Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá tại huyện Đông Sơn - Tỉnh Thanh Hoá

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ----------eêf---------- NGUYỄN HỮU SÁNG NGHIÊN CỨU CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU CÂY TRỒNG THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HOÁ TẠI HUYỆN ĐÔNG SƠN - TỈNH THANH HOÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP Chuyên ngành: TRỒNG TRỌT Mã số: 60.62.01 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM TIẾN DŨNG HÀ NỘI - 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.

doc138 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2760 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá tại huyện Đông Sơn - Tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Hữu Sáng LỜI CÁM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Phạm Tiến Dũng, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài, cũng như trong quá trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo Viện đào tạo Sau Đại học; Khoa Nông học, đặc biệt là các thầy cô trong Bộ môn Hệ thống nông nghiệp (Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội); UBND huyện Đông Sơn, Thanh Hoá; bà con nông dân, UBND các xã, thị trấn và phòng Nông Nghiệp, phòng Tài nguyên Môi trường, phòng Thống kê, trạm Khuyến nông, các bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài và hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Hữu Sáng MỤC LỤC Lời cam đoan i Lời cám ơn ii Mục lục iii Danh mục các chữ viết tắt v Danh mục bảng vi Danh mục hình 8 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DT Diện tích NS Năng suất SL Sản lượng ĐVT Đơn vị tính HTX Hợp tác xã HTXDVNN Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp CTV Cộng tác viên NXB Nhà xuất bản CCCT Cơ cấu cây trồng HQLĐ Hiệu quả lao động HQ Hiệu quả HTCT Hệ thống cây trồng KHKT Khoa học kỹ thuật GTSX Giá trị sản xuất GTXSNN Giá trị sản xuất nông nghiệp ĐH Đại học CĐ Cao đẳng THCN Trung học chuyên nghiệp CNKT Công nhân kỹ thuật CPVC Chi phí vật chất CTQG Chính trị Quốc gia PTNT Phát triển nông thôn BVTV Bao vệ thực vật TGST Thời gian sinh trưởng UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa CTLC Công thức luân canh DANH MỤC BẢNG STT Tên bảng Trang 1.1 Bố trí cơ câu cây trồng trong một năm 12 4.1 Diễn biến một số yếu tố khí hậu từ năm 1998-2008 47 4.2 Phân loại đất của huyện Đông Sơn năm 2008 50 4.3 Hiện trạng sử dụng đất huyện Đông Sơn năm 2008 52 4.4 Động thái tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2004-2008 55 4.5 Động thái tăng trưởng giá trị sản xuất và tỷ trọng của các ngành nông nghiệp huyện Đông Sơn thời kỳ 2004-2008 56 4.6 Diện tích các loại cây trồng hàng năm giai đoạn 2004-2008 57 4.7 Phát triển chăn nuôi huyện Đông Sơn giai đoạn 2004- 2008 59 4.8 Dân số và lao động huyện Đông Sơn năm 2008 62 4.9 Cơ cấu cây trồng vụ xuân năm 2008 73 4.10 Cơ cấu cây trồng vụ mùa năm 2008 74 4.11 Cơ cấu cây trồng vụ đông năm 2008 77 4.12 Cơ cấu và hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh trên đất trũng 79 4.13 Các công thức luân canh và thời vụ của các cây trồng trong công thức luân canh 80 4.14 Cơ cấu diện tích và năng suất của các công thức luân canh trên đất vàn 81 4.15 Thời vụ của các công thức luân canh trên đất vàn 82 4.16 Hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh trên đất vàn 82 4.17 Cơ cấu diện tích và hiệu quả kinh tế của các cây trồng hàng năm trên đất cao 84 4.18 Một số đặc điểm của 3 giống khoai tây trong thí nghiệm 86 4.19 Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của 3 giống khoai tây 87 4.20 Hiệu quả kinh tế của một số cây trồng vụ đông năm 2008 89 4.21 Hiệu quả của cây khoai tây Solara so với một số cây trồng cùng thời vụ 90 4.22 Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống lúa 92 4.23 Hiệu quả kinh tế, hiệu quả lao động và hiệu quả 1 đồng vốn của các giống lúa 94 4.24 Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống lúa lai vụ xuân 2009 98 4.25 Hiệu quả kinh tế, hiệu quả lao động và hiệu quả 1 đồng vốn của các giống lúa lai vụ xuân 2009 100 4.26 Chuyển đổi cơ cấu công thức luân canh trên đất trũng 104 4.27 Giá trị thu nhập của cơ cấu công thức luân canh mới trên đất trũng 105 4.28 Chuyển đổi cơ cấu công thức luân canh trên chân đất vàn 106 4.29 Diện tích, năng suất, sản lượng gieo trồng của cơ cấu cây trồng mới 107 4.30 Cơ cấu giống mới 107 DANH MỤC HÌNH STT Tên hình Trang 4.1 Bản đồ hành chính huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá 46 4.2: Diễn biến một số yếu tố khí hậu từ năm 1998-2008 49 4.3. Cơ cấu sử dụng các loại đất huyện Đông Sơn năm 2008 53 4.4 Động thái tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2004-2008 55 4.5 Động thái tăng trưởng GTSXNN huyện Đông Sơn thời kỳ 2004-2008 57 4.6: Diện tích các loại cây trồng hàng năm giai đoạn 2004-2008 58 4.7. Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế 63 4.8 Cơ cấu cây trồng vụ xuân của huyện Đông Sơn năm 2008 74 4.9 Cơ cấu cây trồng vụ mùa của huyện Đông Sơn năm 2008 76 4.10 Cơ cấu cây trồng vụ đông của huyện Đông Sơn năm 2008 78 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá là một định hướng đúng đắn trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay của nước ta, đồng thời đó cũng là điều kiện để thực hiện tiến trình hội nhập với kinh tế thế giới. Đông Sơn là một Huyện lỵ, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của tỉnh Thanh Hóa cách thành phố Thanh hóa 5 km về phía Tây theo Quốc lộ 47 và 45, có vị trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Thanh Hóa với hệ thống giao thông phát triển, điều kiện sinh thái và kinh tế - xã hội rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng và bền vững. Cơ cấu kinh tế của Đông Sơn giai đoạn 2004-2008 là: Dịch vụ thương mại 24,0%; công nghiệp 39,8%; nông lâm-thủy sản 36,2%; tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 năm vừa qua bình quân là 12,5%/năm. [40] Nước ta là nước nông nghiệp, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá bền vững là bước đi tất yếu trong tiến trình hội nhập kinh tế. Nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Trước sức ép của quá trình đô thị hoá, phát triển công nghiệp và gia tăng dân số, diện tích đất canh tác của Huyện ngày càng giảm sút nghiêm trọng. Sản xuất nông nghiệp của Đông Sơn đang đứng trước những thách thức mới là thiếu quỹ đất sản xuất nông nghiệp, lực lượng lao động thiếu việc làm, ngày công lao động thấp, thiếu vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó nền nông nghiệp chủ yếu vẫn là tự cung tự cấp, năng suất cây trồng thấp, hệ thống cây trồng đơn giản, ruộng đất manh mún, sản xuất nông nghiệp hàng hoá chậm phát triển, khả năng ứng dụng của tiến bộ công nghệ, khoa học kỹ thuật còn yếu. Việc mở rộng diện tích đất canh tác để tăng sản phẩm nông nghiệp là điều không thể xảy ra. Để nền nông nghiệp Đông Sơn phát triển, sản xuất theo hướng hàng hóa có giá trị kinh tế cao, nâng cao giá trị trên đơn vị diện tích, phục vụ nhu cầu của nhân dân, có sản phẩm hàng hoá trao đổi trên thị trường nội địa và tham gia xuất khẩu. Việc nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đánh giá hiệu quả xác định cơ cấu cây trồng phù hợp vừa bảo vệ môi trường vừa phát triển trong nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở tỉnh Thanh Hoá nói chung và huyện Đông Sơn nói riêng đã và đang là một đòi hỏi bức xúc hết sức cần thiết để đáp ứng sự phát triển của xã hội. [41] Xuất phát từ yêu cầu trên chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá tại huyện Đông Sơn - tỉnh Thanh Hoá". 1.2 Mục đích và yêu cấu của đề tài 1.2.1 Mục đích Điều tra nghiên cứu hệ thống cây trồng tại huyện Đông Sơn xác định ưu điểm, hạn chế của hệ thống cây trồng hiện tại, tiến hành chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa, lợi dụng tốt nhất điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho nhân dân. 1.2.2 Yêu cầu Đánh giá được điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện làm cơ sở cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Đánh giá được thực trạng sản xuất nông nghiệp và cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá. Đưa được hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với từng vùng đất và điều kiện kinh tế xã hội của từng địa phương, đáp ứng nhu cầu nhân dân trong huyện và các vùng phụ cận hướng tới xuất khẩu. Đề xuất được các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng đạt mục đích tăng nhanh sản lượng, giá trị nông sản hàng hoá, thu nhập góp phần làm giàu cho các hộ nông dân và cho xã hội. 1.3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn đề tài 1.3.1 Ý nghĩa khoa học - Đề tài nghiên cứu góp phần làm rõ hơn mối quan hệ giữa cơ cấu cây trồng với các điều kiện tự nhiên xã hội của huyện Đông Sơn. - Làm tài liệu cho các nhà quản lý điều hành sản xuất nông nghiệp ở huyện Đông Sơn. 1.3.2 Ý nghĩa thực tiễn - Xác định được hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng hợp lý, xây dựng được một số cơ cấu cây trồng thích hợp theo hướng sản xuất hàng hoá và phát triển nông nghiệp bền vững của huyện Đông Sơn. - Thông qua việc xác định những ưu điểm và hạn chế của cơ cấu cây trồng tại huyện Đông Sơn đề xuất giải pháp về cơ cấu cây trồng mới có hiệu quả kinh tế cao hơn nhờ chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất hàng hoá, góp phần nâng cao đời sống nhân dân địa phương. 1.4 Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài 1.4.1 Đối tượng nghiên cứu Các yếu tố tự nhiên bao gồm: đất, nước, khí hậu, các yếu tố sinh vật trong đó có cây trồng vật nuôi, các yếu tố về kinh tế - xã hội bao gồm: các cơ chế chính sách, thị trường, giá cả, dịch vụ, điều kiện cơ sở hạ tầng và nông hộ ... có ảnh hưởng trực tiếp đến việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá tại huyện Đông Sơn. Các hệ thống canh tác và cây trồng hiện đang được sử dụng và xu hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá. 1.4.2 Giới hạn đề tài Đề tài mới tập trung nghiên cứu cơ cấu cây trồng hàng năm hiện có trong nông nghiệp trên địa bàn huyện Đông Sơn chú trọng theo hướng phục vụ tiêu dùng và hướng tới xuất khẩu. 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1 Cơ sở khoa học 2.1.1 Khái niệm về cơ cấu cây trồng Theo Phạm Chí Thành (1996) [27] thì cơ cấu cây trồng là tỷ lệ các loại cây trồng có trong một vùng ở một thời điểm nhất định, nó liên quan tới cơ cấu cây trồng nông nghiệp, nó phản ánh sự phân công lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi vùng, nhằm cung cấp được nhiều nhất những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người. Theo tác giả Đào Thế Tuấn (1984) [34] thì cơ cấu cây trồng là thành phần các giống và loài cây được bố trí theo không gian và thời gian trong một vùng sinh thái nông nghiệp nhằm tận dụng hợp lý nhất các nguồn lợi về tự nhiên, kinh tế - xã hội sẵn có. Còn các tác giả Lý Nhạc, Dương Hữu Tuyền, Phùng Đăng Chinh (1987) [23] thì cho rằng cơ cấu cây trồng là thành phần và các loại giống cây trồng bố trí theo không gian và thời gian trong một cơ sở hay một vùng sản xuất nông nghiệp. Nội dung cốt lõi của cơ cấu biểu hiện vị trí, vai trò của từng bộ phận và mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa chúng trong tổng thể. Một cơ cấu có tính ổn định tương đối và được thay đổi để ngày càng hoàn thiện, phù hợp với điều kiện khách quan, điều kiện lịch sử, xã hội nhất định. Cơ cấu cây trồng lệ thuộc rất nghiêm ngặt vào điều kiện tự nhiên, các nguồn tài nguyên và điều kiện kinh tế - xã hội. Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện để tăng trưởng và phát triển sản xuất. Cơ cấu cây trồng được xác định trên cơ sở bố trí mùa vụ, chế độ luân canh cây trồng, thay đổi theo những tiến bộ khoa học kỹ thuật, giải quyết vấn đề mà thực tiễn sản xuất đòi hỏi và đặt ra cho ngành sản xuất trồng trọt những yêu cầu cần giải quyết. Cơ cấu cây trồng hợp lý là sự định hình về mặt tổ chức cây trồng trên đồng ruộng về số lượng, tỷ lệ, chủng loại, vị trí và thời điểm, có tính chất xác định lẫn nhau, nhằm tạo ra sự cộng hưởng các mối quan hệ hữu cơ giữa các loài cây trồng với nhau, từ đó khai thác và sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Cơ cấu cây trồng về mặt diện tích, tỷ lệ các loại cây trồng trên diện tích canh tác, tỷ lệ này phần nào nói lên trình độ sản xuất của từng vùng. Tỷ lệ cây lương thực cao, tỷ lệ cây công nghiệp, cây thực phẩm thấp, phản ánh trình độ phát triển sản xuất thấp. Tỷ lệ các loại cây trồng có sản phẩm tiêu thụ tại chỗ cao, các loại cây trồng có giá trị hàng hoá và xuất khẩu thấp, chứng tỏ sản xuất nông nghiệp ở đó kém phát triển và ngược lại. Trong công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp bền vững, xác định cơ cấu cây trồng hợp lý là một trong những cơ sở cho việc xác định phương hướng sản xuất. Sự đa dạng hoá cây trồng và tăng trưởng theo các mục tiêu cụ thể sẽ tạo nền tảng cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế trong tương lai. Nguyễn Duy Tính (1995) [28] cho rằng chuyển đổi cơ cấu cây trồng là cải tiến hiện trạng cơ cấu cây trồng có trước sang cơ cấu cây trồng mới nhằm đáp ứng những yêu cầu của sản xuất. Thực chất của chuyển đổi cơ cấu cây trồng là thực hiện hàng loạt các biện pháp (kinh tế, kỹ thuật, chính sách xã hội) nhằm thúc đẩy cơ cấu cây trồng phát triển, đáp ứng theo những mục tiêu của xã hội. Nghiên cứu cải tiến cơ cấu cây trồng là tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản bằng cách áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào hệ thống cây trồng hiện tại hoặc đưa ra những hệ thống cây trồng mới. Hướng vào các hợp phần tự nhiên, sinh học, kỹ thuật, lao động, quản lý, thị trường để phát triển cơ cấu cây trồng trong những điều kiện mới nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất (Lê Minh Toán, 1998) [31]. Nghiên cứu cải tiến cơ cấu cây trồng phải đánh giá đúng thực trạng, xác định cơ cấu cây trồng phù hợp với thực tế phát triển cả về định lượng và định tính, dự báo được mô hình sản xuất trong tương lai; phải kế thừa được những cơ cấu cây trồng truyền thống và xuất phát từ yêu cầu thực tế, hướng tới tương lai để kết hợp các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội (Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên, 1995)[2], (Trương Đích, 1995)[8], (Võ Minh Kha, 1990)[17]. Để đáp ứng nhu cầu nhiều mặt ngày càng tăng của con người đòi hỏi ngành nông nghiệp phải sản xuất ra ngày càng nhiều lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản hàng hoá; đồng thời tạo ra cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển. Với những thành tựu của khoa học nông nghiệp, các hộ nông dân, các cơ sở sản xuất đã tập trung sản xuất những cây trồng có khả năng thích nghi cao với điều kiện sinh thái và có lợi thế so sánh hơn các vùng khác trên thị trường, hình thành hệ thống cây trồng ngày càng có hiệu quả kinh tế cao. Nhiều vùng sinh thái nông nghiệp có những nguồn tài nguyên tiềm ẩn to lớn, dưới ánh sáng của khoa học kỹ thuật, thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng hình thành nên những vùng chuyên canh tập trung mang tính hàng hoá cao, đem lại hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp. Sử dụng một cách hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, kinh tế xã hội, gắn lợi ích trước mắt với hiệu quả lâu dài, bền vững, gắn lợi ích kinh tế với bảo vệ môi trường và cải tạo môi trường sinh thái (Nguyễn Duy Tính, 1995)[28], (Đào Thế Tuấn, 1997)[35]. Việc xây dựng cơ cấu cây trồng mới phải góp phần hình thành nền nông nghiệp bền vững. Phát triển nông nghiệp bền vững chiếm vị trí quan trọng nhiều khi có tính quyết định trong sự phát triển chung của xã hội. Khái niệm về phát triển nông nghiệp bền vững trong sự phát triển của xã hội loài người mới chỉ hình thành rõ nét trong những năm 1990 qua các hội thảo và xuất bản (Edwards et al., 1990; Singh et al., 1990). Điều cơ bản nhất của phát triển nông nghiệp bền vững là cải thiện chất lượng cuộc sống trong sự tiếp cận đúng đắn về môi trường để giữ gìn những tài nguyên cơ bản nhất cho thế hệ sau. Có rất nhiều định nghĩa về nông nghiệp bền vững tuỳ theo tình hình cụ thể (dẫn theo Hội khoa học đất Việt Nam, 2000) [12]. Theo FAO (1989)[12] thì nông nghiệp bền vững bao gồm quản lý có hiệu quả tài nguyên cho nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của con người; đồng thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên, môi trường và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Còn theo Bộ Nông nghiệp Canada thì hệ thống nông nghiệp bền vững là hệ thống có hiệu quả kinh tế, đáp ứng nhu cầu của xã hội về an ninh lương thực; đồng thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi trường sống cho đời sau (Baier, 1990)[12]. Các định nghĩa có thể có nhiều cách biểu thị khác nhau, song về nội dung thường bao gồm 3 thành phần cơ bản sau (Cao Liêm, Phạm Văn Phê, Nguyễn Thị Lan, 1995 )[19]: - Bền vững về an ninh lương thực trong thời gian dài trên cơ sở hệ thống nông nghiệp phù hợp điều kiện sinh thái và không tổn hại môi trường. - Bền vững về tổ chức quản lý, hệ thống nông nghiệp phù hợp trong mối quan hệ con người cho cả đời sau. - Bền vững thể hiện ở tính cộng đồng trong hệ thống nông nghiệp hợp lý. Theo định nghĩa của Piere Croson (1993) [12] thì một hệ thống nông nghiệp bền vững phải đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về ăn và mặc thích hợp có hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội gắn với việc tăng phúc lợi trên đầu người. Đáp ứng nhu cầu là một phần quan trọng cần đưa vào định nghĩa vì sản lượng nông nghiệp cần thiết phải được tăng trưởng trong những thập kỷ tới. Phúc lợi cho mọi người vì phúc lợi của đa số dân trên toàn thế giới còn rất thấp. Trong tất cả các định nghĩa, điều quan trọng nhất là phải biết sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai, giữ vững và cải thiện tài nguyên môi trường, có hiệu quả kinh tế, năng suất cao và ổn định, tăng cường chất lượng cuộc sống, bình đẳng giữa các thế hệ và hạn chế rủi ro. Nông nghiệp bền vững đạt được là nhờ 3 yếu tố: quản lý đất bền vững, công nghệ được cải tiến và hiệu suất kinh tế được nâng cao. Quản lý đất bền vững chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu trong nông nghiệp bền vững. Mục tiêu của quản lý đất bền vững là “Điều hoà các mục tiêu và tạo cơ hội cho việc đạt được kết quả về môi trường, kinh tế và xã hội vì lợi ích của không chỉ các thế hệ hiện nay mà còn cho các thế hệ trong tương lai” trong khi vẫn duy trì và nâng cao chất lượng của tài nguyên đất (dẫn theo Nguyễn Văn Lạng, 2002)[18]. 2.1.2 Một số khái niệm cơ bản về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. 2.1.2.1 Phát triển sản xuất nông nghiệp Dựa vào cơ sở lý luận về phát triển có thể thấy rằng: phát triển sản xuất nông nghiệp là sự gia tăng về quy mô, sản lượng, sự tiến bộ về cơ cấu cây trồng và chất lượng nông sản được sản ra. Như vậy phát triển sản xuất bao hàm sự biến đổi về số lượng và chất lượng. Sự thay đổi về số lượng đó là sự tăng lên về quy mô diện tích, sản lượng và tăng tỷ trọng giá trị các ngành sản xuất có hiệu quả kinh tế cao trong ngành nông nghiệp. Song phát triển sản xuất nông nghiệp phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng vùng, từng địa phương nhằm khai thác lợi thế so sánh nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Theo quan điểm của phát triển bền vững, sự phát triển bền vững, sự phát triển nông nghiệp vừa theo hướng đạt năng suất cao, vừa bảo vệ, tái tạo và giữ gìn tài nguyên thiên nhiên đảm bảo sự cân bằng về môi trường. Việc phát triển là bao hàm phát triển cả nông - lâm - ngư nghiệp, phát triển cả trồng trọt, chăn nuôi và các ngành nghề dịch vụ khác, đồng thời nông nghiệp bao giờ cũng gắn liền với nông dân, nông thôn và môi trường tự nhiên. Do đó phát triển nông nghiệp không thể tách rời sự phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn và bảo vệ môi trường sinh thái. 2.1.2.2 Sản xuất hàng hóa Hàng hóa là vật phẩm do lao động con người tạo nên để trao đổi. Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra các sản phẩm để bán, trao đổi phục vụ yêu cầu sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất ra đời và phát triển dựa trên cơ sở của phát triển sản xuất và phân công lao động xã hội. Ngay từ thời sơ khai, loài người tách từ thời săn bắn, hái lượm sang các ngành chăn nuôi đã có sự trao đổi hàng hóa dưới hình thức hàng trao đổi hàng. Cho đến ngày nay khi sản xuất phát triển, sự phân công lao động ngày càng sâu sắc, trình độ chuyên môn trong sản xuất ngày càng cao, mỗi một người, một bộ phận chỉ sản xuất một loại hoặc một sản phẩm giới hạn, thậm chí chỉ một bộ phận của sản phẩm. Trong khi đó sản xuất phát triển đời sống ngày càng cao, yêu cầu sản phẩm tiêu dùng, các hoạt động dịch vụ ngày càng đa dạng. Điều này đã thúc đẩy sản xuất hàng hóa và kinh tế hàng hóa ngày càng phát triển hơn. Sản xuất hàng hóa tồn tại và phát triển ở nhiều chế độ xã hội, là sản phẩm của lịch sử phát triển của loài người. Nó có nhiều ưu thế và là một phương thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẵn so với nền kinh tế tự túc, tự cấp. Sản xuất hàng hoá là một tất yếu khách quan, là thuộc tính cơ bản và mang tính phổ biến của nền nông nghiệp phát triển. Với những kết quả tổng kết từ nhiều nước trên thế giới qua các thời kỳ lịch sử, nhiều nhà kinh tế đã chia quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp làm 3 giai đoạn: nông nghiệp tự cung, tự cấp, nông nghiệp đa dạng hoá và nông nghiệp chuyên môn hoá cao. Giai đoạn nông nghiệp tự cung, tự cấp: sản xuất nông nghiệp chỉ phục vụ cho nhu cầu của chính mình, trước hết là đáp ứng về lương thực nên sản xuất chỉ tập trung ở một vài loại cây trồng truyền thống. Nông nghiệp hoàn toàn dựa vào tự nhiên với công cụ lao động thô sơ, kỹ thuật và công nghệ có nhiều hạn chế, chưa quan tâm đến thị trường. Sản xuất khép kín và phụ thuộc vào tự nhiên, quy mô nhỏ nên độ rủi ro cao, thu nhập thấp, chỉ đủ nuôi sống người sản xuất, chưa có sản phẩm hàng hoá. Giai đoạn đa dạng hoá sản xuất nông sản: chủng loại cây trồng, vật nuôi đã phong phú hơn, hạn chế được tình trạng sản phẩm nông nghiệp một phần tiêu dùng cho gia đình, một phần để trao đổi, từ giai đoạn này đã bắt đầu có nông sản hàng hoá. Giai đoạn nông nghiệp được chuyển sang sản xuất chuyên môn hoá, hình thành các trang trại chuyên kinh doanh một vài loại sản phẩm nhất định, sử dụng các máy móc công nghệ cơ giới hoá, hiện đại hoá, cần ít lao động. Sản xuất nông sản theo hướng phát triển toàn diện, chuyên môn hoá theo ngành, vùng để có tỷ suất hàng hoá cao, tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo ra khối lượng, chất lượng nông sản hàng hoá cao, chủng loại phong phú. Phát triển sản xuất nông sản hàng hoá có ý nghĩa rất to lớn về mặt kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh chính trị, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển nông sản hàng hoá sẽ thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp và phân công lại lao động theo hướng chuyên môn hoá và phát triển tổng hợp trên cơ sở lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối của vùng và các tiểu vùng. Thông qua đòi hỏi khắt khe và kích thích của thị trường các cơ sở sản xuất nông sản hàng hoá thực hiện cải tiến kỹ thuật, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, hợp lý hoá quá trình sản xuất, lựa chọn phương án đầu tư hợp lý và tiết kiệm, nâng cao được năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất và sử dụng tài nguyên tốt hơn. Thông qua cạnh tranh và hợp tác, tính chất và trình độ xã hội hoá sản xuất kinh doanh nông nghiệp ngày càng mở rộng và hoàn thiện. Các thành phần kinh tế phát huy đúng vai trò, vị trí của mình và giữa chúng liên kết chặt chẽ với nhau trên từng địa bàn. Phát triển sản xuất nông sản hàng hoá đảm bảo cung cấp ổn định lương thực, thực phẩm cho xã hội, tạo động lực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà trước hết là đẩy nhanh một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nông nghiệp. Khi sự trao đổi và giao lưu hàng hoá tăng lên sẽ hoàn thiện mạng lưới thương nghiệp, quản lý và điều tiết thị trường có hiệu quả, góp phần mở ra thị trường nông sản, hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ, hệ thống tín dụng, ngân hàng, dịch vụ... tạo tiền đề vật chất khách quan và cơ sở kinh tế vững mạnh cho việc phát triển một nền nông nghiệp (theo nghĩa rộng) bền vững, phát huy được vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân, biến đổi tận gốc rễ bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn. Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa mà đề tài nghiên cứu không phải là theo chế độ sản xuất hàng hóa XHCN theo cơ chế cũ - cơ chế kế hoạch hóa tập trung, mà là nền sản xuất hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế tham gia, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước XHCN. Một sản phẩm nông nghiệp trở thành hàng hoá phải được sản xuất từ các thành phần kinh tế khác nhau và được lưu thông trên thị trường, đồng thời sản phẩm đó phải có giá cả cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại. Giá sản phẩm cao hơn giá trị đích thực của nó sẽ tạo cơ hội cho sản phẩm đó mở rộng được thị trường tiêu thụ, có cơ hội tiếp xúc ngày càng nhiều hơn với khách hàng, tạo cơ hội cho sản phẩm tiêu thụ ngày một nhiều hơn, giúp nhà sản xuất không ngừng đầu tư mở rộng sản xuất. Đây là chức năng thông tin của sản phẩm hàng hoá nông nghiệp. Trong nông nghiệp việc xác định phương hướng sản xuất đi đôi với việc xác định cơ cấu cây trồng. Một phương hướng sản xuất quyết định cơ cấu cây trồng, nhưng mặt khác cơ cấu cây trồng sản xuất hợp lý cũng là cơ sở để xác định phương hướng sản xuất (Đào Thế Tuấn, 1997)[35]. 2.1.3 Những yếu tố chi phối sự lựa chọn cơ cấu cây trồng * Khí hậu và cơ cấu cây trồng Có thể nói trong các yếu tố ngoại cảnh thì yếu tố khí hậu có tác động mạnh mẽ nhất đến cây trồng và cơ cấu cây trồng, đặc biệt là yếu tố nhiệt độ và độ ẩm. - Nhiệt độ và cơ cấu cây trồng: Từng loại cây trồng, bộ phận của cây (rễ, thân, hoa, lá,…), các quá trình sinh lý của cây (quang hợp, hút nước, hút khoáng,…) sẽ phát triển tốt ở nhiệt độ thích hợp và chỉ an toàn ở một nhiệt độ nhất định. Viện sĩ Nông nghiệp Đào Thế Tuấn đã nêu ra: cần phân biệt cây ưa nóng và cây ưa lạnh và cần nắm được tình hình nhiệt độ các tháng trong năm; thời gian nóng bố trí cây ưa nóng, thời gian lạnh bố trí cây ưa lạnh. Phân loại cây trồng theo yêu cầu nhiệt độ có thể lấy mốc 20oC để phân biệt cây ưa nóng và cây ưa lạnh. Cây ưa nóng là những cây sinh trưởng tốt và ra hoa, kết quả tốt ở nhiệt độ trên 20oC như các cây lúa, lạc, mía…, cây ưa lạnh là những cây sinh trưởng tốt và ra hoa, kết quả tốt ở nhiệt độ dưới 20oC như khoai tây, su hào, bắp cải,…những cây trung gian là những cây sinh trưởng, ra hoa và kết quả tốt ở nhiệt độ xung quanh 20oC (Lý Nhạc và CTV, 1987)[23]. Để hoàn thành chu kỳ sinh trưởng, mỗi cây trồng cần đạt được tổng tích ôn nhất định. Tổng tích ôn này phụ thuộc vào thời gian sinh trưởng và yêu cầu nhiệt độ cao hay thấp của mỗi cây. Cũng theo Viện sĩ Đào Thế Tuấn (1984) cơ cấu cây trồng trong một năm có thể được bố trí như sau [34]: Bảng 1.1 Bố trí cơ câu cây trồng trong một năm Vùng Tổng nhiệt độ (oC) Số ngày có nhiệt độ dưới 20oC Cơ cấu cây trồng, vụ Cây ưa nóng Ưa lạnh Ngắn ngày I < 8.300 > 120 1 1 - II > 8.300 90 - 120 2 1 - III > 8.300 < 90 2 - 1 IV > 9.000 0 3 - - - Lượng mưa, ẩm độ không khí và cơ cấu cây trồng: Nước cần cho sự sinh trưởng, phát triển của cây, nước mưa cung cấp phần lớn lượng nước mà cây yêu cầu, đặc biệt là ở những vùng không có hệ thống thuỷ lợi, nước mưa ảnh hưởng đến các quá trình canh tác như làm đất, thu hoạch. Vì vậy, khi xác định cơ cấu cây trồng phải chú ý đến lượng nước mưa (Trần Đức Hạnh, 1997)[11]. Cần nắm được lượng nước cây cần cho một chu kỳ sinh trưởng, đồng thời khả năng cung cấp nước hàng năm và lượng nước cung cấp hàng tháng của mưa để bố trí cơ cấu cây trồng. Tuy nhiên, để bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý cần nắm được tình hình diễn biến ẩm độ trong năm, vì ẩm độ không khí có ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển và năng suất cây trồng. - Ánh sáng và cơ cấu cây trồng: ánh sáng cung cấp năng lượng cho quá trình tổng hợp chất hữu cơ của cây, ánh sáng là yếu tố biến động ảnh hưởng đến năng suất. Cần phân biệt cây trồng theo yêu cầu về cường độ chiếu sáng và khả năng cung cấp ánh sáng từng thời gian trong năm để bố trí cơ cấu cây trồng cho phù hợp. Căn cứ vào diễn biến của các yếu tố khí hậu trong năm hoặc trong một thời kỳ, đồng thời căn cứ vào yêu cầu về nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa, ánh áng của từng loại cây trồng để bố trí cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng thích hợp nhằm né tránh được các điều kiện bất thuận, phát huy được tiềm năng năng suất của cây [11]. *Đất đai và cơ cấu cây trồng Đất đai là nguồn lợi tự nhiên cung cấp năng lượng và vật chất cho cây trồng và con người, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp. Đất và khí hậu hợp thành phức hệ tác động vào cây trồng. Do vậy cần phải nắm được đặc điểm mối quan hệ giữa cây trồng với đất thì mới xác định được cơ cấu cây trồng hợp lý. Về mặt cơ cấu cây trồng người ta đề cập đến tính thích ứng và tính biến động năng suất của cây trồng. Các tính thích ứng quyết định khả năng sống của cây trồng đối với các mức (độ mặn, độ chua, ngập nước hay ẩm…). Khi cây đã có đủ điều kiện thích ứng thì năng suất được quyết định bởi chế độ nước và hàm lượng chất dinh dưỡng trong đất. Tuỳ thuộc vào địa hình, thành phần cơ giới, chế độ nước, tính chất lý hoá tính của đất để bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý. * Cây trồng và cơ cấu cây trồng Giống cây trồng là một nhóm cây trồng có đặc điểm kinh tế, sinh học và các tính trạng hình thái giống nhau, cho năng suất cao, chất lượng tốt ở các vùng sinh thái khác nhau và điều kiện kỹ thuật phù hợp. Vì vậy, giống cây trồng phải mang tính khu vực hoá, tính di truyền đồng nhất và không ngừng thoả mãn nhu cầu của con người (Nguyễn Văn Hiển, 2000) [14]. Cây trồng là thành phần chủ yếu của các hệ sinh thái nông nghiệp. Nội dung của việc bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý là chọn loại cây trồng nào để lợi dụng được tốt nhất các điều kiện về khí hậu và đất đai. Mặt khác, cây trồng là những nguồn lợi tự nhiên sống, nhiệm vụ của nông nghiệp là phải sử dụng nguồn lợi tự nhiên ấy một cách tốt nhất, nghĩa là giành cho chúng các điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp nhất. Muốn bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý chúng ta cần phải nắm vững yêu cầu của các loài và giống cây trồng đối với các điều kiện khí hậu, đất đai và khả năng của chúng sử dụng các điều kiện ấy (Lý nhạc, Phùng Đăng Chinh, Dương Hữu Tuyền, 1987)[23]. * Quần thể sinh vật và cơ cấu cây trồng Xây dựng cơ cấu cây trồng là xây dựng hệ sinh thái nhân tạo, ngoài thành phần sống chủ yếu là cây trồng, còn có các thành phần khác như cỏ dại, sâu, bệnh, các vi sinh vật, các động vật,.. các thành phần sống này cùng với cây trồng tạo nên một quần thể sinh vật, chúng chi phối sự ._.sinh trưởng, phát triển của cây trồng. Theo các tác giả Lý Nhạc, Phùng Đăng Chinh, Dương Hữu Tuyền (1987)[23] thì khi bố trí cơ cấu cây trồng cần chú ý đến các mối quan hệ theo nguyên tắc: - Lợi dụng mối quan hệ tốt giữa các sinh vật với cây trồng. - Khắc phục, phòng tránh hoặc tiêu diệt mầm mống tác hại đối với cây trồng do các vi sinh vật gây nên. Trong quần thể cây trồng, quần thể chủ đạo của cơ cấu cây trồng có những đặc điểm chủ yếu sau: - Mật độ của quần thể do con người quy định trước từ lúc gieo trồng. - Sự sinh sản, tử vong và phát tán không xảy ra một cách tự phát mà chịu sự điều khiển của con người. - Sự phân bố không gian tương đối đồng đều vì do con người điều khiển. - Độ tuổi của quần thể cũng đồng đều vì có sự tác động của con người. Trong cơ cấu cây trồng cũng xảy ra sự cạnh tranh cùng loài hoặc khác loài. Khi gieo trồng một loại cây trồng thì vấn đề cạnh tranh cùng loài rất quan trọng. Cần xác định mật độ gieo trồng và các biện pháp điều chỉnh quần thể để giảm sự cạnh tranh trong loài. Sự cạnh tranh khác loài cũng xảy ra khi ta trồng xen hoặc giữa cây trồng với cỏ dại. Vì vậy khi xác định cơ cấu cây trồng cần chú ý các vấn đề sau: - Xác định thành phần cây trồng và giống cây trồng thích hợp với điều kiện cụ thể của cơ sở sản xuất. - Bố trí cây trồng theo thời vụ tốt cũng tránh tác hại của cỏ dại, sâu, bệnh. Dịch sâu bệnh hại phát triển theo lứa và theo mùa, tác hại của chúng xảy ra nghiêm trọng trong thời kỳ sinh trưởng, phát triển nhất định của cây trồng. Do vậy xác định thời vụ tốt cũng có khả năng né tránh được tác hại của sâu bệnh. * Hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng Sau khi xác định cơ cấu cây trồng cần tính toán hiệu quả kinh tế. Cơ cấu cây trồng mới cần phải đạt hiệu quả kinh tế cao hơn cơ cấu cây trồng cũ. Để đạt hiệu quả kinh tế cao thì các loại cây trồng trong cơ cấu cây trồng đều phải đạt năng suất cao. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là phải sản xuất đa dạng, ngoài cây trồng chủ yếu, cần bố trí cây trồng bổ sung để tận dụng điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng và của cơ sở sản xuất. Về mặt kinh tế cơ cấu cây trồng cần phải đạt được các yêu cầu sau đây: - Bảo đảm yêu cầu chuyên canh và tỷ lệ sản phẩm hàng hoá cao. - Đảm bảo việc hỗ trợ cho ngành sản xuất chính và phát triển chăn nuôi, tận dụng các nguồn lợi tự nhiên. - Đảm bảo việc đầu tư lao động và vật tư kỹ thuật có hiệu quả kinh tế cao. - Đảm bảo giá trị sử dụng và giá trị cao hơn cơ cấu cây trồng cũ. Việc đánh giá hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng có thể dựa vào một số chỉ tiêu năng suất, giá thành, thu nhập (giá trị bán sản phẩm sau khi đã trừ đi chi phí đầu tư) và mức lãi (% của thu nhập so với đầu tư). Khi đánh giá giá trị kinh tế của cơ cấu cây trồng cần dựa vào năng suất bình quân của cây trồng và giá cả thu mua của thị trường. Tuy nhiên, cũng cần chú ý đến những điều kiện ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm như khí hậu, thời tiết, vị trí địa lý và các điều kiện xã hội khác (Nguyễn Văn Luật, 1990)[22]. * Nông hộ và cơ cấu cây trồng Theo Viện sĩ Đào Thế Tuấn (1997) [35] nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ và đã góp phần to lớn vào sự phát triển sản xuất nông nghiệp của nước ta trong những năm qua. Tất cả những hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn chủ yếu được thực hiện thông qua nông hộ. Do vậy, quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng thực chất là sự cải tiến sản xuất nông nghiệp ở các hộ nông dân. Do đó nông dân là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp và phát triển nông thôn. Kinh tế nông hộ là kinh tế của hộ nông nghiệp sống ở nông thôn, bao gồm cả thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Hộ nông dân là các hộ gia đình có tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất nông nghiệp, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia hoạt động trong thị trường với một trình độ ít hoàn chỉnh. Hộ nông dân có những đặc điểm cơ bản sau: - Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng. - Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của hộ từ tự cấp hoàn toàn đến sản xuất hàng hoá hoàn toàn. Trình độ này quyết định đến quan hệ giữa nông hộ với thị trường. - Các hộ nông dân ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp với mức độ khác nhau, nên khó giới hạn được thế nào là một hộ nông dân thuần tuý. Vì vậy, hộ nông dân tái sản xuất giản đơn nhờ vào ruộng đất thông qua cải tiến cơ cấu cây trồng, nhờ đó mà tái sản xuất mở rộng trong nông nghiệp, phục vụ lợi ích chung của xã hội nên cần thiết phải có chính sách xã hội đầu tư thích hợp. Hộ nông dân không phải là một hình thái sản xuất đồng nhất mà là tập hợp các kiểu nông hộ khác nhau, có mục đích và cơ chế hạt động khác nhau. Căn cứ vào mục đích và cơ chế hoạt động của nông hộ để phân biệt các kiểu hộ nông dân khác nhau. - Kiểu nông hộ hoàn toàn tự cấp: ở kiểu hộ này, người nông dân ít có phản ứng với thị trường, nhất là thị trường lao động và vật tư. - Kiểu nông hộ chủ yếu tự cấp, có trao đổi một phần nông sản lấy hàng tiêu dùng, có phản ứng ít nhiều với giá cả (chủ yếu giá vật tư). - Kiểu nông hộ bán phần lớn sản phẩm nông sản, có phản ứng nhiều với thị trường. - Kiểu nông hộ hoàn toàn sản xuất hàng hoá, có mục đích thu lợi nhuận. Mục tiêu sản xuất của các hộ quyết định sự lựa chọn sản phẩm kinh doanh, cơ cấu cây trồng, quyết định mức đầu tư, phản ứng với giá cả vật tư, lao động và sản phẩm của thị trường. Cũng theo Viện sĩ Đào Thế Tuấn (1997) [35], quá trình phát triển của các hộ nông dân trải qua các giai đoạn từ thu nhập thấp đến thu nhập cao. - Giai đoạn nông nghiệp tự cấp: Nông dân trồng một cây hay một vài cây lương thực chủ yếu, ít đầu tư thâm canh, năng suất thấp, gặp nhiều rủi ro. - Giai đoạn kinh doanh tổng hợp và đa dạng: Khi mới chuyển sang sản xuất hàng hoá, nông dân bắt đầu sản xuất những loại cây trồng phục vụ cho nhu cầu của thị trường, thị trường cần loại nông sản gì thì sản xuất cây trồng đó; sản xuất đa canh nên giảm bớt rủi ro. Tóm lại, hộ nông dân chuyển từ sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ ở các mức độ khác nhau thuỳ thuộc vào trình độ, điều kiện kinh tế - xã hội và các chính sách của nhà nhà nước hỗ trợ, thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay, để áp dụng thành công một tiến bộ kỹ thuật mới hay một phương thức canh tác mới,… vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và giá trị thu nhập/đơn vị diện tích canh tác thì cần phải có chính sách đầu tư, hỗ trợ, trợ giá của nhà nước. * Chính sách và cơ cấu cây trồng Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng một cách có căn cứ khoa học, phù hợp với nhu cầu của thực tiễn và xu thế phát triển của xã hội cần có chính sách về khoa học - công nghệ để thông qua nghiên cứu, nhằm thiết lập ngay trên đồng ruộng của người nông dân những mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng có hiệu quả; đồng thời chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật cho nông dân nhằm nhân rộng mô hình. Bên cạnh đó cũng cần có những cơ chế chính sách về tài chính để hỗ trợ cho người nông khi mới bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng cũng như chính sách khen thưởng để khuyến khích những hộ, địa phương chuyển đổi cơ cấu cây trồng thành công, có hiệu quả. Quá trình phát triển kinh tế sẽ dẫn đến mức độ phân hoá giàu nghèo ngày cành mạnh, có sự chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị, để hạn chế tình trạng này cần thiết phải phát triển công nghiệp nông thôn, thâm canh, tăng vụ để sản xuất hàng hoá. Đa dạng cây trồng để đa dạng hoá các sản phẩm nông nghiệp là quá trình chủ yếu để cải tiến cơ cấu cây trồng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường nông sản ngày càng tăng. Quá trình đa dạng hoá cây trồng là do sự phát triển của kinh tế hộ quyết định và còn tuỳ thuộc vào từng vùng, nhưng vấn đề khó khăn về vốn đầu tư cho sản xuất là yếu tố quyết định cơ bản. Các hộ nghèo kinh doanh rất đa dạng, chỉ khi họ giàu lên mới tập trung vào một số ngành nghề nhất định. Như vậy, chuyên môn hoá chỉ có thể xảy ra khi trình độ sản xuất hàng hoá đã phát triển đến mức cao (Đào Thế Tuấn, 1997) [35]. Một khó khăn khác làm cho nông dân ngần ngại không dám đầu tư vào sản xuất và chuyển đổi cơ cấu cây trồng là thiếu thị trường tiêu thụ nông sản. Do đó, để tìm kiếm, mở rộng thị trường, nhà nước cần có chính sách để tạo môi trường lành mạnh, sòng phẳng trong phát triển thị trường và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, mạng lưới điện và thông tin,… Sự phân hoá của nông hộ và trình độ sản xuất chênh lệch của các kiểu nông hộ ảnh hưởng rất lớn đến cải tiến cơ cấu cây trồng. Các kiểu nông hộ khác nhau có trình độ tiếp thu và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật ở mức độ khác nhau. Trình độ là yếu tố quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng của các nông hộ trong giai đoạn đầu của sản xuất nông nghiệp hàng hoá, khi kỹ thuật áp dụng chưa phải cần nhiều vốn thì việc đa dạng hoá sản xuất là một xu thế cần thiết cho sự phát triển. * Thị trường và cơ cấu cây trồng Theo Robert S. Pindyck, Daniel L. Rubingeld (Kinh tế học vĩ mô, NXB Thống kê, Hà Nội, 1999)[10] thì thị trường là tập hợp những người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau dẫn đến khả năng trao đổi. Thị trường là trung tâm của các hoạt động kinh tế. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường có nhiều người mua và người bán, không có một cá nhân nào có ảnh hưởng đáng kể đến người mua và người bán. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo thường phổ biến một giá duy nhất là giá thị trường. Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là những người bán khác nhau có thể đặt giá khác nhau cho cùng một loại sản phẩm, khi đó giá thị trường được hiểu là giá bình quân phổ biến. Thị trường là động lực thúc đẩy cải tiến cơ cấu cây trồng hợp lý. Theo cơ chế thị trường thì cơ cấu cây trồng phải làm rõ được các vấn đề: trồng cây gì, đối tượng phục vụ là ai. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường có tác động định hướng cho người sản xuất nên trồng cây gì, với số lượng chi phí như thế nào để đáp ứng được nhu cầu của xã hội và thu được kết quả cao. Thông qua thị trường, người sản xuất điều chỉnh quy mô sản xuất, cải tiến cơ cấu cây trồng, thay đổi giống cây trồng, cơ cấu mùa vụ cho phù hợp với thị trường. Thị trường có tác dụng điều chỉnh cơ cấu cây trồng, chuyển dịch theo hướng ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Cải tiến cơ cấu cây trồng chính là điều kiện, là yêu cầu để mở rộng thị trường. Khu vực nông thôn là thị trường cung cấp nông sản hàng hoá cho toàn xã hội và là thị trường tiêu thụ sản phẩm của ngành công nghiệp, cung cấp nông sản cho ngành dịch vụ và đó cũng là nơi cung cấp lao động cho các ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, thị trường và sự cải tiến cơ cấu cây trồng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị trường là động lực thúc đẩy cải tiến cơ cấu cây trồng, song nó có mặt hạn chế là nếu để cho phát triển một cách tự phát sẽ dẫn đến sự mất cân đối ở một giai đoạn, một thời điểm nào đó. Chính vì vậy cần có những chính sách của nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của thị trường. Kinh tế hàng hoá là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm sản xuất ra dùng để mua bán, trao đổi trên thị trường, giá trị của sản phẩm hàng hoá phải thông qua thị trường và được thị trường chấp nhận (dẫn theo Hồ Gấm, 2003) [10]. Có thể sử dụng tỷ suất lợi nhuận MBCR (Marginal Benefit Cost Ratio) để đánh giá hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng. MBCR = Tổng thu nhập CCCT mới - Tổng thu nhập CCCT cũ Tổng chi phí CCCT mới - Tổng chi phí CCCT cũ Khi MBCR > 2 thì cơ cấu cây trồng có hiệu quả kinh tế (Phạm Chí Thành, 1996)[27]. 2.2 Phương pháp luận trong nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng 2.2.1 Lý thuyết về hệ thống Trong thế giới tự nhiên cũng như trong xã hội loài người mọi hoạt động đều diễn ra bởi các hợp phần (components) có những mối liên hệ, tương tác hữu cơ với nhau được gọi là tính hệ thống. Vì vậy, muốn nghiên cứu một sự vật, hiện tượng, hoạt động nào đó chúng ta phải coi lý thuyết hệ thống là cơ sở của phương pháp luận và tính hệ thống là đặc trưng, bản chất của chúng (Đào Châu Thu, 2004) [30]. Lý thuyết hệ thống đã được nhiều người nghiên cứu và được áp dụng ngày càng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học giúp cho sự hiểu biết và giải thích các mối quan hệ tương hỗ. Cơ sở lý thuyết hệ thống đã được L.Vonbertanlanty đề xướng vào đầu thế kỷ XX, đã được sử dụng như một cơ sở để giải quyết các vấn đề phức tạp và tổng hợp. Một vài năm gần đây quan điểm về hệ thống được phát triển mạnh và áp dụng khá phổ biến trong lĩnh vực sinh học và nông nghiệp. Theo Đào Thế Tuấn, hệ thống là các tập hợp trật tự bên trong (hay bên ngoài) của các yếu tố có liên quan đến nhau (hay tác động lẫn nhau), thành phần của hệ thống là các yếu tố. Các mối liên hệ và tác động của các yếu tố bên trong mạnh hơn so với các yếu tố bên ngoài hệ thống và tạo nên trật tự bên trong của hệ thống. Một hệ thống là một nhóm các yếu tố tác động lẫn nhau, hoạt động cho một mục đích chung [34]. Hệ thống là một tổng thể có trật tự các yếu tố khác nhau có quan hệ và tác động qua lại. Một hệ thống có thể xác định như một tập hợp các đối tượng hoặc các thuộc tính được liên kết bằng nhiều mối tương tác. Quan điểm hệ thống là sự khám phá đặc điểm của hệ thống đối tượng bằng cách nghiên cứu bản chất và đặc tính của các mối tác động qua lại giữa các yếu tố (Phạm Chí Thành, 1996) [27]. Hoàn thiện hệ thống hoặc phát triển HTCT mới, trên thực tế là sự tổ hợp lại các công thức luân canh, tổ hợp lại các thành phần cây trồng và giống cây trồng, đảm bảo các thành phần trong hệ thống có mối quan hệ tương tác với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, nhằm khai thác tốt nhất lợi thế về điều kiện đất đai, tạo cho hệ thống có sức sản xuất cao, bảo vệ môi trường sinh thái (Lê Duy Thước, 1991)[45]. - Hệ thống nông nghiệp: Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về hệ thống nông nghiệp (Agricultural system). Theo Vissac (1970) thì hệ thống nông nghiệp là tập hợp không gian của sự phối hợp các ngành sản xuất và các kỹ thuật do một xã hội thực hiện để thoả mãn các nhu cầu của mình. Nó biểu hiện đặc biệt sự tác động qua lại giữa một hệ thống sinh học - sinh thái và môi trường tự nhiên là đại diện và một hệ thống xã hội - văn hoá, qua các hoạt động xuất phát từ những thành quả kỹ thuật. Tác giả Mayzoyer (1986) lại cho rằng hệ thống nông nghiệp trước hết là một phương thức khai thác môi trường được hình thành và phát triển trong lịch sử, một hệ thống sản xuất thích ứng với các điều kiện sinh thái, khí hậu của một không gian nhất định, đáp ứng với các điều kiện và nhu cầu của thời điểm ấy. Còn tác giả Touve (1988) lại cho rằng hệ thống nông nghiệp thích ứng với các phương thức khai thác nông nghiệp của không gian nhất định do một xã hội tiến hành, là kết quả của sự phối hợp các nhân tố tự nhiên, xã hội - văn hoá, kinh tế và kỹ thuật dẫn theo [26]. Mặc dù mỗi tác giả có một định nghĩa khác nhau về hệ thống nông nghiệp, nhưng nhìn chung họ đều thống nhất rằng hệ thống nông nghiệp thực chất là một hệ sinh thái nông nghiệp được đặt trong một điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, tức là hệ sinh thái nông nghiệp được con người tác động bằng lao động, các tập quán canh tác, hệ thống các chính sách… Hệ thống nông nghiệp = hệ sinh thái nông nghiệp + các yếu tố kinh tế, xã hội. Hệ thống nông nghiệp bao gồm nhiều hệ phụ như hệ phụ trồng trọt; chăn nuôi, chế biến, ngành nghề; quản lý, lưu thông và phân phối. - Hệ phụ trồng trọt: Hệ thống trồng trọt là hệ thống con và là trung tâm của hệ thống nông nghiệp, cấu trúc của nó quyết định sự hoạt động của các hệ thống có khác như: chăn nuôi, chế biến, ngành nghề… Nói đến trồng trọt là nói đến cây trồng, cây trồng được trồng với nhiều mục đích khác nhau: cung cấp lương thực, thực phẩm; chăn nuôi; hàng hoá… - Hệ thống cây trồng: Theo tác giả Zandsatra (1981) [52] thì hệ thống cây trồng (Cropping system) là hoạt động sản xuất cây trồng trong nông trại bao gồm tất cả các hợp phần cần có để sản xuất một tổ hợp các cây trồng và mối quan hệ giữa chúng với môi trường, các hợp phần này bao gồm tất cả các yếu tố vật lý và sinh học cũng như kỹ thuật, lao động và quản lý. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa học, sự phân công trong nội bộ ngành Nông nghiệp ngày càng có sự thay đổi về tỷ lệ và phát triển thêm nhiều nghề mới, xuất hiện nhiều phân hệ mang tính liên tục và không ngừng hoàn thiện, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của xã hội về các sản phẩm nông nghiệp. Quá trình sản xuất và tiêu dùng là 2 quá trình đan xen mang tính lịch sử và xã hội, có tác động qua lại với nhau. Sản xuất nông nghiệp càng phát triển, phong phú và đa dạng thì càng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng tăng. Sự xuất hiện nhu cầu dùng mới ngày càng thúc đẩy, cải tiến cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm mới. Quan hệ này tuân theo nguyên lý phát triển, được chuyển đổi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và ngày càng hoàn thiện. - Hệ thống canh tác: Hệ thống canh tác là tổ chức cây trồng được bố trí trong không gian, thời gian và hệ thống các biện pháp kỹ thuật được thực hiện với tổ hợp đó nhằm đạt được năng suất cây trồng cao và nâng cao độ phì của đất đai (Nguyễn Văn Luật, 1990) [22]. 2.2.2 Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu Hệ thống là một vấn đề được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu hệ thống đề được đề cập đến từ rất sớm, một số phương pháp nghiên cứu phổ biến như phương pháp mô hình hoá, phương pháp chuyên khảo, phương pháp phân tích kinh tế,…, sau đây là một số quan điểm, phương pháp của các nhà khoa học khi nghiên cứu về hệ thống. Phương pháp nghiên cứu hệ thống bằng mô hình hoá là một phương pháp thông dụng, dễ sử dụng, nhất là trong việc xây dựng một hệ thống cũng như mô tả, phân tích hệ thống đó. Tuỳ thuộc nội dung và quy mô hệ thống, cấu trúc hệ thống và kỹ năng của người phân tích hệ thống mà các hệ thống được mô hình hóa rất khác nhau (Đào Châu Thu, 2004)[30]. Để phát triển hệ thống canh tác cần xác định toàn bộ các trở ngại chủ yếu đến sự phát triển của hệ thống, định rõ được những giải pháp thử nghiệm khả thi, cả về kỹ thuật và thể chế. Những giải pháp này sẽ bao gồm các yếu tố thích hợp để cải tiến toàn bộ hệ thống canh tác (chuyển đổi cơ cấu cây trồng). Phát triển hệ thống còn phải xác định được các mối liên kết và hiệu ứng của cải tiến từng bộ phận trong hệ thống. Bất kỳ một đề xuất nào về đổi mới kỹ thuật cần được xem xét các lý lẽ mà người nông dân sử dụng với quyết định của họ. Các phương pháp phân tích hệ thống đã được phát triển như một công cụ chính cho quá trình nghiên cứu, triển khai vào sản xuất của hộ nông dân. Những hướng dẫn trên rất gần gũi với các phương pháp nghiên cứu về cơ cấu cây trồng. Champer (1989)[49] đã đề xuất hướng nghiên cứu bắt đầu từ nông dân theo mô hình “nông dân - trở lại - nông dân”. Điểm xuất phát vấn đề bắt đầu từ sự lựa chọn của nông dân, nông dân trực tiếp tham gia thực hiện công tác nghiên cứu cùng với nhà khoa học và phổ biến, chuyển giao kiến thức, kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất cho nông dân khác trong vùng. Một số cách trong hướng nghiên cứu này là nghiên cứu có định hướng tới nông dân nghèo; coi trọng kiến thức của nông dân nghèo; đặt người nông dân vào việc kiểm tra và có vai trò đảo ngược tình thế. Theo Carangal W.R. (1987) thì hệ thống canh tác phụ thuộc vào môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội. Hệ thống canh tác biểu thị tính đặc thù cao của môi trường, vì vậy phải nghiên cứu hệ thống canh tác ở nhiều môi trường khác nhau (dẫn theo Nguyễn Văn Lạng, 2002)[18]. Zandsatra H.G. (1981) [52] đã đề xuất phương pháp nghiên cứu hệ thống cây trồng đã được Viện lúa quốc tế IRRI và các chương trình nghiên cứu hệ thống cây trồng châu á ứng dụng và tiếp tục phát triển. FAO (1995)[51] đưa ra phương pháp phát triển hệ thống canh tác và cho đây là một phương pháp tiếp cận nhằm phát triển các hệ thống nông nghiệp và cộng đồng nông thôn trên cơ sở bền vững, việc nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngành trồng trọt phải được bắt đầu từ phân tích hệ thống canh tác truyền thống. Những nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác của FAO là một nỗ lực nhằm bổ sung và hoàn thiện cho các tiếp cận đơn lẻ. Xuất phát điểm của hệ thống canh tác là nhìn nhận cả nông trại như một hệ thống; phân tích toàn bộ hạn chế và tiềm năng; xác định các nghiên cứu thích hợp theo thứ tự ưu tiên và những thay đổi cần thiết được thể chế vào chính sách; thử nghiệm trên thực tế đồng ruộng, hoặc mô phỏng các hiệu ứng của nó bằng các mô hình hoá trong trường hợp chính sách thay đổi. Sau đó tiến hành phân tích, đánh giá hiệu quả hiện tại trên quy mô toàn nông trại và đề xuất hướng cải tiến phát triển của nông trại trong thời gian tới. Spedding (1979) đã đưa ra 2 phương pháp cơ bản trong nghiên cứu cơ cấu cây trồng: - Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống canh tác, hệ thống cây trồng cần dùng phương pháp phân tích hệ thống để tìm ra điểm hẹp hay chỗ thắt lại của hệ thống. Đó là chỗ có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của hệ thống cần được tác động sửa chữa, khai thông để hệ thống hoàn thiện hơn, có hiệu quả kinh tế cao hơn (Đào Châu Thu, 2004)[30]. - Nghiên cứu xây dựng hệ thống mới: Phương pháp này đòi hỏi phải có đầu tư, tính toán và cân nhắc kỹ lưỡng, cách nghiên cứu này cần có trình độ cao hơn để tổ chức, xắp đặt các bộ phận trong hệ thống dự kiến, đúng vị trí trong các mối quan hệ giữa các phần tử để đạt được mục tiêu của hệ thống tốt nhất. Viện sĩ Đào Thế Tuấn (1984) [34] đã dựa trên các mối quan hệ giữa cơ cấu cây trồng và các yếu tố khác để đề xuất bố trí cơ cấu cây trồng ở một cơ sở sản xuất theo trình tự sau: - Thu thập tài liệu về khí hậu, xem xét, đánh giá những thuận lợi và khó khăn. - Thu thập các tài liệu về đất đai, đánh giá số lượng, chất lượng, khả năng khai thác và sử dụng, các mặt hạn chế của đất đai. - Xem xét tổng hợp về nước, hệ thống thuỷ lợi và các biện pháp quản lý khai thác nước. - Xem xét bộ giống cây trồng đã được sử dụng; đặc tính tốt, xấu của từng giống trong quá trình sản xuất. Từ đó định hình hướng lựa chọn các giống cây trồng thích hợp cho cơ cấu cây trồng dự định tiếp tục phát triển. - Xem xét tình hình sâu bệnh. - Tìm hiểu các định hướng, mục tiêu phát triển sản xuất của cơ sở. - Phân tích, đánh giá nguồn nhân lực, tư liệu sản xuất. Bằng các bước tiến hành trên, cho phép chủ cơ sở sản xuất, chủ hộ chọn ra các công thức luân canh cây trồng có hiệu quả cao nhất từ đó triển khai nhân rộng ra toàn vùng. Còn tác giả Phạm Chí Thành và cộng sự (1996) [27] lại đề xuất phương pháp điều tra, mô tả hệ thống nông nghiệp theo các bước sau: - Mô tả nhanh điểm nghiên cứu, bao gồm phương pháp không dùng phiếu điều tra và phương pháp có dùng phiếu điều tra. - Phương pháp thu thập thông tin từ nông dân am hiểu công việc (KIP). - Phương pháp thu thập, phân tích và đánh giá thông tin (SWOT). - Thu thập thông tin, xác định, chuẩn đoán những hạn chế, trở ngại (phương pháp ABC và phương pháp WEB). - Xây dựng bản đồ mặt cắt, mô tả hệ sinh thái nông nghiệp và mô tả hoạt động sản xuất nông hộ. - Xử lý, phân tích số liệu và trình bày kết quả các cuộc điều tra, khảo sát (xử lý số liệu, chọn hệ thống phân tích, trình bày kết quả). Phương pháp nghiên cứu cơ cấu cây trồng này về sau được Viện nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) và các chương trình nghiên cứu về cơ cấu cây trồng quốc gia trong mạng lưới hệ thống cây trồng Châu Á (Asian Cropping System Network - ACSN) sử dụng và phát triển (Bùi Huy Hiển và CTV, 2001). Quá trình nghiên cứu liên quan đến một loạt các hoạt động trong nông trại. Tổ chức thực hiện theo các bước sau: (i) Chọn điểm: địa điểm nghiên cứu là một hoặc vài loại đất. Tiêu chí để chọn điểm nghiên cứu là có tiềm năng năng suất, đại diện cho vùng rộng lớn, nông dân sẵn sàng hợp tác. Sẽ rất thuận lợi nếu chọn điểm nghiên cứu được Chính phủ ưu tiên vì chương trình sản xuất sau này sẽ thực hiện dễ dàng hơn. (ii) Mô tả điểm: điểm nghiên cứu sau khi chọn sẽ được mô tả về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, hiện trạng cơ cấu cây trồng cần phải được đánh giá. (iii) Thiết kế cơ cấu cây trồng: các mô hình cây trồng được thiết kế trên những đặc điểm của điểm nghiên cứu, nhằm đạt được sản lượng, lợi nhuận cao, ổn định và bảo vệ môi trường sinh thái. (iv) Thử nghiệm cây trồng mới: cơ cấu cây trồng được thử nghiệm trên ruộng nông dân, nhằm xác định khả năng thích nghi và ổn định của chúng. Chỉ tiêu theo dõi gồm năng suất nông học, hiệu quả sử dụng đất, yêu cầu về tài nguyên (lao động, vật tư và hiệu quả kinh tế). (v) Đánh giá sản xuất thử: những mô hình cây trồng có năng suất và hiệu quả được xác định dựa trên kết quả thử nghiệm, sau đó được đưa vào sản xuất thử nhằm đánh giá khả năng thích nghi trên diện rộng của mô hình triển vọng trước khi xây dựng những chương trình sản xuất ở qui mô lớn hơn. (vi) Chương trình sản xuất: sau khi xác định những cơ cấu cây trồng thích hợp nhất và những biện pháp kỹ thuật liên hoàn kèm theo, các tổ chức khuyến nông với sự giúp đỡ của chính quyền, xây dựng chương trình quảng bá, thực hiện chương trình sản xuất. 2.3 Tình hình nghiên cứu về cơ cấu cây trồng. 2.3.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới Để đáp ứng nhu cầu lương thực ngày càng tăng của con người các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu hệ thống nông nghiệp bắt đầu từ nghiên cứu chế độ luân canh, xen canh, gối vụ cây trồng để tăng năng suất và sản lượng; đặc biệt là ở nước nhiệt đới và á nhiệt đới, nơi có điều kiện sinh thái thuận lợi cho việc luân canh, tăng vụ. Châu á được coi là cái nôi của lúa gạo do chiếm tới 90% diện tích và sản lượng lúa gạo của thế giới, nơi đã diễn ra cuộc “Cách mạng xanh” giữa thế kỷ XX, ở đây đã lai tạo ra nhiều giống lúa nước ngắn ngày, năng suất cao, nhờ vậy đã góp phần thành công trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và cơ cấu mùa vụ ở nhiều quốc gia. Các nghiên cứu về hệ thống nông nghiệp và thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ cũng đã được tiến hành ở khu vực này khá mạnh mẽ. Từ những thập niên 60, các nhà sinh lý thực vật đã nhận thấy rằng không một loại cây trồng nào có thể sử dụng hoàn toàn triệt để tài nguyên thiên nhiên của mỗi vùng. Các Viện nghiên cứu nông nghiệp trên thế giới hàng năm đã lai tạo, tuyển chọn ra nhiều loại giống cây trồng mới, đưa ra nhiều công thức luân canh, quy trình kỹ thuật tiến bộ, đề xuất cơ cấu cây trồng thích hợp cho từng vùng sinh thái nhằm tăng năng suất, sản lượng và giá trị sản lượng/đơn vị diện tích canh tác. Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI đã góp nhiều thành tựu về cơ cấu giống lúa (Vũ Tuyên Hoàng, 1995) [16], (Trần Đình Long, 1997) [21]. Nhật Bản là một nước có điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Do đó các nhà khoa học nông nghiệp Nhật Bản đã tập trung nghiên cứu và đề ra các chính sách quan trọng, xây dựng những chương trình có mục tiêu như an toàn lương thực, cải cách ruộng đất, ổn định thị trường nông sản và đẩy mạnh công tác khuyến nông, nhằm đảm bảo an ninh, an toàn lương thực và thực hiện một số giải pháp về kỹ thuật, cải cách nông thôn… nhờ vậy đến nay Nhật Bản đã trở thành một quốc gia có nền công nghiệp nông nghiệp (nền nông nghiệp hiện đại) hàng đầu của thế giới (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, 1996) [33]. Các nhà khoa học Nhật Bản đã hệ thống hoá 4 tiêu chuẩn của hệ thống cây trồng là sự phối hợp giữa cây trồng và vật nuôi, các phương pháp trồng trọt và chăn nuôi gia súc, cường độ lao động, vốn đầu tư, tổ chức sản xuất và sản phẩm làm ra, tính chất hàng hoá của sản phẩm (Nguyễn Duy Tính, 1995)[28]. Từ năm 1975 đã hình thành mạng lưới nghiên cứu hệ thống cây trồng với 4 nước thành viên, đến thập kỷ 80 đã mở rộng phạm vi đến 16 nước và đã tổ chức hội nghị ở Thái Lan vào năm 1981. Các nhà khoa học của các nước thành viên đã thống nhất một số giải pháp trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng như sau: - Tăng vụ lúa ngắn ngày, thu hoạch trước mùa lũ. - Thử nghiệm tăng vụ cây màu bằng các cây trồng mới, xen canh, luân canh, thâm canh, tăng vụ… - Xác định hiệu quả của các công thức luân canh, tìm và khắc phục các yếu tố hạn chế để phát triển công thức đạt hiệu quả cao (Lý Nhạc, 1987)[23]. ở Thái Lan, công thức độc canh lúa xuân - lúa mùa hiệu quả kinh tế thấp và chi phí thuỷ lợi quá lớn, hơn nữa do độc canh lúa đã làm giảm độ phì của đất. Vì vậy, họ đã chuyển sang sản xuất theo công thức luân canh đậu tương - lúa mùa, hiệu quả kinh tế tăng gấp đôi, đồng thời độ phì đất cũng tăng lên rõ rệt (Nguyễn Duy Tính, 1995)[28]. Mô hình sử dụng đất dốc hợp lý của Thái Lan bằng cách trồng cây họ đậu thành băng theo đường đồng mức để chống xói mòn, tăng độ phì cho đất và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Hệ thống cây trồng kết hợp trồng xen cây họ đậu với cây lương thực trên đất dốc đã làm tăng năng suất cây trồng, tăng được chất xanh tại chỗ, tăng nguồn vi sinh vật có ích trong đất. Bình quân lương thực của Thái Lan trong 10 năm (1977 - 1987) đã tăng 3%, trong đó lúa gạo tăng 2,4%, ngô tăng 6,1%, ngoài ra các cây trồng có giá trị kinh tế cao như dừa, cao su, cà phê, chè cũng được chú ý phát triển… nhờ sản xuất nông nghiệp theo hướng đa cây trồng, đa thời vụ gắn với thị trường nên giá trị nông sản đã chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu (Nguyễn Điền, 1997)[9]. Đài Loan là một nước có diện tích đất sản xuất nông nghiệp rất thấp, nhưng do cải tiến các biện pháp kỹ thuật, thực hiện các chính sách khuyến khích nên đã tạo cho nông nghiệp có những bước phát triển vượt bậc, không những cung cấp dồi dào lương thực mà còn chuyển vốn cho các ngành khác, đóng góp rất lớn cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá và thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. Đài Loan thực hiện rộng rãi và áp dụng kinh doanh cần nhiều sức lao động và kỹ thuật vi sinh để nâng cao sản lượng cây trồng, nâng cao khả năng canh tác của đất đai, nhập thêm nhiều giống cây trồng mới có giá trị kinh tế cao. Những biện pháp đó đã giúp Đài Loan chuyển sang nền nông nghiệp hàng hoá và xuất khẩu nhiều nông sản; đồng thời có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp ở một số nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.._.nhập cơ cấu CTLC cũ Giá trị thu nhập cơ cấu CTLC mới Diện tích (ha) Tổng thu (tr.đ) CPVC (tr.đ) Thu nhập (tr.đ) Diện tích (ha) Tổng thu (tr.đ) CPVC (tr.đ) Thu nhập (tr.đ) 1 Lúa xuân - lúa mùa 2838,9 135.018 58.197,5 76.820,5 1653,9 78.659 33.905 44.754 2 Lúa xuân - lúa mùa - cần 15 1.344 547,5 796,5 1200 107.520 43.800 63.720 Tổng 2853,9 136.362 58.745 77.617 2853,9 186.179 77.705 108.474 Nhìn vào bảng 4.28 ta thấy: Tổng giá trị thu nhập mà cơ cấu công thức luân canh mới mang lại (tính theo giá năm 2008) là 108.474 tỷ đồng/năm cao gấp gần 1,4 lần so với tổng giá trị của cơ cấu công thức luân canh cũ (77.617 tỷ đồng/năm). Có thể nói cây rau cần là cây trồng cho sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế cao, cần được đầu tư phát triển. * Trên chân đất vàn: Đây là chân đất chiếm diện tích lớn nhất (3239,6 ha), cơ cấu cây trồng trên chân đất này đa dạng và phong phú nhất. Vụ xuân và vụ mùa thì cây lúa vẫn là cây trồng chủ lực, vụ đông bà con nông dân vẫn trồng các cây trồng hiệu quả kinh tế thấp như cây khoai lang và một số diện tích bà con bỏ trống không canh tác. Qua điều tra nghiên cứu và đã tiến hành các thử nghiệm, chúng tôi đề xuất duy trì, phát triển các công thức luân canh: Bảng 4.28 Chuyển đổi cơ cấu công thức luân canh trên chân đất vàn TT Công thức luân canh Cơ cấu cũ Cơ cấu mới Diện tích (ha) Cơ cấu (%) Diện tích (ha) Cơ cấu (%) 1 Lúa xuân-lúa mùa- ngô đông 1.240 37,65 1.240 37,65 2 Lúa xuân-lúa mùa-Khoai tây 396 12,02 396 12,02 3 Lúa xuân-lúa mùa-Đậu tương đông 371 11,26 860,6 26,13 4 Lúa xuân – Lúa mùa - rau đông 590 17,91 590 17,91 5 Lúa xuân - lúa mùa- khoai lang 224.6 6,82 0 0 6 Lúa xuân - đậu tương - Khoai tây 87 2,64 87 2,64 7 Lạc xuân - Lúa mùa - Khoai lang 75 2,28 0 0 8 Khoai lang - Lúa mùa - Khoai lang 190 5,77 0 0 9 Rau - Rau - Rau 120 3,64 120 3,64 Tổng 3.293,6 100 3.293,6 100 Nhìn vào bảng 4.28 ta thấy: - Nên duy trì diện tích của các công thức luân canh số 1, 2, 6 và số 9. - Nên xoá bỏ các công thức luân canh số 5, 7 và 8. Thay vào đó là mở rộng diện tích công thức luân canh số 3 và thêm công thức luân canh số 4. Mặc dù công thức 3 cây đậu tương đông lợi nhuận thấp hơn so với cây khoai lang, ngô đông nhưng chi phí lao động thấp, khả năng cải tạo đất và mở rộng được diện tích lớn, đồng thời là nguồn phân bón rất tốt cho cây trồng vụ sau. Vì vậy chung tôi khuyến cáo nên mở rộng công thức nay trông sản xuất vụ đông. Tóm lại, trong những năm tới, chúng tôi khuyến khích trên đất vàn tập trung phát triển 6 công thức luân canh. Đó là công thức luân canh số 1, 2, 3, 4, 6 và 9. Nếu việc chuyển đổi công thức luân canh thực hiện theo đúng dự kiến đề xuất thì diện tích và sản lượng của các cây trồng trong 1 năm sẽ là: Bảng 4.29 Diện tích, năng suất, sản lượng gieo trồng của cơ cấu cây trồng mới TT Cây trồng Thời vụ Diện tích (ha) Cơ cấu (%) Năng suất (tạ) Sản lượng (tấn) 1 Lúa Xuân 5.793 67 38.813 Mùa 5.800 57 33.060 Tổng 11.593 75,82 71.873 2 Ngô Đông 1240 8,11 39,5 4.898 3 Đậu tương Hè 87 18 156,6 Đông 860,6 14,5 1.248 Tổng 947,6 6.20 1.404,6 4 Khoai tây Đông 483 3,16 150 5.245 5 Rau Xuân 120 - - Hè 120 - - Đông 710 - - Tổng 950 6,21 11.400 6 Mía ăn tươi Tổng 76,4 0,50 Tổng cộng 15.290 Để đạt được mục tiêu về năng suất và sản lượng của 5 loại cây trồng được đề xuất trong bảng 4.30 thì vấn đề lựa chọn cơ cấu giống phù hợp là vô cùng quan trọng. Trên cơ sở kết quả điều tra cơ cấu giống trên địa bàn, kết hợp với kết quả các thử nghiệm chúng tôi đề xuất cơ cấu giống mới như sau: Bảng 4.30 Cơ cấu giống mới TT Cây trồng Cơ cấu giống mới 1 Lúa 40% lúa thuần chất lượng (Bắc thơm số 7, N46, HT1,…); 40% lúa lai (Syn6, B-TE1, HYT100, TH7-2, HYT102, HYT106… ) và 20% lúa thuần khác (Xi23, TBR-1, BC15,…) 2 Ngô CP999, 919, ngô nếp 3 Khoai tây Giống khoai tây của Đức (Solara), Hà Lan (Diamant) 4 Đậu tương ĐT84, ĐT99,…. 5 Rau Bí xanh, bắp cải, su hào, sup lơ, cà chua, dưa chuột,.... Hiện nay trong cơ cấu cây trồng cũ, diện tích cây trồng hàng hoá chiếm khoảng 35-40% diện tích. Sau khi hoàn thành nghiên cứu, chuyển đổi cơ cấu cây trồng mới thì diện tích cây trồng hàng hoá chiếm khoảng 70% diện tích. * Trên chân đất cao: Chúng tôi khuyến khích duy trì diện tích mía ăn tươi như hiện nay, cần đầu tư thâm canh để tăng năng suất từ 830 tạ/ha như hiện nay lên 1000 tạ/ha. Dự kiến sản lượng thu được: 76,4 ha x 1000 tạ/ha = 76.400 tạ (7.640 tấn) mía cây cung cấp cho thị trường thành phố Thanh Hoá. Với giá bán 500đ/kg, thì giá trị sản lượng mà cây mía mang lại là 76.400 (tạ) x 100 x 500 (đ/kg) = 3.820.000.000 đ (3,82 tỷ đồng). 4.5 Một số giải pháp góp phần thực thi cơ cấu cây trồng mới 4.5.1 Đổi mới cơ chế chính sách, tăng cường năng lực quản lý nhà nước để xây dựng nên một quan hệ sản xuất phù hợp Một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là phải đổi mới cơ chế, chính sách, tăng cường quản lý của nhà nước, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh tế - xã hội trên cơ sở pháp luật hiện hành. Nhờ có sự đổi mới của Đảng, trong những năm qua tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã được phát triển mạnh, do đó cần có một quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn. Vì vậy, phải khuyến khích xây dựng các tổ hợp tác và hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp có chức năng dịch vụ phục vụ và dịch vụ kinh doanh để tiêu thụ sản phẩm cho nông hộ. Khuyến khích hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã trên cơ sở liên kết hợp tác, tự nguyện giữa các hộ, trang trại dưới nhiều hình thức. Hợp tác xã phải tập trung làm dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tổ chức tốt các quy hoạch và hướng dẫn nông dân ứng dụng khoa học - công nghệ mới, liên kết với các doanh nghiệp để cung ứng vật tư và tiêu thụ nông sản cho nông dân. Khuyến khích các hộ ít hoặc không có lao động, không có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp hoặc đã chuyển sang nghề khác có thu nhập ổn định cho các hộ khác thuê lại hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các hộ có nhu cầu tích tụ đất để mở rộng sản xuất lúa hàng hoá, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để đưa máy móc cơ giới vào phục vụ sản xuất, nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Khuyến khích và tư vấn cho các nông hộ đầu tư, xây dựng các trang trại sản xuất nông-ngư nghiệp với nhiều kiểu hình; trong đó chú trọng đến kiểu hình tổng hợp nhằm tận dụng tốt nhất các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội. Có kế hoạch ưu tiên phát triển từng loại cây trồng cụ thể trong từng giai đoạn để có biện pháp điều phối, hỗ trợ kịp thời theo định hướng chuyển đổi, Dành một tỷ lệ ngân sách thích hợp phục vụ cho công tác nghiên cứu áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất. 4.5.2 Khoa học kỹ thuật Tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ là khâu then chốt để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Vì vậy cần phải đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật từ khâu làm đất đến khâu nhân giống, chăm sóc và thu hoạch. Khuyến khích các hộ nông dân sử dụng các giống lúa mới, đưa các giống lúa năng suất cao, chất lượng tốt vào trồng phổ biến trên địa bàn, đồng thời gắn với công nghệ bảo quản sau thu hoạch. Tăng cường đầu tư áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nghiên cứu và xây dựng nhiều mô hình sản xuất mới trên địa bàn theo hướng “đa dạng hoá cây trồng và thời vụ” bằng các cây trồng có giá trị kinh tế cao (khoai tây, lúa chất lượng, đậu tương,..); mô hình lúa - cá - rau cần, trên cơ sở đó lựa chọn các mô hình có hiệu quả cao làm điểm trình diễn về kỹ thuật để tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho nông dân bằng biện pháp trực quan. Mở rộng công tác khuyến nông, khuyến ngư phổ biến rộng rãi các phương pháp bảo vệ thực vật tiên tiến (IPM, ICM), áp dụng rộng rãi công nghệ sinh học vào phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến. 4.5.3 Mở rộng và tìm kiếm thị trường Củng cố mạng lưới thương nghiệp, phát triển chợ nông thôn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia tiêu thụ hàng hoá sản xuất của huyện. Mở rộng liên kết với các tỉnh, địa phương khác để liên kết tiêu thụ sản phẩm của nhau, nhằm tạo thị trường ổn định cho sản phẩm của nông dân trong huyện. Kiểm soát và tạo lập thị trường nông sản nông thôn một cách bình đẳng và ổn định. Hướng nông dân tập trung sản xuất vào những sản phẩm đã có các nhà máy chế biến trong huyện và vùng lân cận. Dự báo và điều tiết cơ cấu diện tích cây trồng theo sự biến động giá cả nông sản. Đầu tư các công nghệ thu hoạch để bảo quản và nâng cao chất lượng nông sản, giảm tiêu hao và thất thoát sau thu hoạch. 4.5.4 Tổ chức chỉ đạo thực hiện Có sự phối hợp chặt chẽ giữa "4 nhà": (1) Nhà nước: UBND huyện tổ chức chỉ đạo quy hoạch thành vùng sản xuất tập trung, có các cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất. Các cơ quan chuyên môn như phòng Nông nghiệp, trạm Khuyến nông, trạm BVTV tổ chức tập huấn kỹ thuật, chỉ đạo nông dân thực hiện sản xuất. (2) Nhà khoa học: Nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật mới về kỹ thuật thâm canh, các giống cây trồng, vật nuôi mới,... (3) Nhà doanh nghiệp: Đầu tư và thu mua nông sản của các hộ nông dân. (4) Nhà nông: Có trách nhiệm nuôi, trồng các loại cây, con theo đúng quy trình kỹ thuật đã được tập huấn. 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 Kết luận 1. Đông Sơn là một huyện đồng bằng có vị trí địa lý thuận lợi trong việc giao lưu hàng hoá và phát triển kinh tế. Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp còn hạn chế như thiếu vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật chưa được ứng dụng nhiều. 2. Thực trạng cơ cấu cây trồng: Cơ cấu cây trồng rất đa dạng, tuy nhiên cây lúa vẫn là cây trồng chiếm ưu thế chủ đạo; tiếp đến là các loại cây rau màu,…năng suất của các cây trồng chưa cao. Các giống lúa lai tuy có năng suất cao, nhưng chất lượng gạo thấp; các giống lúa thuần chất lượng, nông dân tái giá nhiều vụ, nên năng suất thấp, nhiễm sâu bệnh nhiều. Giống Khoai tây chủ yếu là giống VT2 của Trung Quốc củ nhỏ, năng suất thấp. 3. Lựa chọn công thức luân canh: - Trên chân đất cao: Cây mía ăn tươi cho hiệu quả kinh tế khá, cần ổn định diện tích mía này, kết hợp với việc trồng xen các cây đậu xanh, đậu tương, cà pháo ở đầu vụ để đa dạng hoá sản phẩm, cải tạo đất và nâng cao thu nhập trên diện tích canh tác. - Trên chân đất vàn: Nên chọn 6 công thức cho hiệu quả kinh tế cao - Lúa xuân-lúa mùa- ngô đông - Lúa xuân-lúa mùa-Khoai tây - Lúa xuân-lúa mùa-Đậu tương đông - Lúa xuân - Lúa mùa – rau đông - Lúa xuân - Đậu tương - Khoai tây - Rau - Rau - Rau - Trên chân đất trũng: Mở rộng công thức Lúa xuân – Lúa mùa – Rau cần để nâng cao hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích canh tác. 4. Đánh giá kết quả thí nghiệm: - Giống khoai tây Solara của Đức sinh trưởng, phát triển tốt và cho năng suất, hiệu quả kinh tế cao; mắt củ nông nên rất phù hợp với chế biến xuất khẩu. Nên chọn giống Solara với cơ cấu là 70% và giống Diamant là 30% để thay thế toàn bộ giống VT2 hiện nay. - Giống lúa chất lượng BT7, N46 cho hiệu quả kinh tế cao hơn HT1, chất lượng gạo ngon rất phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng hiện nay. Nên chọn giống BT7, N46 với cơ cấu là 35%, HT1 5% để thay thế các giống lúa thuần có chất lượng gạo trung bình và kém như giống KD18, Q5, KC90.. - Trong 13 tổ hợp lúa lai năng suất, chất lượng: có 10 tổ hợp lai cho năng suất, hiệu quả kinh tế cao hơn đối chứng; tuy nhiên chúng tôi đề xuất nên chọn bổ sung thêm vào cơ cấu bộ giống lúa lai 4 tổ hợp lai có triển vọng về năng suất, chất lượng: HYT100, HYT 102, HYT 106, TH7-2, đặc biệt là giống HYT100 chất lượng gao ngon phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và tham gia xuất khẩu. 5. Từ kết quả điều tra kết hợp với kết quả thí nghiệm chúng tôi đề xuất chuyển đổi cơ cấu cây trồng như sau: Tổng diện tích gieo trồng hàng năm là 15.290 ha, gốm: Cơ cấu cây lúa chiếm 75,82% diện tích (trong đó: Lúa lai 40%, lúa thuần chất lượng 40%, lúa thuần khác 20%).Cây Ngô 8,11% diện tích; cây Đậu tương 6,2% diện tích, cây Khoai tây 3,16% diện tích, cây rau màu các loại 6,21% diện tích. 5.2 Kiến nghị 1. Nhà nước cần quy hoạch thành vùng sản xuất tập trung, có các cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất, tổ chức tập huấn và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật cho bà con nông dân. 2. Tập trung đầu tư phát triển các cây trồng hàng hoá thế mạnh mang lại hiệu quả kinh tế cao như: cây lúa chất lượng cao; cây đậu tương, khoai tây, rau các loại,... để phát triển các cây trồng hàng hoá mũi nhọn của huyện. 3. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp, HTXDVNN, tư thương thu mua các sản phẩm nông nghiệp của bà con nông dân, đặc biệt là lúa gạo hàng hoá. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Bill Mollison (1994), đại cương về nông nghiệp bền vững, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên (1995), phát triển hệ thống canh tác, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Cục thống kê Thanh Hoá (2002), khảo sát điều tra thực trạng, đề xuất các nhiệm vụ khoa học - công nghệ và môi trường phục vụ việc xây dựng một số mô hình phát triển Kinh tế - xã hội huyện Cẩm thuỷ đến năm 2005 và những năm tiếp theo, Thanh Hoá. Đài khí tượng thuỷ văn Thanh hoá: Đặc điểm khí tượng thuỷ văn khu vực thành phố Thanh Hoá giai đoạn 1998-2008. Bùi Huy Đáp (1979), cơ sở khoa học của vụ đông, NXB nông nghiệp, Hà Nội. Bùi Huy Đáp (1985), văn minh lúa nước và nghề trồng lúa Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền (1998) nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI, NXB Chính Trị Quốc Gia. Trương Đích (1995), kỹ thuật trồng các giống cây trồng mới năng suất cao, NXB nông nghiệp Hà Nội. Nguyễn Điền (1997) Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn ở các nước châu á và Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội. Hồ Gấm (2003), nghiên cứu góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá tại huyện Dak Mil, tinh Dak lak, luận văn thạc sỹ nông nghiệp, đại học nông nghiệp I - Hà Nội. Trần Đức Hạnh, Đoàn Văn Điếm, Nguyễn Văn Viết (1997), lý thuyết về khai thác hợp lý nguồn tài nguyên khí hậu nông nghiệp, NXB nông nghiệp Hà Nội. Hội khoa học đất Việt Nam (2000), đất Việt Nam, NXB nông nghiệp Hà Nội. Phạm Văn Hiền (1998), nghiên cứu hệ thống canh tác vùng đồng bào dân tộc Êđê trồng cao su trong thời kỳ kiến thiết cơ bản trên cao nguyên Buôn Ma Thuật, luận án tiến sỹ nông nghiệp, Đại học nông nghiệp I - Hà Nội. Nguyễn Văn Hiển (chủ biên) (2000), chọn giống cây trồng, NXB giáo dục Hà Nội. Nguyễn Văn Hoàn (1999), chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá ở huyện Hiệp Hoà tỉnh Bắc Giang, luận văn thạc sỹ kinh tế nông nghiệp, Đại học Nông Nghiệp I - Hà Nội. Vũ Tuyên Hoàng (1995), chọn tạo giống lúa cho các vùng đất khô hạn, ngập úng, chua phèn, NXB nông nghiệp Hà Nội. Võ Minh Kha (1990) nội dung phương pháp và tổ chức xây dựng hệ thống canh tác tiến bộ, NXB nông nghiệp Hà Nội . Nguyễn Văn Lạng (2002) nghiên cứu cơ sở khoa học xác định cơ cấu cây trồng hợp lý tại huyện CưJut, tỉnh Dak Lak, luận văn thạc sỹ nông nghiệp, Đại học Nông Nghiệp I - Hà Nội . Cao Liêm, Phạm Văn Phê, Nguyễn Thị Lan (1995) sinh thái học nông nghiệp và bảo vệ môi trường, NXB nông nghiệp Hà Nội . Vũ Biệt Linh, Nguyễn Ngọc Bình (1995) các hệ thống nông lâm kết hợp ở Việt Nam, NXB nông nghiệp Hà Nội . Trần Đình Long (1997), chọn giống cây trồng, NXB nông nghiệp Hà Nội . Nguyễn Văn Luật (1990), “Hệ thống canh tác”, tạp chí nông nghiệp, NXB nông nghiệp Hà Nội. Lý nhạc, Phùng Đăng Chinh, Dương Hữu Tuyền (1987), canh tác học NXB nông nghiệp Hà Nội . Trần An Phong (1996) cơ sở khoa học bố trí sử dụng đất nông nghiệp vùng đồng bằng sông cửu long, NXB nông nghiệp Hà Nội. Shimpei Murakami (1992) những bài học từ thiên nhiên viện kinh tế sinh thái. Nguyễn Hữu Tề, Đoàn Văn Điếm (1995) một số kết quả nghiên cứu hệ thống cây trồng hợp lý trên đất đồi gò, bạc mầu huyện Sóc Sơn Hà Nội kết quả nghiên cứu hệ thống cây trồng trung du miền núi và đất cạn đồng bằng, NXB nông nghiệp Hà Nội. Phạm Chí Thành (1996) hệ thống nông nghiệp , NXB nông nghiệp Hà Nội. 28.Nguyễn Duy Tính (1995), nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng đồng bằng sông hồng và bắc trung bộ , NXB nông nghiệp Hà Nội . Trần Danh Thìn (2001), vai trò của cây đậu tương cây lạc và một số biện pháp kỹ thuật thâm canh ở một số tỉnh trung du miền núi phía bắc luận án tiến sỹ nông nghiệp Đại học Nông Nghiệp I - Hà Nội . Đào Châu Thu (2004) hệ thống nông nghiệp (bài giảng cao học nông nghiệp), NXB nông nghiệp Hà Nội . Lê Minh Toán (1998) nghiên cứu chuyển dổi hệ thống cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá ở huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định luận văn thạc sỹ nông nghiệp, Đại học Nông Nghiệp I - Hà Nội . Tổng cục du lịch Việt Nam định hướng quy hoạch phát triển ngành du lịch Việt Nam đến năm 2010. Trường đại học kinh tế Quốc Dân (1996) phân tích chính sách nông nghiệp nông thôn, NXB nông nghiệp Hà Nội . Đào Thế Tuấn (1984) cơ sở khoa học để xác định cơ cấu cây trồng hợp lý, NXB nông nghiệp Hà Nội . Đào Thế Tuấn (1997) Kinh tế hộ nông dân, NXB chính trị Quốc Gia, Hà Nội . Tào Quốc Tuấn (1994) xác định ccơ cấu cây trồng hợp lýý vùng phù sa ngọt ven và giữa sông tiền, sông hậu đồng bằng sông cửu long, luận án phó tiến sỹ nông nghiệp . Phòng lao động thương binh và xã hội huyện Đông Sơn. Báo cáo tổng kết năm 2008. Phòng nông nghiệp huyện Đông Sơn. Báo cáo tổng kết từ năm 2004-2008. Phòng Thống kê huyện Đông Sơn. Niên giám thống kê huyện Đông Sơn các năm 2004 - 2008. UBND huyện Đông Sơn: Báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế - xã hội huyện Đông Sơn các năm 2004-2008. UBND huyện Đông Sơn: Báo cáo quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2005-2015 và đinh hướng 2020 (2005). UBND huyện Đông Sơn: Chương trình phát triển kinh tế - xã hội trọng tâm giai đoạn 2005-2015 UBND huyện Đông Sơn: Báo cáo quy hoach phát triển Nông nghiệp Đông Sơn đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Đông Sơn (1997) . Viện nghiên cứu cao su Việt Nam (2000) “nghiên cứu đề xuất mô hình canh tác cao su tiểu điền ở Việt Nam ” báo cáo tổng kết đề tài cấp tổng công ty , giai đoạn 1997 - 2000. Lê Duy Thước (1991). “Về khí hậu đất đai và vấn đề bố trí cây trồng ở miền Bắc Việt Nam”. Tạp chí Tổ quốc. (số 297). tr. 17. Nguyễn Vy, Phan Bùi Tân, Phạm Văn Ba (1996), cây vừng có vị trí mới, có giá trị mới, kỹ thuật trồng , NXB nông nghiệp Hà Nội . Bùi Thị Xô (1994), “ Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý trên các vùng đất nông nghiệp ở ngoại thành Hà Nội ”, tap chí khoa học công nghệ và quản lý kinh tế . Y Ghi Niê (2001), nghiên cứu một số giải pháp góp phần phát triển chăn nuôi bền vững tại huyện Ea Kar, tỉnh Dak Lak, luân văn thạc sỹ nông nghiệp, Đại học Nông Nghiệp I - Hà Nội . Tiếng Anh Champer, Robert, Paccy, Amold (1989), Farmer inovation and Agricultural Research Intermediate Technology, Publications LonDon. Bui Huy Hien. Nguyen Trong Thi (2001). Rice based cropping system in Red River Delta and Mekong River Delta. 2001 IFA Regional Conference for Asia and Pacific. Hanoi. Vietnam. 10 - 13 December 2000. pp. 1 - 24. FAO (1992),“ Land evaluation and farming systems analysis for land Uses planning”, workshop Documents, FAO - ROMA. Zandstra H.G., F.C.Price, J.L.Litsinger (1981), A Meteorology for farm cropping sýystem research, IRRI. PHỤ LỤC Phụ lục 1: Kết quả phân tích phương sai 1. Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm trồng một số giống lúa chất lượng BALANCED ANOVA FOR VARIATE NS FILE LUA THOM 17/ 5/ 9 14:53 --------------------------------------------------------------- :PAGE 1 Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm các giống lúa chất lượng VARIATE V003 NS LN SOURCE OF VARIATION DF SUMS OF MEAN F RATIO PROB ER SQUARES SQUARES LN ========================================================================= 1 NL 8 23.7673 2.97091 0.91 0.532 3 2 CT$ 2 591.242 295.621 90.64 0.000 3 * RESIDUAL 16 52.1852 3.26157 ------------------------------------------------------------------------- * TOTAL (CORRECTED) 26 667.195 25.6613 ------------------------------------------------------------------------- TABLE OF MEANS FOR FACTORIAL EFFECTS FILE LUA THOM 17/ 5/ 9 14:53 --------------------------------------------------------------- :PAGE 2 Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm các giống lúa chất lượng MEANS FOR EFFECT NL ------------------------------------------------------------------------- NL NOS NS 1 3 54.8500 2 3 54.4533 3 3 53.9133 4 3 55.6333 5 3 54.0467 6 3 53.7367 7 3 56.0000 8 3 52.9467 9 3 55.3600 SE(N= 3) 1.04268 5%LSD 16DF 3.12599 ------------------------------------------------------------------------ MEANS FOR EFFECT CT$ ------------------------------------------------------------------------- CT$ NOS NS BT7 9 48.1600 N46 9 59.2378 HT1 9 56.2489 SE(N= 9) 0.601994 5%LSD 16DF 1.80479 ------------------------------------------------------------------------- ANALYSIS OF VARIANCE SUMMARY TABLE FILE LUA THOM 17/ 5/ 9 14:53 --------------------------------------------------------------- :PAGE 3 Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm các giống lúa chất lượng F-PROBABLIITY VALUES FOR EACH EFFECT IN THE MODEL. SECTION - 1 VARIATE GRAND MEAN STANDARD DEVIATION C OF V |NL |CT$ | (N= 27) -------------------- SD/MEAN | | | NO. BASED ON BASED ON % | | | OBS. TOTAL SS RESID SS | | | NS 27 54.549 5.0657 1.8060 3.3 0.5322 0.0000 2. Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm một số giống khoai tây BALANCED ANOVA FOR VARIATE NS FILE IRQUYEN 2/ 5/ 9 15: 4 --------------------------------------------------------------- :PAGE 1 Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm giống khoai tây VARIATE V003 NS LN SOURCE OF VARIATION DF SUMS OF MEAN F RATIO PROB ER SQUARES SQUARES LN ========================================================================= 1 CT$ 2 42.2763 21.1381 15.27 0.015 3 2 NL 2 .976155 .488078 0.35 0.724 3 * RESIDUAL 4 5.53631 1.38408 ------------------------------------------------------------------------- * TOTAL (CORRECTED) 8 48.7888 6.09859 ------------------------------------------------------------------------- TABLE OF MEANS FOR FACTORIAL EFFECTS FILE IRQUYEN 2/ 5/ 9 15: 4 --------------------------------------------------------------- :PAGE 2 Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm giống khoai tây MEANS FOR EFFECT CT$ ------------------------------------------------------------------------- CT$ NOS NS Solara 3 15.3133 Diamant 3 14.7500 VT2 3 10.4600 SE(N= 3) 0.679234 5%LSD 4DF 2.66245 ------------------------------------------------------------------------- MEANS FOR EFFECT NL ------------------------------------------------------------------------- NL NOS NS 1 3 13.5033 2 3 13.9133 3 3 13.1067 SE(N= 3) 0.679234 5%LSD 4DF 2.66245 ------------------------------------------------------------------------- ANALYSIS OF VARIANCE SUMMARY TABLE FILE IRQUYEN 2/ 5/ 9 15: 4 --------------------------------------------------------------- :PAGE 3 Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm giống khoai tây F-PROBABLIITY VALUES FOR EACH EFFECT IN THE MODEL. SECTION - 1 VARIATE GRAND MEAN STANDARD DEVIATION C OF V |CT$ |NL | (N= 9) -------------------- SD/MEAN | | | NO. BASED ON BASED ON % | | | OBS. TOTAL SS RESID SS | | | NS 9 13.508 2.4695 1.1765 8.7 0.0154 0.7243 3. Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm trồng một số giống lúa lai BALANCED ANOVA FOR VARIATE NS FILE LUA LAI 10/ 6/ 9 5:24 --------------------------------------------------------------- :PAGE 1 Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm các giống lúa lai VARIATE V003 NS LN SOURCE OF VARIATION DF SUMS OF MEAN F RATIO PROB ER SQUARES SQUARES LN ========================================================================= 1 CT$ 12 1651.77 137.648 14.78 0.000 3 2 NL 2 59.3067 29.6534 3.18 0.058 3 * RESIDUAL 24 223.574 9.31557 ------------------------------------------------------------------------- * TOTAL (CORRECTED) 38 1934.65 50.9120 ------------------------------------------------------------------------- TABLE OF MEANS FOR FACTORIAL EFFECTS FILE LUA LAI 10/ 6/ 9 5:24 --------------------------------------------------------------- :PAGE 2 Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm các giống lúa lai MEANS FOR EFFECT CT$ ------------------------------------------------------------------------- CT$ NOS NS 1 3 56.5333 2 3 77.3333 3 3 60.2667 4 3 67.1333 5 3 69.2000 6 3 64.2667 7 3 74.4000 8 3 67.4667 9 3 69.8667 10 3 59.2000 11 3 75.7333 12 3 70.9333 13 3 59.2000 SE(N= 3) 1.76215 5%LSD 24DF 5.14324 ------------------------------------------------------------------------- MEANS FOR EFFECT NL ------------------------------------------------------------------------- NL NOS NS 1 13 65.5846 2 13 68.6000 3 13 66.9385 SE(N= 13) 0.846512 5%LSD 24DF 2.47073 ------------------------------------------------------------------------- ANALYSIS OF VARIANCE SUMMARY TABLE FILE LUA LAI 10/ 6/ 9 5:24 --------------------------------------------------------------- :PAGE 3 Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm các giống lúa lai F-PROBABLIITY VALUES FOR EACH EFFECT IN THE MODEL. SECTION - 1 VARIATE GRAND MEAN STANDARD DEVIATION C OF V |CT$ |NL | (N= 39) -------------------- SD/MEAN | | | NO. BASED ON BASED ON % | | | OBS. TOTAL SS RESID SS | | | NS 39 67.041 7.1353 3.0521 4.6 0.0000 0.0582 Phụ lục 2: Hiệu quả kinh tế trên 1 ha của một số loại cây trồng chính (Tính giá năm 2008) TT Cây trồng Thời vụ Tổng thu Chi phí vật chất Thu nhập (tr,đ) Năng suất (tạ) Đơn giá (1000đ) Thành tiền (tr,đ) Làm đất (1000đ) Giống Phân chuồng Ure Supe lân KCl Thuốc BVTV (tr,đ) Tổng (tr,đ) SL (kg) ĐG (1000đ) TT (tr,đ) SL (tạ) ĐG (1000đ) TT (tr,đ) SL (tạ) ĐG (1000đ) TT (tr,đ) SL (tạ) ĐG (1000đ) TT (tr,đ) SL (tạ) ĐG (1000đ) TT (tr,đ) 1 Lúa Xuân 61,9 400 24,76 1,6 80 16 1,28 80 15 1,2 2,4 700 1,680 5 340 1,70 1,6 16 2,56 0,6 10,62 14,14 Mùa 57 400 22,80 1,6 60 14 0,84 80 15 1,2 2,0 800 1,60 5 340 1,70 1,4 16 2,24 0,7 9,88 12,92 2 Ngô Đông 39,5 400 15,80 1,2 15 45 0,675 90 15 1,35 2,4 700 1,680 5 340 1,70 1,2 16 1,92 0,6 9,13 6,67 3 Lạc Xuân 20,0 1000 20,00 1,2 220 18 3,96 80 15 1,2 1,2 700 0,840 6 340 2,04 1,6 16 2,56 0,6 12,4 7,60 4 Đậu tương Hè 18 800 14,40 1,2 60 14 0,84 60 15 0,9 0,6 800 0,48 5 340 1,70 0,6 16 0,96 0,6 6,68 7,72 Đông 14,5 800 11,60 1,2 60 14 0,84 60 15 0,9 0,7 700 0,49 5 340 1,70 0,6 16 0,96 0,6 6,68 4,98 5 Khoai tây Đông 115 200 23,00 1,2 850 3,2 2,72 80 15 1,2 2,4 700 1,680 5 340 1,70 2,4 16 3,84 0,6 12,94 10,06 6 Khoai lang Xuân 97 100 9,70 1,2 200 4 0,80 60 15 0,9 1,2 700 0,84 3 340 1,02 1,2 16 1,92 0,2 6,88 2,82 Đông 97 100 9,70 1,2 200 4 0,80 60 15 0,9 1,2 700 0,84 3 340 1,02 1,2 16 1,92 0,2 6,88 2,82 7 Rau Xuân 120 300 36,00 1,2 3 1500 4,5 80 15 1,2 2,4 700 1,680 4 340 1,36 2,0 16 3,20 0,7 13,84 22,16 Hè 120 300 36,00 1,2 3 1500 4,5 80 15 1,2 2,4 800 1,680 4 340 1,36 2,0 16 3,20 0,7 14,08 21,92 Đông 120 350 42,00 1,2 3 1500 4,5 80 15 1,6 2,4 700 1,680 4 340 1,36 2,0 16 3.20 0,7 13,84 28,16 8 Mía Xuân 830 500 41,50 1,2 1500 1,5 2,4 80 15 1,2 3,0 700 2,10 6 3400 2,04 2,4 16 3,84 0,4 13,03 28,47 Phụ lục 2: PHIẾU ĐIỀU TRA NÔNG HỘ Họ tên chủ hộ: ...................................................... Giới tính: Nam £; Nữ £ Độ tuổi: …………………...…Dân tộc: ……………………………………… Địa chỉ của hộ: ........................................................................................ Xóm (thôn): …………….....Xã: …………Huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá I THÔNG TIN CHUNG VỀ HỘ 1. Tổng số nhân khẩu trong hộ: ………………………….. người. Số lao động chính trong hộ: ……………………… người. Gia đình thuộc diện nào theo đánh giá của địa phương? Giàu £; Khá £; Trung bình £; Nghèo £; Đói £ 2. Tổng thu nhập bình quân hàng năm của hộ: ………..………triệu đồng Trong đó: Thu từ nông nghiệp: ……………..….triệu đồng Thu từ phi nông nghiệp: …………….triệu đồng II. RUỘNG ĐẤT - Thành phần cơ giới của đất: Thịt nặng £; Thịt trung bình £; Thịt nhẹ £ - Chân đất canh tác: Cao £; Trung bình £; Trũng (thấp) £ III. CHI PHÍ ĐẦU TƯ VÀ THU NHẬP TỪ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA HỘ TT HẠNG MỤC Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Vụ xuân Vụ mùa Vụ đông Vụ xuân Vụ mùa Vụ đông Vụ xuân Vụ mùa Vụ đông 1 Tên cây trồng 2 Giống cây trồng 3 Ngày tháng gieo 4 Ngày tháng thu hoạch 5 Diện tích (m2) 6 Năng suất (kg/sào) 7 Sản phẩm chính (kg) 8 Sản phẩm phụ (kg) CHI PHÍ VẬT CHẤT 9 Giống (kg /sào) 10 Phân chuồng (nghìn đồng/sào) 11 Phân đạm (nghìn đồng) 12 Phân lân (nghìn đồng) 13 Phân Kali (nghìn đồng) 14 Phân NPK (nghìn đồng) 15 Phân bón qua lá (nghìn đồng) 16 Vôi bột (nghìn đồng) 17 Thuốc trừ sâu, bệnh (nghìn đồng) 18 Nhiên liệu (nghìn đồng) CHI PHÍ LAO ĐỘNG 19 Làm đất (công) 20 Gieo cấy (công) 21 Chăm sóc (công) 22 Thu hoạch (công) Công khác (công) CHI PHÍ SẢN XUẤT 24 Tổng khoản phải nộp (nghìn đồng) 25 Thủy lợi phí (nghìn đồng) CHI PHÍ KHÁC NHẬN XÉT CHUNG ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Ngày..........tháng........năm..............điều tra Người phỏng vấn Chủ hộ điều tra Phụ lục 4: Một số hình ảnh minh hoạ: Hình ảnh gieo mạ thử nghiệm so sánh 13 giống lúa lai Thí nghiệm thử nghiệm so sánh 13 giống lúa lai vụ xuân 2008 Giống lúa lai 3 dòng HYT 100 thử nghiệm ở vụ xuân 2008 Thử nghiệm giống lúa Bắc thơm số 7 ở vụ mùa năm 2008 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHTT09033.doc