10. Công tác mở lớp đào tạo cho các doanh nghiệp 72
4.11. Tình hình cung cấp thông tin cho doanh nghiệp 73
4.12. Các cuộc hội chợ, triển lãm do tỉnh tổ chức 75
4.13. Tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp ở Tam Điệp 79
Danh mục các hình
STT
Tên hình
Trang
2.1. Các chủ thể trong hoạt động cung cấp dịch vụ công 10
2.2. Nội dung cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp 16
3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thời kỳ 2005 - 2007 39
4.1. Số doanh nghiệp dân doanh và số vốn đăng ký hàng năm 61
4.2. Số doanh nghịêp được thuê đất, giao đất ở Tam Điệp 66
4.3. Nhu cầu về cung cấp dịch vụ công của doanh nghiệp 80
4.4. Quy trình đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp 84
Danh mục các hộp
STT
Tên hộp
Trang
2.1. Hàng hoá và dịch vụ công cốt lõi và mở rộng 6
2.2. Các hình thức chuyển giao dịch vụ công trên Thế giới 20
4.1 . Một số phiền hà khi đăng ký kinh doanh 63
4.2. Một số khó khăn trong tiếp cận đất đai 67
4.3. Các trường phải có tổ quan hệ doanh nghiệp 84
1. Đặt vấn đề
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến to lớn, sức sản xuất được giải phóng, nhiều tiềm năng được khơi dậy, hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển mạnh mẽ, số lượng các doanh nghiệp trong cả nước tăng lên nhanh chóng nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngày nay người ta càng nhận rõ vai trò quan trọng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đó là, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế; thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tạo việc làm và làm tăng thu nhập cho một lực lượng lớn người lao động; khai thác và phát huy lợi thế về nguồn lực lao động để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trên phạm vi cả nước nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng. Xác định tầm quan trọng của phát triển doanh nghiệp đối với phát triển kinh tế đất nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, những năm gần đây Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình kinh tế này.
Thị xã Tam Điệp nằm ở phía Tây - Nam tỉnh Ninh Bình trên trục quốc lộ 1A, là nơi giao lưu giữa phía Bắc Trung Bộ và phía Nam đồng bằng Bắc Bộ. Cách Thủ đô Hà Nội 105 km về phía nam, cách Thành phố Ninh Bình 12 km, Tam Điệp nằm gần các trung tâm công nghiệp lớn như Thị xã Bỉm Sơn, Thành phố Ninh Bình. Hiện nay, Thị xã có 118 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, với tổng vốn đăng ký 4.795 tỷ đồng, sử dụng 5.965 lao động, đóng góp trên 50% GDP của thị xã. Sự phát triển của các doanh nghiệp trong những năm qua đã góp phần giữ vững sự tăng trưởng về kinh tế địa bàn thị xã, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân trên 12,8%/năm [32]. Nhiều doanh nghiệp mới được thành lập, đặc biệt là số hộ kinh doanh cá thể tăng khá nhanh, một số mặt hàng kinh doanh có bước phát triển khá như cơ khí, may mặc... Mặc dù thị xã thu hồi rất nhiều đất nông nghiệp, lâm nghiệp để các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phục vụ việc xây dựng và phát triển Thị xã, nhưng nhờ có sự năng động của các doanh nghiệp và người lao động nên vấn đề việc làm tuy chưa đủ nhưng không bị rơi vào tình trạng gay gắt. Đây cũng chính là sự góp công lớn của các doanh nghiệp đối với xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất kinh doanh và mở rộng quy mô kinh doanh, các doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất khó khăn đó là khó khăn trong gia nhập thị trường, thiếu vốn sản xuất, thiếu đất đai và mặt bằng sản xuất, chất lượng đội ngũ lao động thấp, hơn thế nữa khi nước ta đang hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới thì mức độ cạnh tranh giữa hàng hoá Việt Nam và hàng hoá có liên quan ở các nước tại thị trường Việt Nam sẽ tăng lên, đây là một áp lực rất nặng nề đối với các doanh nghiệp của Thị xã.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp có khả năng đứng vững, tồn tại và gây dựng uy tín của mình. Những khó khăn thách thức đặt ra từ nhiều phía, bản thân các doanh nghiệp đã có những cố gắng nỗ lực nhưng trên thực tế thì không có một doanh nghiệp nào có đủ khả năng để giải quyết được tất cả những khó khăn thách thức nêu trên.
Nhằm mục đích xem xét lại những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp, đồng thời, qua đó cũng phát hiện được những khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ trong quá trình phát triển của các doanh nghiệp và từ đó đề xuất những khuyến nghị nhằm đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công để thúc đẩy quá trình mở rộng và phát triển của các doanh nghiệp trên địa bàn Thị xã. Với những lý do nêu trên, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp - Ninh Bình”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng về tình hình cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp, từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp ở thị xã Tam Điệp - Ninh Bình trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp
- Đánh giá thực trạng về tình hình cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp - Ninh Bình và nguyên nhân ảnh hưởng đến cung cấp dịch vụ công
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp - Ninh Bình.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về dịch vụ công, về tình hình cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp, đánh giá kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp.
Đối tượng khảo sát chủ yếu là các doanh nghiệp trên địa bàn Thị xã Tam Điệp được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp, các cơ sở cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung phân tích thực trạng cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp giai đoạn 2005 - 2007. Đề tài lấy thông tin chủ yếu ở phạm vi các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ công ở Thị xã Tam Điệp, một số cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ công trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và thông tin từ bản thân các doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp.
Số liệu minh họa trong đề tài bao gồm những thông tin cập nhật về các tài liệu đã công bố trong những năm gần đây và các số liệu điều tra trực tiếp từ các doanh nghiệp.
Định hướng và đề xuất giải pháp đến năm 2015.
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về Cung cấp dịch vụ công cho phát triển Doanh nghiệp
2.1 Khái niệm và phân loại dịch vụ công
2.1.1 Khái niệm dịch vụ công
Khái niệm “Dịch vụ công” được sử dụng phổ biến rộng rãi ở Châu Âu sau chiến tranh Thế giới lần thứ II. Theo quan niệm của nhiều nước, dịch vụ công luôn gắn với vai trò của Nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ này.
Ông Mel Blunt, cố vấn trưởng về kỹ thuật thuộc dự án hỗ trợ cải cách hành chính Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho biết, theo quan niệm quốc tế, dịch vụ công là những dịch vụ có tính chất công cộng mà Nhà nước có trách nhiệm tổ chức cung cấp để phục vụ cho nhu cầu chung cần thiết cho cuộc sống cộng đồng, đảm bảo an toàn xã hội và không vì mục tiêu lợi nhuận. Trách nhiệm chính của việc cung cấp dịch vụ công thuộc về nhà nước, nhưng việc cung cấp dịch vụ có thể do Nhà nước trực tiếp làm hoặc do các đối tác xã hội làm trong khuôn khổ pháp luật dưới sự giám sát, quản lý của nhà nước.
Từ góc độ chủ thể quản lý Nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính cho rằng dịch vụ công là những hoạt động của cơ quan Nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lý hành chính Nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hoá công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của Nhà nước đối với những hoạt động cung cấp hàng hoá công cộng. Cách tiếp cận khác, xuất phát từ đối tượng được hưởng hàng hoá công cộng cho rằng: đặc trưng chủ yếu của dịch vụ công là hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và cộng đồng, còn việc tiến hành hoạt động ấy có thể do Nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm.
Khái niệm và phạm vi dịch vụ công có sự biến đổi tuỳ thuộc vào bối cảnh của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, ở Pháp và Italia đều quan niệm dịch vụ công là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân do các cơ quan Nhà nước đảm nhiệm hoặc do các tổ chức tư nhân thực hiện theo những tiêu chuẩn, quy định của Nhà nước. Tuy vậy, ở mỗi nước lại nhận thức khác nhau về phạm vi của dịch vụ công. ở Pháp, khái niệm dịch vụ công được hiểu rộng, bao gồm không chỉ các hoạt động phục vụ về tinh thần và sức khoẻ của người dân, các hoạt động phục vụ đời sống dân cư mang tính công nghiệp (điện, nước, giao thông công cộng, vệ sinh môi trường... thường được gọi là hoạt động công ích), hay các dịch vụ hành chính công, bao gồm hoạt động của cơ quan hành chính về cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch,... mà cả hoạt động thuế vụ, trật tự, an ninh, quốc phòng... Còn ở Italia dịch vụ công được giới hạn chủ yếu ở hoạt động sự nghiệp, hoạt động y tế công ích và các hoạt động cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch do cơ quan hành chính thực hiện.
Hộp 2.1: Hàng hoá và dịch vụ công cốt lõi và mở rộng
Khu vực công cốt lõi bao gồm các dịch vụ (chủ yếu là hàng hoá và dịch vụ công thuần tuý - pure public goods and services) mà chính phủ là người duy nhất cung cấp mà mọi công dân bắt buộc phải nhận khi có nhu cầu về chúng. Chính phủ cung cấp các loại dịch vụ này dựa trên cơ sở pháp lý và nguyên tắc quản lý Nhà nước cơ bản. Có thể liệt kê một số dịch vụ đó như: pháp luật, an ninh, quốc phòng, các nguồn phúc lợi xã hội, môi trường và phòng dịch, cấp giấy sở hữu (tài sản, nhà đất), giấy tờ tuỳ thân (hộ chiếu, visa, chứng minh thư), giấy chứng nhận (khai sinh, khai tử, hôn thú), đăng ký thành lập (doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức)...
Khu vực công mở rộng bao gồm các dịch vụ công (chủ yếu là hàng hoá và dịch vụ công không thuần khiết - impure) mà người tham gia cung cấp có thể là Nhà nước và nhiều tổ chức khác (tư nhân, các tổ chức xã hội, cộng đồng). Sự cung cấp các loại dịch vụ này rất linh hoạt, tuỳ thuộc vào nhu cầu người tiêu dùng, không mang tính độc quyền và có thể miễn phí hoặc trả phí. Đó là các loại dịch vụ như: y tế, giáo dục, giao thông đô thị, thông tin, cơ sở hạ tầng,...
Nguồn: World Bank, World Development Report 1997
ở Việt Nam, nên tập trung nhiều hơn vào chức năng phục vụ xã hội của Nhà nước, mà không bao gồm chức năng công quyền, như lập pháp, hiến pháp, tư pháp... qua đó, nhấn mạnh vai trò chủ thể của Nhà nước trong việc cung cấp các loại dịch vụ công cho cộng đồng. Điều quan trọng là chúng ta phải sớm tách hoạt động dịch vụ công (lâu nay gọi là hoạt động sự nghiệp) ra khỏi hoạt động hành chính công quyền như chủ trương của Chính phủ đã đề ra, nhằm xoá bỏ cơ chế bao cấp, giảm tải cho bộ máy Nhà nước, khai thác mọi nguồn lực tiềm tàng trong xã hội và nâng cao chất lượng dịch vụ công phục vụ người dân. Điều 22 của Luật Tổ chức Chính phủ (2001) quy định: “Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước; quản lý Nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực;...”. Điều này không có nghĩa là Nhà nước độc quyền cung cấp các dịch vụ công, mà trái lại, Nhà nước hoàn toàn có thể xã hội hóa một số dịch vụ, qua đó trao một phần việc cung ứng một phần của một số dịch vụ, như: y tế, giáo dục, cấp thoát nước,... cho khu vực phi Nhà nước thực hiện.
Có thể thấy rằng khái niệm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, chúng đều có tính chất chung là nhằm phục vụ cho nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội, của cộng đồng dân cư và Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo các dịch vụ này cho xã hội. Ngay cả khi Nhà nước chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thì Nhà nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này và khắc phục các bất cập của thị trường.
Từ những tính chất trên đây, dịch vụ công có thể được hiểu là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, do Nhà nước trực tiếp đảm nhận hay uỷ quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện [17].
2.1.2 Phân loại dịch vụ công
Dịch vụ công có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, xét theo tính chất của dịch vụ, hoặc theo các hình thức dịch vụ cụ thể,...
- Theo tiêu chí chủ thể cung ứng, dịch vụ công được chia thành ba loại như sau:
+ Dịch vụ công do cơ quan Nhà nước trực tiếp cung cấp: Đó là những dịch vụ công cộng cơ bản do các cơ quan của Nhà nước cung cấp: an ninh, giáo dục phổ thông, chăm sóc y tế cộng đồng...
+ Dịch vụ công do các tổ chức phi Chính phủ và khu vực tư nhân cung cấp, gồm những dịch vụ mà Nhà nước có trách nhiệm cung cấp, nhưng không trực tiếp thực hiện mà uỷ nhiệm cho tổ chức phi Chính phủ và tư nhân thực hiện, dưới sự đôn đốc, giám sát của Nhà nước, như các công trình công cộng do Chính phủ gọi thầu, có thể do các công ty tư nhân đấu thầu xây dựng
+ Dịch vụ công do tổ chức Nhà nước, tổ chức phi Chính phủ, tổ chức tư nhân phối hợp thực hiện: Loại hình cung ứng dịch vụ này ngày càng trở nên phổ biến ở nhiều nước.
- Dựa vào tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, có thể chia dịch vụ công thành các loại như sau:
+ Dịch vụ hành chính công: Đây là loại dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Do vậy, cho đến nay, đối tượng cung ứng duy nhất các dịch vụ công này là cơ quan công quyền hay do các cơ quan do Nhà nước thành lập được uỷ quyền thực hiện cung ứng dịch vụ hành chính công. Đây là một phần trong chức năng quản lý Nhà nước. Để thực hiện chức năng này, Nhà nước phải tiến hành những hoạt động phục vụ trực tiếp như cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng ký, công chứng, thị thực, hộ tịch,... Người dân được hưởng những dịch vụ này không theo quan hệ cung cầu, ngang giá trên thị trường, mà thông qua việc đóng lệ phí hoặc phí cho các cơ quan hành chính Nhà nước. Phần lệ phí này mang tính chất hỗ trợ cho ngân sách Nhà nước.
+ Dịch vụ sự nghiệp công: Bao gồm các hoạt động cung cấp phúc lợi xã hội thiết yếu cho người dân như giáo dục, văn hoá, khoa học, chăm sóc sức khoẻ, thể dục thể thao, bảo hiểm, an sinh xã hội,... Xu hướng chung hiện nay trên Thế giới là Nhà nước chỉ thực hiện những dịch vụ công nào mà xã hội không thể làm được hoặc không muốn làm, nên Nhà nước đã chuyển giao một phần việc cung ứng loại dịch vụ công này cho khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội.
+ Dịch vụ công ích: Là các hoạt động cung cấp các hàng hoá, dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho người dân và cộng đồng như: vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, cấp nước sạch... chủ yếu do các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện. Có một số hoạt động ở địa bàn cơ sở do khu vực tư nhân đứng ra đảm nhiệm như vệ sinh môi trường, thu gom vận chuyển rác thải ở một số đô thị nhỏ, cung ứng nước sạch ở một số vùng nông thôn.
2.2 Cung cấp dịch vụ công
Các chủ thể trong hoạt động cung cấp dịch vụ công
Hoạt động cung cấp dịch vụ công bao gồm những người sử dụng các dịch vụ công (các doanh nghiệp), các nhà cung cấp dịch vụ (các tổ chức Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ, các hiệp hội, các hội nghề, các tổ chức quốc tế). Hoạt động của các chủ thể này được đặt trong khung khổ pháp luật (Hình 2.1).
Các nhà cung cấp dịch vụ công
Các tổ chức quốc tế
Các tổ chức hiệp hội
Các tổ chức hỗ trợ
Khách hàng sử dụng dịch vụ công
Các tổ chức hiệp hội
Các nhà
cung cấp
dịch vụ công
Khách hàng sử dụng dịch vụ công
Các tổ chức hỗ trợ
Các tổ chức quốc tế
Hình 2.1: Các chủ thể trong hoạt động cung cấp dịch vụ công
Tuỳ theo tính chất và loại hình dịch vụ công có thể do các cơ quan Nhà nước trực tiếp cung cấp hoặc có thể được chuyển giao cho khu vực phi Nhà nước cung cấp. Có thể thấy rõ rằng, theo thời gian, vai trò của Nhà nước và các tác nhân khác trong cung cấp dịch vụ công có sự biến đổi đáng kể dẫn đến các dạng thức cung cấp dịch vụ công khác nhau. Hiện nay, việc cung cấp dịch vụ công ở hầu hết các nước thông thường được tiến hành theo các hình thức:
Các cơ quan Nhà nước trực tiếp cung cấp dịch vụ công. Theo hình thức này, Nhà nước chịu trách nhiệm trực tiếp cung cấp dịch vụ công đối với các dịch vụ liên quan đến an ninh quốc gia và lợi ích chung của đất nước. Các đơn vị sự nghiệp do Nhà nước thành lập để cung cấp như bệnh viện và trường học công... hoạt động tương tự các công ty, nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận. Ban đầu, Nhà nước đầu tư cho các đơn vị đó, sau đó họ sẽ tự trang trải và khi cần thiết có thể nhận được sự hỗ trợ bù đắp của Nhà nước.
Nhà nước chuyển một phần hoạt động cung cấp dịch vụ công cho thị trường dưới các hình thức:
Uỷ quyền cho các công ty tư nhân hoặc tổ chức phi Chính phủ cung cấp một số dịch vụ công mà Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm và thường có nguồn từ ngân sách Nhà nước như: vệ sinh môi trường, thu gom và xử lý rác thải... Công ty tư nhân hoặc tổ chức phi Chính phủ được uỷ quyền phải tuân thủ những điều kiện do Nhà nước quy định và được Nhà nước cấp kinh phí (loại dịch vụ nào có thu tiền của người thụ hưởng thì chỉ được Nhà nước cấp một phần kinh phí).
Liên doanh cung cấp dịch vụ công giữa Nhà nước với một số đối tác trên cơ sở đóng góp nguồn lực, chia sẻ rủi ro và cùng phân chia lợi nhuận. Hình thức này cho phép Nhà nước giảm phần đầu tư từ ngân sách cho dịch vụ công mà vẫn tham gia quản lý trực tiếp và thường xuyên các dịch vụ này nhằm đảm bảo lợi ích chung.
Chuyển giao trách nhiệm cung cấp dịch vụ công cho các tổ chức khác, đối với các dịch vụ mà các tổ chức này có điều kiện thực hiện có hiệu quả như đào tạo, tư vấn, giám định... đặc biệt là các tổ chức này tuy là đơn vị tư nhân hoặc phi Chính phủ nhưng được khuyến khích hoạt động theo cơ chế không vì lợi nhuận, chỉ thu phí để tự trang trải.
Tư nhân hoá dịch vụ công, trong đó Nhà nước bán phương tiện và quyền chi phối của mình đối với dịch vụ nào đó cho tư nhân, song vẫn giám sát và đảm bảo lợi ích công bằng pháp luật.
2.3 Các đặc điểm của dịch vụ công
Các loại dịch vụ công và các hình thức cung ứng dịch vụ công tuy có đặc điểm, tính chất khác nhau, song chúng có những đặc điểm chung cơ bản như sau:
+ Dịch vụ công có tính xã hội, với lợi ích chính là phục vụ lợi ích cộng đồng đáp ứng tất cả nhu cầu công dân, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội và bảo đảm công bằng và ổn định xã hội, mang tính quần chúng rộng rãi. Mọi người đều có quyền ngang nhau trong việc tiếp cận các dịch vụ công với tư cách là đối tượng phục vụ của Nhà nước. Từ đó có thể thấy tính kinh tế, lợi nhuận không phải là điều kiện tiên quyết chi phối hoạt động dịch vụ công.
+ Dịch vụ công cung ứng loại “hàng hoá” không phải hàng hoá bình thường mà là hàng hoá đặc biệt do Nhà nước cung ứng hoặc uỷ nhiệm cho tổ chức, cá nhân thực hiện, đáp ứng yêu cầu toàn xã hội, bất kể các sản phẩm được tạo ra có hình thái hiện vật hay phi hiện vật.
+ Việc trao đổi dịch vụ công không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Thông thường, người sử dụng dịch vụ công không trực tiếp trả tiền, hay đúng hơn là đã trả tiền dưới hình thức đóng thuế vào ngân sách Nhà nước. Cũng có những dịch vụ công mà người sử dụng vẫn phải trả một phần hoặc toàn bộ kinh phí, song Nhà nước vẫn có trách nhiệm đảm bảo cung ứng các dịch vụ này không vì mục tiêu lợi nhuận.
Với sự đa dạng của các loại dịch vụ công, của các hình thức cung cấp dịch vụ công, và những đặc điểm của dịch vụ công, có thể thấy rằng cung cấp loại dịch vụ này một cách có hiệu quả không phải là một vấn đề đơn giản. Nhà nước phải xác định rõ loại dịch vụ nào cần chuyển giao cho khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội, loại dịch vụ nào mà Nhà nước và khu vực tư nhân có thể phối hợp cung ứng và vai trò điều tiết, quản lý của Nhà nước về vấn đề này như thế nào. Kinh nghiệm của nhiều nước trong những năm qua cho thấy, trong cung ứng dịch vụ công, Nhà nước chỉ thực hiện những loại dịch vụ công mà khu vực phi Nhà nước không thể làm được và không muốn làm. Nếu Nhà nước không chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công ở các lĩnh vực thích hợp cho khu vực phi Nhà nước và cải cách việc cung ứng dịch vụ công của các cơ quan Nhà nước thì hiệu quả cung ứng dịch vụ công về tổng thể sẽ bị giảm sút, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của người dân và sự phát triển chung của toàn xã hội.
2.4 Vai trò của cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp
Để các doanh nghiệp hoạt động và phát triển thì điều kiện cần là phải có các doanh nghiệp. Để các doanh nghiệp ra đời và đi vào hoạt động thì các doanh nghiệp cần thực hiện đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Việc đăng ký kinh doanh chỉ có thể thực hiện từ các cơ quan, tổ chức Nhà nước cung cấp dịch vụ công
Khi các doanh nghiệp đã ra đời, để các doanh nghiệp phát triển được thì cần phải có các yếu tố đầu vào như: đất đai, lao động, tiền vốn… các yếu tố này chịu sự chi phối không nhỏ từ phía các cơ quan Nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ công
Khi cung cấp dịch vụ công, Nhà nước sử dụng quyền lực công để tạo ra dịch vụ như: Cấp các loại giấy phép, đăng ký, chứng thực, thị thực... Tuy xét về mặt hình thức, sản phẩm của các dịch vụ này chỉ là các loại văn bản giấy tờ, nhưng chúng lại có tác dụng chi phối quan trọng đến các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Chẳng hạn giấy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện việc Nhà nước công nhận doanh nghiệp đó ra đời và đi vào hoạt động, điều này dẫn đến những tác động và kết quả đáng kể về mặt kinh tế - xã hội. Ngoài ra, thông qua việc cung ứng dịch vụ công, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để đảm bảo quyền dân chủ và các quyền hợp pháp khác của công dân.
Cung cấp dịch vụ công là một trong những nhân tố quan trọng trong sự phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, bởi các doanh nghiệp này rất hạn chế khi tiếp cận các dịch vụ như: Đào tạo, năng lực kỹ thuật thấp, tiếp thị kém, thiếu thông tin thị trường...
Cung cấp dịch vụ công sẽ thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá của các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Các doanh nghiệp sẽ tập trung vào một số hoạt động chính trong sản xuất kinh doanh chứ không phải đảm nhận tất cả các khâu, các công việc như trước đây.
Việc sử dụng dịch vụ công tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tập trung nguồn lực vào quá trình sản xuất kinh doanh, tránh sự phân tán nguồn lực hiệu quả thấp.
Dịch vụ công tạo cầu nối trong quan hệ giữa các doanh nghiệp và các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học thông qua việc tư vấn của các chuyên gia từ những tổ chức này.
Tính ưu việt của một xã hội được phản chiếu một cách rõ ràng qua chất lượng cung ứng dịch vụ công, bởi vì dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các lợi ích tối cần thiết của xã hội, đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững và có kỷ cương, trật tự. Nếu các dịch vụ công bị ngừng cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, chất lượng thấp thì sẽ dẫn đến những rối loạn trong xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của mỗi người dân, đồng thời tác động tiêu cực đến sự phát triển của mỗi quốc gia.
2.5 Nhân tố ảnh hưởng đến cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp
Một là, năng lực của người cung cấp dịch vụ công
Hiệu quả trong hoạt động cung cấp dịch vụ công phụ thuộc rất lớn vào yếu tố con người, con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Chính con người với năng lực thật của họ mới lựa chọn đúng phương án, các hình thức cung cấp dịch vụ công một cách hiệu quả nhất.
Để cho doanh nghiệp biết về một thông tin nào đó, các nhân viên làm công tác cung cấp dịch vụ công phải nắm bắt, phân tích tâm lý và các nhân tố ảnh hưởng đến ứng xử của doanh nghiệp, từ đó đưa ra quyết định phương án, hình thức cung cấp dịch vụ công phù hợp và hiệu quả.
Hai là, quy trình cung cấp dịch vụ công
Quy trình cung cấp dịch vụ công phù hợp sẽ đảm bảo rút ngắn được thời gian cung cấp, nâng cao số lượng và chất lượng của dịch vụ, đặc biệt trong vấn đề cấp đăng ký kinh doanh, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trong việc vay vốn của các ngân hàng.
Ba là, cơ sở vật chất kỹ thuật của cơ quan cung cấp dịch vụ công
Về cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ quan cung cấp dịch vụ công còn nhiều thiếu thốn, Ngân sách hoạt động còn nhiều hạn hẹp, đây là yếu tố quan trọng đã làm ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng cung cấp dịch vụ công cho các doanh nghiệp.
Bốn là, giá của dịch vụ công
Giá dịch vụ công có ảnh hưởng lớn tới số lượng và chất lượng cung cấp dịch vụ, ảnh hưởng tới nhu cầu về dịch vụ của các doanh nghiệp. Ví dụ trong công tác hội trợ triển lãm, mặc dù các doanh nghiệp nhận thức được tác dụng khi tham gia hội trợ triển lãm nhưng do chi phí tham gia hội trợ quá cao nên các doanh nghiệp dù muốn nhưng vẫn không thể tham gia.
Năm là, phẩm chất đạo đức của người cung cấp dịch vụ công
Thái độ của cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả cung cấp dịch vụ, chẳng hạn trong đăng ký kinh doanh, thái độ của một số nhân viên Phòng Đăng ký kinh doanh còn thể hiện thiếu hợp tác, việc góp ý về hồ sơ còn mang tính áp đặt, chủ quan, đôi khi còn hống hách, gây khó dễ theo kiểu xin cho cũng góp phần làm cho thời gian được cấp giấy chững nhận đăng ký kinh doanh dài hơn quy định, góp phần làm tăng chi phí gia nhập thị trường.
Sáu là, sự quản lý vĩ mô của Nhà nước
Nhóm các yếu tố thuộc về quản lý vĩ mô là các chủ trương chính sách của Nhà nước tác động vào hoạt động cung cấp dịch vụ công. Trong mỗi điều kiện cụ thể của từng nước, từng thời kỳ mà các chủ trương, chính sách của Nhà nước tác động vào việc cung cấp dịch vụ công khác nhau. Các chủ trương, chính sách của Nhà nước sẽ tạo hành lang pháp lý cho hoạt động cung cấp dịch vụ công.
2.6 Nội dung cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp
Đất đai, mặt bằng SX
Phát triển doanh nghiệp
Đăng ký kinh doanh
Tín dụng ngân hàng(vốn)
Đào tạo nguồn nhân lực
Xúc tiến thương mại
Nội dung cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp có thể được thể hiện như sau (Hình 2.2)
Hình 2.2: Nội dung cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp
2.6.1 Về đăng ký kinh doanh
Giấy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện việc Nhà nước công nhận doanh nghiệp đó ra đời và đi vào hoạt động, điều này dẫn đến những tác động và kết quả đáng kể về mặt kinh tế xã hội. Nội dung đăng ký kinh doanh liên quan đến các vấn đề như: Quy định về đăng ký kinh doanh; thực hiện đăng ký kinh doanh; cơ quan đăng ký kinh doanh; thủ tục và chi phí gia nhập thị trường,..
2.6.2 Đất đai và mặt bằng sản xuất
Đất đai, mặt bằng sản xuất là một yếu tố đầu vào rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Đây cũng là một trong những vấn đề khó khăn nhất đối với doanh nghiệp. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, chính quyền các cấp cần xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch đất đai, quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng, quy hoạch phát triển các khu công nghiệp; đồng thời công khai thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để các doanh nghiệp biết và xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh, thuê mặt bằng,… Ngoài ra, các cấp chính quyền cần tháo gỡ những khó khăn trong thủ tục cấp đất, thuê đất, giải phóng mặt bằng…
Nội dung về đất đai và mặt bằng sản xuất liên quan đến các vấn đề như: Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất; điều kiện để doanh nghiệp được giao đất, thuê đất; về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp; giá thuê đất; ưu đãi về giá thuê đất và miễn giảm tiền thuê đất khi các các nhà đầu tư có vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu du lịch trên địa bàn.
._.
2.6.3 Tín dụng ngân hàng
Các doanh nghiệp Việt Nam, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này yếu thế về qui mô nên rất khó tiếp cận vốn. Để các doanh nghiệp có thể tiếp cận các nguồn vốn cần chý ý một số biện pháp như: Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà cho các doanh nghiệp để họ có những giấy tờ cần thiết thế chấp vay vốn. Sớm thành lập quỹ đầu tư vốn hoặc đầu tư mạo hiểm của địa phương từ nhiều nguồn khác nhau như: Ngân sách Nhà nước, các nguồn tài trợ quốc tế, đóng góp của các doanh nghiệp. Mục đích chủ yếu là cho vay đối với những dự án theo các ý tưởng mới, có triển vọng, có độ rủi ro cao nhưng cũng có thể thu được lợi nhuận lớn. Ngoài ra, để các doanh nghiệp có thể tiếp cận được với các ngân hàng, cần thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng là trung gian kết nối giữa ngân hàng với doanh nghiệp; các cơ quan chức năng có thể cung cấp thông tin cần thiết để các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn nước ngoài.
Các ngân hàng quốc doanh cần có ưu đãi đối với các doanh nghiệp như: ưu đãi lãi suất vay vốn, lãi suất cho thuê tài chính và phí cung cấp các dịch vụ của ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
2.6.4 Đào tạo nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa lớn để phát triển và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Tự thân các doanh nghiệp khó có thể đáp ứng nhu cầu này. Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực, cần có sự nối kết giữa các doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo, thông qua đó để nắm bắt nhu cầu của doanh nghiệp, xây dựng nội dung chương trình phù hợp. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần kết hợp chặt chẽ với các trung tâm nghiên cứu khoa học; Nhà nước cần có cơ chế tài chính hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo, có chính sách khuyến khích mở rộng các hình thức đào tạo tại doanh nghiệp. Tạo điều kiện và khuyến khích hình thành các trung tâm đào tạo, thu hút người tài từ nhiều nguồn để bổ sung cho đội ngũ cán bộ đào tạo nghề. Ngoài ra cần khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường hợp tác, liên kết đào tạo, thông qua các hội nghề nghiệp để trao đổi kinh nghiệm, có chính sách thu hút kiều bào ở nước ngoài góp vốn, kiến thức về tham gia công tác đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp. Cần khuyến khích các công ty tư vấn cung ứng các dịch vụ đào tạo, quản lý, xúc tiến thương mại, tìm kiếm cơ hội kinh doanh,… và có chính sách ưu đãi về thuế đối với các dịch vụ này.
Hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho lao động địa phương: Trên cơ sở nhu cầu sử dụng lao động, các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp, khu du lịch trên địa bàn tỉnh được cung cấp lực lượng lao động đã qua đào tạo. Trường hợp các doanh nghiệp có yêu cầu đào tạo nghề cho người lao động của địa phương, được ngân sách tỉnh hỗ trợ kinh phí.
Nội dung đào tạo nguồn nhân lực liên quan một số vấn đề như: số lượng các cung cấp dịch vụ đào tạo, các chương trình đào tạo và chất lượng các chương trình đào tạo, chi phí đào tạo nguồn nhân lực…
2.6.5 Xúc tiến thương mại
Trong những năm gần đây, trước yêu cầu cấp bách của việc mở rộng thị trường xuất khẩu và tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, các hoạt động xúc tiến thương mại đã có những thay đổi và phát triển nhanh cả về chất và lượng. ở hầu hết các tỉnh và thành phố đã quan tâm xây dựng bộ máy và tăng cường cơ sở vật chất cho hoạt động xúc tiến thương mại, thành lập trung tâm xúc tiến thương mại, tổ chức phòng trưng bày và giới thiệu sản phẩm.
Các hoạt động xúc tiến thương mại như: Cung cấp thông tin thương mại, tổ chức hội chợ triển lãm, công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường… được đẩy mạnh. ở các tỉnh đã có sự phối hợp với các cơ quan xúc tiến thương mại trong nước và quốc tế để tổ chức các cuộc hội thảo, mở các lớp đào tạo, tập huấn nhằm cung cấp kiến thức về pháp luật thương mại quốc tế, tập quán tiêu dùng cũng như nâng cao khả năng xúc tiến thương mại, nghiệp vụ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xúc tiến thương mại: Định hướng và chương trình dài hạn về xúc tiến thương mại; việc cung cấp thông tin, công tác dự báo chưa được quan tâm đúng mức; Một số chi phí thương mại khá lớn, nên nhiều doanh nghiệp không có khả năng triển khai; nhận thức của các cơ quan làm công tác xúc tiến thương mại và bản thân doanh nghiệp chưa đầy đủ, chưa thấy hết được vai trò của xúc tiến thương mại trong nền kinh tế thị trường; Về cơ sở vật chất để phục vụ công tác xúc tiến thương mại; đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại; nội dung và phương thức triển khai xúc tiến thương mại; một số cơ chế chính sách về xúc tiến thương mại của Nhà nước và của tỉnh chưa đồng bộ và rõ ràng, gây khó khăn trong quá trình triển khai.
2.7 Thực tiễn về cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp
2.7.1 Các hình thức chuyển giao dịch vụ công trên Thế giới
Kinh nghiệp từ nhiều nước cho thấy, nếu Nhà nước tự thân thực thi toàn
bộ các chức năng của mình mà bỏ qua các nhân tố thị trường và xã hội thì sẽ dẫn tới một Nhà nước yếu và một xã hội kém phát triển. Cũng vậy, trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công, nếu Nhà nước chỉ sử dụng bộ máy của mình để cung ứng dịch vụ thì chắc chắn sẽ dẫn tới những bất cập cả về khối lượng và chất lượng cung ứng. Do đó, cùng với việc phải đổi mới hiệu quả cung cấp dịch vụ công ngay trong khu vực Nhà nước, điều quan trọng là Nhà nước phải chuyển giao các loại dịch vụ công mà xã hội có thể đảm nhiệm đi đôi với việc kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ công.
Hộp 2.2: Các hình thức chuyển giao dịch vụ công trên Thế giới
1- Nhà nước bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp Nhà nước cung ứng dịch vụ công cho tư nhân hoặc một tập thể;
2- Nhà nước bán một phần cổ phần của doanh nghiệp Nhà nước cung ứng dịch vụ công ra ngoài xã hội;
3- Nhà nước cho thuê doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công đối với tư nhân hoặc tập thể;
4- Khoán kinh doanh cung ứng dịch vụ công cho tư nhân hoặc tập thể;
5- Ký hợp đồng hoặc đơn đặt hàng với các doanh nghiệp hoặc tổ chức trong việc cung ứng dịch vụ công theo yêu cầu của Nhà nước;
6- Cho phép các doanh nghiệp hoặc tổ chức tư nhân tham gia vào các lĩnh vực cung ứng dịch vụ công và chịu sự quản lý của nhà nước thông qua luật lệ và quy chế.
Nguồn: Lê Chi Mai (2003)
2.7.2 Cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp ở Mỹ và kinh nghiệp rút ra với Việt Nam
ở Mỹ, sự phát triển của các doanh nghiệp có vai trò hết sức quan trọng, trong đó Mỹ cũng đặc biệt chú ý đến sự đóng góp to lớn trong nền kinh tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do vậy, Chính phủ Mỹ rất quan tâm, chú trọng trong việc cung cấp các dịch vụ quan trọng, nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
* Về tổ chức hành chính
ở Mỹ, tổ chức lớn có vai trò trực tiếp hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đó là: Cơ quan Quản lý doanh nghiệp nhỏ của Mỹ (SBA). SBA gồm có 90 chi nhánh với nhiều nhiệm vụ khác nhau ở các thành phố trên khắp đất nước. SBA cung cấp một loạt các dịch vụ như: hỗ trợ về tài chính; trợ giúp về quản lý; trợ giúp kỹ thuật.
Ngoài tổ chức lớn nhất là SBA ra, ở Mỹ còn có nhóm Uỷ viên ban quản trị có hiệu lực (ACEO) và nhóm Uỷ viên ban quản trị dịch vụ đã nghỉ hưu (SCORE). Đây là 2 tổ chức mà SBA có quan hệ chặt chẽ. Các nhóm này cung cấp những dịch vụ tư vấn không phải trả tiền cho các doanh nghiệp nhỏ. Dịch vụ không mất tiền này là hình thức giúp đỡ về mặt tài chính. Trợ giúp tài chính có thể được coi là có hiệu lực dưới hình thức vốn vay, hầu hết là phải cộng tác với ngân hàng. Những vốn vay này bao gồm nhiều loại khác nhau như: vốn vay đối với cá nhân ở vào thế bất lợi (vốn vay cơ hội kinh tế) và vốn vay đối với những người tàn tật và các doanh nghiệp gặp rủi ro.
Một tổ chức nữa là Công ty đầu tư doanh nghiệp nhỏ (SBICs) đã được SBA cấp giấy phép cũng lập ra quỹ có hiệu lực và cung cấp sự hỗ trợ về quản lý cho các doanh nghiệp nhỏ.
Ngoài ra, còn có các Công ty đầu tư doanh nghiệp nhỏ giành cho các dân tộc thiểu số (MESBICs) cung cấp những dịch vụ cho các thành viên của nhóm dân tộc thiểu số.
* Về tài chính, tín dụng
Mặc dù với số vốn ban đầu không cần lớn, nhưng khó khăn về mặt tài chính là một trở ngại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở ngay giai đoạn hoạt động của nó và làm cho nó yếu đi. Vì vậy, Chính phủ Mỹ đã có chính sách hỗ trợ tài chính và tín dụng để hình thành và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn vay vừa là chất xúc tác để mở rộng tăng trưởng, vừa là một cái đệm an toàn phòng khi “sảy chân” về tài chính. Đặc biệt là trong những năm đầu, khi quỹ dự phòng của các doanh nghiệp nói chung còn nhỏ, vốn vay có thể trở thành một công cụ tối cần thiết để xây dựng nền móng vững chắc và tạo khả năng sinh lãi thực sự cho doanh nghiệp.
ở Mỹ, vốn của doanh nghiệp nhỏ chủ yếu có từ 3 nguồn:
- Tiết kiệm của chính người bắt đầu lập doanh nghiệp nhỏ hoặc vay từ bạn bè hay những người thân.
- Vay các ngân hàng.
- Vay cơ quan quản lý doanh nghiệp nhỏ (SBA).
- Thông thường, nguồn tiền vay ngân hàng rất khó khăn. Nhiều ngân hàng giới hạn số tiền vay ban đầu đến 50% số lượng cần thiết và đòi hỏi phải có thế chấp và tín chấp mới được vay. Hơn nữa, nhiều ngân hàng thường đòi doanh nghiệp nhỏ trả lãi tương đối cao - cao hơn 2 đến 3 điểm so với mức họ thường cho các khách hàng lớn vay. Vì vậy, Chính phủ Mỹ đã lập ra một số ngân hàng gọi là “ngân hàng xí nghiệp nhỏ” cho các doanh nghiệp nhỏ vay vốn, có nhiệm vụ nuôi dưỡng các doanh nghiệp nhỏ và đưa ra mức lãi suất ưu đãi hoặc các dịch vụ đặc biệt để giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ. Đây là điểm mà Việt Nam nên xem xét để học tập. Khi các doanh nghiệp nhỏ vay vốn để kinh doanh thì khoản tiền lãi phải trả được giảm thuế. Nói cách khác, Nhà nước có chính sách giảm mức thuế lợi tức cho các doanh nghiệp nhỏ. ở Mỹ, những công ty có dưới 35 cổ đông được miễn thuế lợi tức, chỉ sau khi chia lợi tức cho cổ đông lúc đó các cổ đông mới phải đóng thuế. Đó là một ưu đãi rất lớn, cho nên ở Mỹ có nhiều công ty cố tình muốn nhỏ. Như vậy, trên thực tế, Chính phủ đã trợ cấp một phần chi phí cho việc vay vốn kinh doanh của các công ty nhỏ. Có 3 mức thuế suất dành cho các doanh nghiệp hay hiệp hội phụ thuộc và lợi nhuận thu được, đó là: 15% khi lợi nhuận đạt tới 50.000 USD; 25% khi lợi nhuận đạt 75.000 USD và 34% khi lợi nhuận đạt cao hơn.
Khi số tiền vay của các doanh nghiệp lên đến 150.000 USD thì họ có thể vay ở Cơ quan quản lý doanh nghiệp nhỏ (SBA). Thông thường vốn vay của SBA được hưởng một phần trợ cấp, thể hiện ở mức lãi suất thấp hơn nhiều so với lãi suất của các ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, SBA còn bảo lãnh cho nhiều doanh nghiệp nhỏ vay được ở ngân hàng đến 500.000 USD với điều kiện người vay phải hoàn trả lại nếu như kinh doanh thất bại.
* Về hỗ trợ xuất khẩu
Một cơ quan trợ giúp xuất khẩu rất lớn và có hiệu quả nữa, đó là Bộ thương mại. Các chuyên gia thương mại quốc tế đều nằm ở các văn phòng khu vực của Bộ thương mại đóng trên toàn quốc. Công việc của họ là khuyến khích xuất khẩu bằng cách giúp cho các doanh nghiệp nhỏ địa phương phát triển và duy trì được các chương trình xuất khẩu thành công.
Một doanh nghiệp nào đó yêu cầu trợ giúp xuất khẩu sẽ tiếp xúc với văn phòng dịch vụ kinh doanh gần nhất của Bộ thương mại. Một chuyên gia thương mại sẽ hoạt động với tư cách là cố vấn xuất khẩu của doanh nghiệp, làm việc chặt chẽ với chủ doanh nghiệp, và đến cả thực địa để xem xét đến khả năng của doanh nghiệp đó. Chuyên gia này sẽ duy trì các quan hệ thường xuyên cho đến khi doanh nghiệp đã sẵn sàng có thể xử lý được chương trình xuất khẩu, sau đó chuyên gia thương mại thỉnh thoảng có xem xét đến mức tiến triển của doanh nghiệp và đề xuất sự giúp đỡ bổ sung nếu thấy cần.
Đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ hoạt động xuất khẩu là các trung tâm hỗ trợ xuất khẩu (Export Assistance Center - EACs). Nhiệm vụ chính của EACs là tìm kiếm các thị trường mới, xây dựng chiến lược xuất khẩu trên cơ sở các thông tin thu lượm được ở các thị trường nước ngoài. Cung cấp các thông hữu ích về các cuộc triển lãm, hội chợ trong nước và quốc tế, giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được các thị trường mới, cũng như tiếp cận được chương trình tài trợ và khuyến khích xuất khẩu của Bộ thương mại Mỹ, của các tổ chức Nhà nước và tư nhân khác. Cùng làm việc này còn có trên 900 trung tâm phát triển doanh nghiệp nhỏ (Small Business Development Centers - SBDCs) do cơ quan quản lý doanh nghiệp nhỏ tổ chức (Small Business Administration - SBA).
Nhiệm vụ hàng đầu của các trung tâm này là làm tư vấn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa mới tham gia làm hàng xuất khẩu.
Ngoài ra, Hội đồng xuất khẩu khu vực (District Export Council - DEC) cũng có vai trò tích cực trong việc hỗ trợ hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đặc biệt ở Mỹ, người ta rất coi trọng việc nghiên cứu cụ thể thị trường, khảo sát tại chỗ, nắm chắc những khó khăn và thuận lợi, đánh giá đúng tình hình trước khi đưa hàng vào thị trường. Những thông tin cần thiết cho khảo sát thực địa sẽ do sở “Flash Fax”- Bộ thương mại Mỹ cung cấp. Ngoài ra, còn nhờ vào nguồn tại các tổ chức khác như: “Country Desk Offices”, “Trade Development Industry Offices” và “National trade data bank”.
Các doanh nghiệp Mỹ còn đặc biệt quan tâm đến những phương thức tiếp cận thị trường sau đây, điều mà Việt Nam có lẽ chưa quan tâm tới:
- Theo dõi những quảng cáo trên sách báo hàng ngày để nắm vững những thông báo giới thiệu sản phẩm, nhất là những sản phẩm mới do những doanh nghiệp nhỏ mới tham gia xuất khẩu hàng trên thị trường giới thiệu
- Chú ý nghiên cứu những thông tin quảng cáo trên vô tuyến truyền hình hoặc những sản phẩm được trưng bày tại hội chợ triển lãm
- Giới lãnh đạo các doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu cần tranh thủ tham gia các đoàn chuyên gia kinh tế thương mại đi tham quan khảo sát các thị trường ngoài nước để tìm đối tác kinh doanh và mở rộng giao lưu kinh tế.
- Các doanh nghiệp Mỹ cũng có thể công bố những thông tin về sản phẩm chào hàng trên bản tin thương mại Mỹ (Commercial News USA). Bản tin này được phát hành mỗi năm 10 kỳ, và được Chính phủ Mỹ cho phép gửi kèm những lô hàng xuất khẩu tới hàng trăm nước và vùng lãnh thổ trên Thế giới để phổ biến rộng rãi.
* Về hỗ trợ kỹ thuật
Cơ quan quản lý doanh nghiệp nhỏ Mỹ (SBA) cung cấp những dịch vụ trợ giúp kỹ thuật cho doanh nghiệp nhỏ. Dịch vụ này có nhiệm vụ hướng dẫn chọn nguyên vật liệu, máy móc, công cụ và sử dụng chúng sao cho có hiệu quả nhất. Chúng đưa ra những lời khuyên cụ thể về lắp đặt máy, sơ đồ dây chuyền sản xuất, kỹ thuật sản xuất, bảo dưỡng, sửa chữa và thử nghiệm. Ngoài ra, Chính phủ còn có chính sách giảm giá mua nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp nhỏ.
* Những vấn đề đặt ra và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
- Điều kiện tiên quyết của việc phát triển và hỗ trợ cho các DN là nên nhận diện rõ ràng các doanh nghiệp sản xuất hoặc doanh nghiệp dịch vụ được khẳng định là cần hỗ trợ.
- Chính phủ Mỹ đánh giá cao tầm quan trọng to lớn của doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế, do đó rất quan tâm đến đối tượng kinh tế này và thúc đẩy nó phát triển mạnh mẽ. ở Việt Nam, gần đây cũng đã quan tâm đến khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ và đã hình thành một số tổ chức, trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, song do mới thành lập nên cần học hỏi kinh nghiệm hoạt động ở các nước khác trên Thế giới. Điều đáng nói ở đây là các tổ chức này chưa có liên hệ chặt chẽ với các tổ chức tương ứng của khu vực này trên Thế giới.
- Việc thiết lập cơ quan quản lý doanh nghiệp nhỏ Mỹ (SBA) với chức năng cung cấp những dịch vụ quan trọng như hỗ trợ về tài chính, trợ giúp quản lý… có tác dụng quan trọng đối với sự nghiệp phát triển doanh nghiệp nhỏ. Đây là vấn đề Việt Nam nên nghiên cứu và học tập vì hiện nay, ở Việt Nam chưa có tổ chức thống nhất nào đại diện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính điều này đã phần nào hạn chế sự phát triển của chúng.
- ở Mỹ, doanh nghiệp nhỏ chủ yếu tập trung trong lĩnh vực dịch vụ. Đây là một điểm Việt Nam cũng cần lưu ý vì doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ là một mô hình thích hợp với nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh ở Việt Nam, bởi vì khi một nước phát triển nền kinh tế thị trường thì đi cùng với nó là việc phát triển các nghành dịch vụ.
- Chính phủ Mỹ có các chính sách khuyến khích cụ thể đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như: chính sách miễn giảm thuế lợi tức cho doanh nghiệp nhỏ; trợ giúp kỹ thuật, thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng… Ngoài ra, Mỹ còn thiết lập những tổ chức cung cấp các dịch vụ tư vấn không mất tiền cho các DNVVN. Dịch vụ không phải trả tiền này là một trong những hình thức trợ giúp về mặt tài chính rất thiết thực.
- Doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ là một mô hình cần nghiên cứu vì nó giúp chúng ta giải quyết được bài toán về lao động rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh kinh tế Việt Nam, khi mà các doanh nghiệp thiếu vốn, còn xã hội lại thừa cả về vốn và lao động, đặc biệt là ở những vùng nông thôn.
2.7.3 Cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp ở Nhật Bản và kinh nghiệp rút ra với Việt Nam
* Về tổ chức hành chính
Có 3 tổ chức hành chính có vai trò hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp.
- Các tổ chức tài chính và tín dụng của Chính phủ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là tổ chức hỗ trợ về mặt tài chính đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ thống này bao gồm 3 tổ chức chính sau: Kho bạc nhân dân, tổ chức tài chính Nhật Bản cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và Ngân hàng công thương.
- Cơ quan bảo đảm tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ gồm: Hiệp hội bảo lãnh tín dụng và tổ chức bảo hiểm tín dụng, với chức năng đứng ra bảo lãnh các hoạt động vay mượn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với các tổ chức tín dụng tư nhân.
- Các bộ phận xúc tiến doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc phòng thương mại và công nghiệp Nhật Bản và các phòng thương nghiệp và công nghiệp địa phương. Tất cả các thành phố chính ở Nhật Bản đều có một phòng thương mại và công nghiệp, trong đó có một bộ phận xúc tiến doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bộ phận này có hai chức năng chủ yếu sau: một là cung cấp thông tin về cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (thông tin thương mại Quốc tế, đầu tư đối tác...). Hai là, tổ chức các cuộc hội thảo về đầu tư, xuất bản tin ngắn, giới thiệu đối tác liên doanh, cung cấp dịch vụ tư vấn và hòa giải.
* Về hỗ trợ tài chính và tín dụng
- Kho bạc nhân dân (people's finance corporation - PFC )
PFC thành lập năm 1949 với chức năng chủ yếu của hệ thống này là cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay và đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ có tính chất gia đình thì được ưu tiên hơn. Đây là các doanh nghiệp có tương lai phát triển, nhưng không có khả năng vay được vốn từ các ngân hàng tư nhân. Thông thường có 80% các doanh nghiệp thuộc loại này được vay không phải thế chấp và theo dõi bảng thu chi. Hệ thống PFC có 150 cơ sở và ngoài ra còn có 650 đại lý cho vay, tổng số 800 cơ sở trên toàn quốc. Nguồn vốn do Chính phủ cấp và nó chiếm 6% vốn đầu tư và chương trình cho vay của Chính phủ. Đây là số tiền vốn Chính phủ thu hút từ nhân dân thông qua hình thức tiết kiệm qua hệ thống bưu điện, tiền bảo hiểm của người lao động và tiền hưu trí của Quốc gia.
- Tổ chức tài chính Nhật Bản cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (Japan finance corporation for small business - JFS).
JFS thành lập năm 1953 với chức năng chủ yếu là cho vay hỗ trợ và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mục đích cung cấp vốn dài hạn cần thiết cho việc thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là phần vốn thiếu mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể vay được từ các ngân hàng tư nhân. Số vốn mà JFS cho vay chiếm 2,7% tổng số dư nợ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các khoản cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của JFS chủ yếu là để đầu tư vào nhà xưởng và trang thiết bị, máy móc, bổ sung phần vốn thiếu mà doanh nghiệp vay từ ngân hàng tư nhân. Trong phần này vốn của JFS chiếm 4,4% tổng số dư nợ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nguồn vốn cho JFS họat động do Chính phủ cung cấp và nó chiếm 5,1% tổng số vốn đầu tư ngân sách và chương trình cho vay của Chính phủ. Đây cũng là số tiền vốn Chính phủ thu hút từ nhân dân thông qua hình thức tiết kiệm qua hệ thống bưu điện, tiền bảo hiểm của người lao động vầ tiền hưu trí của Quốc gia.
Trên thực tế, JFS có 2 hình thức cho vay như sau:
Một là, cho vay thông thường với lãi suất 4,9%/năm, đây là hình thức cho vay dài hạn giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào nhà xưởng, trang thiết bị, máy móc, mở rộng các hình thức kinh doanh. Với lãi suất vay dài hạn (có khi là 10 năm) và ổn định như vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có khả năng vay được ở các ngân hàng tư nhân.
Hai là, cho vay đặc biệt với lãi suất ưu đãi hơn hình thức cho vay thông thường (có thể là 3%/năm, tùy theo mức độ ưu tiên của Chính phủ). Đây là hình thức cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay theo các chương trình đặc biệt của Chính phủ.
Ngoài chức năng cho vay, JFS còn cung cấp những thông tin về quản lý và kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Ngân hàng công thương (The Shoko Chukin Bank - SCB)
Ngân hàng công thương Nhà nước (SCB) có những ưu đãi hơn về điều kiện cho vay đối với ngân hàng tư nhân. Đối với ngân hàng tư nhân, điều kiện cho vay rất chặt chẽ: chỉ được dùng đất để thế chấp và được đánh giá bằng 70% giá trị thật của đất, không chấp nhận thế chấp bằng máy móc, lãi suất cho vay biến động theo giá vốn trên thị trường. Trong khi đó, đối với ngân hàng công thương Nhà nước, đất thế chấp được đánh giá bằng 100% giá trị thật của đất, và có chấp nhận máy móc để thế chấp. Lãi suất cho vay được ổn định trong nhiều năm, có khi đến 10 năm.
Đây là một loại mô hình tổ chức tài chính của Nhà nước mà Việt Nam cần quan tâm cân nhắc vận dụng. Nên chăng, ở Việt Nam hình thành loại ngân hàng của Chính phủ (chẳng hạn như quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia hiện nay do Tổng cục đầu tư và phát triển của Bộ Tài chính phụ trách, có thể tổ chức như một ngân hàng của Chính phủ) được điều chỉnh theo khuôn khổ pháp lý riêng, nghĩa là không hoạt động theo pháp lệnh ngân hàng thương mại.
* Hệ thống bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng (còn được gọi là hệ thống hỗ trợ tín dụng công cộng)
Hệ thống này được thành lập để giúp các doanh nghiệp vay tiền vốn từ các ngân hàng tư nhân bằng cách đứng ra bảo lãnh và cung cấp bảo hiểm. Bởi vì các ngân hàng tư nhân khi cho vay luôn luôn xem xét khả năng trả nợ của người vay. Chính vì vậy, điều kiện đầu tiên để cho vay là người vay phải có tài sản thế chấp. Hội bảo lãnh tín dụng được Nhà nước đầu tư vốn đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có thế chấp. Chức năng của hội là nhằm tránh rủi ro cho các ngân hàng tư nhân khi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay. Hỗ trợ cho các hoạt động của Hội bảo lãnh tín dụng, Chính phủ Nhật Bản thành lập một kho bạc bảo hiểm tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng hoạt động bằng vốn của Nhà nước. Cơ chế họat động của hệ thống này có thể được hiểu sơ bộ như sau:
- Hội bảo lãnh tín dụng có mặt tại 52 thành phố trên toàn quốc, Hội sẽ đứng ra xem xét các đơn xin bảo lãnh tín dụng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi một doanh nghiệp vừa và nhỏ được Hội bảo lãnh tín dụng đảm bảo, thì doanh nghiệp vừa và nhỏ này có thể vay tiền từ một ngân hàng tư nhân. Hội bảo lãnh tín dụng sẽ bảo hiểm số lượng tiền này bằng cách mua bảo hiểm của kho bạc bảo hiểm tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Khi mà doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng trả nợ, Hội bảo lãnh tín dụng sẽ đứng ra trả số dư nợ đó với ngân hàng. Sau đó, Hội bảo lãnh tín dụng sẽ nhận từ tổ chức bảo hiểm tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ từ 70 -80% số lượng tiền mà nó phải trả thay cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thiết nghĩ, Việt Nam cũng nên nghiên cứu cơ chế hoạt động của hệ thống bảo lãnh tín dụng và bảo hiểm tín dụng ở Nhật Bản để đưa ra giải pháp tổ chức hợp lý khâu bảo lãnh tín dụng thế chấp, tín chấp để tạo thuận lợi nhưng cũng kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
* Ngoài ra, ở Nhật Bản còn có Liên đoàn các doanh nghiệp nhỏ của Nhật Bản (JSBC)
Năm 1980, Liên đoàn doanh nghiệp nhỏ ở Nhật được thành lập theo Luật, với chức năng chính là thực hiện toàn bộ các chính sách giúp đỡ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cụ thể như sau:
- Thúc đẩy việc hiện đại hóa và nâng cấp cơ cấu doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Nâng cao khả năng của doanh nghiệp nhờ phát triển công nghệ kỹ thuật.
- Giúp đỡ doanh nghiệp trong các nỗ lực hoạt động kinh doanh quốc tế.
- Giúp doanh nghiệp đào tạo nguồn nhân lực.
Các chi nhánh JSBC thực hiện từng chuyên đề phù hợp với từng địa bàn, trong từng thời gian. Riêng văn phòng chính của JSBC thực hiện đủ 5 chức năng sau:
- Hướng dẫn và tài trợ cho các dự án nâng cấp doanh nghiệp.
- Đào tạo cán bộ công nhân tại hoc viện quản lý và công nghệ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Cung cấp dịch vụ thông tin, nâng cấp kỹ thuật và hỗ trợ cho việc quốc tế hóa của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Điều hành hệ thống hỗ trợ lẫn nhau của các doanh nghiệp loại nhỏ.
- Điều hành hệ thống hỗ trợ lẫn nhau nhằm ngăn chặn phá sản trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để đứng vững và tồn tại trên thị trường trong điều kiện môi trường kinh doanh luôn sôi động và biến đổi, doanh nghiệp phải tự vươn lên trong chiến lược kinh doanh, trước hết phải hiện đại hóa đối với cơ cấu kinh doanh cho phù hợp. Dự án nâng cấp doanh nghiệp liên quan đến 2 yếu tố: đào tạo nhân sự và đầu tư vốn.
JSBC cung cấp dịch vụ tư vấn và giúp đỡ tài chính cho dự án:
- Dịch vụ tư vấn, dự toán
- Thực hiện cho vay theo cơ chế
JSBC
Chính quyền sở tại
Doanh nghiệp
Đề nghị vay Đề nghị vay
Cho vay Cho vay
Hình 2.3: Quy trình cho vay vốn của Liên đoàn các doanh nghiệp nhỏ của Nhật Bản (JSBC)
JSBC cùng với chính quyền địa phương cung cấp từng khoản vay cho các hiệp hội hợp tác doanh nghiệp vừa và nhỏ để thực hiện dự án nâng cấp doanh nghiệp. Các khoản cho vay này sẽ được thực hiện trong một thời gian phù hợp nhất.
* Một số ý kiến về sử dụng kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp ở Việt Nam.
- Hệ thống các biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản, phần lớn là những ưu đãi từ phía Chính phủ, trong đó quan trọng nhất là những hỗ trợ về tài chính, tín dụng qua vốn và lãi suất. Hỗ trợ về tài chính của Nhật Bản không hề mang tính bao cấp, nhưng đều thể hiện sự chăm lo của Nhà nước đối với doanh nghiệp qua biện pháp tài trợ dưới hình thức tín dụng Nhà nước có hoàn trả cả vốn và lãi, nhưng với lãi suất thấp. Thiết nghĩ, đây là vấn đề mà Việt Nam nên học tập, đặc biệt là việc thiết lập ngân hàng dành riêng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Trong các biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp, cần quan tâm đến hoạt động đầu tư vốn, trước hết là đầu tư vốn cho doanh nghiệp về đổi mới công nghệ, với phương thức thích hợp loại hình doanh nghiệp này là: chuyển giao, nhập công nghệ và cải tiến công nghệ được chuyển giao. Đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang tiến vào thế kỷ 21 là yếu tố có tính quyết định của mọi doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tiếp đến là tư vấn về thị trường cho doanh nghiệp, kể cả "đầu vào" (mua sắm vật tư, trang thiết bị kỹ thuật, tổ chức dây truyền sản xuất...) và "đầu ra", đảm bảo chất lượng sản xuất ra, marketing để thiết lập quan hệ với khách hàng, dịch vụ sau khi bán hàng, từ đó tạo thông tin tiêu thụ ổn định ở trong nước và nước ngoài, tránh và giảm được rủi ro.
- Đã đến lúc Việt Nam cần có những chính sách thể hiện sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế chung.
- Hoạt động của Liên đoàn các doanh nghiệp nhỏ của Nhật Bản (JSBC) đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ khiến Việt Nam phải có liên hệ với hoàn cảnh nước mình, để có hình thức áp dụng thích hợp. Hiện nay ở Việt Nam đã thành lập hội đồng liên minh các hợp tác xã Hà Nội, liên minh hợp tác xã Việt Nam, song vấn đề là làm sao cho các tổ chức này hoạt động có hiệu quả.
3. Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu
3.1 Đặc điểm của Thị xã Tam Điệp
3.1.1 Đặc điểm tự nhiên
Thị xã Tam Điệp được thành lập ngày 17/12/1982 theo Quyết định số 200/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Tam Điệp là Thị xã miền núi nằm ở phía Tây - Nam tỉnh Ninh Bình trên trục Quốc lộ 1A, là nơi giao lưu giữa phía Bắc Trung Bộ và phía Nam đồng bằng Bắc Bộ. Cách Thủ đô Hà Nội 105 km về phía Nam, cách Thành phố Ninh Bình 12 km, Thị xã Tam Điệp nằm gần các trung tâm công nghiệp lớn như Thị xã Bỉm Sơn, Thành phố Ninh Bình...
Phía Bắc - Đông Bắc giáp huyện Nho Quan và Hoa Lư
Phía Đông - Đông Nam giáp huyện Yên Mô
Phía Tây và Tây Nam giáp huyện Hà Trung (tỉnh Thanh Hoá).
Thị xã có 12 km đường Quốc lộ 1A, 8 km đường quốc lộ 12B đi Nho Quan, Hoà Bình và 11km đường sắt Bắc - Nam chạy qua (với 2 Ga: Ga Ghềnh, Ga Đồng Giao) rất thuận cho giao thông và phát triển kinh tế - xã hội.
Thị xã Tam Điệp thuộc vùng bán sơn địa, có địa hình phức tạp, nhiều núi đá vôi, đồi dốc, ruộng trũng. Cao độ địa hình dao động từ +4 đến +53m, địa hình dốc từ Tây Bắc xuống Đông Nam, trung bình 70 - 110. Vùng đất trũng xen kẽ núi đá vôi: bao gồm các xã Yên Sơn, Yên Bình, Đông Sơn, là vùng trồng lúa của Thị xã, với tổng diện tích đất trồng lúa hiện nay trên 1.450 ha. Vùng đồi: Diện tích 3.525 ha, là vùng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng diện tích đất của Thị xã, thuộc nhóm đất Feralit đỏ, vàng rất thích hợp trồng cây công nghiệp và cây ăn quả. Trước kia được khai thác trồng cà phê, chè, cây màu; hiện nay đang hình thành vùng cây ăn quả tập trung, trồng dứa, ngô rau, lạc tiên cung cấp nguyên liệu cho nhà máy chế biến đồ hộp xuất khẩu. Vùng núi đá vôi: Diện tích 2.323,6 ha (chiếm 21% diện tích tự nhiên), là một phần của dãy núi Biện Sơn - Tam Điệp, đây là khu vực có trữ lượng lớn về đá vôi và đôlômít, là nguồn nguyên liệu quan trọng để sản xuất vật liệu xây dựng như: Xi măng và một số hoá chất công nghiệp.
Khí hậu của Thị xã Tam Điệp là khí hậu thuộc tiểu vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Hàng năm chịu ảnh hưởng từ 2 - 4 cơn bão. Nhiệt độ trung bình hàng năm 23,20C, độ ẩm trung bình 81,2%, lượng mưa trung bình 1.786,2 mm/năm, số giờ nắng trung bình 1.600h.
Tài nguyên khoáng sản: Đá vôi trữ lượng 3 tỷ m3, có hàm lượng Đôl._.p về sản phẩm Việt Nam cũng như hình ảnh đất nước Việt Nam trên thị trường quốc tế: Để hội nhập quốc tế thành công, một trong những hoạt động cần được tỉnh Ninh Bình triển khai để hỗ trợ doanh nghiệp là hoạt động hỗ trợ phát triển thương hiệu doanh nghiệp. Cần hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu, hỗ trợ đào tạo các chuyên gia nghiên cứu, thiết kế, quảng cáo thương hiệu, hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký thương hiệu, bảo vệ thương hiệu khi có tranh chấp xảy ra. Cũng giống như thương hiệu, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ nâng cao hình ảnh quốc gia được đặt ra với tất cả các tổ chức xúc tiến thương mại, các tổ chức ngoại giao, các cơ quan nhà nước…với quan hệ quốc tế rộng rãi của mình, trong việc thực hiện chức năng xúc tiến thương mại, đầu tư, tỉnh Ninh Bình cần chú trọng gắn kết các hoạt động của mình với nhiệm vụ nâng cao hình ảnh quốc gia, tạo tiền đề cho việc tăng cường thu hút đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu của tỉnh Ninh Bình nói riêng và Việt Nam nói chung.
Hỗ trợ phát triển sản phẩm: tăng cường hỗ trợ thiết kế và cải tiến sản phẩm, quản lý chất lượng (ISO 9000, ISO 14000, HACCP, SA 8000 và những tiêu chuẩn khác). Trước mắt, trung tâm xúc tiến thương mại tỉnh Ninh Bình cần tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về phát triển sản phẩm, nhằm giúp doanh nghiệp ý thức được sự cần thiết và hướng dẫn doanh nghiệp những nội dung cụ thể về phát triển sản phẩm, tổ chức các khoá đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ cho doanh nghiệp, tư vấn cho doanh nghiệp về hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm quốc tế (ISO), tiêu chuẩn môi trường và lao động của Mỹ (SA 8000), tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phẩm thuỷ sản xuất khẩu sang châu âu (HACCP)…tổ chức cho doanh nghiệp tham quan, khảo sát các tiêu chuẩn sản phẩm và điều kiện lao động tại Mỹ, Nhật Bản, châu Âu…
Năm là, hỗ trợ tài chính cho hoạt động xúc tiến thương mại
Tỉnh Ninh Bình cần xây dựng cơ chế và mô hình hoạt động xúc tiến thương mại có hiệu quả. Hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động xúc tiến thương mại của doanh nghiệp (thông qua chính sách tài chính), hỗ trợ gián tiếp bằng cách dành nguồn kinh phí thích đáng để các tổ chức xúc tiến thương mại nhà nước tiến hành những hoạt động xúc tiến thương mại phục vụ cho cộng đồng doanh nghiệp thông qua các hoạt động như cung cấp thông tin, kiến thức hiểu biết về thị trường quốc tế, chính sách, luật lệ; hướng dẫn xúc tiến quảng bá sản phẩm trong và ngoài nước; tạo điều kiện và hỗ trợ tài chính giai đoạn đầu cho các doanh nghiệp tham gia phòng trưng bày và giao dịch sản phẩm của tỉnh tại thị trường các nước.
Sáu là, xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng nhằm phục vụ xúc tiến thương mại
Tỉnh cần đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho trung tâm xúc tiến thương mại, xây dựng phòng trưng bày sản phẩm xuất khẩu để vừa là nơi giới thiệu sản phẩm, vừa là nơi tổ chức giao lưu, tổ chức hội nghị, hội thảo…đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại, trung tâm hội trợ triển lãm, các sở giao dịch hàng hoá của tỉnh Ninh Bình ở vùng trọng điểm trong nước, đầu tư cho việc thuê mặt bằng, trang thiết bị và nhân lực để hình thành các trung tâm thương mại của tỉnh Ninh Bình ở các thị trường xuất khẩu trọng điểm ở nước ngoài…tăng cường hợp tác quốc tế trong các chương trình cơ sở hạ tầng để tranh thủ các nguồn lực như vốn, kỹ thuật, tư vấn và quản lý cho việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ xúc tiến thương mại, nhất là phục vụ cho xuất khẩu của tỉnh Ninh Bình nói riêng và Việt Nam nói chung.
4.2.2 Giải pháp đối với bản thân các doanh nghiệp
4.2.2.1 Nâng cao năng lực tài chính
Có thể nói vốn là một trong những vấn đề quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp các doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp - Ninh Bình. Nhiều doanh nghiệp đang lâm vào trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng, do đó có nhiều phương án kinh doanh đã bị bỏ lỡ trong khi đáng ra nếu có được nguồn vốn cần thiết sẽ tạo cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn. Tình hình chung hiện nay đối với các doanh nghiệp, là các doanh nghiệp đang đứng trước hai khó khăn: Khi mua nguyên vật liệu để sản xuất phải trả tiền trước thì mới có thể mua được, trong khi muốn bán được sản phẩm nhanh thì lại phải bán chịu.
Để giải quyết những khó khăn về vốn đối với các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp cần phải sử dụng một số biện pháp sau:
Một là, thực hiện sự hợp tác dưới nhiều hình thức như liên doanh, liên kết… để tăng cường khả năng tài chính. Dưới hình thức này, một số doanh nghiệp ít vốn tại địa bàn có thể tìm thấy những người bạn liên minh có nhiều vốn ở địa phương khác muốn làm ăn trên địa bàn mình, hoặc thuần tuý chỉ muốn mở rộng địa bàn hoạt động. Bằng cách này, nhiều doanh nghiệp ít vốn nhưng có quan hệ công nghệ với nhau có thể liên minh lại để đối phó với sự ép giá, ép thể thức thanh toán của cả người bán nguyên liệu với người mua sản phẩm hoặc đẩy nhanh vòng quay của vốn do có sự tin cậy lẫn nhau, giảm bớt thủ tục thanh toán, thậm chí có thể tránh được thuế đánh trùng lắp nhiều lần. Thực tế ở tỉnh Ninh Bình hiện nay, xu hướng liên doanh, liên kết phát triển rất chậm chạp. Có rất ít doanh nghiệp liên kết được với các công ty kinh doanh có uy tín ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và số doanh nghiệp liên kết được với công ty nước ngoài chỉ đếm trên đầu ngón tay, mà phần lớn lại là doanh nghiệp lớn. Tình hình này có ảnh hưởng từ tư tưởng cục bộ địa phương và tư duy sản xuất nhỏ, cần được khắc phục kịp thời.
Hai là, đẩy nhanh quá trình tích lũy, tái đầu tư mở rộng kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao hơn, từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Bằng cách đó, có thể huy động được vốn dưới hình thức tín chấp.
Ba là, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tự có và vốn đi vay. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp xảy ra mâu thuẫn là vừa thiếu vốn lại vừa sử dụng vốn rất lãng phí. Để sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, các doanh nghiệp phải tránh tình trạng để vốn nằm ứ đọng ở các khâu (như dữ trữ vật tư quá lớn, vốn nằm ở sản phẩm dở dang hoặc tồn kho quá nhiều). Biện pháp để khắc phục tình trạng này là thực hiện phương thức thanh toán qua ngân hàng, thông qua đó những khoản tiền nhàn rỗi vẫn có thể sinh lời. Các doanh nghiệp cần nhanh chóng tiếp cận với các tri thức và kinh nghiệm quản trị vốn hiện đại. Hiện tại, hiệu quả sử dụng vốn vẫn được xem xét một cách giản đơn.
Bốn là, cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh có hiệu quả được quyền phát hành cổ phiếu nhằm thu hút vốn nhàn rỗi của người lao động làm việc trong doanh nghiệp, của dân và của các doanh nghiệp khác.
4.2.2.2 Đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ lao động
Trình độ kỹ thuật của lao động có ảnh hưởng tới năng suất và chất lượng sản phẩm, trực tiếp tác động đến hiệu quả kinh doanh, ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp thu hút rất nhiều lao động, song trình độ của các lao động trong các doanh nghiệp lại không cao, phần lớn lao động chưa qua đào tạo cơ bản. Các chủ doanh nghiệp thì thiếu kiến thức quản trị hiện đại và quản lý chủ yếu là bằng kinh nghiệm. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển lâu dài thì vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp này là cần phải hoạch định và triển khai chiến lược đào tạo thích hợp để khắc phục tình trạng trên. Để thực hiện mục tiêu này, các doanh nghiệp ở Thị xã cần áp dụng những giải pháp sau:
Thứ nhất, bản thân các chủ doanh nghiệp cần thường xuyên trau dồi, nâng cao kiến thức quản trị bằng cách tham gia vào các lớp tại chức, các khoá học quản trị ngắn ngày do Nhà nước tổ chức, thông qua đó để tiếp cận với kiến thức quản trị hiện đại và nắm bắt được những thông tin mới về pháp luật, chính sách. Doanh nghiệp cũng cần tham gia vào câu lạc bộ doanh nghiệp của tỉnh để học hỏi thêm kinh nghiệm từ các doanh nghiệp bạn.
Thứ hai, sắp xếp và bố trí nhân lực trong doanh nghiệp một cách hợp lý dựa trên cơ sở năng lực và sở trường của từng người. Qua việc nắm rõ năng lực của từng nhân viên, doanh nghiệp có thể phân loại và đối tượng nào có khả năng học nâng cao, đối tượng nào cần đào tạo cơ bản và đào tạo lại… tránh tình trạng đào tạo một cách đại trà, đào tạo theo phom một cách thiếu hiệu quả.
Thứ ba, người làm công tác quản trị nhân sự trong các doanh nghiệp có thể áp dụng mô tả công việc, thiết lập mục tiêu cụ thể và theo đuổi chúng, tạo ra những khả năng phát triển, phân biệt những phản hồi và đánh giá, phản hồi hai chiều và xác định thời điểm đánh giá rõ ràng. Cũng cần căn cứ vào những hoạt động tập thể học hành. Cần họp định kỳ để lập kế hoạch, đặt ra mục tiêu và tổng kết đánh giá kết quả, thành tích tập thể, giao trách nhiệm cho cá nhân và theo dõi chúng xem đây là khả năng phát triển, có khen thưởng và thúc đẩy tiến bộ. Cách động viên và khen thưởng doanh nghiệp hữu hiệu là giúp mọi người trong doanh nghiệp nắm được thông tin vào bất kỳ lúc nào có phản hồi, thường xuyên yêu cầu nhân viên cung cấp đầu vào và thu hút họ trong việc ra quyết định sở hữu. Cần tiếp tục học hỏi và lắng nghe trong đó có học hỏi từ chính các nhân viên. Biết chúc mừng các cá nhân hoàn thành tốt công việc và ghi nhận xét. Có thể tự tiếp cận nhân viên, nhấn mạnh thành công và kết quả tập thể tạo ra những việc làm tốt và hấp dẫn, giao công việc khác nhau cho nhân viên. Cũng cần tạo ra khả năng thăng tiến và phát triển cá nhân, bồi dưỡng ý thức cộng đồng, trả lương minh bạch và mức lương cao luôn là cách đầu tư có lợi. Cần biết phân phối lợi nhuận làm ra từ doanh nghiệp cho nhân viên.
Thứ tư, các doanh nghiệp cần lưu ý việc đào tạo, trước khi tuyển dụng các nhân viên sẽ được đào tạo tại doanh nghiệp, thực tập nghề hay học nghề. Sau khi tuyển dụng, các nhân viên này có thể được đào tạo tại chức và đào tạo về phương hướng chung của doanh nghiệp. Tăng cường kỹ thuật cho các nhân viên là khâu tiếp theo sau khi có các trao đổi về kết quả công việc của họ. Cần hoạt động phát triển tập thể thay đổi việc làm và đào tạo chéo. Cũng cần phát triển người quản lý biết hướng dẫn nội bộ, thiết lập mục tiêu và đào tạo bên ngoài. Tăng cường và phát huy sáng tạo của người lao động.
Thứ năm, tiến hành hợp tác với các doanh nghiệp lớn, các công ty nước ngoài để nhận được sự hỗ trợ trong đào tạo lao động. Nhờ đó các doanh nghiệp có thể giảm được chi phí đào tạo mà vẫn thực hiện được mục tiêu chiến lược về lao động.
Và cuối cùng, tổ chức các phong trào thi tay nghề trong doanh nghiệp, có chính sách khuyến khích vật chất đối với những người có tay nghề cao, có sáng kiến mới trong lao động…
4.2.2.3 Đổi mới công nghệ
Hiện nay, không chỉ riêng các doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp mà các doanh nghiệp nói chung, tình trạng công nghệ kỹ thuật rất lạc hậu và nghèo nàn, kỹ thuật công nghệ lạc hậu kéo theo năng suất lao động thấp, năng lực cạnh tranh và doanh thu hạn chế đang là áp lực nặng nề đối với các doanh nghiệp này. Việc áp dụng công nghệ trình độ nào đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải phân tích và nghiên cứu kỹ nhằm đạt được hiệu quả cao. Xu hướng chung đối với các doanh nghiệp hiện nay là đối với các doanh nghiệp mũi nhọn thì cần thiết áp dụng công nghệ hiện đại nhằm nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm, phát huy được tối đa lợi thế cạnh tranh của địa phương. Còn các doanh nghiệp không phải là thế mạnh và sản phẩm khó tiêu thụ thì nên áp dụng công nghệ trung gian để tận dụng nguồn nhân lực dồi dào và gá thuê nhân công thấp tại địa phương. Các doanh nghiệp có thể thực hiện các giải pháp sau để nâng cao trình độ công nghệ và để đạt được hiệu quả cao.
Tiến hành liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước để tạo ra những cơ sở kỹ thuật tài chính đủ mạnh, đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại.
Tiến hành nghiên cứu để đưa ra những công nghệ phù hợp với doanh nghiệp, vừa tiết kiệm được chi phí, vừa nâng cao được trình độ nghiên cứu công nghệ của doanh nghiệp.
Dành khoảng 20% lợi nhuận mỗi năm cho việc sửa chữa và đổi mới máy móc thiết bị trong doanh nghiệp cũng như nghiên cứu các thông tin về tình hình phát triển công nghệ trên Thế giới và khu vực.
áp dụng hình thức thuê bổ sung máy móc thiết bị, với hình thức này doanh nghiệp được sử dụng máy móc cần thiết mà không cần đầu tư lớn. Nhờ đó giải quyết được khó khăn về vốn đối với các doanh nghiệp. Hình thức này hiện đang là xu hướng phổ biến ở nước ta.
Trong một số trường hợp nên chuyển giao công nghệ tiên tiến trên Thế giới cho các doanh nghiệp thay cho việc nghiên cứu. Việc này vừa tiết kiệm được chi phí, vừa có công nghệ hiện đại, tuy nhiên cần lưu ý vì tránh tình trạng các doanh nghiệp ở Việt Nam trở thành bãi rác cho các nước phát triển thải hồi công nghệ, thiết bị cũ.
4.2.2.4 Mở rộng thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Sau khi sản xuất hàng hoá thì cái khó nhất của các doanh nghiệp là tiêu thụ sản phẩm này. Hiện nay, sản phẩm của doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp chủ yếu được tiêu thụ tại thị trường trong tỉnh, còn thị trường ngoài tỉnh và nhất là thị trường quốc tế còn chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Không những thế, ngay thị trường tại chỗ, các doanh nghiệp ở Thị xã cũng đang gặp phải sự cạnh tranh rất mạnh từ sản phẩm các tỉnh khác và nhất là từ Hà Nội vào. Để xúc tiến mở rộng thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp cần phải thực hiện một số giải pháp sau:
Doanh nghiệp cần tìm kiếm những thị trường phù hợp với khả năng của các doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng thế mạnh của tỉnh như: xi măng, các sản phẩm chế biến từ nông nghiệp… thì nên mở rộng thị trường ra các tỉnh trong nước và trong khu vực, còn những doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng khó cạnh tranh thì nên tìm kiếm những thị trường ngách cho phù hợp.
Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm bằng cách chú trọng đến chất lượng sản phẩm và hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm. Bởi khả năng cạnh tranh của các loại hàng hoá liên quan đến 3 yếu tố, đó là: Thời gian sử dụng, chất lượng sản phẩm và giá cả. Các doanh nghiệp cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình thông qua các hoạt động cải tiến năng suất, chất lượng.
Các doanh nghiệp nên hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình vào việc đáp ứng nhu cầu thị trường trên cơ sở đó nâng cao lợi nhuận. Muốn đáp ứng tốt nhu cầu thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu, nghiên cứu một số vấn đề như: dân số, mức thu nhập trên đầu người, phong tục, tập quán…
Có thể nói trong kinh doanh hiện nay, các doanh nghiệp rất chú trọng tới hoạt động marketing, bởi nó thật sự cần thiết cho kinh doanh của các doanh nghiệp. Muốn thực hiện tốt công tác này, các doanh nghiệp cần tích cực nghiên cứu dự báo nhu cầu sản phẩm, nhu cầu thị trường. Nghiên cứu thị trường về giá cả, phân phối sản phẩm chất lượng và dịch vụ. Tiến hành quảng cáo cho sản phẩm và dịch vụ, đào tạo nâng cao trình độ của các cán bộ làm nhiệm vụ nghiên cứu và tiếp thị.
Một số sản phẩm thế mạnh có khả năng xuất khẩu thì các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, tìm kiếm thị trường nước ngoài, tìm kiếm đối tác nước ngoài luôn là mục tiêu lớn đối với các doanh nghiệp. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần tìm hiểu, nghiên cứu thị trường quốc tế về giá cả và nhất là chất lượng sản phẩm để tương xứng với thị trường nước ngoài.
5. Kết luận và khuyến nghị
5.1 Kết luận
Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như đã nêu trên đây, ngày càng trở thành động lực chính để phát triển kinh tế - xã hội của Thị xã Tam Điệp, là khu vực thu hút và giải quyết việc làm cho người lao động rất lớn, đồng thời là khu vực tạo ra nguồn thu lớn của ngân sách nhà nước. Trên cơ sở nghiên cứu về tình tình phát triển của các doanh nghiệp và thực trạng cung cấp dịch vụ công cho phát triển doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp, tôi xin đưa ra một số kết luận.
1. Trong thời gian vừa qua, tuy số lượng các doanh nghiệp của Thị xã tăng nhanh, song đa số doanh nghiệp có qui mô nhỏ bé cả về vốn và lao động. Trong khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, còn tình trạng một số doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, song thực tế không tồn tại và hoạt động, gây khó khăn nhiều mặt cho các cơ quan quản lý nhà nước.
2. Đất đai, mặt bằng sản xuất là một yếu tố đầu vào rất quan trọng đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Đây cũng chính là một trong những vấn đề khó khăn đối với doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp bởi có đến 65% trong tổng số doanh nghiệp được điều tra cho rằng, họ sẽ mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nếu vấn đề đất đai được thuận lợi.
3. Do yếu thế về qui mô nên các doanh nghiệp của Thị xã Tam Điệp rất khó tiếp cận vốn, có đến 84% doanh nghiệp có nhu cầu được cung cấp về vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh. Có thể nói, thiếu vốn là một trong những hạn chế lớn nhất trong phát triển doanh nghiệp hiện nay ở Thị xã Tam Điệp.
4. Chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa lớn để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên thực tế, chất lượng đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp ở Thị xã Tam Điệp vẫn còn rất thấp. Theo kết quả điều tra, số lượng lao động không có trình độ còn chiếm tỷ lệ cao: 39% trong tổng số lao động doanh nghiệp. Ngay cả với các doanh nghiệp nhà nước, tỷ lệ này cũng chiếm tới 29,5%. Bên cạnh đó, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý cũng còn hạn chế, 28% giám đốc doanh nghiệp (chủ yếu ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước) trình độ chuyên môn từ sơ cấp đến không qua lớp đào tạo nào. Đây là trở ngại lớn cho việc tiếp nhận, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới và hạn chế năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất.
5. Để hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin trong và ngoài nước như: thông tin về thị trường, thông tin về pháp luật, chính sách, thông tin về công nghệ, về nguồn nguyên liệu…Hiện nay, các doanh nghiệp của Thị xã Tam Điệp thiếu thông tin nghiêm trọng và do vậy làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Theo kết quả điều tra có đến 61% doanh nghiệp có nhu cầu được cung cấp thông tin một cách thường xuyên.
5.2 Khuyến nghị
1. Chính quyền địa phương các cấp của tỉnh tiếp tục triển khai và thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động. Cụ thể là đẩy mạnh cải cách hành chính đối với các lĩnh vực liên quan trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: đăng ký kinh doanh, quản lý thuế, giấy phép xây dựng, cho thuê đất, hải quan…triển khai nhanh mô hình liên thông “một cửa” các thủ tục cấp phép của các cơ quan hành chính nhà nước.
2. Tiến hành rà soát, kiểm tra các doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký đầu tư dự án nhưng đến nay vẫn chưa hoạt động, để có bước tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đồng thời rút giấy đăng ký kinh doanh và thu hồi rút giấy phép đầu tư của những doanh nghiệp không thực hiện đầu tư theo đúng cam kết.
3. Chính quyền các cấp cần xây dựng quy hoạch đất đai, quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, đồng thời thông tin công khai rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để các doanh nghiệp biết và xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, thuê mặt bằng.
4. Tập trung tối đa các nguồn vốn của tỉnh để xây dựng hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp như điện, nước, đường giao thông, cảng xuất hàng và các dịch vụ như ngân hàng, viễn thông, vận tải.
5. Thị xã cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ và hướng dẫn doanh nghiệp lập dự án xây dựng các trung tâm và cơ sở dạy nghề của doanh nghịêp.
6. Thị xã Tam Điệp cần có sự phối hợp với các sở, ngành có liên quan, để xây dựng kế hoạch, tổ chức hội chợ thương mại trong tỉnh nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giới thiệu và quảng bá sản phẩm. Xây dựng kế hoạch và tổ chức các đoàn khảo sát các doanh nghiệp xuất khẩu trên địa bàn tỉnh, để nắm bắt kịp thời những khó khăn của các doanh nghiệp, từ đó có biện pháp tháo gỡ.
7. Tạo mọi điều kiện tốt nhất để một số doanh nghiệp trọng điểm tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh trong thời điểm hiện nay như Công ty xi măng Tam Điệp, Công ty cán thép Tam Điệp, các doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ như cói, đá mỹ nghệ...bằng các chính sách điều hành vĩ mô như tiêu thụ sản phẩm, khuyến khích các dự án được đầu tư bằng ngân sách địa phương phải dùng vật liệu của địa phương, cấp đất xây dựng nhà ở cho công nhân.
.
Tài liệu tham khảo
Vũ Lan Anh, Thái Hồng Thu (2006), Nhìn lại chính sách hỗ trợ gia nhập thị trường đối với khu vực kinh tế tư nhân sau 20 năm đổi mới, Tạp chí quản lý kinh tế, số 9 tháng 7,8 năm 2006
Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hoà (2007), Phát triển khu vực dịch vụ, NXB Thống kê, Hà Nội
Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hoà (2006), Đổi mới cung cấp dịch vụ công ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
Bộ lao động thương binh và xã hội (2005), Đề án phát triển xã hội hoá dạy nghề đến năm 2010
Lê Xuân Bá, Trần Kim Hào, Nguyễn Hữu Thắng (2006), Doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Bộ kế hoạch và đầu tư (2006), Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 năm 2006-2010
Đỗ Kim Chung (2003), Dự án phát triển nông thôn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Cục thống kê tỉnh Ninh Bình (2008), Niên giám thống kê tỉnh Ninh Bình 2007
Cục thống kê tỉnh Ninh Bình (2008), Niên giám thống kê thị xã Tam Điệp 2007
Cục thống kê Ninh Bình (2008), Báo cáo kết quả điều tra doanh nghiệp tỉnh Ninh Bình
Trần Đình Đằng (2007), Quản trị doanh nghiệp thích ứng với cơ chế thị trường trong giai đoạn phát triển mới của Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Trương Văn Đoan (2007), Doanh nghiệp dân doanh: Tình hình và định hướng phát triển giai đoạn 2007-2010, Tạp chí Tài chính, số 10 năm 2007
Hoàng Văn Hải, Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, quản lý kinh tế, số 2-2005
Nguyễn Thị Hiên (2007), Cung cấp dịch vụ công ở nông thôn: Thực trạng và các giải pháp nâng cao chất lượng, tạp chí quản lý kinh tế, số 13 tháng 3,4 năm 2007
Nguyễn Thế Khải (2002), Phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội
Vũ Tiến Lộc (2007), Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, Tạp chí Tài chính, số 10 năm 2007
Lê Chi Mai (2003), Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Đào Tiến Minh (2006), Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại công ty TNHH TECHCHEM, Báo cáo thực tập tốt nghiệp, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội
N. GREGORY MANKIW (2003), Nguyên lý kinh tế học, NXB Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Thị Kim Nhung (2002), Hoàn thiện hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp tại phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Báo cáo thực tập tốt nghiệp, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội
Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu (2005), Quản lý nhà nước về kinh tế, NXB Lao động –xã hội, Hà Nội
Nguyễn Hữu Thắng (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Nguyễn Lê Trung (2007), Đổi mới chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, Tạp chí Tài chính, số 10 năm 2007
Đinh Thị Thơm (2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới- Thực trạng và những vấn đề, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
Trần Trí Trinh (2006), xã hội hoá dịch vụ công, tạp chí phát triển kinh tế, số tháng 5 năm 2006
Chu Văn Thành (2004), Dịch vụ công và xã hội hoá dịch vụ công: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
Tổng cục thống kê (2005), Thực trạng doanh nghiệp Việt Nam qua kết quả điều tra năm 2003, 2004, 2005, NXB Thống kê, Hà Nội
Trung tâm thông tin và tư vấn doanh nghiệp (2008), Cơ chế quản lý trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, NXB lao động xã hội, Hà Nội
Đào Thị Thuỷ Sơn (2006), Thực trạng về công tác quản lý nhà nước các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
Trần Sửu (2005), Năng lực kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hoá, NXB lao động, Hà Nội
UBND tỉnh Ninh Bình (2002), Một số ưu đãi khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp, khu du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
UBND thị xã Tam Điệp (2007), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội thị xã Tam Điệp.
Phụ lục
Phiếu thu thập thông tin về doanh nghiệp
1. Thông tin chung về doanh nghiệp
1.1 Tên doanh nghiệp.....................................................................................
- Năm bắt đầu sản xuất kinh doanh,……………...........................................
- Vốn đăng ký,……………………………….........................................…..
1.2 Địa chỉ doanh nghiệp…………………………………………………...
- Số điện thoại:...............................................................................................
1.3 Thông tin về người đứng đầu DN
- Họ và tên......................................giới tính: Nam [ ]; Nữ [ ]
- Trình độ chuyên môn được đào tạo:
Đại học, Cao đẳng [ ], TC chuyên nghiệp [ ]; CN kỹ thuật [ ]; Khác [ ]
1.4 Loại hình DN…………………………………….....................................
5. Ngành hoạt động SXKD năm 2007
- Ngành SXKD chính (ngành tạo ra giá trị sản xuất lớn nhất/ ngành sử dụng nhiều lao động nhất trong DN).........................................................................
- Ngành SXKD khác.........................................................................................
1.6 Lao động năm 2007 ĐVT: người
Chỉ tiêu
Đầu năm
Cuối năm
Tổng số lao động thời điểm
Tổng số LĐ chia theo ngành SXKD
- Ngành SXKD chính
- Ngành SXKD khác
Lao động có ở cuối năm phân theo trình độ chuyên môn được đào tạo
Đại học, cao đẳng
TC chuyên nghiệp
Công nhân kỹ thuật
Khác
1.7 Thu nhập của người lao động năm 2007
ĐVT: triệu đồng
Chỉ tiêu
Số phát sinh trong năm
- Thu nhập của người lao động (BQ 1 lao động)
- Đóng góp BHXH, BHYT, KPCĐ của chủ DN
1.8 Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2007
ĐVT: triệu đồng
Doanh thu
Thực hiện
- Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
+ Các khoản giảm trừ doanh thu
+ Doanh thu thuần bán hàng và cung cấp dịch vụ
- Doanh thu hoạt động tài chính
- Thu nhập khác
Tổng lợi nhuận trước thuế
Chia ra - Lợi nhuận SXKD
- Lợi nhuận hoạt động tài chính
- Lợi nhuận hoạt động khác
1.9 Vốn đầu tư trong năm 2007
ĐVT: triệu đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện
Tổng số
Trong đó : Tiền thuê và mua quyền sử dụng đất
Chia theo nguồn vốn
1. Vốn ngân sách nhà nước cấp
- Ngân sách trung ương
- Ngân sách địa phương
2. Vốn vay cho XDCB và mua sắm thiết bị
- Vốn tín dụng đầu tư của nhà nước
- Vay từ ngân hàng thương mại và các nguồn khác
3. Vốn tự có
4. Vốn huy động từ các nguồn khác
2. Tình hình cung cấp dịch vụ công
2.1 Đăng ký kinh doanh
- DN có gặp khó khăn gì trong đăng ký kinh doanh hiện nay?
Thời gian ĐKKD dài [ ]; chi phí ĐKKD cao [ ]; Chính sách thay đổi [ ] Khác[ ]
- Cán bộ, nhân viên phòng đăng ký kinh doanh có gây phiền hà cho doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh?
Có [ ] không [ ]
- Ngoài các khoản lệ phí chính thức, DN có phải mất thêm khoản chi phí nào khác cho việc cấp đăng ký kinh doanh?
Có [ ] không [ ]
- DN có nhận xét gì về cơ chế một cửa hiện nay trong đăng ký kinh doanh?
………………………………………………………………………………
2.2 Đất đai và mặt bằng sản xuất
- DN có được tạo điều kiện về đất đai và mặt bằng sản xuất?
Có [ ] không [ ]
Nếu có thì đó là những hình thức nào?
………………………………………………………………………………
- DN có tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh khi vấn đề đất đai thuận lợi?
Có [ ] không [ ]
- DN thường gặp khó khăn gì trong tiếp cận đất đai?
Giá đất quá cao[ ]; Phương thức thanh toán[ ]; Các thủ tục về đất đai[ ]; Sự không ổn định về chính sách đất đai[ ]; Khác [ ]
2.3 Tín dụng ngân hàng
- Nhà nước và chính quyền địa phương có tạo điều kiện về vốn cho DN?
Có [ ] không [ ]
Nếu có thì đó là những hình thức nào?
………………………………………………………………………………
- DN gặp những khó khăn nào trong khi vay vốn?
Lãi suất cao[ ]; Thủ tục phức tạp[ ]; Thời gian vay vốn ngắn[ ]; Khác[ ]
- Các ngân hàng trên địa bàn có tư vấn gì cho doanh nghiệp khi vay vốn?
Có [ ] không [ ]
Nếu có thì đó là những hình thức nào?
………………………………………………………………………………
2.4 Đào tạo nguồn nhân lực
- Các cấp, ngành và chính quyền địa phương có hỗ trợ doanh nghiệp về đào tạo nguồn nhân lực?
Có [ ] không [ ]
Nếu có thì đó là những hình thức nào?
………………………………………………………………………………
- DN đánh giá thế nào về các khoá đào tạo
STT
Nội dung đánh giá
Mức độ
Kém
Yếu
TB
Khá
Tốt
1
DN đánh giá chung về chất lượng của các khoá đào tạo
2
DN nhận thấy chương trình có xứng đáng với các chi phí về tiền bạc và thời gian
3
DN đánh giá gì về các vấn đề sau đây của chương trình đào tạo
- ý nghĩa thực tiễn.
- Giúp ích cho cá nhân.
- Phù hợp với công việc.
- Chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng.
- Mức độ hiệu quả trong sử dụng thời gian.
- Tính hấp dẫn, cuốn hút.
- Rõ ràng, dễ hiểu.
4
Nhận xét chung về những gì DN đã học thêm ở khoá học ?
2.5 Xúc tiến thương mại
- Đã có chương trình, dự án nào tiến hành nghiên cứu, trao đổi hoặc trợ giúp DN chưa ( cho vay vốn, dạy nâng cao năng lực quản lí kinh doanh,…các chương chình của chính phủ, hiệp hội DN vừa và nhỏ)
Có [ ] Không [ ]
Nếu có thì đó là những chương trình nào?
………………………………………………....................................................
- Sản phẩm của DN có tham gia các hội trợ triển lãm không?
……………..………………………………………………………………
Nếu có thì lợi ích đối với việc tham gia các hoạt động trên là gì?
Có thêm thông tin [ ]; Hiểu thêm khách hàng [ ]; Mở rộng thị trường[ ]; Có cơ hội quảng bá sản phẩm [ ]; Khác [ ]
- DN đánh giá gì về các hoạt động xúc tiến thương mại do tỉnh Ninh Bình tổ chức (về ý nghĩa thực tiễn, chi phí tham gia các hoạt động…)?
………………………………………………………………………………
2.6 Những khó khăn và nguyện vọng của doanh nghiệp
- Hiện nay doanh nghiệp đang gặp những khó khăn gì?
Cơ chế, chính sách [ ]; Đăng ký kinh doanh [ ]; Thiếu mặt bằng sản xuất [ ]; Khó khăn về vốn [ ]; Cạnh tranh gay gắt [ ]; Thiếu thông tin [ ]; Thiếu lao động [ ]; yếu trong khâu quản lý [ ]; Khác [ ]
DN đã có giải pháp gì để giải quyết những khó khăn trên? ……………………………………………………………………………….
- Nếu được kiến nghị với các cấp, ngành và chính quyền địa phương thì doanh nghiệp sẽ kiến nghị gì?
Vay vốn [ ]; Tạo mặt bằng sản xuất [ ]; Cung cấp thông tin [ ]; Đào tạo lao động [ ]; Xây dựng cơ sở hạ tầng [ ]; Công nghệ, kỹ thuật [ ]; Khác [ ]
Ngày tháng năm 2008
Giám đốc/ Chủ doanh nghiệp
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- MANH K15 KTe- LUAN VAN SUA NOP SAU BVE.doc