Tài liệu NGHIÊN CỨU CHUYỂN HÓA DẦU ĂN PHẾ THẢI VÀ MỠ CÁ THÀNH BIODIESEL TRÊN XÚC TÁC DỊ THỂ: ... Ebook NGHIÊN CỨU CHUYỂN HÓA DẦU ĂN PHẾ THẢI VÀ MỠ CÁ THÀNH BIODIESEL TRÊN XÚC TÁC DỊ THỂ
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2377 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu NGHIÊN CỨU CHUYỂN HÓA DẦU ĂN PHẾ THẢI VÀ MỠ CÁ THÀNH BIODIESEL TRÊN XÚC TÁC DỊ THỂ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Vào đầu thế kỷ XX, Rudolf Diesel đã dùng dầu lạc làm nhiên liệu cho động cơ diesel mà ông phát minh ra. Tuy nhiên, lúc này nguồn nhiên liệu từ dầu mỏ rất rẻ và trữ lượng dồi dào, nên không ai quan tâm đến nguồn nhiên liệu từ dầu thực vật. Gần một thế kỷ trôi qua, tình hình dân số thế giới ngày càng tăng nhanh, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội cũng ngày càng tăng mạnh, kéo theo nhu cầu sử dụng nhiên liệu ngày càng nhiều, để phục vụ cho các lĩnh vực khác nhau. Điều này dẫn đến tình trạng nguồn nhiên liệu hóa thạch vốn có hạn, đang ngày càng cạn kiệt, giá dầu mỏ ngày càng đắt đỏ. Hơn nữa, khi kinh tế - xã hội phát triển, người ta bắt đầu chú ý nhiều hơn đến môi trường, cũng như sức khỏe của con người, và ngày càng có nhiều quy định khắt khe hơn về mức độ an toàn cho môi trường đối với các loại nhiên liệu. Chính những điều này đã đặt ra vấn đề cho các nhà khoa học, là phải nỗ lực tìm nguồn nhiên liệu thay thế, nguồn nhiên liệu thân thiện với môi trường, và nhiên liệu sinh học đã thật sự lên ngôi.
Nhiên liệu sinh học đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà khoa học trên cả thế giới, bởi nó đem lại nhiều lợi ích như bảo đảm an ninh năng lượng và đáp ứng được các yêu cầu về môi trường. Trong số các nhiên liệu sinh học, thì diesel sinh học (biodiesel) được quan tâm hơn cả, do xu hướng diesel hóa động cơ, và giá diesel khoáng ngày càng tăng cao. Hơn nữa, biodiesel được xem là loại phụ gia rất tốt cho nhiên liệu diesel khoáng, làm giảm đáng kể lượng khí thải độc hại, và nó là nguồn nhiên liệu có thể tái tạo được.
Ở Việt Nam đã có nhiều đề tài nghiên cứu tổng hợp biodiesel từ các nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước như dầu đậu nành, dầu hạt cải, dầu cao su, mỡ cá,…và đã thu được kết quả khá tốt. Tuy nhiên vì nền công nghiệp sản xuất dầu mỡ nước ta còn khá non trẻ, chưa đáp ứng được nguồn nguyên liệu cho sản xuất biodiesel ở quy mô lớn. Ngoài ra, nếu sản xuất biodiesel từ dầu ăn tinh chế thì giá thành khá cao, và còn ảnh hưởng đến an ninh lương thực. Do đó, việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu rẻ tiền, phù hợp với điều kiện của đất nước vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu. Với mục đích đó, việc tận dụng nguồn dầu ăn phế thải và mỡ cá làm nguyên liệu cho tổng hợp biodiesel là có ý nghĩa thực tế rất lớn. Bởi đây là nguồn nguyên liệu có trữ lượng tương đối lớn, lại rẻ tiền, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Việc tận dụng nguồn nguyên liệu này còn góp phần bảo vệ môi trường và sức khỏe người dân.
Các nghiên cứu về biodiesel trước đây, chủ yếu tập trung vào xúc tác đồng thể. Xúc tác này cho độ chuyển hóa rất cao, nhưng khó lọc tách sản phẩm, và không tái sử dụng được nên giá thành sản phẩm cao. Để khắc phục các nhược điểm đó, trong luận văn này chúng tôi nghiên cứu chế tạo xúc tác dị thể cho quá trình.
Chính vì những ý nghĩa thực tiễn trên mà chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu chuyển hóa dầu ăn phế thải và mỡ cá thành biodiesel trên xúc tác dị thể”. Luận văn này đã đạt được những điểm mới sau:
- Đã tổng hợp được hệ xúc tác dị thể MgSiO3.
- Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt tính xúc tác cho phản ứng tổng hợp biodiesel như thời gian nung, nhiệt độ nung.
- Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất tổng hợp biodiesel từ dầu ăn phế thải và mỡ cá, sử dụng xúc tác dị thể MgSiO3 đã điều chế được.
- Thu hồi và tinh chế glyxerin – một phụ phẩm có giá trị của quá trình tổng hợp biodiesel.
Ngoài ra, trong luận văn này còn đề cập đến các vấn đề sau:
- Xác định các chỉ tiêu chất lượng của 2 nguồn nguyên liệu tổng hợp biodiesel là dầu ăn phế thải và mỡ cá.
- Nghiên cứu xử lý, tinh chế dầu ăn phế thải và mỡ cá để đảm bảo yêu cầu chất lượng của nguyên liệu tổng hợp biodiesel.
- Phân tích các chỉ tiêu chất lượng biodiesel thu được, và thử nghiệm nhiên liệu B20 trong động cơ để đánh giá thành phần khói thải và tác động của nhiên liệu đến tính năng của động cơ.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
1.1. NHIÊN LIỆU DIESEL
1.1.1. Khái quát về nhiên liệu diesel
Diesel là một loại nhiên liệu lỏng có nguồn gốc từ dầu mỏ. Thường thì diesel là phân đoạn dầu mỏ có nhiệt độ sôi từ 250 đến 350 oC, chứa các hydrocacbon có số cacbon từ C16 đến C20, C21, với thành phần chủ yếu là n-parafin, iso-parafin và một lượng nhỏ hydrocacbon thơm, trong đó có một số hợp chất phi hydrocacbon (hợp chất chứa N, O, S) [9]. Phân đoạn này được dùng làm nhiên liệu cho một loại động cơ đốt trong tự bắt cháy do nhà bác học Rudolf Diesel sáng chế, nên gọi là nhiên liệu diesel.
Nhu cầu sử dụng nhiên liệu:
Ngày nay cùng với sự gia tăng dân số mạnh mẽ và nhịp độ phát triển kinh tế ngày càng tăng cao, kéo theo nhu cầu sử dụng các nguồn nhiên liệu ngày càng nhiều để phục vụ các lĩnh vực khác nhau. Khối lượng nhiên liệu sử dụng đến năm 2020 dự đoán đạt tới 13,6 tỉ tấn dầu quy đổi, gấp 1,5 lần so với 9,1 tỉ tấn năm 2000 [44].
Nhiên liệu hóa thạch (than đá, dầu và khí tự nhiên) được dự đoán là đóng góp tới 90% trong mức tăng sự tiêu thụ năng lượng nói trên, và vì thế nó tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong các dạng năng lượng. Sự tiêu thụ dầu mỏ dự báo là lớn nhất trong các dạng nhiên liệu hóa thạch, ước tính khoảng 35% trong tổng mức tiêu thụ năng lượng chủ yếu, tiếp sau đó là khí tự nhiên 30% và than đá là 26%. Mức tiêu thụ dầu mỏ được dự đoán tăng từ 70 triệu thùng/ngày trong năm 2000 đến 102 triệu thùng/ngày vào năm 2020, tốc độ tăng trung bình hàng năm khoảng 1,9%. Trong đó, Châu Á góp phần tăng 50% mức tiêu thụ trên và sử dụng nhều nhất là lĩnh vực giao thông vận tải (chiếm 60%) [43].
Đối với nước ta là một nước đang phát triển, nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội ngày càng tăng, vì vậy nhu cầu về năng lượng sẽ tăng mạnh trong thời gian tới. Dự báo tỷ lệ nhập khẩu năng lượng ở nước ta đến năm 2020 khoảng 11 – 20%, và tăng lên 50 – 58% vào năm 2050. Riêng nguồn dầu mỏ, theo thống kê của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) vào năm 2004, thì mức tiêu thụ xăng dầu của cả nước khoảng 13,5 triệu tấn . Dự báo nhu cầu tiêu thụ xăng dầu ở Việt nam sẽ tăng mạnh trong giai đoạn 2005 – 2020 [64]. Số liệu cụ thể ở bảng 1.1.
Bảng 1.1: Dự báo nhu cầu nhiên liệu xăng dầu đến năm 2020.
Đơn vị: Nghìn tấn
Sản phẩm
2005
2010
2015
2020
Gasoline
2.829
4.156
5.090
6.024
Diesel
5.800
8.740
11.140
13.024
Kerosen
440
420
392
360
Nhiên liệu JA1
419
615
844
1.023
Dầu FO
2.878
3.665
4.350
5.089
Tổng số nhiên liệu
12.362
17.596
21.816
26.036
Tổng số xăng diesel
8.629
12.896
16.230
19.564
(Nguồn: Viện chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch Đầu tư).
Xăng dầu dùng cho giao thông vận tải thường chiếm đến 30% nhu cầu năng lượng cả nước, chúng ta phải nhập khẩu hoàn toàn. Đến giữa năm 2009, nhà máy Lọc dầu số 1 Dung Quất bắt đầu hoạt động, cũng mới chỉ cung cấp được khoảng 5,3 triệu tấn xăng và diesel dùng cho giao thông vận tải, trong khi tổng nhu cầu 15,5 – 16 triệu tấn. Đến trước năm 2020 khi cả 3 nhà máy lọc dầu, với tổng công suất 20 – 22 triệu tấn dầu thô đi vào hoạt động sẽ cung cấp 15 – 16 triệu tấn xăng và diesel, trong khi tổng nhu cầu khoảng 27 – 28 triệu tấn [64]. Như vậy, lượng xăng dầu trong nước cung cấp vẫn còn thiếu đáng kể. Điều này thể hiện rất rõ qua số liệu ở bảng 1.2, về cân đối nhu cầu nhiên liệu xăng, diesel và khả năng cung cấp của 3 nhà máy lọc dầu ở nước ta.
Bảng 1.2: Cân đối nhiên liệu xăng, diesel đến 2020.
Năm
2001
2005
2009
2010
2013
2015
2018
2020
Tổng nhu cầu
5.143
8.629
12.89
16.23
19.5
Khả năng cung cấp trong nước
700
condensat
5.40
LD-1
6.100
4.28
LD-2
10.38
4.28
LD-3
14.6
Thiếu(-)
5.14
100%
7.929
(92%)
6.796
52%
5.850
36%
4.90
25%
Tiêu dùng,
kg/ng/năm
104
146
174
196
(Nguồn: Viện chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch Đầu tư).
Từ hai bảng số liệu trên ta thấy, trong các loại nhiên liệu thì diesel là loại nhiên liệu được tiêu thụ nhiều nhất. Điều này cho thấy diesel có tầm quan trọng rất lớn. Do đó việc tìm cách nâng cao chất lượng diesel, cũng như tìm kiếm nguồn nhiên liệu thay thế diesel khoáng đang ngày càng cạn kiệt và thiếu hụt là hết sức cần thiết.
Yêu cầu chất lượng nhiên liệu diesel:
Để động cơ diesel làm việc ổn định đòi hỏi nhiên liệu diesel phải đảm bảo các yêu cầu chất lượng sau [5,9]:
Phải có trị số xetan phù hợp:
Trị số xetan là đơn vị đo quy ước đặc trưng cho khả năng tự bắt lửa của nhiên liệu diesel là một số nguyên, có giá trị đúng bằng giá trị của hỗn hợp chuẩn có cùng khả năng tự bắt cháy. Hỗn hợp chuẩn này gồm hai hyđrocacbon: n-xetan (C16H34) quy định là 100, có khả năng tự bắt cháy tốt và -metyl naphtalen (C11H10) quy định là 0, có khả năng tự bắt cháy kém.
Trị số xetan được xác định theo tiêu chuẩn ASTM D 613. Trị số xetan cao quá hoặc thấp quá đều không tốt cho động cơ.
- Thành phần chưng cất phân đoạn:
Chỉ tiêu này được xác định theo tiêu chuẩn ASMT D 86. Thành phần chưng cất phân đoạn có ảnh hưởng rất lớn đối với tính năng của động cơ diesel:
+ Điểm sôi 10% V, đặc trưng cho phần nhẹ dễ bốc hơi của nhiên liệu. Yêu cầu thành phần này chỉ chiếm một tỷ lệ thích hợp, nếu thấp quá thì khó khởi động, cao quá thì dẫn tới cháy kích nổ, cháy tạo nhiều khói muội, giảm công suất và tuổi thọ động cơ.
+ Điểm sôi 50% V, đặc trưng cho khả năng thay đổi tốc độ của động cơ, thường .
+ Điểm sôi 90% V, biểu hiện cho khả năng cháy hoàn toàn của nhiên liệu.
- Độ nhớt động học:
Độ nhớt động học được xác định theo phương pháp thử ASTM D 445. Nó biểu hiện tính lưu chuyển của nhiên liệu, và ảnh hưởng đến khả năng bơm, phun trộn nhiên liệu vào buồng đốt.
- Nhiệt độ đông đặc:
Là nhiệt độ cao nhất mà sản phẩm dầu lỏng đem làm lạnh trong điều kiện nhất định không còn chảy được nữa. Ở khí hậu lạnh thì yêu cầu nhiên liệu phải có nhiệt độ đông đặc rất thấp, để không bị đông đặc khi làm việc. Nhiệt độ đông đặc xác định theo phương pháp ASTM D 97.
Nước và tạp chất cơ học: đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng của nhiên liệu diesel. Nước và cặn có ảnh hưởng đến chất lượng, tồn chứa và sử dụng. Chỉ tiêu này xác định theo phương pháp ASTM D 1796.
Bảng 1.3: Chỉ tiêu đánh giá chất lượng nhiên liệu diesel theo ASTM.
STT
Chỉ tiêu
Phương
Pháp đo
N 1D
N 2D
N 4D
1
Điểm chớp cháy, C, min
D 93
38
52
55
2
Nước và cặn, % TT, max
D 1796
0.05
0.05
0.5
3
Nhiệt độ sôi 90% TT, C
D 86
Max
288
282-338
-
4
Độ nhớt động học ở 40 C, cSt
D 445
1.3-2.4
1.9-4.1
5.5-24.0
5
Cặn cacbon trong 10% còn lại, % KL
D 524
Max
0.15
0.35
0.1
6
Hàm lượng tro, %KL, max
D 482
0.01
0.01
2.00
7
Hàm lượng lưu huỳnh, %KL, max
D129
0.50
0.50
-
8
Độ ăn mòn lá đồng, 3h, 50C, max
D 130
N3
N3
-
9
Trị số xetan, min
D 613
40
40
-
- Hàm lượng nhựa thực tế: Sau khi ra khỏi nhà máy lọc dầu, nhiên liệu không tránh khỏi việc tiếp xúc với nước và không khí có thể tạo nhựa và cặn bẩn làm tắc bầu lọc, bẩn buồng đốt, tắc hệ thống phun nhiên liệu. Vì vậy hàm lượng nhựa thực tế phải được quy định dưới mức giới hạn cho phép và nó được xác định theo phương pháp ASTM D 381.
- Hàm lượng tro: Là lượng cặn không cháy của nhiên liệu, được tính bằng % khối lượng của lượng tro so với lượng mẫu ban đầu. Nếu hàm lượng tro lớn, sẽ gây mài mòn làm hỏng các chi tiết máy. Do đó, yêu cầu phải giảm lượng tro đến mức tối thiểu. Hàm lượng tro được xác định theo phương pháp ASTM D 482.
- Hàm lượng lưu huỳnh: Lưu huỳnh trong diesel tồn tại ở nhiều dạng khác nhau như: mercaptan, sulfat, thiophen…Các hợp chất lưu huỳnh trong diesel đều là thành phần có hại. Nó gây ăn mòn kim loại, làm giảm tuổi thọ động cơ, và sản phẩm cháy của lưu huỳnh là SOx rất độc hại. Do đó yêu cầu hàm lượng lưu huỳnh càng thấp càng tốt. Hàm lượng lưu huỳnh có thể xác định theo phương pháp ASTM D 129.
- Độ ăn mòn lá đồng: là chỉ tiêu nhằm đánh giá tính ăn mòn kim loại của nhiên liệu diesel, được xác định theo phương pháp ASTM D 130.
- An toàn về cháy nổ: được đánh giá qua nhiệt độ chớp cháy.
Nhiệt độ chớp cháy là nhiệt độ thấp nhất mà tại đó hơi nhiên liệu được đốt nóng tạo thành hỗn hợp với không khí, bị bén cháy khi có tia lửa đến gần. Nhiệt độ chớp cháy cốc kín được xác định theo phương pháp ASTM D 93. Nhiệt độ chớp cháy càng cao, sản phẩm càng khó cháy nổ nên an toàn hơn trong quá trình bảo quản, vận chuyển và sử dụng.
Khi muốn so sánh các chỉ tiêu của các nhiên liệu khác nhau thì ta phải so sánh dựa trên một tiêu chuẩn nhất định. Từ đó ta mới biết được nhiên liệu nào tốt hơn nhiên liệu nào, và có những ưu điểm gì vượt trội để có hướng sử dụng cho hợp lý.
Có thể tham khảo các chỉ tiêu chất lượng của nhiên liệu diesel theo tiêu chuẩn Mỹ (ASTM) như bảng 1.3.
1.1.2 Nhiên liệu diesel khoáng và vấn đề ô nhiễm môi trường
Các thành phần phi hydrocacbon trong nhiên liệu diesel khoáng, như các hợp chất chứa lưu huỳnh, nitơ, nhựa, asphanten, khá cao. Các thành phần này không những không tốt cho động cơ, mà còn gây ô nhiễm môi trường. Các loại khí thải chủ yếu là SO2, NOx, CO, CO2, hydrocacbon, vật chất dạng hạt… Khí SO2 không những gây ăn mòn mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, gây mưa axit… Khí CO2 là nguyên nhân gây ra hiệu ứng nhà kính. Khí CO rất độc, với lượng CO khoảng 70 ppm có thể gây ra các triệu chứng như đau đầu, mệt mỏi, buồn nôn. Lượng CO khoảng 150 - 200 ppm gây bất tỉnh, mất trí nhớ và có thể gây chết người. Các thành phần hydrocacbon trong khí thải của nhiên liệu diesel đặc biệt là các hợp chất thơm rất có hại cho con người, là nguyên nhân gây ra các bệnh về ung thư [10].
Khí thải diesel chứa các phần tử có kích thước rất nhỏ và các khí dễ cháy có thể đi vào sâu bên trong phổi. Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh có sự liên hệ giữa các thành phần hữu cơ trong khí thải diesel với dị ứng, viêm đường hô hấp và biến đổi chức năng đường hô hấp. Nguy cơ tắc nghẽn phổi mãn tính (COPD) gia tăng 2,5% mỗi năm ở các công nhân bị phơi nhiễm trực tiếp với khói diesel [75].
Như vậy, cùng với những lợi ích to lớn của nhiên liệu diesel khoáng, thì nó lại gây ra tác động xấu đến môi trường sống và sức khỏe con người. Chính vì vậy mà vấn đề đặt ra, là phải tìm giải pháp để nâng cao chất lượng nhiên liệu diesel, để nâng cao năng suất thiết bị, tuổi thọ động cơ, cũng như bảo vệ môi trường sinh thái. Hiện nay thì có bốn phương pháp nâng cấp chất lượng nhiên liệu diesel:
- Phương pháp pha trộn: pha trộn giữa nhiên liệu diesel sạch với nhiên liệu diesel kém sạch để thu được nhiên liệu diesel đảm bảo chất lượng. Phương pháp này có hiệu quả kinh tế khá cao, có thể pha trộn với các tỷ lệ khác nhau để có nhiên liệu diesel thoả mãn yêu cầu. Tuy nhiên, dầu mỏ trên thế giới chủ yếu là dầu có chứa nhiều hợp chất phi hydrocacbon (dầu không sạch) nên phương pháp này cũng không phải là khả thi.
- Phương pháp hydro hoá làm sạch: phương pháp này có ưu việt là hiệu quả làm sạch rất cao. Tuy nhiên phương pháp này ít được lựa chọn vì vốn đầu tư khá cao, khoảng 60 - 80 triệu USD cho một phân xưởng hydro hoá.
- Phương pháp nhũ hoá nguyên liệu diesel: người ta đưa nước vào nhiên liệu diesel và tạo thành dạng nhũ tương. Loại nhiên liệu này có nồng độ oxy cao nên quá trình cháy sạch hơn. Phương pháp này nếu thực hiện được thì không những giảm được ô nhiễm môi trường mà còn có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, hiện tại phương pháp này vẫn còn đang nghiên cứu, chưa được ứng dụng thực tế.
- Dùng kết hợp với biodiesel: biodiesel là metyleste của các axit béo. Dạng nhiên liệu này có nồng độ oxy cao hơn, ít tạp chất, vì vậy quá trình cháy sạch, ít tạo cặn, khói thải ít độc hại. Biodiesel được xem là loại phụ gia rất tốt cho diesel khoáng, nó có thể trộn lẫn với diesel khoáng theo mọi tỷ lệ.
Trong bốn phương pháp trên thì sử dụng biodiesel là phương pháp được nhiều nước quan tâm, và tập trung nghiên cứu nhiều nhất. Bởi biodiesel được sản xuất từ nguồn nguyên liệu sinh học, đó là một nguồn nguyên liệu vô tận, tái tạo được, dễ phân huỷ không gây ô nhiễm môi trường. Hơn nữa khi trộn diesel với biodiesel thì sản phẩm cháy chứa rất ít các khí thải độc hại như COx, SOx, H2S, hydrocacbon thơm.
1.2. NHIÊN LIỆU SINH HỌC VÀ BIODIESEL
1.2.1 Nhiên liệu sinh học
Nhiên liệu sinh học (biofuel) là loại nhiên liệu được sản xuất từ nguồn nguyên liệu sinh học – sinh khối như dầu thực vật, mỡ động vật, tinh bột, thậm chí là chất thải nông nghiệp, lâm nghiệp (rơm rạ, bã mía, trấu, mùn cưa, phân chuồng,…). Đây là nguồn nhiên liệu sạch (chất thải ít độc hại), và đặc biệt là nguồn nhiên liệu có thể tái tạo được (renewable fuel), nên nó làm giảm sự phụ thuộc vào nguồn tài nguyên nhiên liệu khoáng vốn có hạn. Chính hai đặc điểm nổi bật này mà nhiên liệu sinh học được sự lựa chọn của nhiều nước trên thế giới hiện nay và cả trong tương lai.
Nhiên liệu sinh học có nhiều loại như xăng sinh học (biogasoil), diesel sinh học (biodiesel), và khí sinh học (biogas) - loại khí được tạo thành do sự phân hủy yếm khí các chất thải nông nghiệp, chăn nuôi và lâm nghiệp. Trong các dạng trên thì chỉ có biogasoil và biodiesel được quan tâm nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng trong quy mô công nghiệp [12].
Một số nước đã đặt ra mục tiêu thay thế dần nguyên liệu truyền thống sang nhiên liệu sinh khối. Mỹ đặt ra mục tiêu thay thế khoảng 30% lượng xăng tiêu thụ bằng các sản phẩm có nguồn gốc từ sinh khối vào năm 2025. Ấn Độ đặt mục tiêu tăng dần sử dụng nhiên liệu sinh khối từ 5% lên 20% vào năm 2012. EU đặt ra thị phần nhiên liệu sinh học chiếm 6% trong tổng nhiên liệu tiêu thụ. Braxin là nước đang đứng đầu thế giới về nhiên liệu sinh học với nhiên liệu sản xuất từ sinh khối chiếm tới 30% trong tổng nhiên liệu đang sử dụng cho ngành giao thông vận tải [10].
1.2.2 Khái niệm biodiesel
Biodiesel hay diesel sinh học là một loại nhiên liệu có nguồn gốc từ dầu thực vật hay mỡ động vật, có chỉ tiêu kỹ thuật gần giống với diesel khoáng. Về bản chất hóa học nó là ankyleste của các axit béo. Biodiesel được xem là một loại phụ gia rất tốt cho diesel truyền thống [10].
Biodiesel có thể trộn lẫn với diesel khoáng theo mọi tỷ lệ. Tuy nhiên, một điều rất đáng chú ý là phải pha trộn với diesel khoáng, chứ không thể sử dụng 100% biodiesel [33]. Vì nếu sử dụng nhiên liệu 100% biodiesel trên động cơ diesel sẽ nảy sinh một số vấn đề liên quan đến kết cấu và tuổi thọ động cơ. Hiện nay người ta thường sử dụng hỗn hợp 5% và 20%, biodiesel (ký hiệu B5, B20), để chạy động cơ. Nếu pha biodiesel càng nhiều thì càng giảm lượng khí thải độc hại, nhưng không có lợi về kinh tế, bởi hiện tại giá thành của biodiesel vẫn còn cao hơn diesel truyền thống, và cần phải điều chỉnh kết cấu động cơ diesel cũ.
Biodiesel có thể được sản xuất từ nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau như các loại dầu thực vật (dầu dừa, dầu cọ, dầu hạt hướng dương, dầu hạt cải, dầu lạc, dầu hạt cao su,...), các loại mỡ động vật (mỡ bò, mỡ lợn, mỡ cá), và thậm chí là dầu phế thải. Như vậy nguyên liệu để sản xuất biodiesel khá phong phú, và chúng có nguồn gốc sinh học, có thể tái tạo được. Đây cũng là một trong những điểm thuận lợi của nguồn nhiên liệu biodiesel.
1.2.3 Tình hình nghiên cứu, sản xuất và sử dụng biodiesel trên thế giới và ở Việt Nam
- Trên thế giới:
Năm 1900, khi phát minh ra động cơ diesel, nhà bác học Rudolf Diesel đã dùng dầu lạc để thử nghiệm. Mặc dù lúc đó dầu thực vật chưa thật sự được quan tâm, nhưng ông đã có một nhận xét như lời tiên tri về nguồn nhiên liệu sinh học này: “Ngày nay việc sử dụng dầu thực vật làm nhiên liệu cho động cơ có thể chưa được quan tâm đúng mức. Nhưng trong tương lai dầu thực vật sẽ trở nên quan trọng như vai trò của sản phẩm dầu mỏ và than đá hiện nay [42].” Và thực tế sau gần 100 năm, khi mà các nguồn nhiên liệu hóa thạch ngày càng cạn kiệt, giá dầu mỏ ngày càng đắt đỏ, và những yêu cầu ngày càng khắt khe hơn về môi trường, thì người ta lại chú ý nhiều hơn đến nguồn nhiên liệu từ dầu thực vật, mỡ động vật.
Việc sử dụng trực tiếp dầu mỡ động thực vật làm nhiên liệu có nhiều nhược điểm như: độ nhớt lớn (gấp 11 – 17 lần so với diesel dầu mỏ), độ bay hơi rất thấp dẫn đến quá trình cháy không hoàn toàn, tạo cặn trong vòi phun, ngăn cản quá trình phun, làm tắc vòi phun, làm đặc dầu nhờn do lẫn dầu thực vật,...[52]. Các vấn đề này là do phân tử triglyxerit với kích thước và phân tử lượng lớn trong dầu mỡ gây ra. Do vậy, người ta phải tìm cách khắc phục các nhược điểm đó, và tạo biodiesel là một trong những giải pháp tốt.
Vào những năm 1980, biodiesel bắt đầu được nghiên cứu và sử dụng ở một số nước tiên tiến. Đến nay, biodiesel đã được nghiên cứu và sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Hiện nay có hơn 28 quốc gia tham gia nghiên cứu, sản xuất và sử dụng biodiesel. Các nhà máy sản xuất chủ yếu nằm ở châu Âu và châu Mỹ. Tại Mỹ, hầu hết lượng biodiesel được sản xuất từ dầu nành. Biodiesel được pha trộn với diesel dầu mỏ với tỷ lệ 20% biodiesel và 80% diesel, dùng làm nhiên liệu cho các xe buýt đưa đón học sinh ở rất nhiều thành phố của Mỹ. Hàng năm, Mỹ bán ra gần hai tỷ gallon biodiesel. Tại Pháp, hầu hết nhiên liệu diesel được pha trộn với 5% biodiesel [42]. Trên 50% người dân Pháp có xe với động cơ diesel đã sử dụng nhiên liệu pha biodiesel. Hơn 4000 phương tiện giao thông đã sử dụng nhiên liệu B30, chạy hơn 200 triệu km mà không hề có một hỏng hóc nào liên quan đến sự vận hành của động cơ. Theo thống kê, thì lượng biodiesel tiêu thụ trên thị trường Pháp tăng mạnh trong những năm gần đây, năm 2004 tiêu thụ 387 ngàn tấn, nhưng đến năm 2008 đã lên đến gần 1 triệu tấn [10]. Năm 1991, Đức bắt đầu đưa ra chương trình phát triển biodiesel, đến năm 1995 đã bắt đầu triển khai dự án này. Năm 2000 tại Đức đã có 13 nhà máy sản xuất biodiesel với tổng công suất là 1 triệu tấn/năm. Và tháng 1 năm 2005, Nhà nước Đức đã ban hành sắc lệnh buộc phải pha biodiesel vào diesel dầu mỏ theo tỷ lệ 5% [30]. Có thể tham khảo sản lượng biodiesel của một số nước châu Âu ở bảng 1.4.
B¶ng 1.4: S¶n lîng biodiesel ë c¸c níc ch©u ¢u n¨m 2004.
Níc
S¶n lîng (tÊn)
§øc
1.088.000
Ph¸p
502.000
Italia
419.000
¸o
100.000
T©y Ban Nha
70.000
§an M¹ch
44.000
Anh
15.000
Thụy §iÓn
8.000
Tæng lîng
2.246.000
Không chỉ có châu Âu, Mỹ mà ở châu Á, chính phủ nhiều nước cũng đã quan tâm rất nhiều đến việc phát triển nguồn nhiên liệu sinh học nói chung và biodiesel nói riêng. Malaysia và Indonesia là hai nước xuất khẩu dầu cọ lớn nhất thế giới, đã xây dựng chiến lược mở rộng thị trường sản xuất để đáp ứng thị trường dầu ăn và cung cấp nguyên liệu cho sản xuất biodiesel. Mặc dù hiện nay trữ lượng dầu cọ ở Malaysia đã đạt mức kỷ lục nhưng giá dầu cọ thô của nước này vẫn tăng cao, do nhu cầu sản xuất biodiesel trên thế giới vẫn tăng cao. Ủy ban dầu cọ Malaysia (MPOB) cho biết, từ nay đến năm 2015 sẽ có 5 nhà máy sản xuất biodiesel từ dầu cọ với tổng công suất gần 1 triệu tấn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, và xuất khẩu sang châu Âu. Indonesia, ngoài dầu cọ còn đầu tư trồng 19 triệu ha cây J.Curcas lấy dầu làm nhiên liệu sinh học, và phấn đấu đến năm 2015 sẽ dùng nhiên liệu B5 cho cả nước. Trung Quốc, nước nhập khẩu nhiên liệu lớn nhất thế giới đã khuyến khích sử dụng nhiên liệu sinh học. Tại Thái Lan, Bộ năng lượng đã sẵn sàng hỗ trợ sử dụng dầu cọ trên phạm vi toàn quốc. Hiện nay Bộ này đang hoàn tất các thủ tục hỗ trợ phát triển biodiesel nhằm xây dựng nguồn năng lượng cho đất nước. Thái Lan dự kiến sử dụng diesel pha 5% biodiesel trên toàn quốc vào năm 2011 và pha 10% biodiesel vào năm 2012. Ngay tại Lào cũng đang xây dựng nhà máy sản xuất biodiesel ở ngoại ô thủ đô Viên Chăn. Một số nước ở châu Phi cũng đang tiếp cận đến nhiên liệu sinh học.
- Tình hình trong nước:
Trước sự phát triển mạnh mẽ nguồn nhiên liệu sinh học nói chung và biodiesel nói riêng trên thế giới, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã bắt tay vào nghiên cứu và sản xuất biodiesel ở phòng thí nghiệm và quy mô sản xuất nhỏ. Việc sản xuất biodiesel ở nước ta có nhiều thuận lợi, vì nước ta là một nước nông nghiệp, thời tiết lại thuận lợi để phát triển các loại cây cho nhiều dầu như vừng, lạc, cải, đậu nành,...Tuy nhiên ngành công nghiệp sản xuất dầu thực vật ở nước ta vẫn còn rất non trẻ, trữ lượng thấp, giá thành cao. Bên cạnh đó, nguồn mỡ động vật cũng là một nguồn nguyên liệu tốt để sản xuất biodiesel, giá thành mỡ động vật lại rẻ hơn dầu thực vật rất nhiều. Một vài doanh nghiệp ở Cần Thơ, An Giang đã thành công trong việc sản xuất biodiesel từ mỡ cá basa. Theo tính toán của các công ty này thì biodiesel sản xuất từ mỡ cá có giá thành khoảng 7000 đồng/lít (năm 2005). Công ty TNHH Minh Tú cũng đã đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất tự động hoàn toàn và khép kín, với tổng đầu tư gần 12 tỷ đồng, và đã ký hợp đồng xuất khẩu biodiesel sang Campuchia. Ngoài ra, một số viện nghiên cứu và trường đại học ở nước ta, cũng đã có những thành công trong việc nghiên cứu sản xuất biodiesel từ nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau như dầu cọ, dầu dừa, dầu bông, dầu hạt cải, dầu nành, dầu hạt cao su, dầu ăn thải, mỡ cá,...sử dụng xúc tác bazơ đồng thể và bước đầu nghiên cứu với xúc tác bazơ dị thể, xúc tác zeolit.
Không chỉ có các nhà khoa học quan tâm, mà các nhà quản lý ở Việt Nam cũng rất quan tâm đến nguồn nhiên liệu sinh học này. Đề án “Phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn 2020” do Bộ Công nghiệp chủ trì đã được chính phủ phê duyệt để đi vào hoạt động. Ngoài việc phát triển nhiên liệu xăng pha cồn, đề án còn đề cập đến việc phát triển nhiên liệu diesel pha với metyl este dầu mỡ động thực vật (biodiesel), với mục tiêu đến năm 2010 nước ta sẽ làm chủ được công nghệ sản xuất biodiesel từ các nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, và bước đầu tiến hành pha trộn hỗn hợp B5. Bên cạnh đó, Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng cũng rất quan tâm đến vấn đề “nhiên liệu sinh học”, và đã tổ chức hội nghị khoa học về etanol và biodiesel. Qua hội nghị, lãnh đạo Tổng cục đã có kiến nghị về việc sớm xây dựng và triển khai một đề án nghiên cứu có định hướng tiêu chuẩn về nhiên liệu sinh học ở Việt Nam, trong đó có tiêu chuẩn cho nhiên liệu biodiesel [19]. Vào đầu năm 2009, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội cũng đã tổ chức Hội nghị quốc tế về “nhiên liệu sinh học”. Hội nghị đã thu hút được sự tham gia của nhiều nước như Pháp, Thái Lan, Ấn Độ,... và các trường Đại học lớn ở nước ta. Hội nghị đã có nhiều báo cáo khoa học về etanol sinh học và biodiesel, với sự chú ý theo dõi và thảo luận sôi nổi của nhiều nhà khoa học đầu ngành. Điều này cũng cho thấy sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học trong nước và quốc tế về nhiên liệu sinh học.
1.2.4 Quá trình tổng hợp biodiesel
1.2.4.1 Phân loại các phương pháp tổng hợp biodiesel
Vấn đề chính liên quan đến việc hạn chế sử dụng trực tiếp dầu thực vật là độ nhớt rất cao. Dầu mỡ động, thực vật có độ nhớt cao gấp 11 – 17 lần so với diesel dầu mỏ. Độ nhớt cao gây ảnh hưởng đến dòng phun và hạt sương (dòng phun dài và hạt sương lớn) nên tạo hỗn hợp cháy không tốt, cháy không hoàn toàn, tạo cặn, gây kẹt vòng dầu và làm đặc dầu nhờn nếu bị lẫn dầu thực vật. Do đó, cần phải có giải pháp để giảm độ nhớt của dầu mỡ. Đã có bốn phương pháp được nghiên cứu để giải quyết vấn đề độ nhớt cao đó là: sự pha loãng, nhiệt phân, cracking xúc tác và chuyển hóa este dầu thực vật [10].
- Pha loãng dầu thực vật:
Người ta có thể làm giảm độ nhớt của dầu thực vật bằng cách pha loãng nó với etanol tinh khiết hoặc dầu diesel khoáng. Thường thì người ta pha loãng với 50 – 80% diesel dầu mỏ. Chẳng hạn như hỗn hợp 25% dầu hướng dương và 75% dầu diesel có độ nhớt 4,48 cSt tại 40oC, trong khi theo tiêu chuẩn ASTM về độ nhớt của diesel tại 40oC là 4,0 cSt. Tuy nhiên hỗn hợp này cũng chỉ sử dụng được trong một thời gian ngắn. Nếu sử dụng lâu dài sẽ nảy sinh một số vấn đề về động cơ như nhiên liệu bị polyme hóa, gây lắng đọng cacbon, làm đặc dầu bôi trơn,.... Vì vậy, dù phương pháp này rất đơn giản nhưng vẫn không được tích cực hưởng ứng trong thực tế.
- Chuyển hoá este tạo biodiesel:
Quá trình chuyển hóa este là phản ứng trao đổi este giữa dầu thực vật và ancol. Quá trình này tạo ra các alkyl este axit béo (biodiesel) có trọng lượng phân tử bằng một phần ba trọng lượng phân tử dầu thực vật, và độ nhớt thấp hơn nhiều so với các phân tử dầu thực vật ban đầu (xấp xỉ diesel khoáng). Ngoài ra, người ta kiểm tra các đặc trưng hóa lý khác của biodiesel thì thấy chúng đều rất gần với nhiên liệu diesel khoáng. Vì vậy, biodiesel thu được có tính chất phù hợp như một nhiên liệu sử dụng cho động cơ diesel.
- Cracking xúc tác dầu thực vật:
Quá trình cracking sẽ bẻ gãy các liên kết hóa học trong phân tử dầu để tạo các phân tử có mạch ngắn hơn, phân tử lượng nhỏ hơn. Phương pháp này có thể tạo ra các ankan, cycloankan, alkylbenzen,…. Tuy nhiên việc đầu tư cho một dây chuyền cracking xúc tác rất tốn kém nên ít sử dụng.
- Nhiệt phân dầu thực vật:
Nhiệt phân là phương pháp phân huỷ các phân tử dầu thực vật bằng nhiệt, không có mặt của oxy, tạo ra các ankan, ankadien, các axit cacboxylic, hợp chất thơm và lượng nhỏ các sản phẩm khí. Sản phẩm của quá trình này gồm có cả xăng sinh học (biogasoil) và biodiesel. Tuy nhiên thường thu được nhiều nhiên liệu xăng hơn là diesel.
Sau khi phân tích và xem xét các phương pháp trên thì ta thấy phương pháp chuyển hoá este tạo biodiesel là sự lựa chọn tốt nhất. Vì các đặc tính hóa lý của các metyl este rất gần với nhiên liệu diesel khoáng, và quá trình này cũng tương đối đơn giản, chi phí không cao. Hơn nữa, việc sử dụng các alkyl este (biodiesel) làm nhiên liệu thì không cần phải thay đổi các chi tiết của động cơ diesel cũ.
1.2.4.2 Công nghệ sản xuất biodiesel theo phương pháp trao đổi este
Cơ sở hóa học:
Về phương diện hóa học, quá trình trao đổi este còn gọi là quá trình rượu hóa, có nghĩa là từ một phân tử triglyxerit trao đổi este với 3 phân tử rượu mạch thẳng, tách ra glyxerin và tạo ra các ankyl este, theo phản ứng:
R1COOCH2
R2COOCH
R3COOCH2
+ 3ROH
R1COOR
R2COOR
R3COOR
CH2- OH
CH- OH
CH2- OH
+
(Xúc tác)
Dầu thực vật
Glyxerin
Rượu mạch thẳng
Biodiezel
Thực chất quá trình chuyển hóa này gồm một loạt các phản ứng thuận nghịch nối tiếp nhau. Tức là triglyxerit chuyển hóa từng bước thành diglyxerit, rồi từ diglyxerit chuyển hóa tiếp thành monoglixerit và cuối cùng là glyxerin [30]:
Triglyxerit + ROH Û diglyxerit + R1COOR
Diglyxerit + ROH Û monoglyxerit + R2COOR
Monoglyxerit + ROH Û glyxerin + R3COOR
Như vậy, sản phẩm của quá trình là hỗn hợp các alkyl este, glyxerin, ancol, tri-, di-, monoglyxerin chưa phản ứng hết. Các monoglyrexit là nguyên nhân làm cho hỗn hợp sản phẩm bị mờ đục.
Nguyên liệu
- Rượu được sử dụng trong các quá trình này thường là các loại rượu đơn chức chứa khoảng từ 1 đến 8 nguyên tử cacbon: metanol, etanol, butanol và amylalcol. Metanol và etanol là các loại rượu hay được sử dụng nhất. Etanol có ưu điểm là sản phẩm của nông nghiệp, có thể tái tạo được, dễ bị phân hủy ._.sinh học, ít ô nhiễm môi trường. Nhưng metanol lại được sử dụng nhiều hơn do giá thành thấp hơn rất nhiều (khoảng một nửa giá etanol), và cho phép tách đồng thời pha glyxerin, do metanol là rượu mạch ngắn nhất và phân cực. Một lý do nữa là trong phản ứng tổng hợp biodiesel người ta thường cho dư rượu, nên việc thu hồi và tái sử dụng rượu có ý nghĩa rất lớn về kinh tế và bảo vệ môi trường. Rượu metanol dễ thu hồi và tái sử dụng hơn etanol rất nhiều bởi nó không tạo hỗn hợp đẳng phí với nước (trong khi etanol thì tạo hỗn hợp đẳng phí với nước). Như vậy phản ứng sử dụng etanol phức tạp hơn, chi phí cao hơn vì nó yêu cầu lượng nước trong rượu và trong dầu rất thấp. Ngoài ra, metyl este có năng lượng lớn hơn etyl este, khả năng tạo cốc ở vòi phun thấp hơn [33].
Tuy nhiên, chúng ta phải hết sức thận trọng khi làm việc với metanol. Vì metanol là một chất độc, có thể gây chết người nếu uống phải dù một lượng rất nhỏ, nếu tiếp xúc trực tiếp với mắt có thể gây mù mắt. Metanol là chất dễ bay hơi, hơi của nó kích ứng hệ thần kinh rất mạnh, gây đau đầu, chóng mặt, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe. Do đó, tất cả các thao tác với metanol cần phải thực hiện trong tủ hút, đeo khẩu trang phòng độc, đeo găng tay, đeo kính mắt, dùng phễu rót, không để metanol đổ ra ngoài.
- Biodiesel có thể được sản xuất từ nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau như các loại dầu thực vật, mỡ động vật. Tuy nhiên việc lựa chọn nguyên liệu phải dựa theo tiêu chí rẻ tiền, dễ kiếm, sản lượng lớn, có thể sản xuất dễ dàng, không có giá trị thực phẩm để đảm bảo an ninh lương thực trong nước.
Theo các tiêu chí trên thì nguồn nguyên liệu chủ yếu được nghiên cứu ở nước ta hiện nay là dầu hạt cao su, dầu thông, dầu hạt cải, mỡ cá tra, cá basa,…. Gần đây nguồn nguyên liệu dầu ăn phế thải cũng được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, bởi đây là nguồn nguyên liệu rẻ tiền, trữ lượng không nhỏ, và đặc biệt là giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường cũng như sức khỏe của người dân.
Ngoài ra, một số nghiên cứu mới ở ĐH Nông Lâm TP.HCM đã cho thấy tảo biển Chlorella có nhiều triển vọng ứng dụng tại Việt Nam, là nguồn sản xuất biodiesel phong phú mà không xâm hại an ninh lương thực như những loại cây trồng lấy dầu khác [75].
Xúc tác:
Xúc tác sử dụng cho quá trình tổng hợp biodiesel có thể là bazơ, axit, hoặc enzym, sử dụng ở dạng đồng thể hay dị thể.
Xúc tác bazơ:
Xúc tác bazơ đồng thể thường được sử dụng nhất vẫn là các bazơ mạnh như NaOH, KOH, Na2CO3,... vì xúc tác này cho độ chuyển hóa rất cao, thời gian phản ứng ngắn (từ 1 – 1,5 giờ), nhưng yêu cầu không được có mặt của nước trong phản ứng vì dễ tạo xà phòng gây đặc quánh khối phản ứng, giảm hiệu suất tạo biodiesel, gây khó khăn cho quá trình sản xuất công nghiệp. Quá trình tinh chế sản phẩm khó khăn.
Để khắc phục tất cả các nhược điểm của xúc tác đồng thể, các nhà khoa học hiện nay đang có xu hướng dị thể hóa xúc tác. Các xúc tác dị thể thường được sử dụng là các hợp chất của kim loại kiềm hay kiềm thổ mang trên chất mang rắn như NaOH/MgO, NaOH/g-Al2O3, Na2SiO3/MgO, Na2SiO3/SiO2, Na2CO3/g-Al2O3, KI/g-Al2O3. Các xúc tác này cũng cho độ chuyển hóa khá cao (trên 90%), nhưng thời gian phản ứng kéo dài hơn nhiều so với xúc tác đồng thể. Hiện nay, các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu thêm nhiều loại xúc tác khác nhằm mục đích nâng cao độ chuyển hóa tạo biodiesel, có thể tái sử dụng nhiều lần, hạ giá thành sản phẩm [10,22].
Cơ chế của phản ứng trao đổi este sử dụng xúc tác bazơ được mô tả như sau [10]:
Sau đó, gốc RO- tấn công vào nhóm cacbonyl của phân tử triglyxerit tạo thành hợp chất trung gian:
Hợp chất trung gian này không bền, tiếp tục tạo một anion và một alkyl este tương ứng:
Cuối cùng là sự hoàn nguyên lại xúc tác theo phương trình:
Xúc tác B lại tiếp tục phản ứng với các diglyxerit và monoglyxerit giống như cơ chế trên, cuối cùng tạo ra các alkyl este và glyxerin.
Xúc tác axit:
Ngoài ra các axit Bronsted như H2SO4, HCl,…cũng là các xúc tác đồng thể cho độ chuyển hóa cao. Nhưng phản ứng chỉ đạt được độ chuyển hóa cao khi nhiệt độ đạt trên 100 oC, thời gian phản ứng trên 6 giờ. Xúc tác axit dị thể cho quá trình này zeolit USY-292, nhựa trao đổi anion Amberlyst A26, A27. Các xúc tác dị thể này có ưu điểm là dễ lọc tách, tinh chế sản phẩm đơn giản, ít tiêu tốn năng lượng, nhưng ít được sử dụng vì cho độ chuyển hóa thấp. Cơ chế của phản ứng trao đổi este sử dụng xúc tác axit được mô tả như sau [51]:
Đầu tiên tâm axit tấn công vào nhóm cacbonyl của phân tử glyxerit, tạo thành hợp chất trung gian là cation kém bền và chuyển sang trạng thái cacbocation:
Cacbocation này tương tác với phân tử rượu tạo thành một cation kém bền, cation này hoàn nguyên lại tâm axit cho môi trường phản ứng và tách ra thành hai phân tử trung hòa bền vững là alkyl este và glyxerin.
Trong đó:
R’ là chuỗi cacbon của axit béo.
R là nhóm alkyl của rượu.
Xúc tác enzym:
Việc sử dụng xúc tác enzym cho phản ứng trao đổi este đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu rất nhiều. Enzym thường được sử dụng là hai dạng lipaza nội bào và ngoại bào. Xúc tác này có rất nhiều ưu điểm như độ chuyển hóa rất cao (cao nhất trong các loại xúc tác hiện nay), thời gian phản ứng ngắn nhất, quá trình tinh chế sản phẩm đơn giản, và đặc biệt là không bị ảnh hưởng bởi hàm lượng nước và axit béo tự do trong nguyên liệu. Đặc biệt là người ta đã cho enzym mang trên vật liệu xốp (vật liệu vô cơ hoặc nhựa anionic), nên dễ thu hồi xúc tác và có thể tái sử dụng xúc tác nhiều lần, góp phần làm hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, giá thành của xúc tác này vẫn còn rất cao nên hiện nay chưa được ứng dụng nhiều trong công nghiệp.
So sánh ưu, nhược điểm của các loại xúc tác khác nhau:
Kết quả thực nghiệm đối với các loại xúc tác khác nhau ở cùng điều kiện nhiệt độ là 600C, thời gian phản ứng là 8 giờ, cùng một loại dầu, cùng một loại tác nhân rượu hóa, tỷ lệ mol rượu/dầu như nhau được thể hiện ở bảng 1.5.
Bảng 1.5: So sánh hiệu suất biodiesel trên các loại xúc tác khác nhau.
Xúc tác
Hiệu suất biodiesel, %
NaOH
100
Enzym
100
Amberlyst A26
0,1
Amberlyst A27
0,4
Amberlyst 15
0,7
TIS
0,6
SnCl2
3,0
USY-292
0,2
MgO
11,0
NaOH/MgO
max 94
γ-Al2O3
11,0
Na/NaOH/ γ-Al2O3
max 94
Na2CO3/ γ-Al2O3
max 94
Từ số liệu ở bảng 1.5 ta thấy hiệu suất thu biodiesel đạt cao nhất khi sử dụng xúc tác kiềm (đồng thể) và enzym, xúc tác kiềm dị thể cũng cho hiệu suất tương đối cao. Còn các loại xúc tác khác có độ chuyển hóa rất thấp.
Có thể nhận thấy một số ưu nhược điểm của xúc tác đồng thể và dị thể như sau:
* Xúc tác đồng thể:
- Độ chuyển hóa cao.
- Thời gian phản ứng nhanh.
- Tách rửa sản phẩm phức tạp.
- Dễ tạo sản phẩm phụ là xà phòng, gây khó khăn cho phản ứng tiếp theo.
* Xúc tác dị thể:
- Độ chuyển hóa thấp hơn.
- Thời gian phản ứng dài hơn.
- Giá thành rẻ do tái sử dụng và tái sinh xúc tác.
- Tách lọc sản phẩm dễ hơn.
- Hạn chế phản ứng xà phòng hóa.
Từ các so sánh trên thấy rằng, dị thể hóa xúc tác tổng hợp biodiesel là phương hướng đúng đắn trong tương lai.
Công nghệ:
C¸c kü thuËt thùc hiÖn ph¶n øng chuyển hóa este tạo biodiesel thường được tiến hành theo những phương pháp sau:
- Ph¬ng ph¸p khuÊy gia nhiÖt: Đây lµ ph¬ng ph¸p cæ ®iÓn. Ngêi ta sö dông máy khuÊy c¬ häc hay m¸y khuÊy tõ cã gia nhiÖt ®Ó khuÊy trén hçn hîp, t¹o ®iÒu kiÖn cho sù tiÕp xóc tèt gi÷a hai pha (rượu và dầu, mỡ) để thực hiện phản ứng trao đổi este. Ph¬ng ph¸p nµy dÔ thùc hiÖn, nếu xúc tác tốt cã thÓ ®¹t độ chuyển hóa rất cao, nhng ®ßi hái thêi gian phản ứng kh¸ dµi.
- Ph¬ng ph¸p siªu ©m: Trong nh÷ng nghiªn cøu gÇn ®©y, ph¬ng ph¸p siªu ©m ®îc ¸p dông nhiều v× cã u ®iÓm lµ rót ng¾n thêi gian ph¶n øng, và ®é chuyÓn ho¸ cña ph¶n øng t¬ng ®èi cao.
- Ph¬ng ph¸p vi sãng: Ph¬ng ph¸p vi sãng ¸p dông cho ph¶n øng chuyển ho¸ este cũng cho ®é chuyÓn ho¸ cao vµ thêi gian ph¶n øng ng¾n.
- Ph¶n øng chuyển hóa este trong m«i trêng siªu tíi h¹n: Mét trong nh÷ng nghiªn cøu míi vÒ biodiesel trong thêi gian gÇn ®©y là tËp trung vµo ph¬ng ph¸p ®iÒu chÕ kh«ng xóc t¸c trong m«i trêng alcol siªu tíi h¹n.
§èi víi ph¶n øng trao đổi este th«ng thêng, ngêi ta ph¶i gi¶i quyÕt hai vÊn ®Ò là thêi gian ph¶n øng vµ quá trình tinh chế s¶n phÈm (lo¹i xóc t¸c vµ lo¹i xµ phßng ra khái s¶n phÈm). Với ph¬ng ph¸p alcol siªu tíi h¹n kh«ng cã xóc t¸c, nh÷ng vÊn ®Ò trªn kh«ng x¶y ra. Ph¶n øng chuyển ho¸ este dÇu h¹t c¶i trong metanol siªu tíi h¹n cho ®é chuyÓn ho¸ cao h¬n 95% trong vßng 4 phót, ®iÒu kiÖn tèi u lµ: nhiÖt ®é 350oC, ¸p suÊt 30MPa, tû lÖ metanol/dÇu 42/1.
N¨m 2003, nhãm t¸c gi¶ Y.Warabi thuéc ®¹i häc Kyoto nghiªn cøu ph¶n øng chuyển ho¸ este từ triglyxerit vµ axit bÐo víi metanol siªu tíi h¹n (300oC), kÕt qu¶ nhËn ®îc ph¶n øng hoµn toµn sau 14 phót.
Tuy vËy, ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp cổ điển là trao đổi este có sử dụng xúc tác và khuấy trộn có gia nhiệt. Các ph¬ng ph¸p khác chưa phï hîp víi ®iÒu kiÖn ë ViÖt Nam hiÖn nay do công nghệ phức tạp và rÊt ®¾t tiÒn.
Sơ đồ chung để tổng hợp biodiesel từ dầu, mỡ động thực vật bằng phương pháp trao đổi este có sử dụng xúc tác có thể mô tả như hình vẽ sau:
Dầu thực vật hoặc mỡ động vật
Tinh chế
Rượu thu hồi
Phản ứng
Biodiesel
Rượu
Rửa
Lắng
Sấy khô
Xúc tác
Axit vô cơ
Glyxerin
Trung hòa chưng cất
Lắng
Sấy khô
Axit béo
Hình 1.1: Sơ đồ công nghệ sản xuất biodiesel.
Cho nguyên liệu và xúc tác vào thiết bị phản ứng dạng khuấy lý tưởng có gia nhiệt để thực hiện phản ứng trao đổi este. Sau đó sản phẩm của phản ứng được chuyển sang thiết bị lắng trọng lực, tại đây sản phẩm tách thành 2 pha. Pha nặng chứa chủ yếu là glyxerin nên được chuyển sang quá trình thu hồi glyxerin, gồm các bước: trung hòa xúc tác bazơ (nếu đồng thể) bằng axit vô cơ; chưng cất thu hồi metanol dư (cho quay lại tái sử dụng); tinh chế glyxerin bằng cách lắng tách axit béo và làm khô. Pha nhẹ chứa chủ yếu là biodiesel, được bơm vào thiết bị rửa bằng nước để loại bỏ metanol, glyxerin và các cấu tử tan khác bị lẫn vào. Nước rửa được đem chưng thu hồi metanol, còn sản phẩm biodiesel được làm sạch và chuyển sang thiết bị sấy chân không để sấy khô.
Công nghệ sản xuất biodiesel có thể thực hiện gián đoạn hoặc liên tục.
Các yếu tố ảnh hưởng đến phản ứng trao đổi este:
- Ảnh hưởng của lượng nước và axit béo tự do trong nguyên liệu: Quá trình sản xuất biodiesel (trừ trường hợp sử dụng xúc tác enzym), chịu ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố lượng nước và axit béo tự do trong nguyên liệu. Khi có mặt nước (đặc biệt ở nhiệt độ cao) sẽ gây thủy phân triglyxerit thành các axit béo tự do. Các axit này sẽ kết hợp với kiềm tạo xà phòng gây kết khối phản ứng, làm giảm hiệu suất tạo biodiesel và ảnh hưởng đến quá trình xử lý thu sản phẩm. Do đó, yêu cầu nguyên liệu phải hoàn toàn khan và chỉ số axit thấp.
Ma và các cộng sự đã khảo sát phản ứng trao đổi este của mỡ bò và metanol, thấy rằng hàm lượng nước trong mỡ bò cần phải nhỏ hơn 0,06% khối lượng, và hàm lượng axit béo tự do cần phải nhỏ hơn 0,5% khối lượng thì sẽ cho độ chuyển hóa cao nhất [30].
Như vậy, với các nguồn nguyên liệu có hàm lượng nước, hàm lượng axit béo cao như dầu hạt cao su, mỡ cá, dầu ăn phế thải,... thì nhất thiết phải xử lý trước khi đưa vào thiết bị este hóa.
- Ảnh hưởng của tốc độ khuấy: Các chất phản ứng tồn tại ở 2 pha tách biệt nên rất khó tiếp xúc để phản ứng. Do đó cần phải khuấy trộn, và tốc độ khuấy trộn ảnh hưởng rất lớn đến thời gian phản ứng, và hiệu suất phản ứng. Thường hiệu suất phản ứng tăng theo tốc độ khuấy trộn. Theo nhiều kết quả nghiên cứu thì tốc độ khuấy trộn khoảng 600 vòng/phút là tốt nhất.
- Ảnh hưởng của tỷ lệ metanol/dầu (mỡ): Do phản ứng trao đổi este là phản ứng thuận nghịch nên người ta thường cho dư metanol để tăng hiệu suất chuyển hóa. Tuy nhiên, không nên cho quá nhiều metanol sẽ tốn nhiều chi phí cho quá trình thu hồi và gây trở ngại cho công đoạn thu hồi glyxerin vì tăng độ hòa tan. Lượng metanol tối ưu phụ thuộc vào từng loại xúc tác sử dụng.
- Ảnh hưởng của nhiệt độ: Phản ứng trao đổi este có thể xảy ra ở các nhiệt độ khác nhau, tùy thuộc vào các loại dầu sử dụng (thường dao động từ 55 – 70). Khi nhiệt độ tăng thì hiệu suất phản ứng tăng, nhưng thường thì thực hiện phản ứng ở dưới nhiệt độ sôi của metanol, để tránh trường hợp metanol bay hơi quá nhiều làm giảm hiệu suất phản ứng, cũng như tốn năng lượng làm lạnh, và hạn chế phản ứng xà phòng hóa (do nhiệt độ cao).
- Ảnh hưởng của thời gian phản ứng: Thời gian phản ứng cũng ảnh hưởng đến hiệu suất tạo biodiesel. Nếu thời gian ngắn quá thì lượng nguyên liệu phản ứng còn ít, hiệu suất thấp. Tuy nhiên nếu thời gian phản ứng lâu quá thì có thể tạo sản phẩm phụ và tốn nhiều chi phí. Thời gian phản ứng phù hợp thì cần phải khảo sát vì nó còn phụ thuộc vào loại nguyên liệu, xúc tác, và cả nhiệt độ phản ứng.
- Ảnh hưởng của lượng xúc tác: Các loại xúc tác với hoạt tính khác nhau nên lượng xúc tác cần dùng cũng sẽ khác nhau. Ngoài ra lượng xúc tác còn phụ thuộc vào nguyên liệu. Thường thì lượng xúc tác càng nhiều sẽ cho hiệu suất phản ứng càng cao.
1.2.5 Yêu cầu chất lượng nhiên liệu biodiesel
Theo hiệp hội đo lường và thử nghiệm vật liệu Hoa Kỳ (ASTM), chỉ tiêu chất lượng của biodiesel được quy định theo bảng sau [33].
Bảng 1.6: Chỉ tiêu đánh giá chất lượng biodiesel theo ASTM D 6751
Chỉ tiêu đánh giá
Giá trị
Tỷ trọng
0,8 - 0,9
Độ nhớt (40oC, mm2/s)
1,9 - 6,0
Nhiệt độ chớp cháy, oC
min 130
Hàm lượng nước, % thể tích
max 0,05
Glyxerin tự do, % khối lượng
max 0,02
Hàm lượng lưu huỳnh, % khối lượng
max 0,05
Hàm lượng photpho, % khối lượng
max 0,001
Chỉ số axit, mg KOH/g nhiên liệu
max 0,8
Độ ăn mòn tấm đồng (3h, 50oC)
< No3
Trị số xetan
> 47
Cặn cacbon, % khối lượng
< 0,05
Tổng lượng glyxerin, % khối lượng
max 0,24
Bảng 1.7: So sánh tính chất của nhiên liệu diesel khoáng với biodiesel.
Các chỉ tiêu
Biodiesel
Diesel khoáng
Tỷ trọng
0,87 - 0,89
0,81 - 0,89
Độ nhớt động học ở 40oC, cSt
3,7 - 5,8
1,9 - 4,1
Trị số xetan
46 - 70
40 - 55
Nhiệt lượng tỏa ra khi cháy, cal/g
37.000
43.800
Hàm lượng lưu huỳnh, % khối lượng
0,0 - 0,0024
0,5
Điểm vẩn đục
-11÷ 16
-
Chỉ số iot
60 - 135
8,6
Vậy biodiesel có tính chất vật lý rất giống với dầu diesel. Tuy nhiên, tính chất phát khí thải thì biodiesel tốt hơn dầu diesel khoáng. Sản phẩm cháy của biodiesel sạch hơn nhiều so với nhiên liệu diesel khoáng, riêng B20 (20% biodiesel, 80% diesel khoáng) có thể được sử dụng trong các động cơ diesel mà không cần phải thay đổi kết cấu của động cơ, thực tế các động cơ diesel sẽ chạy tốt hơn khi pha chế 20% biodiesel.
Từ tất cả phần tổng quan trên ta có thể rút ra một số ưu nhược điểm của biodiesel so với diesel khoáng như sau:
Ưu điểm của biodiesel:
- Trị số xetan cao:
Biodiesel là các alkyl este mạch thẳng nên có trị số xetan cao hơn hẳn diesel khoáng. Nhiên liệu diesel khoáng thường có trị số xetan từ 50 đến 52 và 53 đến 54 đối với động cơ cao tốc, trong khi với biodiesel thường là 56 đến 58 [27]. Như vậy biodiesel hoàn toàn có thể đáp ứng yêu cầu về trị số xetan mà không cần phụ gia, thậm chí nó còn được dùng như phụ gia tăng trị số xetan cho diesel khoáng.
- Giảm lượng các khí phát thải độc hại:
Biodiesel chứa rất ít hydrocacbon thơm. Hàm lượng lưu huỳnh rất thấp, khoảng 0,001% [35]. Đặc tính này của biodiesel rất tốt cho quá trình sử dụng làm nhiên liệu, vì nó làm giảm đáng kể khí thải SOx gây ăn mòn thiết bị và gây ô nhiễm môi trường. Đồng thời, trong nhiên liệu biodiesel chứa khoảng 11% oxy nên quá trình cháy của nhiên liệu xảy ra hoàn toàn, giảm được lượng hydrocacbon trong khí thải. Với biodiesel khí thải không có SO2, CO2 và giảm 20% khí CO, và còn có nhiều khí O2 tự do [42]. Do đó sử dụng nhiên liệu biodiesel sẽ rất có lợi cho môi trường và giảm nguy cơ bị bệnh ung thư do hít phải khói thải độc hại.
- Khả năng bôi trơn cao nên giảm mài mòn:
Biodiesel có khả năng bôi trơn bên trong tốt hơn diesel khoáng. Khả năng bôi trơn của nhiên liệu được đặc trưng bởi giá trị HFRR (high-frequency receiprocating rig). Nói chung, giá trị HFRR càng thấp thì khả năng bôi trơn của nhiên liệu càng tốt. Diesel khoáng đã xử lý lưu huỳnh có giá trị HFRR ≥ 500 khi không có phụ gia, nhưng giới hạn đặc trưng của diesel là 450. Vì vậy, diesel khoáng yêu cầu phải có phụ gia để tăng khả năng bôi trơn. Ngược lại, giá trị HFRR của biodiesel khoảng 200. Vì vậy, biodiesel còn như là một phụ gia rất tốt đối với nhiên liệu diesel thông thường.
- Có khả năng phân hủy sinh học:
Biodiesel có khả năng phân hủy rất nhanh (phân hủy đến hơn 98% chỉ trong 21 ngày) nên rất tốt cho môi trường. Tuy nhiên, sự thuận lợi này yêu cầu sự chú ý đặc biệt về quá trình bảo quản nhiên liệu.
- Khả năng thích hợp cho mùa đông:
Biodiesel rất phù hợp cho điều kiện sử dụng vào mùa đông, nó có thể làm việc được ở nhiệt độ -20oC.
Biodiesel có nhiệt độ chớp cháy cao, trên 110oC, nên an toàn hơn trong tồn chứa và vận chuyển.
- An toàn về cháy nổ tốt hơn:
- Nguồn nguyên liệu cho tổng hợp hóa học:
Ngoài việc được sử dụng làm nhiên liệu, các alkyl este axit béo còn là nguồn nguyên liệu quan trọng cho ngành công nghệ hóa học, sản xuất các rượu béo, ứng dụng trong dược phẩm và mỹ phẩm, các alkanolamin isopropylic este, các polyeste được ứng dụng như chất nhựa, chất hoạt động bề mặt,…
- Có khả năng nuôi trồng được:
Biodiesel có nguồn gốc từ dầu mỡ động thực vật nên có thể nuôi trồng và tái tạo được. Nó tạo ra nguồn năng lượng độc lập với dầu mỏ, không làm suy yếu các nguồn năng lượng tự nhiên, không gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường,…
Nhược điểm chủ yếu của biodiesel:
- Giá thành khá cao:
Biodiesel thu được từ dầu thực vật đắt hơn so với nhiên liệu diesel thông thường. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất biodiesel có thể tạo ra sản phẩm phụ là glyxerin, là một chất có tiềm năng thương mại lớn vì có nhiều ứng dụng trong công nghiệp sản xuất mỹ phẩm, dược phẩm, kem đánh răng, mực viết,... nên có thể bù lại phần nào giá cả cao của biodiesel.
- Dễ phân hủy sinh học: Biodiesel dễ phân hủy gấp 4 lần diesel khoáng [27] vì nó vẫn còn chứa các axit không no. Do đó vấn đề bảo quản tồn chứa phải được quan tâm.
- Có thể gây ô nhiễm:
Nếu quá trình sản xuất biodiesel không đảm bảo, chẳng hạn rửa biodiesel không sạch thì khi sử dụng vẫn gây ra các vấn đề về ô nhiễm do vẫn còn xà phòng, kiềm dư, metanol, glyxerin tự do…cũng là những chất gây ô nhiễm.
1.3. TỔNG QUAN VỀ CÁC LOẠI DẦU, MỠ LÀM NGUYÊN LIỆU CHO QUÁ TRÌNH TỔNG HỢP BIODIESEL
Biodiesel có thể được sản xuất từ nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau như các loại dầu thực vật, mỡ động vật, và cả dầu ăn phế thải. Việc lựa chọn nguồn nguyên liệu nào là tùy thuộc vào điều kiện của từng địa phương, từng đất nước.
Tất cả các dạng nguyên liệu này đều có chứa hợp chất triglyxerit (là este của glyxerin và các axit béo). Tuy nhiên, thành phần hóa học cụ thể của từng loại nguyên liệu thì khá phức tạp. Thành phần hóa học và tính chất của dầu, mỡ động thực vật có ảnh hưởng nhất định đến quá trình sản xuất, cũng như chất lượng biodiesel, nên cần được tìm hiểu.
1.3.1. Thành phần hóa học của dầu thực vật và mỡ động vật
R1COOCH2
R2COOCH
R3COOCH2
Các loại dầu, mỡ động thực vật khác nhau thì có thành phần hóa học khác nhau. Nhưng nhìn chung, thành phần hóa học của chúng gồm 95 - 97% các triglyxerit và một lượng nhỏ các axid béo tự do. Công thức hóa học chung của triglyxerit là [15]:
R1, R2, R3 là các gốc hydrocacbua của các axit béo. Khi chúng có cấu tạo giống nhau thì gọi là glyxerit đồng nhất, nếu khác nhau thì gọi là glyxerit hỗn hợp. Các gốc R này có thể no hoặc không no, và thường có khoảng 8 – 30 cacbon.
Ngoài các hợp chất chủ yếu ở trên, trong dầu thực vật còn chứa một lượng nhỏ các hợp chất khác như photphatit, các chất sáp, chất nhựa, chất nhờn, các chất màu, các chất gây mùi, các tiền tố và sinh tố…
Bảng 1.8. Thành phần hóa học của các loại dầu.
Thành phần
Dầu bông
Dầu hạt cải
Dầu dừa
Dầu diesel
Cacbon (%)
77,25
76,80
72,00
86,60
Hydro (%)
11,66
11,90
12,00
13,40
Oxy (%)
11,09
11,30
16,00
0,00
Tỷ trong C/H
6,63
6,45
6,00
6,46
Tỷ số lượng không khí/nhiên liệu (A/F)
12,40
12,39
11,83
14,50
Như vậy, về thành phần hóa học, đối với dầu thực vật so với dầu diesel: chứa C ít hơn 10 – 12%, lượng H ít hơn 5 – 13%, còn lượng O thì lớn hơn rất nhiều (dầu diesel chỉ có vài phần ngàn O, còn dầu thực vật có 9 – 11% O), cho nên dầu thực vật là nhiên liệu có chứa nhiều oxy. Chính vì điều này mà dầu thực vật có thể cháy hoàn toàn với hệ số dư lượng không khí bé.
1.3.2 Một số tính chất của dầu, mỡ động thực vật
Tính chất vật lý:
- Nhiệt độ nóng chảy và nhiệt độ đông đặc: các loại dầu khác nhau có nhiệt độ nóng chảy và nhiệt độ đông đặc khác nhau. Các giá trị này không phải là một số cố định mà thường nằm trong một khoảng. Nhiệt độ nóng chảy của dầu thực vật tăng lên cùng với sự tăng chiều dài mạch cacbon.
- Tính tan của dầu thực vật: dầu không phân cực nên tan rất tốt trong dung môi không phân cực, và tan rất ít trong rượu, không tan trong nước. Độ tan của dầu trong dung môi phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ, nên trong phản ứng chuyển hóa este thường cần phải khuấy trộn và tiến hành ở nhiệt độ phù hợp.
- Màu của dầu: màu của dầu phụ thuộc vào thành phần các hợp chất có trong dầu. Dầu tinh khiết không màu, dầu có màu vàng là do các carotenoit và các dẫn xuất, dầu có màu xanh là của clorophin…
- Khối lượng riêng: dầu thực vật thường nhẹ hơn nước. Dầu có nhiều thành phần hydrocacbon no thì tỷ trọng càng cao.
- Độ nhớt: dầu thực vật ở nhiệt độ thường, có độ nhớt cao hơn so với diesel khoảng vài chục lần, khi nhiệt độ tăng thì độ nhớt của dầu thực vật giảm nhanh. Độ nhớt của dầu ảnh hưởng lớn đến khả năng thông qua của dầu trong bầu lọc, đến chất lượng phun nhiên liệu và hòa trộn hỗn hợp, do đó ảnh hưởng mạnh đến tính kinh tế và hiệu quả của động cơ.
- Trị số xetan: dầu thực vật có trị số xetan nhỏ hơn so với dầu diesel. Trong số các dầu thực vật nghiên cứu thì dầu dừa có trị số xetan gần bằng dầu diesel. Muốn tăng trị số xetan cho dầu thực vật nên chuyển thành este dầu thực vật.
Tính chất hóa học:
Thành phần hoá học của dầu thực vật và mỡ động vật chủ yếu là este của axit béo với glyxerin, do vậy chúng có đầy đủ tính chất của một este:
Phản ứng thủy phân:
Các glyxerit có thể thủy phân tạo thành axit béo theo phương trình phản ứng sau:
R1COOCH2
R2COOCH
R3COOCH2
+ 3H2O
R1COOH
R2COOH
R3COOH
CH2- OH
CH - OH
CH2- OH
+
Phản ứng xà phòng hoá:
Nếu trong quá trình thuỷ phân có mặt kiềm ( NaOH, KOH), thì axit béo tạo ra sẽ phản ứng với kiềm tạo thành xà phòng:
RCOOH + NaOH RCOONa + H2O
Phản ứng thủy phân và phản ứng xà phòng hóa là hai phản ứng không mong muốn trong quá trình tổng hợp biodiesel, vì nó làm giảm lượng triglyxerit, giảm hiệu suất tạo biodiesel; xà phòng còn có thể gây kết khối phản ứng làm giảm khả năng tiếp xúc giữa các chất nên giảm hiệu suất phản ứng, thậm chí có thể gây đông đặc phản ứng. Do có, cần hạn chế tối đa hai phản ứng này trong quá trình tổng hợp biodiesel.
Phản ứng cộng hợp:
Trong điều kiện thích hợp, các axit béo không no sẽ cộng hợp với chất khác:
+ Phản ứng hydro hoá: phản ứng này được tiến hành ở điều kiện nhiệt độ, áp suất cao và có mặt của xúc tác niken.
+ Cộng halogen: trong những điều kiện thích hợp, dầu có chứa các axit béo không no có thể cộng hợp với các halogen.
Phản ứng trao đổi este (rượu hóa):
Các glyxerit trong điều kiện có mặt của xúc tác axit mạnh (H2SO4, HCl), hoặc bazơ mạnh (NaOH, KOH) sẽ xảy ra phản ứng trao đổi este với các rượu bậc một, mạch thẳng như metanol, etanol,... tạo thành các alkyl este axit béo và glyxerin:
R1COOCH2
R2COOCH
R3COOCH2
+ 3ROH
R1COOR
R2COOR
R3COOR
CH2- OH
CH - OH
CH2- OH
+
(Xúc tác)
Đây là phản ứng tổng hợp biodiesel. Phản ứng này có ý nghĩa thực tế rất lớn vì người ta có thể sử dụng các alkyl este axit béo làm nhiên liệu, giảm một cách đáng kể lượng khí thải độc hại ra môi trường. Ngoài ra, lượng glyxerin thu được cũng có giá trị kinh tế cao.
Phản ứng oxi hoá: dầu thực vật có chứa nhiều các loại axit béo không no dễ bị oxi hoá. Tuỳ thuộc vào bản chất của chất oxi hoá và điều kiện phản ứng mà tạo ra các sản phẩm khác nhau. Dầu thực vật tiếp xúc với không khí có thể xảy ra quá trình oxi hoá làm biến chất dầu.
Phản ứng trùng hợp: dầu mỡ có nhiều axit không no dễ phát sinh phản ứng trùng hợp tạo ra các hợp chất cao phân tử.
Sự ôi chua của dầu mỡ: do trong dầu có chứa nước, vi sinh vật, các men thủy phân…nên trong quá trình bảo quản thường phát sinh những biến đổi làm ảnh hưởng đến màu sắc, mùi vị của dầu.
Các chỉ tiêu quan trọng của dầu thực vật
Để đánh giá sơ bộ chất lượng của dầu thực vật dùng làm nguyên liệu tổng hợp biodiesel, người ta dựa vào các chỉ tiêu cơ bản sau [15]:
Chỉ số xà phòng hóa: là số mg KOH cần thiết để trung hòa và xà phòng hóa hoàn toàn 1g dầu. Thông thường, dầu thực vật có chỉ số xà phòng hóa khoảng 170 - 260. Chỉ số này càng cao thì chứng tỏ dầu dễ bị xà phòng hóa nên khi tổng hợp biodiesel sử dụng xúc tác kiềm mạnh, phải hết sức chú ý nếu không sẽ bị xà phòng hóa, gây khó khăn cho phản ứng và lọc tách sản phẩm, làm giảm hiệu suất biodiesel.
Chỉ số axit: là số mg KOH cần thiết để trung hòa hết lượng axit béo tự do có trong 1g dầu. Chỉ số axit của dầu thực vật không cố định, dầu càng biến chất thì chỉ số axit càng cao.
Đây là chỉ số rất quan trọng đối với dầu sử dụng làm nguyên liệu sản xuất biodiesel. Chỉ số này càng cao tức là lượng axit béo tự do trong dầu càng nhiều, nếu dùng trực tiếp để tổng hợp biodiesel, sử dụng xúc tác bazơ sẽ gây xà phòng hóa, làm giảm hiệu suất phản ứng, thậm chí là gây đông đặc khiến phản ứng không thể thực hiện được.
Chỉ số iot: là số gam iot tác dụng với 100g dầu mỡ (Is). Chỉ số iot biểu thị mức độ không no của dầu mỡ, chỉ số này càng cao thì mức độ không no càng lớn và ngược lại. Như vậy, nếu chỉ số iot càng cao thì dầu có chứa nhiều liên kết không no, nên sản phẩm biodiesel tạo thành dễ biến chất. Do đó, cần phải có biện pháp bảo quản sản phẩm phù hợp.
Ngoài ra, người ta còn xác định hàm lượng tạp chất, hàm lượng cặn cacbon, hàm lượng tro, hàm lượng nước, hàm lượng lưu huỳnh. Và yêu cầu dầu, mỡ làm nguyên liệu cho biodiesel phải rất sạch, hàm lượng nước, tạp chất, cặn cacbon, tro, lưu huỳnh rất bé, để không ảnh hưởng xấu đến phản ứng, và đảm bảo chất lượng biodiesel thu được.
Sau đây là một vài số liệu tham khảo về tính chất lý, hóa của các loại dầu thông dụng.
Bảng 1.9: Các tính chất vật lý và hóa học của dầù thực vật.
Tên dầu
KV
CR
CN
HHV
AC
SC
IV
SV
Dầu bông
33.7
0.25
33.7
39.4
0.02
0.01
113.20
207.7
Dầu nho
37.3
0.31
37.5
39.7
0.006
0.01
108.05
197.0
Dầu vừng
36.0
0.25
40.4
39.4
0.002
0.01
91.76
210.3
Dầu nành
28.0
0.24
27.6
39.3
0.01
0.01
156.74
188.7
Dầu thầu dầu
33.1
0.24
38.1
39.6
0.006
0.01
69.82
220.7
Dầu lạc
24.0
0.21
52.9
39.8
0.01
0.02
98.62
197.6
Dầu cọ
34.2
0.22
34.5
39.8
0.01
0.01
102.35
197.5
Mỡ bò
51.2
0.26
-
40.1
0.01
0.02
47
220.0
Trong đó:
KV (kinematic viscosity): Độ nhớt động học, mm2/s tại 311K.
CR (carbon residue): Cặn cacbon,% khối lượng.
CN ( Cetane number): Trị số xetan.
HHV (higher heating value): Nhiệt trị,MJ/kg.
AC (ash content): Hàm lượng tro,% khối lượng.
SC (sulfur content): Hàm lượng lưu huỳnh,%.
IV (iodine value): Chỉ số iot, g iot/g dầu.
SV (saponification value): Chỉ số xà phòng, mgKOH/g dầu.
1.3.3 Giới thiệu về dầu ăn phế thải và mỡ cá
Dầu ăn phế thải
- Khái niệm về dầu ăn thải:
Dầu ăn phế thải chính là cặn dầu thực vật của các nhà máy chế biến thực phẩm, hay ở các nhà hàng, cửa hàng ăn. Chúng có đặc điểm là đã qua sử dụng, gia nhiệt nhiều lần nên màu sẫm và bị biến chất. Về tính chất nguồn dầu này rất phức tạp. Nó được thu gom từ nhiều nơi khác nhau, thành phần dầu ban đầu khác nhau, số lần sử dụng khác nhau, nên không có một số liệu cụ thể nào chung cho nguồn nguyên liệu này. Tuy nhiên, nhìn chung các nguồn dầu phế thải đều có thành phần phức tạp, ngoài dầu mỡ ra còn có nhiều tạp chất khác như muối, tạp chất cơ học, cặn cacbon, nước, lượng axit béo tự do tăng. Do đó, nguồn nguyên liệu này cần được xử lý trước khi sử dụng như lọc tách cặn rắn, tách nước, trung hòa để giảm lượng axit béo tự do,….
- Ảnh hưởng của việc ăn dầu tái sử dụng và tiêu hủy dầu:
Thực tế, trung bình một nhà hàng thải ra khoảng 20 – 30 kg dầu ăn trong ngày, sau đó đem bán lại cho tiểu thương chiên xào tiếp. Điều này rất nguy hại cho sức khỏe người tiêu dùng. Vì nếu tái sử dụng trên một lần để chế biến thực phẩm thì dầu ăn sẽ trở thành chất độc hại. Dầu ăn khi đun ở nhiệt độ cao sẽ bị ôxy hóa và polyme hóa nên mất dinh dưỡng, đặc biệt khi thức ăn bị cháy đen trong môi trường dầu sẽ trở thành chất cacbon - đây là nguyên nhân gây ung thư.
Dầu ăn được dùng để chiên nhiều đến mức từ vàng sang đen, thậm chí vón cục, sau đó thường được đổ thẳng xuống cống rãnh, làm thành những mảng bám ở đây, gây ô nhiễm môi trường. Dầu nhẹ hơn nước và có khuynh hướng giãn ra thành màng mỏng, lan rộng gây cản trở sự ôxy hóa trong nước. Vì lý do đó mà 1 lít dầu có thể làm ô nhiễm 1 triệu lít nước. Ngoài ra, dầu có thể đông lại trong đường ống dẫn gây tình trạng nghẹt và nứt vỡ ống.
- Khả năng sử dụng dầu ăn thải:
Như vậy, dầu ăn thải sau khi sử dụng không còn giá trị dinh dưỡng nữa. Do đó, việc tái tạo sử dụng nguồn dầu này là rất cần thiết và đem lại nhiều lợi ích thiết thực thực về kinh tế, bảo vệ môi trường và sức khỏe người dân.
Dầu ăn thải được sử dụng để sản xuất xà phòng, đặc biệt là được sử dụng làm nguyên liệu cho quá trình tổng hợp biodiesel. Dầu ăn thải được gom lại từ các hệ thống nhà hàng, nhà máy chế biến thực phẩm,... có giá rất rẻ (2000 – 3000 đồng/lít), nên biodiesel sản xuất ra có giá thành rẻ. Ước tính, hiện tại riêng khu vực phía Nam, các nhà máy tinh luyện dầu ăn như Nhà Bè: 50 tấn/tháng, Tân Bình: 50 tấn/tháng, ngoài ra các nhà máy sản xuất mì ăn liền, nhà máy chế biến thực phẩm có sử dụng dầu ăn và một số nhà hàng, quán ăn, cơ sở chế biến thực phẩm nhỏ với khối lượng 4 - 5 tấn/ngày. Nếu có kế hoạch thu gom cụ thể thì lượng dầu thải này cũng khá lớn. Song nguồn nguyên liệu có hạn chế là phải thu gom từng nơi nhỏ l._.hảo sát các yếu tố ảnh hưởng này.
3.7.1 Ảnh hưởng của nhiệt độ nước rửa
Khi khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ nước rửa, chúng tôi cố định tỷ lệ nước rửa/biodiesel là 2/1, tốc độ khuấy trộn không đổi và thay đổi nhiệt độ nước rửa. Kết quả thể hiện trên bảng 3.17.
Bảng 3.17: Ảnh hưởng của nhiệt độ nước rửa đến số lần rửa biodiesel.
Nhiệt độ nước rửa, oC
50
60
70
80
90
Số lần rửa, lần
Tạo nhũ nhiều
6
4
4
Xà phòng
Như vậy, nhiệt độ nước rửa có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình rửa. Nếu nước rửa có nhiệt độ thấp thì khi khuấy trộn sản phẩm metyl este rất dễ tạo nhũ tương với nước, gây khó khăn cho quá trình phân tách, và làm giảm lượng biodiesel thu được. Khi tăng nhiệt độ nước rửa lên thì lượng nhũ tương giảm dần, dễ tách sản phẩm và rửa nhanh sạch hơn, do ở nhiệt độ cao sẽ hòa tan tốt lượng metanol và glyxerin dư hơn. Do đó ở nhiệt độ 60oC số lần rửa là 6, nhưng ở 70 và 80 oC số lần rửa chỉ cần 4 lần. Tuy nhiên, khi nhiệt độ quá cao (90oC) thì lại xảy ra hiện tượng xà phòng hóa, do metyl este thủy phân ở nhiệt độ cao, và trong sản phẩm còn lẫn một ít xúc tác. Vậy, nhiệt độ nước rửa thích hợp là 70 – 80oC.
3.7.2 Ảnh hưởng của tỷ lệ thể tích nước rửa/biodiesel
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ nước rửa/biodiesel đến số lần rửa sản phẩm, với điều kiện tốc độ khuấy trộn không đổi và nhiệt độ nước rửa là 70oC , được trình bày trong bảng 3.18.
Bảng 3.18: Ảnh hưởng của tỷ lệ thể tích nước rửa/biodiesel đến số lần rửa.
Tỷ lệ nước rửa/biodiesel, v/v
0,5/1
0,8/1
1/1
1,5/1
2/1
Số lần rửa, lần
7
6
5
4
4
Ta thấy tỷ lệ nước rửa/metyl este càng tăng thì số lần rửa càng giảm. Vì lượng nước càng nhiều thì khả năng hòa tan các tạp chất sẽ tốt hơn, rửa nhanh sạch hơn. Tuy nhiên, khi tỷ lệ này là 2/1 thì số lần rửa không giảm nữa, mà tỷ lệ này cao quá thì khi tách sản phẩm còn lẫn nhiều nước hơn nên tốn nhiều năng lượng cho quá trình tách nước. Vậy, tỷ lệ thích hợp là 1,5/1.
3.7.3 Ảnh hưởng của tốc độ khuấy trộn
Chúng tôi cố định nhiệt độ nước rửa là 70oC, tỷ lệ nước rửa/biodiesel là 1,5/1 và thay đổi tốc độ khuấy trộn, kết quả thu được như bảng 3.19.
Bảng 3.19: Ảnh hưởng của tốc độ khuấy trộn đến số lần rửa.
Tốc độ khuấy trộn, vòng/phút
300
500
800
Số lần rửa, lần
6
4
Tạo nhũ
Khi tốc độ khuấy tăng thì khả năng hòa tan tạp chất của nước sẽ tăng nên rửa nhanh sạch hơn. Nhưng tốc độ khuấy lớn quá sẽ xảy ra hiện tượng tạo nhũ nên ta chọn tốc độ khuấy trộn 500 vòng/phút.
3.8 ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM THU ĐƯỢC
Sản phẩm biodiesel thu được từ hai loại nguyên liệu khác nhau (dầu thải và mỡ cá), trên cùng xúc tác MgSiO3 được xác định thành phần cấu trúc, và xác định các chỉ tiêu chất lượng theo tiêu chuẩn ASTM.
3.8.1 Xác định cấu trúc sản phẩm
Kết quả chụp phổ IR của biodiesel từ dầu thải và mỡ cá như hình 3.3, 3.4, và 3.5.
Hình 3.3: Phổ IR của mẫu biodiesel tổng hợp từ dầu thải.
Hình 3.3: Phổ IR của mẫu biodiesel tổng hợp từ dầu thải.
Hình 3.4: Phổ IR của mẫu biodiesel tổng hợp từ mỡ cá.
2
1
Hình 3.5: Chồng phổ IR của mẫu biodiesel tổng hợp từ dầu thải (1) và từ mỡ cá (2).
Kết quả chồng phổ trên hình 3.5 cho thấy phổ đồ IR của hai mẫu biodiesel từ nguyên liệu dầu thải (1), và mỡ cá (2) giống nhau. Điều này phù hợp với lý thuyết, vì phổ IR chỉ cho biết các nhóm liên kết hóa học đặc trưng. Nếu biodiesel không bị lẫn tạp chất khác, thì khi khác nguyên liệu chúng chỉ khác nhau ở gốc axit béo (khác nhau ở số nguyên tử cacbon, số nối đôi, vị trí nối đôi – điều này không thể hiện được trên phổ IR), còn nhóm liên kết hóa học đặc trưng như liên kết, C-H, C=C, -CH3, -COO, ... thì không khác, nên phổ đồ IR sẽ giống nhau.
Trên hai phổ đồ đều có xuất hiện các vân hấp thụ đặc trưng cho nhóm metyl este như: vân hấp thụ ứng với tần số 2928 cm-1 đặc trưng cho dao động của nhóm –CO-CH3 (theo Atlat chuẩn 3100-2900 cm-1), vân hấp thụ ứng với tần số 1743 cm-1 có cường độ mạnh là pic đặc trưng cho dao động của nhóm cacbonyl trong este –CO–O– (theo Atlat chuẩn 1750-1735cm-1). Như vậy kết quả phân tích IR là phù hợp với sự có mặt của các metyl este trong sản phẩm biodiesel.
Để xác định chính xác hơn thành phần cấu trúc của sản phẩm biodiesel chúng tôi đã chụp sắc ký khối phổ. Kết quả chụp sắc ký khối phổ GC-MS của biodiesel tổng hợp từ mỡ cá (hình 3.6, 3.7, 3.8) và dầu thải thể hiện ở các hình từ 3.9 đến 3.11.
Hình 3.6: Phổ GC của biodiesel tổng hợp từ mỡ cá basa.
Hình 3.7: Phổ khối của pic có thời gian lưu 37,028 phút trong phổ GC và phổ khối chuẩn của metyl palmitat trong thư viện phổ.
Hình 3.8: Phổ khối của pic có thời gian lưu 41,492 phút trong phổ GC và phổ khối chuẩn của metyl oleat trong thư viện phổ.
Kết quả phân tích sắc ký khối phổ cho thấy mẫu biodiesel tổng hợp từ mỡ cá có các pic có thời gian lưu tương ứng với các metyl este của các loại axit béo có mặt trong thành phần mỡ cá basa như: metyl oleat (41,76%), metyl palmitat (26,56%), và metyl linoleat (10,21%), ...và rất nhiều metyl este của các axit béo khác với hàm lượng nhỏ.
So sánh với phổ khối chuẩn trong thư viện của máy sắc ký khối phổ ta thấy các pic của mẫu biodiesel tổng hợp được từ mỡ cá có độ trùng lặp so với mẫu chuẩn đạt từ 96 – 98%. Điều này chứng tỏ thành phần của biodiesel thu được đúng là metyl este của axit béo, và quá trình tổng hợp biodiesel là đáng tin cậy.
Hình 3.9: Phổ GC của biodiesel tổng hợp từ dầu ăn phế thải.
Hình 3.10: Phổ khối của pic có thời gian lưu 22,03 phút trong phổ GC và phổ khối chuẩn của metyl palmitat trong thư viện phổ.
Hình 3.11: Phổ khối của pic có thời gian lưu 24,45 phút trong phổ GC và phổ khối chuẩn của metyl stearat trong thư viện phổ.
Tương tự, kết quả GC-MS mẫu biodiesel từ dầu thải cũng cho kết quả tốt. Thành phần của biodiesel là metyl este của các axit béo no với C12 – C22. Thành phần chủ yếu của nó là metyl stearat (60,11%), metyl pamitat (21,56%), metyl myristat (6,05%), metyl eicosanoat (4,63%), metyl erucat (3,41%). Trong thành phần biodiesel không bị lẫn các tạp chất khác metyl este. Vậy biodiesel thu được từ dầu thải đúng là metyl este của axit béo.
So sánh thành phần biodiesel thu được từ hai loại nguyên liệu trên ta thấy, biodiesel từ dầu thải không có hợp chất chưa no nên dễ bảo quản hơn, ngược lại biodiesel từ mỡ cá dễ bị biến chất khi bảo quản lâu vì trong thành phần của nó chứa nhiều hợp chất chưa no, do vậy cần phải có chế độ bảo quản hợp lý.
3.8.2 Xác định các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm
Sau khi phân tích các chỉ tiêu chất lượng biodiesel thu được theo tiêu chuẩn ASTM, ta thu được kết quả như bảng 3.20.
Bảng 3.20: Chất lượng sản phẩm biodiesel thu được.
Chỉ tiêu phân tích
Phương pháp ASTM
Biodiesel chuẩn
ASTM 6751-02
Biodiesel từ
mỡ cá
Biodiesel từ dầu
ăn thải
Tỷ trọng
D4052
0,82 – 0,9
0,85
0,87
Nhiệt trị, MJ/kg
D240
-
40,03
40,00
Độ nhớt, mm2/s ở 400C
D445
1,9 – 6,0
5,6
5,5
Nhiệt độ chớp cháy, 0C
D93
Min. 130
157
140
Điểm vẩn đục, 0C
D2500
-3 đến 12
6
4
Chỉ số xetan
D976
Min 47
55
57
Chỉ số axit,
mg KOH/g dầu
D974
0,8
0,23
0,2
Cặn cacbon, % KL
D189
<0,05
0,0
0,0
Hàm lượng nước, % TT
D2709
Max 0,05
0,0
0,0
Qua bảng số liệu ta thấy, sản phẩm biodiesel tổng hợp từ mỡ cá và dầu thải có chất lượng tương tự nhau (biodiesel từ mỡ cá có chất lượng kém hơn một ít). Tuy nhiên, cả hai loại đều cho sản phẩm biodiesel đạt yêu cầu chất lượng theo tiêu chuẩn quy định.
3.9. XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG KHÓI THẢI
Vì chất lượng biodiesel của hai loại nguyên liệu có chất lượng tương tự nhau nên chúng tôi tiến hành chạy thử nghiệm trên một loại biodiesel từ dầu thải. Thử nghiệm nhiên liệu biodiesel B20 (trong nhiên liệu có 20% biodiesel theo thể tích, đây là hàm lượng biodiesel pha vào cao nhất có thể để không cần phải thay đổi kết cấu động cơ, theo các nghiên cứu trước [33, 45] ) trong động cơ diesel tại phòng thử nghiệm động cơ đốt trong của bộ môn Động cơ - Khoa cơ khí – Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
Nội dung thử nghiệm: Xác định công suất động cơ và thành phần khí thải của động cơ khi sử dụng nhiên liệu biodiesel B20 và so sánh với nhiên liệu diesel khoáng.
3.9.1 Ảnh hưởng của nhiên liệu đến công suất động cơ
So sánh công suất động cơ tại các số vòng quay từ 1400 – 2100 vòng/phút khi sử dụng nhiên liệu B20 và nhiên liệu diesel.
Kết quả được thể hiện trên bảng 3.21 và đồ thị 3.13.
Từ bảng số liệu và đồ thị ta thấy công suất động cơ có giảm khi dùng nhiên liệu B20, tuy nhiên công suất giảm không nhiều, và vẫn đảm bảo tốt các tính năng của động cơ. Điều này có thể giải thích là do nhiệt cháy của biodiesel còn thấp (40 MJ/Kg), trong khi nhiệt cháy của diesel chuẩn lên đến 45 MJ/Kg.
Bảng 3.21: Ảnh hưởng của nhiên liệu đến công suất động cơ.
Tốc độ động cơ, vòng/phút
Công suất động cơ, W
Nhiên liệu B20
Nhiên liệu diesel
1400
2950
3210
1500
3120
3350
1600
3300
3530
1700
3570
3900
1800
3710
4040
1900
3830
4250
2000
3980
4460
2100
4030
4490
Đồ thị 3.13: Ảnh hưởng của nhiên liệu đến công suất động cơ.
3.9.2 Xác định hàm lượng CO trong khói thải của động cơ ở các tốc độ khác nhau
Kết quả xác định thành phần CO trong khói thải của động cơ chạy nhiên liệu B20 và diesel khoáng ở các tốc độ khác nhau được thể hiện trong bảng 3.22.
Bảng 3.22: Hàm lượng CO trong khói thải.
Tốc độ
(vòng/ phút)
Hàm lượng CO, ppm
B20
Diesel khoáng
1400
1119
1180,37
1500
1140
1213,51
1600
1170
1257,29
1700
1140
1239,22
1800
1192
1295,41
1900
1168
1273,35
2000
1100
1203,53
2100
1080
1162,10
Tốc độ vòng quay ( vòng/ phút )
Đồ thị 3.14: Hàm lượng CO trong khói thải động cơ ở các tốc độ khác nhau.
Từ đồ thị ta thấy hàm lượng CO trong khói thải của động cơ diesel khi chạy nhiên liệu biodiesel giảm đáng kể (tùy theo tốc độ vòng quay) so với khi chạy nhiên liệu diesel khoáng. Điều này được giải thích là do trong biodiesel có hàm lượng oxy cao hơn diesel khoáng, nên quá trình cháy triệt để hơn.
3.9.3. Xác định hàm lượng NOx trong khói thải của động cơ ở các tốc độ khác nhau
Sau khi đo hàm lượng NOx trong khói thải của động cơ chạy nhiên liệu biodiesel và diesel khoáng ở các tốc độ khác nhau thu được kết quả sau:
Bảng 3.23: Hàm lượng NOx trong khói thải.
Tốc độ (vòng/ phút)
Hàm lượng NOx, ppm
B20
Diezel khoáng
1400
1150
1274
1500
1040
1249
1600
946
1148
1700
880
1085
1800
787
973
1900
739
887
2000
717
880
2100
646
823
Đồ thị 3.15: Hàm lượng NOx trong khói thải động cơ ở các tốc độ khác nhau.
Từ đồ thị ta thấy hàm lượng NOx trong khói thải của động cơ khi sử dụng nhiên liệu B20 giảm đáng kể (khoảng 18%) so với khi sử dụng nhiên liệu diesel khoáng ở các tốc độ khác nhau. Lượng NOx tạo ra giảm đáng kể so với khi sử dụng nhiên liệu diesel khoáng là do trong quá trinh cháy khi dùng nhiên liệu biodiesel thì nhiên liệu cháy triệt để nên lượng oxy dư không nhiều để tham gia phản ứng tạo NOx. Hơn nữa nhiệt trị của biodiesel thấp hơn diesel nên nhiệt cháy thấp, nên cũng hạn chế phản ứng tạo NOx.
3.9.4 Xác định hàm lượng CO2 trong khói thải của động cơ ở các tốc độ khác nhau
Kết quả xác định thành phần CO2 trong khói thải của động cơ diesel chạy nhiên B20 và nhiên liệu diesel khoáng ở các tốc độ khác nhau được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 3.24: Hàm lượng CO2 trong khói thải động cơ ở các tốc độ khác nhau.
Tốc độ (vòng/ phút)
Hàm lượng CO2, ppm
B20
Diezel khoáng
1400
87031,13
93680
1500
83541,71
89997
1600
79345,79
86265
1700
78314,07
86130
1800
77650,01
84566
1900
79065,38
85250
2000
79875,73
85840
2100
77201,34
83120
Đồ thị 3.16: Hàm lượng CO2 trong khói thải động cơ ở các tốc độ khác nhau.
Kết quả ở bảng và đồ thị trên cho thấy khi động cơ chạy nhiên liệu B20 thì hàm lượng CO2 giảm đáng kể (khoảng 7%) so với khi sử dụng nhiên liệu diesel khoáng. Điều này có thể giải thích như sau: khi đốt cháy hydrocacbon trong điều kiện đủ oxi sẽ tạo ra sản phẩm CO2 và H2O, và trong nhiên liệu diesel khoáng hàm lượng hydrocacbon thơm cao hơn (tỷ lệ H/C thấp hơn) so với nhiên liệu biodiesel nên khói thải động cơ chạy nhiên liệu diesel sẽ cho lượng CO2 lớn hơn là khi dùng nhiên liệu biodiesel.
3.9.5 Xác định hàm lượng hydrocacbon (RH) trong khói thải của động cơ ở các tốc độ khác nhau
Kết quả xác định thành phần RH trong khói thải của động cơ diesel chạy nhiên B20 và nhiên liệu diesel khoáng ở các tốc độ khác nhau được trình bày trong bảng sau:
Bảng 3.25: Hàm lượng RH trong khói thải.
Tốc độ (vòng/ phút)
Hàm lượng RH, ppm
B20
Diezel khoáng
1400
560,46
964
1500
841,34
1012
1600
913,42
1020
1700
908,12
1005
1800
910,66
994
1900
842,55
920
2000
768,69
829
2100
626,98
770
Đồ thị 3.17: Hàm lượng RH trong khói thải động cơ ở các tốc độ khác nhau.
Như vậy, hàm lượng hydrocacbon trong khói thải của động cơ khi sử dụng nhiên liệu B20 giảm đáng kể (khoảng 18%) so với khi sử dụng nhiên liệu diesel khoáng ở các tốc độ khác nhau. Điều này có thể giải thích bởi trong nhiên liệu biodiesel có hàm lượng oxy cao hơn trong nhiên liệu diesel khoáng nên quá trình cháy triệt để hơn, hay lượng hydrocacbon chưa cháy hết trong nhiên liệu B20 còn ít hơn so với nhiên liệu diesel khoáng, dẫn đến hàm lượng hydrocacbon trong khói thải động cơ khi chạy nhiên liệu B20 thấp hơn.
310. THU HỒI GLYXERIN
Glyxerin là một sản phẩm phụ của quá trình tổng hợp biodiesel, nhưng nó có nhiều ứng dụng trong thực tế, và có giá trị kinh tế cao nên việc thu hồi glyxerin là rất cần thiết, vì nó góp phần làm hạ giá thành của biodiesel. Pha glyxerin tách ra còn lẫn tạp chất như metanol, axit béo nên cần được tinh chế.
* Quy trình tinh chế glyxerin:
Sau khi tách pha giàu glyxerin ở lớp dưới, tiến hành rửa bằng nước cất nóng 700C để lắng tách xà phòng, xúc tác, axit béo và một lượng rất nhỏ metanol. Sau khi rửa, cho hỗn hợp glyxerin có lẫn nước vào bình chưng và chưng ở nhiệt độ 1200C trong 30 phút để tách hoàn toàn nước, ta thu được sản phẩm glyxerin tương đối tinh khiết. Từ cách làm đó ở phòng thí nghiệm, chúng tôi xây dựng quy trình thu hồi glyxerin như hình 3.12
Glyxerin thô
Tách
Chưng cất
Cặn
Metanol
Nước
Glyxerin sạch
Hình 3.12: Quy trình xử lý thu hồi glyxerin.
* Chất lượng glyxerin thu được:
Lượng glyxerin thu được thường chiếm 10% (thể tích) so với lượng biodiesel thu được. Glyxerin sau khi tinh chế được đem phân tích một số thông số hóa lý để đánh giá chất lượng, và thu được kết quả như sau:
Bảng 3.26: So sánh chất lượng glyxerin thu được với glyxerin chuẩn.
Một số tính chất hóa lý
Glyxerin chuẩn
Glyxerin thu được
Màu sắc
Không màu
Không màu
Mùi
Không mùi
Không mùi
Vị
Vị ngọt
Vị ngọt
Nhiệt độ sôi (áp suất khí quyển), oC
290
287
Khối lượng riêng, g/cm3
1,261
1,19
Độ nhớt ở 40oC, cP
glyxerin 100%
284
142
Glyxerin 98%
196
Kết quả phân tích cho thấy, glyxerin thu được có các thông số hóa lý như nhiệt độ sôi, độ nhớt, khối lượng riêng thấp hơn số liệu chuẩn (100% glyxerin), điều này cho thấy glyxerin thu được chưa thật sự tinh khiết, có thể nó vẫn còn lẫn nước. Tuy nhiên, sự chênh lệch này là không nhiều, và đáp ứng được các chỉ tiêu kỹ thuật của glyxerin thương phẩm.
Để có thêm chứng cứ khoa học về độ tinh khiết của mẫu glyxerin thu được, chúng tôi đã phân tích HPLC, thu được kết quả như hình 3.13 và 3.14
Hình 3.13: Phổ HPLC của mẫu glyxerin chuẩn.
Hình 3.14: Phổ HPLC của mẫu glyxerin tổng hợp.
Kết quả phân tsch phổ HPLC cho thấy mẫu sản phẩm thu được đúng là glyxerin (có pic chính giống với mẫu chuẩn), tuy nhiên sản phẩm thu được còn lẫn một vài tạp chất khác nhưng với lượng nhỏ có thể chấp nhận được (xuất hiện một vài pic rất nhỏ khác). Vậy chúng tôi đã tổng hợp được glyxerin với độ tinh khiết khoảng 90%.
3.11. NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG TÁI SỬ DỤNG, TÁI SINH CỦA XÚC TÁC
* Tái sử dụng:
Trong quá trình tái sử dụng xúc tác, xúc tác MgSiO3 được sử dụng liên tục cho nhiều phản ứng liên tiếp. Các điều kiện phản ứng được giữ nguyên như sau:
- Lượng xúc tác là 8g.
- 100 ml dầu ăn thải đã xử lý.
- Tỷ lệ thể tích metanol/ dầu là 0,5.
- Thời gian phản ứng là 6 giờ.
- Tốc độ khuấy trộn 600 vòng/phút.
- Nhiệt độ phản ứng là 60oC.
Tiến hành tổng hợp biodiesel từ dầu thải, sau đó tách sản phẩm ra khỏi xúc tác và tiến hành tái sử dụng lần 1, 2, 3,… và ta thu được kết quả như sau:
Bảng 3.27: Ảnh hưởng của số lần tái sử dụng đến hiệu suất biodiesel.
Số lần tái sử dụng, lần
0
1
2
3
4
5
6
7
8
Hiệu suất, %
64,5
64,1
63,6
62,9
61,8
60,4
57,9
53,5
50,2
Từ số liệu thực nghiệm nhận thấy hoạt tính của xúc tác giảm theo số lần tái sử dụng, điều này được giải thích do:
- Sau một lần phản ứng, một số tâm hoạt tính của xúc tác bị che phủ do lượng xà phòng tạo ra trong phản ứng phụ, do đó làm giảm hoạt tính xúc tác.
- Ngoài ra, trong quá trình phản ứng có khuấy trộn mạnh nên độ bền cơ của xúc tác giảm, điều này dẫn đến một phần xúc tác vỡ vụn lơ lửng trong sản phẩm, gạn khỏi sản phẩm khó hơn, gây hao hụt xúc tác nên làm giảm hiệu suất.
Như vậy, xúc tác này tuy hoạt tính không cao, cho hiệu suất chỉ khoảng 64,5 % nhưng có thể tái sử dụng nhiều lần, sau mỗi lần tái sử dụng hiệu suất giảm ít, chính vì thế có thể ứng dụng trong công nghiệp.
Xúc tác sau khi tái sử dụng nhiều lần (khoảng 8 lần) hiệu suất giảm nhiều so với ban đầu vì thế ta phải tái sinh lại xúc tác.
* Tái sinh xúc tác:
Từ các lý do làm giảm hoạt tính của xúc tác MgSiO3 đã nêu ở trên ta nghiên cứu tái sinh xúc tác. Muốn tăng hoạt tính của xúc tác đã qua tái sử dụng nhiều lần thì ta phải loại bỏ hết xà phòng bám trên bề mặt của xúc tác và phải kết dính lại xúc tác để tăng độ bền cơ và giảm độ hòa tan.
Để loại bỏ hết xà phòng ta xử lý bằng cách dùng dung môi n-hexan để rửa sạch xúc tác, sau đó sấy khô.
Sau khi tái sinh xúc tác MgSiO3 đem tiến hành phản ứng ở các điều kiện:
- Hàm lượng xúc tác là 8g.
- 100 ml dầu thải đã xử lý.
- Tỷ lệ thể tích metanol/dầu là 0,5.
- Thời gian phản ứng là 6h.
- Tốc độ khuấy trộn 600 vòng/phút.
- Nhiệt độ phản ứng là 60oC.
Sau đó cũng tiến hành tái sử dụng nhiều lần để kiểm tra khả năng tái sử dụng của xúc tác đã tái sinh, ta thu được kết quả như bảng sau:
Bảng 3.28: Ảnh hưởng của số lần tái sử dụng của xúc tác tái sinh đến hiệu suất biodiesel.
Số lần tái sử dụng, lần
0
1
2
3
4
5
6
Hiệu suất, %
63,9
63,3
62,4
60,2
58
55,7
51,6
Dựa vào kết quả trên ta thấy sau khi tái sinh xúc tác hiệu suất thu biodiesel giảm không đáng kể so với xúc tác ban đầu, số lần tái sử dụng cũng giảm. Điều này là do quá trình xử lý, rửa không loại sạch hết các cặn bẩn bám trên xúc tác. Để tái sinh xúc tác đạt hiệu quả cao hơn cần có sự kết hợp rửa xúc tác bằng n-hexan, và sau đó đốt xúc tác ở 400oC có thổi khí oxy, sự kết hợp đó sẽ dẫn đến hiệu suất biodiesel tăng.
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi rút ra được một số kết luận như sau:
1. Đã điều chế được xúc tác dị thể MgSiO3, với điều kiện nung tốt nhất là 900oC, 3 giờ. Khảo sát các đặc trưng của xúc tác bằng các phương pháp hóa lý hiện đại, thấy rằng MgSiO3 là pha hoạt tính của xúc tác, có độ dị thể cao, thời gian làm việc dài, tuy nhiên hiệu suất tạo biodiesel chưa cao vì đây là một muối có tính bazơ trung bình.
2. Đã xác định các chỉ tiêu chất lượng của nguyên liệu mỡ cá và dầu thải; khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xử lý trung hòa nguyên liệu thu được điều kiện tối ưu cho cả hai loại nguyên liệu:
+ Dầu thải: tác nhân trung hòa là NaOH 4%, hàm lượng bazơ dư 8%, nhiệt độ nước rửa 70oC, số lần rửa là 4 lần.
+ Mỡ cá: tác nhân trung hòa là NaOH 4%, hàm lượng bazơ dư 8%, nhiệt độ nước rửa 80oC, số lần rửa là 5 lần.
3. Đã tổng hợp được biodisel trên xúc tác MgSiO3 từ:
+ Dầu thải: đạt hiệu suất cao nhất là 64,5% trong các điều kiện sau: 100ml dầu thải, hàm lượng xúc tác là 8g, 50ml metanol, nhiệt độ phản ứng là 60oC, thời gian phản ứng là 6 giờ, tốc độ khuấy 600 vòng/phút.
+ Mỡ cá: đạt hiệu suất cao nhất là 64,4% trong các điều kiện sau: 100ml mỡ cá, hàm lượng xúc tác là 8g, 60ml metanol, nhiệt độ phản ứng là 60oC, tốc độ khuấy 600 vòng/phút, thời gian phản ứng là 6 giờ.
4. Đã nghiên cứu tìm được các thông số tối ưu cho quá trình rửa sản phẩm biodiesel như sau: nhiệt độ nước rửa là 70oC, tỷ lệ nước rửa/biodiesel là 1,5/1, tốc độ khuấy trộn 500 vòng/phút.
5. Xác định các chỉ tiêu kỹ thuật của biodiesel thu được, và thấy rằng biodiesel thu được từ hai loại nguyên liệu đều đạt yêu cầu chất lượng của biodiesel theo tiêu chuẩn ASTM-6751.
6. Đã thử nghiệm B20 trên động cơ diesel, kết quả cho thấy hàm lượng khói thải độc hại CO2, CO, NOx, RH giảm đáng kể mà vẫn đảm bảo được công suất động cơ.
7. Đã xây dựng quy trình thu hồi glyxerin – một sản phẩm phụ có giá trị, xác định các chỉ tiêu chất lượng, và thấy rằng glyxerin thu được có độ tinh khiết cao, đạt yêu cầu chất lượng.
HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng việc sử dụng mỡ cá basa, và dầu ăn thải để tổng hợp biodiesel hoàn toàn có thể thực hiện được với hệ xúc tác dị thể. Đây là hướng phát triển đúng đắn, biodiesel tổng hợp ra sẽ có giá thành rẻ hơn vì sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ tiền, xúc tác có thể tái sử dụng nhiều lần, giá thành hạ, đồng thời không ảnh hưởng đến an ninh lương thực, và còn góp phần giảm được ô nhiễm môi trường cũng như sức khỏe của người dân.
Tuy nhiên, hoạt tính của xúc tác MgSiO3 chưa cao, nhưng với cấu trúc tinh thể hình ống, chúng tôi cho rằng nếu dùng MgSiO3 làm chất nền để mang thêm thành phần hoạt tính để tăng hoạt tính xúc tác là điều có thể làm được. Do đó, nếu có điều kiện chúng tôi sẽ nghiên cứu tiếp với việc sử dụng MgSiO3 như một chất nền thì có thể sẽ đem lại hiệu quả cao hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt
Phạm Nguyên Chương (chủ biên) (2002), Hóa kỹ thuật, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Trần Hồng Côn (2008), Công nghiệp hóa học vô cơ, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Nguyễn Hữu Đĩnh, Trần Thị Đà (1999), Ứng dụng một số phương pháp phổ nghiên cứu cấu trúc phân tử, Nhà xuất bản Giáo dục.
Trương Đình Hợi, Đặng Hồng Vân (2006), Hướng dẫn kỹ thuật viên phân tích dầu mỏ và sản phẩm dầu, Trung tâm nghiên cứu và phát triển chế biến dầu khí.
Kiều Đình Kiểm (2006), Các sản phẩm dầu mỏ và hóa dầu, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Lê Văn Khoa (chủ biên) (2006), Khoa học môi trường, Nhà xuất bản Giáo dục.
Nguyễn Quang Lộc, Lê Văn Thạch, Nguyễn Văn Vinh (1997), Kỹ thuật ép dầu và chế biến dầu mỡ, thực phẩm, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Từ Văn Mặc (2003), Phân tích hóa lý, phương pháp phổ nghiệm nghiên cứu cấu trúc phân tử, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
PGS.TS.Đinh Thị Ngọ (2008), Hóa học dầu mỏ và khí, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Đinh Thị Ngọ, Nguyễn Khánh Diệu Hồng (2008), Nhiên liệu sạch và các quá trình xử lý trong hóa dầu, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Hoàng Nhâm (2005), Hóa học vô cơ, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục.
Phạm Công Tạc (2005), “Nhiên liệu sinh học: nhìn từ nhiều phía”, Tạp chí Công nghiệp hóa chất số 5, trang 7-9.
Tập thể giảng viên bộ môn Silicat, Đại học Bách khoa Hà Nội (1977), Hóa học silicat, Nhà xuất bản Đại học Bách khoa Hà Nội.
Nguyễn Văn Thanh, Đinh Thị Ngọ (2006), “Nghiên cứu tổng hợp và các tính chất của biodiesel từ dầu đậu nành trên xúc tác NaOH”, Tạp chí Hóa học và Ứng dụng số 12, trang 38-41.
Phạm Thế Thưởng (1992), Hóa học dầu béo, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Nguyễn Tất Tiến (2001), Nguyên lý động cơ đốt trong, Nhà xuất bản Giáo dục.
GS.TS. Đào Văn Tường (2006), Động học xúc tác, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Hoàng Trọng Yêm (chủ biên) (1999), Hóa học hữu cơ, tập 3, Nhà xuất bản Giáo dục.
Tiếng Anh
Abdullah A., Basri MNH (2002), Selected reading on palm oil and its uses, Malaysia: PORIM.
Adam Karl Khan (2002), Research into biodiesel kinetics and catalyst development, Brisbane Queensland, Australia.
Agarwal AK., Das LM. (2001), “Biodiesel development and characterization for use as a fuel in compression ignition engines”, Tran Am Soc Mech Eng. 123, pp.440-447.
Ayato Kawashima, Koh Matsubara, Katsuhisa Honda (2008), “Development of heterogeneous base catalysts for biodiesel production”, Biosoure Technology 99, pp. 3439-3443.
Ayhan Demirbas (2008), “Relationships derived from physical properties of vegetable oil and biodiesel fuels”, Fuel 87, pp. 1743-1748.
Bradshaw G.B., Mently W.C. (1994), “Preparation of detergents”, US Patent 2, pp.366-844.
Canakci M., Vangerpan J. (2001), “Biodiesel production from oils and fats with hight free fatty acids”, Tran AASE 44, pp. 1429-1436.
Canakci M., Vangerpan J. (1999), “Biodiesel production via acid catalysis”, Tran Am Soc Mech Eng. 42, pp. 1203-1210.
Christopher Strong, Charlie Ericksonand, Peepak Shukla (2004), Evalution of biodiesel fuel, Western Transportation Institute College of Engeneering, Montana State University Bozeman.
David Harvey (2000), Modern analytical chemistry, Mc Graw hill.
Encinar J.M., Gonzalez J.F., Rodriquez J.J., Tejedor A. (2002), “Biodiesel production from vegetable oils: transesterification of cynaracardunculus L oil ethanol”, Energy 16, pp.443-450.
Fangrui Ma, Milford A. Hanna (1999), “Biodiesel production: a review”, Bioresource Technology 70, pp.1-15.
Gauglitz G., Tuan Vo Dinh (2003), Handbook of specstrocopy, volume 2, Wiley-VCH.
Gerhard Knothe (2001), “Analytical method used in the production and fuel quality assessment of biodiesel “, JAOCS 44, pp.193-200.
Gerhard Knothe, Jon Van Gerpen, Jurgen Krakl (2005), The biodiesel handbook, AOCS press.
Helmut Gunzler, Alex William (2001), Handbook of analytical techniques, volume 2, Wiley-VCH.
Hemmerlein et all (1991), “Performance exhaust emission and durability of modern diesel energy running on rapessed oil”, SAE Technical Paper 910848, Society of Automotive Engineer Warrendale, PA.
Hestela Hernandez Martin, Cristina Otero (2008), “Different requirements for the synthesis of biodiesel: Novozym 435 and Lipozyme TLIM”, Bioresource Technology 99, pp.277-286.
Hideki Fukuda, et al (2001), “Biodiesel fuel production by transesterification of oil”, J.Biosci.Bioeng.
Iknuagwu O.E.,Ononogbu I.C., Njoku O.U. (2000), “Production of biodiesel using rubber seed oil”, In Crops Prod 12, pp.57-62.
Jakob J. (1952), Petrochemischen Laboratoriums, Verlag Birkhauser Basel.
James G. Speight (2002), Chemical and process design handbook, McGraw-Hill.
John Sheehan, Vince Camobreco, James Duffield, Michael Graboski, Housein, Shapouri (1998), Life cycle inventory of biodiesel and petroleum diesel for use in an urban bus, NREL.
Joshua Tickell (2002), From the fryer to the fuel tank – The complete guide to using vegetable oil as an alternative fuel, Joshua Tickell Publications New Orleans, Louisiana, America.
Kokichi Ito, Li Zhidong and Ryoichi Komiyama (2005), Asian enegy outlook to 2020, Research and Information System for the Non – A ligned and other developing countries.
Kunchana B., Sukunya M., Ruengwit S., Somkiat N. (2006), “Continuous production of biodiesel via transesterification from vegetable oils in supercritical methanol”, Energy & Fuel20, pp 812-817.
Magin Laquerta, Octovio Armas, Jose Rodrigues Fernander (2008), “Effect of biodiesel fuels on diesel engine emmisions”, Progress in Energy and Combustion Science 34, pp.198-223.
J.M. Marchetti, V.U. Miguel, A.F. Errazu (2007), “Possible methods for biodiesel production”, Renewable and Sustainable Energy Reviews 11, pp.1300-1311.
J.M. Marchetti, V.U. Miguel, A.F. Errazu (2007), “Heterogeneous esterification of oil with high amount of free fatty acids ”, Fuel 86, pp.906-910.
Masato Kouzu, Takekazu Kasuno, Masashiko Tajika, Yoshikazy Sugimoto, Shinya, Yamanaka, Jusuke Hikada (2008), “Active phase of calcium oxide used as solid base catalyst for transesterification of soybean oil with refluxing methanol”, Applied Catalyst A: General 334, pp.357-365.
Masjuki H., Sohif M. (1991), “Performance evalution of palm oil diesel blend on small engine”, J.Energy, Heat Mass Transfer 13, pp.125-133.
Manoru Iso, Baoxu Chen, Massashi Eguchi, Takashi Kudo, Surekha Sherestha (2001), “Production of biodiesel fuel from triglyxerites and alcohol using immobilized lipase”, Journal of Molecular Catalysis B, Enzymmatic 16, pp.53-58.
L.C. Meher, D. Vidya Sagar, S.N. Naik (2006), “Technical aspects of biodiesel production by transesterification – a review ”, Renewable and Sustainable Energy Reviews 10, pp.248-268.
Patnick K., Gallagher (2003), Handbook thermal analysis and calorimetry: applications to inorganic and miscellaneous materials, volume 2, Elsevier.
Pradyot Patnaik Ph.D.(2003), Handbook of inorganic chemicals, McGraw-Hill.
Prof.Dr.R.K.Khotoliya, Dr.Harminder Kaur, Rupinder Singh (2007), Biodiesel productions from jatropha, Source – Kurukshetra, vol 55, No 4.
Reep A, Selim C, Huseyin SY (2001), “The potential of using vegetable oil as fuel for diesel engines”, Energy Conv Mgmt 18, pp.77-88.
Romano S. (1982), “Vegetable oils – A.new alternative” in vegetable oils fuel – Proceeding of the international conference on plant and vegetable oils as fuel, American Society of Agricultural Engineer, St. Joseph [MI], p.106-116.
Selmi B., Thomas D. (1998), “Immobilized lipase catalyzed ethanollysis of sunflower oil in solvent free medium”, J.Am.Oil.Chem.Soc 75, pp.691-695.
K. Shaine Tyson, Joseph Bozel, Robert Wallace, Eugene Petersen, Luc Mosens (2004), Biomass oil analysis research needs and recommendation, National Renewable Energy Laboratory.
C.J. Shiel, H.F. Liao, C.C. Lee (2003), “Optimization of lipase catalyzed biodiesel by response surface metholodogy”, Bioresource Technology 88, pp.103-106.
Stat, F. Vallet (2001), “Vegetable oil methyleste as a diesel substitute”, Chem. Ind. 21, pp.863-866.
Tomasevic AV, Siler – Marinkovic SS (2003), “Methanolysis of used frying oil”, Fuel Process Technol 81, pp.1-6.
J. Van Gerpen, B. Shanks, R.Pruszko, D. Clement, G. Knothe (2004), Biodiesel production technology, NREL Technical Monitor.
J. D. Winefordner (2003), Chemical analysis, volume 162, John Wiley & Son.
www.agbiotech.com.vn/
www.biodiesel.com
www.biodieselnow.com/
www.biodieselamerica.org
www.congnghedaukhi.com
www.electricitybook.com/bio0113003
www.greenfuelonline.com
www.minsocam.org/ammin/AM69/
www.sciencemag.org/cgi/
www.vinachem.com.vn
www.vinatech.org/
www.vietbao.vn/
._.