Bộ giáo dục và đào tạo
trường đại học nông nghiệp hà nội
------------------
hoàng thị phương
Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng để góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân huyện hiệp hoà - tỉnh bắc giang
Luận văn thạc sĩ nông nghiệp
Chuyên ngành: trồng trọt
Mã số: 60.62.01
Người hướng dẫn khoa học: pgs.ts. trần đức viên
Hà Nội, 2008
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị n
126 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2392 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng để góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Hoàng Thị Phương
Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần Đức Viên, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài, cũng như trong quá trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo Khoa Sau Đại học; Khoa Nông học, đặc biệt là các thầy cô trong Bộ môn Hệ thống nông nghiệp (Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội); Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Phòng Nông Nghiệp, phòng Thống kê, Phòng Tài nguyên Môi trường, Trạm Khuyến nông huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang; UBND các xã, thị trấn và bà con nông dân huyện Hiệp Hoà (tỉnh Bắc Giang); các bạn bè, đồng nghiệp, gia đình và người thân đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài và hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Tác giả
Hoàng Thị Phương
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
GTSX CN : Giá trị sản xuất công nghiệp
GTSX TM-DV : Giá trị sản xuất thương mại - dịch vụ
GTSX : Giá trị sản xuất
GTSXNN : Giá trị sản xuất nông nghiệp
HQ : Hiệu quả
HQKT : Hiệu quả kinh tế
HQLĐ : Hiệu quả lao động
T.tr : Tăng trưởng
CPVC : Chi phí vật chất
Tr.đ : Triệu đồng
kg : kilogam
ha : hécta
NXB : Nhà xuất bản
Danh mục các bảng
4.1 Thời tiết khí hậu huyện Hiệp Hoà trung bình từ năm 1997 - 2007 46
4.2 Phân loại thổ nhưỡng của huyện Hiệp Hoà 48
4.3 Hiện trạng sử dụng đất năm 2006 49
4.4 Động thái tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2003-2007 51
4.5 Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất và tỷ trọng của các ngành nông nghiệp huyện Hiệp Hoà thời kỳ 2003-2007 52
4.6 Diện tích các loại cây trồng hàng năm của huyện Hiệp Hoà giai đoạn 2003-2007 54
4.7 Phát triển chăn nuôi huyện Hiệp Hoà giai đoạn 2003-2006 55
4.8 Cơ cấu cây trồng vụ xuân năm 2007 64
4.9 Cơ cấu cây trồng vụ mùa năm 2007 66
4.10 Cơ cấu cây trồng vụ đông năm 2007 68
4.11 Cơ cấu các công thức luân canh trên đất trũng 71
4.12 Các công thức luân canh và thời vụ của các cây trồng trong công thức luân canh 71
4.13 Hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh trên đất trũng 71
4.14 Cơ cấu diện tích và năng suất của các công thức luân canh trên đất vàn 72
4.15 Thời vụ của các công thức luân canh trên đất vàn 73
4.16 Hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh trên đất vàn 74
4.17 Cơ cấu diện tích và hiệu quả kinh tế của các cây trồng hàng năm trên đất cao 76
4.18 Một số đặc điểm của 3 giống khoai tây trong thí nghiệm 77
4.19 Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của 3 giống khoai tây 79
4.20 Hiệu quả kinh tế của một số cây trồng vụ đông năm 2007 80
4.21 Hiệu quả của cây khoai tây Sorala so với một số cây trồng cùng thời vụ 81
4.22 Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống lúa 83
4.23 Hiệu quả kinh tế, hiệu quả lao động và hiệu quả 1 đồng vốn của các giống lúa 84
4.24 Một số đặc điểm hình thái của các giống lạc 86
4.25 Một số đặc điểm sinh trưởng của các giống lạc 87
4.26 Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống lạc 88
4.27 Hiệu quả kinh tế của các giống lạc 90
4.28 Chuyển đổi cơ cấu công thức luân canh trên đất trũng 93
4.29 Giá trị thu nhập của cơ cấu công thức luân canh mới trên đất trũng 94
4.30 Chuyển đổi cơ cấu luân canh trên chân đất vàn 95
4.31 Diện tích, năng suất, sản lượng gieo trồng của cơ cấu cây trồng mới 96
4.32 Cơ cấu giống mới 97
5.1 Cơ cấu cây trồng mới được đề xuất Error! Bookmark not defined.
Danh mục các hình
4.1 Bản đồ hành chính huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang 45
4.2 Diễn biến một số yếu tố khí hậu từ năm 1997 - 2007 ở huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang 47
4.3 Cơ cấu sử dụng đất huyện Hiệp Hoà năm 2006 50
4.4 Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2003-2007 52
4.5 Tốc độ tăng trưởng GTSXNN huyện Hiệp Hoà giai đoạn 2003-2007 53
4.6 Diện tích trung bình các loại cây trồng hàng năm của huyện Hiệp Hoà giai đoạn 2003-2007 55
4.7 Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế 58
4.8 Cơ cấu cây trồng vụ xuân của huyện Hiệp Hoà năm 2007 66
4.9 Cơ cấu cây trồng vụ mùa của huyện Hiệp Hoà năm 2007 67
4.10 Cơ cấu cây trồng vụ đông của huyện Hiệp Hoà năm 2007 70
1. Đặt vấn đề
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Hiệp Hoà là một huyện nông nghiệp thuộc vùng trung du Bắc Bộ, nằm ở phía Tây nam tỉnh Bắc Giang; phía Bắc giáp huyện Phú Bình (Thái Nguyên), phía Đông giáp huyện Tân Yên và Việt Yên (Bắc Giang), phía Nam giáp huyện Yên Phong (Bắc Ninh), phía Tây giáp huyện Sóc Sơn (Hà Nội) và huyện Phổ Yên (Thái Nguyên).
Nằm cách Hà Nội khoảng gần 60km theo đường quốc lộ 1A và 40km theo hướng cầu Vát, phần lớn các xã trong huyện đều có trục đường giao thông, các tuyến quốc lộ chạy qua (1 tuyến quốc lộ, 3 tuyến tỉnh lộ). Ngoài ra huyện còn có tuyến giao thông đường thuỷ sông Cầu bao quanh khu vực phía Tây và phía Nam, tạo cho huyện thông thương với các trung tâm kinh tế lớn ở đồng bằng Bắc bộ và các tỉnh miền núi phía Bắc.
Diện tích đất tự nhiên của Hiệp Hoà là 20.100,5 ha (diện tích đất nông nghiệp là 12.347 ha chiếm 61,43% tổng diện tích đất tự nhiên), dân số 219.229 người. Huyện Hiệp Hoà có địa hình đặc trưng là đồi thấp, xen kẽ các đồng bằng lượn sóng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Đất đai của huyện phần lớn có độ dốc dưới 80. Khí hậu huyện Hiệp Hoà ôn hoà, ít chịu ảnh hưởng của gió bão. Khí hậu và đất đai ở đây thuận lợi cho phát triển các cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, một số cây ăn quả nhiệt đới như vải thiều, nhãn, na, bưởi…
Hệ thống sông Cầu đóng vai trò quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp của huyện, cung cấp phần lớn lượng nước tưới tiêu cho cây trồng trong huyện.
Cây trồng và hệ thống cây trồng trong huyện tương đối đa dạng, phong phú từ các loại cây ăn quả lâu năm như: vải, nhãn, sấu, trám, bưởi, na… cho đến các loại cây trồng hàng năm như: lạc, đậu tương, ngô, cà chua, khoai tây, các loại rau, … và lúa nước vẫn là cây trồng chủ yếu. Mặc dù được sự quan tâm đầu tư của các cấp các ngành, có hệ thống khuyến nông phát triển đến tận thôn, xóm … thế nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính tự cung tự cấp, năng suất và chất lượng đều chưa tương xứng với tiềm năng của huyện.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp, góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân trong huyện cần phải có sự thay đổi trong cơ cấu cây trồng, xác định trồng cây gì, nuôi con gì để có hiệu quả kinh tế cao, quy hoạch thành vùng để sản xuất theo hướng chuyên môn hoá cao, và sản phẩm mang tính hàng hoá.
Xuất phát từ những lý do trên, được sự đồng ý của Bộ môn Hệ thống nông nghiệp và dưới sự hướng dẫn của PGS,TS Trần Đức Viên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:“Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng để góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang”.
1.2 Mục đích, yêu cầu
1.2.1 Mục đích
Thông qua việc phân tích các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội và thực trạng hệ thống cây trồng nhằm tìm ra những lợi thế, những tồn tại để đề xuất cơ cấu cây trồng hợp lý theo hướng sản xuất hàng hoá của huyện Hiệp Hoà tỉnh Bắc Giang.
1.2.2 Yêu cầu
- Đánh giá được thực trạng sản xuất nông nghiệp và cơ cấu cây trồng của huyện Hiệp Hoà (về năng suất, sản lượng, hiệu quả kinh tế, lao động...); những lợi thế, hạn chế trên quan điểm sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
- Xác định hệ thống cây trồng nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao, sản phẩm nông nghiệp dễ tiêu thụ, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Hiệp Hoà
- Đề xuất một số mô hình mới nhằm nâng cao thu nhập cho người dân trong huyện.
1.3 ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1 ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung phương pháp luận về hệ thống nông nghiệp, cơ cấu cây trồng, hiệu quả kinh tế... theo quan điểm phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
- Định hướng cho xây dựng mô hình luân canh cây trồng theo hướng hàng hóa phù hợp với điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội của huyện Hiệp Hoà.
1.3.2 ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của người dân trong huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang.
1.4 Giới hạn của đề tài
Đề tài mới tập trung nghiên cứu cơ cấu cây trồng hàng năm hiện có trong hệ thống nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Hoà, chú trọng đến phát triển các cây trồng có giá trị kinh tế cao.
2.cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1 Cơ sở khoa học
2.1.1 Khái niệm về hệ thống cây trồng
Theo Zandstra và ctv, (1981)[67], HTCT là hoạt động sản xuất cây trồng trong nông trại bao gồm tất cả các hợp phần cần có để sản xuất một tổ hợp các cây trồng và mối quan hệ giữa chúng với môi trường. Các hợp phần này bao gồm tất cả các yếu tố vật lý, sinh học, kỹ thuật, lao động và quản lý.
Hệ thống nông nghiệp
Hệ thống chế biến
Hệ thống trồng trọt
Hệ thống chăn nuôi
đầu đầu
vào ra
Môi trường, điều kiện, tự nhiên, kinh tế xã hội
Hệ thống cây trồng
cây trồng
Công thức luân canh
Năng suất, chất lượng, giá cả
(Nguồn: Zandstras, 1981)
Sơ đồ 1: Các thành phần của hệ thống nông nghiệp
Theo Đào Thế Tuấn, (1984)[41], HTCT là thành phần các giống và loài cây được bố trí trong không gian và thời gian của hệ sinh thái nông nghiệp nhằm tận dụng hợp lý nhất các nguồn lợi tự nhiên, kinh tế, xã hội. Theo tác giả, cơ cấu cây trồng (CCCT) là nội dung chính của hệ thống cây trồng. Bố trí cây trồng hợp lý là biện pháp kỹ thuật tổng hợp nhằm sắp xếp lại hoạt động của hệ sinh thái. Một CCCT hợp lý chỉ khi nó lợi dụng tốt nhất các điều kiện khí hậu và né tránh thiên tai, lợi dụng các đặc tính sinh học của cây trồng, tránh sâu bệnh, cỏ dại, đảm bảo sản lượng cao và tỷ lệ hàng hoá lớn, đảm bảo phát triển tốt chăn nuôi và các ngành kinh tế hỗ trợ, sử dụng hợp lý lao động, vật tư, phương tiện.
Theo Zandstra và ctv, (1981)[67], HTCT là các hình thức đa canh bao gồm: trồng xen, trồng gối, trồng luân canh, trồng thành băng, canh tác phối hợp, vườn hỗn hợp, Công thức luân canh là tổ hợp trong không gian và thời gian của các cây trồng trên một mảnh đất và các biện pháp canh tác dùng để sản xuất chúng.
Theo Nguyễn Duy Tính, (1995)[47], HTCT là một thể thống nhất trong mối quan hệ tương tác giữa các loài cây trồng, giống cây trồng được bố trí hợp lý trong không gian và thời gian.
Do đặc tính sinh học của cây trồng và môi trường luôn biến đổi nên HTCT mang đặc tính động. Vì vậy nghiên cứu HTCT không thể dừng lại ở một không gian và thời gian rồi kết thúc mà là việc làm thường xuyên để tìm ra xu thế phát triển, yếu tố hạn chế và những giải pháp khắc phục để chuyển đổi HTCT nhằm mục đích khai thác ngày càng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, tăng hiệu quả kinh tế - xã hội phục vụ cuộc sống con người (Đào Thế Tuấn, 1984)[41].
Các nghiên cứu trong việc hoàn thiện hệ thống canh tác, hệ thống cây trồng cần dùng phương pháp phân tích hệ thống để tìm ra điểm hẹp hay chỗ thắt lại của hệ thống. Đó là chỗ có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của hệ thống cần được tác động sửa chữa, khai thông để hệ thống hoàn thiện hơn, có hiệu quả kinh tế cao hơn (Đào Châu Thu, 2004)[55].
Hoàn thiện hệ thống hoặc phát triển HTCT mới, trên thực tế là sự tổ hợp lại các công thức luân canh, tổ hợp lại các thành phần cây trồng và giống cây trồng, đảm bảo các thành phần trong hệ thống có mối quan hệ tương tác với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, nhằm khai thác tốt nhất lợi thế về điều kiện đất đai, tạo cho hệ thống có sức sản xuất cao, bảo vệ môi trường sinh thái (Lê Duy Thước, 1991)[52].
Nghiên cứu để xây dựng một hệ thống mới đòi hỏi một trình độ cao hơn, trong đó cần có sự tính toán cân đối kỹ càng, tổ chức sắp xếp sao cho mỗi bộ phận của hệ thống dự kiến nằm đúng vị trí trong mối quan hệ tương tác của các phần tử trong hệ thống, có thứ tự ưu tiên để đạt được mục tiêu của hệ thống một cách tốt nhất (Đào Châu Thu, 2004)[55].
Để có kế hoạch sản xuất của một vùng hay một đơn vị sản xuất, việc đầu tiên phải đề cập đến là loại cây, diện tích, loại giống, loại đất, số vụ trong năm, để cuối cùng có một tổng sản lượng cao nhất trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định có trước (Phùng Đăng Chinh, Lý Nhạc, 1987)[27].
2.1.2 Khái niệm về cơ cấu cây trồng.
Cơ cấu cây trồng là thành phần các giống và loài cây trồng có trong một vùng ở một thời điểm nhất định, nó liên quan tới cơ cấu cây trồng nông nghiệp, nó phản ánh sự phân công lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi vùng, nhằm cung cấp được nhiều nhất những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người (Đào Thế Tuấn,1984) [41]; (Cao Liêm, Trần Đức Viên, 1990) [22].
Cơ cấu cây trồng là một trong những nội dung quan trọng của một hệ thống biện pháp kỹ thuật gọi là chế độ canh tác. Ngoài cơ cấu cây trồng, chế độ canh tác bao gồm chế độ luân canh, làm đất, bón phân, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại. Cơ cấu cây trồng là yếu tố cơ bản nhất của chế độ canh tác, vì chính nó quyết định nội dung của các biện pháp khác (Đào Thế Tuấn, 1984) [42].
Cơ cấu cây trồng còn là thành phần của một nội dung rộng hơn gọi là cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp như trên bao gồm nhiều ngành sản xuất như trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản (Đào Thế Tuấn, 1978) [40].
Xác định cơ cấu cây trồng còn là nội dung phân vùng sản xuất nông nghiệp. Muốn làm công tác phân vùng sản xuất nông nghiệp, trước hết phải xác định cơ cấu cây trồng hợp lý nhất đối với mỗi vùng. Đây là một công việc không thể thiếu được nếu chúng ta xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn (Đào Thế Tuấn, 1962) [46].
2.1.2.1 Khái niệm về cơ cấu cây trồng hợp lý
Cơ cấu cây trồng hợp lý là sự định hình về mặt tổ chức cây trồng trên đồng ruộng về số lượng, tỷ lệ, chủng loại, vị trí và thời điểm, có tính chất xác định lẫn nhau, nhằm tạo ra sự cộng hưởng các mối quan hệ hữu cơ giữa các loại cây trồng với nhau để khai thác và sử dụng một cách tiết kiệm và hợp lý nhất các nguồn tài nguyên cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội (Đào Thế Tuấn, 1978) [40].
Theo Đào Thế Tuấn (1989) [43], Lý Nhạc, Phùng Đăng Chinh và CTV (1987) [27], cơ cấu cây trồng hợp lý là cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng. Cơ cấu cây trồng hợp lý còn thể hiện tính hiệu quả của mối quan hệ giữa cây trồng được bố trí trên đồng ruộng, làm cho sản xuất ngành trồng trọt phát triển toàn diện, mạnh mẽ vững chắc theo hướng sản xuất thâm canh gắn với đa canh, sản xuất hàng hoá và có hiệu quả kinh tế cao. Cơ cấu cây trồng là một thực tế khách quan, nó được hình thành từ điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội cụ thể và vận động theo thời gian.
Cơ cấu cây trồng hợp lý còn biểu hiện là việc phát triển hệ thống cây trồng mới trên cơ sở cải biến hệ thống cây trồng cũ hoặc phát triển hệ thống cây trồng mới, trên cơ sở tổ hợp lại các công thức luân canh, tổ hợp lại các thành phần cây trồng và giống cây trồng, đảm bảo các thành phần trong hệ thống có mối quan hệ tương tác với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, nhằm khai thác tốt nhất lợi thế về điều kiện đất đai, tạo cho hệ thống có sức sản xuất cao, bảo vệ môi trường sinh thái (Lê Duy Thước, 1991) [52].
Dựa trên quan điểm sinh học Đào Thế Tuấn (1978) [40] cho rằng, bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý là chọn một cấu trúc cây trồng trong hệ sinh thái nhân tạo, làm thế nào để đạt năng suất sơ cấp cao nhất. Về mặt kinh tế, cơ cấu cây trồng hợp lý cần thỏa mãn yêu cầu chuyên canh và tỷ lệ sản phẩm hàng hóa cao, bảo đảm việc hỗ trợ cho ngành sản xuất chính và phát triển chăn nuôi, tận dụng nguồn lợi tự nhiên, ngoài ra còn phải đảm bảo việc đầu tư lao động và vật tư kỹ thuật có hiệu quả kinh tế cao.
Xác định cơ cấu cây trồng hợp lý ngoài việc giải quyết tốt mối liên hệ giữa cây trồng với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, cần phải dựa trên phương hướng sản xuất của vùng. Phương hướng sản xuất quyết định cơ cấu cây trồng, nhưng cơ cấu cây trồng lại là cơ sở hợp lý cho các nhà hoạch định chính sách xác định phương hướng sản xuất (Phạm Chí Thành và ctv, 1996) [49], (Đào Thế Tuấn,1984) [41], [42].
2.1.2.2 Khái niệm về chuyển đổi cơ cấu cây trồng
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng là sự thay đổi theo tỷ lệ % của diện tích gieo trồng, nhóm cây trồng, của cây trồng trong nhóm hoặc trong tổng thể và nó chịu sự tác động, thay đổi của yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội. Quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng là quá trình thực hiện bước chuyển từ hiện trạng cơ cấu cây trồng cũ sang cơ cấu cây trồng mới (Đào Thế Tuấn,1978) [40 ].
Nguyễn Duy Tính (1995) [47] cho rằng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng là cải tiến hiện trạng cơ cấu cây trồng có trước sang cơ cấu cây trồng mới nhằm đáp ứng những yêu cầu của sản xuất. Thực chất của chuyển đổi cơ cấu cây trồng là thực hiện hàng loạt các biện pháp (kinh tế, kỹ thuật, chính sách xã hội) nhằm thúc đẩy cơ cấu cây trồng phát triển, đáp ứng những mục tiêu của xã hội. Cải tiến cơ cấu cây trồng là rất quan trọng trong điều kiện mà ở đó kinh tế thị trường có nhiều tác động ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng chính là phá vỡ thế độc canh trong trồng trọt nói riêng và trong nông nghiệp nói chung, để hình thành một cơ cấu cây trồng mới phù hợp và có hiệu quả kinh tế cao, dựa vào đặc tính sinh học của từng loại cây trồng và điều kiện cụ thể của từng vùng (Lê Duy Thước, 1997) [53].
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải được bắt đầu bằng việc phân tích hệ thống canh tác truyền thống. Chính từ kết quả đánh giá phân tích đặc điểm của cây trồng tại khu vực nghiên cứu mới tìm ra các hạn chế và lợi thế, so sánh để đề xuất cơ cấu cây trồng hợp lý. Khi thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phải căn cứ vào yêu cầu thị trường.
- Phải khai thác hiệu quả các tiềm năng về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi vùng.
- Bố trí cơ cấu cây trồng phải biết lợi dụng triệt để những đặc tính sinh học của mỗi loại cây trồng, để bố trí cây trồng phù hợp với các điều kiện ngoại cảnh, nhằm giảm tối đa sự phá hoại của dịch bệnh và các điều kiện thiên tai khắc nghiệt gây ra.
- Chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải tính đến sự phát triển của khoa học kỹ thuật và việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
- Về mặt kinh tế, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải đảm bảo có hiệu quả kinh tế, sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao.
Nghiên cứu cải tiến cơ cấu cây trồng là tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản bằng cách áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào hệ thống cây trồng hiện tại hoặc đưa ra những hệ thống cây trồng mới. Hướng vào các hợp phần tự nhiên, sinh học, kỹ thuật, lao động, quản lý, thị trường, để phát triển cơ cấu cây trồng trong những điều kiện mới nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất (Lê Minh Toán, 1998) [39].
Nghiên cứu cải tiến cơ cấu cơ cấu cây trồng phải đánh giá thực trạng, xác định cơ cấu cây trồng phù hợp với thực tế phát triển cả về định lượng và định tính, dự báo được mô hình sản xuất trong tương lai; phải kế thừa những cơ cấu cây trồng truyền thống và xuất phát từ yêu cầu thực tế, hướng tới tương lai để kết hợp các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội (Lê Trọng Cúc và ctv, 1995) [3], (Trương Đích, 1995) [13].
Nghiên cứu cơ cấu cây trồng là một trong những biện pháp kinh tế kỹ thuật nhằm mục đích sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, nâng cao năng suất cây trồng và chất lượng sản phẩm, (Nguyễn Duy Tính, 1995) [47].
2.1.2.3 Vai trò của cơ cấu cây trồng hợp lý và chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá
Những năm 60 - 70 của thế kỷ XX, Đào Thế Tuấn cùng các CTV ở Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu về cơ cấu cây trồng vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và đã đưa ra nhận định về những yêu cầu cần đạt được của một cơ cấu cây trồng thích hợp là phải:
Khai thác tốt nhất các điều kiện khí hậu và tránh hoặc giảm được những tác hại của thiên tai đối với cây trồng.
Khai thác tốt nhất các điều kiện đất đai, bảo vệ và bồi dưỡng độ phì của đất.
Khai thác tốt nhất các đặc tính sinh học của cây trồng (khả năng cho năng suất cao, phẩm chất tốt, ngắn ngày, thích ứng rộng, khả năng chống chịu cao) nhằm đạt được hiệu quả sản xuất cao nhất.
Tránh được tác hại của sâu bệnh, cỏ dại và các tác nhân sinh học khác với phương pháp sử dụng ít nhất các biện pháp hoá học.
Đảm bảo tỷ lệ sản phẩm hàng hoá cao, đảm bảo hiệu quả kinh tế cao.
Đảm bảo hỗ trợ cho các ngành sản xuất chính và phát triển chăn nuôi, tận dụng các nguồn lợi thiên nhiên (Đào Thế Tuấn, 1989) [43].
Cơ cấu cây trồng hợp lý có vai trò quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nhằm tăng năng suất cây trồng, tăng giá trị hàng hoá, tăng thu nhập của người dân bản địa. Do vậy, xác định cơ cấu cây trồng phải dựa trên cơ sở:
Các yếu tố khí hậu như chế độ nhiệt, chế độ mưa, bão ...
Các yếu tố đất đai như thành phần cơ giới, thành phần hóa học và đặc điểm địa hình của đất
Yếu tố cây trồng, bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý là chọn loại cây trồng tận dụng được tốt nhất các điều kiện khí hậu, đất đai và tài nguyên khác.
Bố trí cơ cấu cây trồng là xây dựng một hệ sinh thái nhân tạo. Mối quan hệ giữa các sinh vật và cây trồng trong cộng sinh, ký sinh. Vì vậy, cải tiến cơ cấu cây trồng tạo nên những quan hệ tỷ lệ mới phù hợp nhất, có hiệu quả, phát triển bền vững hệ sinh thái (Phạm Chí Thành, Trần Đức Viên, 2000) [50].
Như vậy, nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng có ý nghĩa rất quan trọng để xây dựng một nền nông nghiệp đa dạng, tạo nhiều nông sản hàng hoá cũng như các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng là giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn.
2.1.3 Những yếu tố chi phối sự lựa chọn cơ cấu cây trồng
* Khí hậu và cơ cấu cây trồng: Có thể nói trong các yếu tố ngoại cảnh thì yếu tố khí hậu có tác động mạnh mẽ nhất đến cây trồng và cơ cấu cây trồng, đặc biệt là yếu tố nhiệt độ và độ ẩm.
- Nhiệt độ và cơ cấu cây trồng: Từng loại cây trồng, bộ phận của cây (rễ, thân, hoa, lá…), các quá trình sinh lý của cây (quang hợp, hút nước, hút khoáng…) sẽ phát triển tốt ở nhiệt độ thích hợp và chỉ an toàn ở một nhiệt độ nhất định. Viện sĩ Nông nghiệp Đào thế Tuấn đã nêu ra: cần phân biệt cây ưa nóng và cây ưa lạnh và cần nắm được tình hình nhiệt độ các tháng trong năm; thời gian nóng bố trí cây ưa nóng, thời gian lạnh bố trí cây ưa lạnh. Phân loại cây trồng theo yêu cầu nhiệt độ có thể lấy mốc 20oC để phân biệt cây ưa nóng và cây ưa lạnh. Cây ưa nóng là những cây sinh trưởng tốt và ra hoa, kết quả tốt ở nhiệt độ trên 20oC như các cây lúa, lạc, mía…, cây ưa lạnh là những cây sinh trưởng tốt và ra hoa, kết quả tốt ở nhiệt độ dưới 20oC như khoai tây, su hào, bắp cải…những cây trung gian là những cây sinh trưởng, ra hoa và kết quả tốt ở nhiệt độ xung quanh 20oC (Lý Nhạc và ctv, 1987) [27].
Để hoàn thành chu kỳ sinh trưởng, mỗi cây trồng cần đạt được tổng tích ôn nhất định. Tổng tích ôn này phụ thuộc vào thời gian sinh trưởng và yêu cầu nhiệt độ cao hay thấp của mỗi cây.
- Lượng mưa, ẩm độ không khí và cơ cấu cây trồng: Nước cần cho sự sinh trưởng, phát triển của cây, nước mưa cung cấp phần lớn lượng nước mà cây yêu cầu, đặc biệt là ở những vùng không có hệ thống thuỷ lợi, nước mưa ảnh hưởng đến các quá trình canh tác như làm đất, thu hoạch. Vì vậy, khi xác định cơ cấu cây trồng phải chú ý đến lượng nước mưa (Trần Đức Hạnh và ctv, 1997) [15]
Cần nắm được lượng nước cây cần cho một chu kỳ sinh trưởng, đồng thời khả năng cung cấp nước hàng năm và lượng nước cung cấp hàng tháng của mưa để bố trí cơ cấu cây trồng. Tuy nhiên để bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý cần nắm được tình hình diễn biến ẩm độ trong năm, vì ẩm độ không khí có ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển và năng suất cây trồng.
- ánh sáng và cơ cấu cây trồng: ánh sáng cung cấp năng lượng cho quá trình tổng hợp chất hữu cơ của cây, ánh sáng là yếu tố biến động ảnh hưởng đến năng suất. Cần phân biệt cây trồng theo yêu cầu về cường độ chiếu sáng và khả năng cung cấp ánh sáng từng thời gian trong năm để bố trí cơ cấu cây trồng cho phù hợp.
Căn cứ vào diễn biến của các yếu tố khí hậu trong năm hoặc trong một thời kỳ, đồng thời căn cứ vào yêu cầu về nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa, ánh sáng của từng loại cây trồng để bố trí cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng thích hợp nhằm né tránh được các điều kiện bất thuận, phát huy được tiềm năng năng suất của cây (Trần Đức Hạnh và ctv, 1997) [15]
*Đất đai và cơ cấu cây trồng
Đất đai là nguồn lợi tự nhiên cung cấp năng lượng và vật chất cho cây trồng và con người, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp. Đất và khí hậu hợp thành phức hệ tác động vào cây trồng. Do vậy cần phải nắm được đặc điểm mối quan hệ giữa cây trồng với đất thì mới xác định được cơ cấu cây trồng hợp lý.
Về mặt cơ cấu cây trồng người ta đề cập đến tính thích ứng và tính biến động năng suất của cây trồng. Các tính thích ứng quyết định khả năng sống của cây trồng đối với các mức (độ mặn, độ chua, ngập nước hay ẩm…). Khi cây đã có đủ điều kiện thích ứng thì năng suất được quyết định bởi chế độ nước và hàm lượng chất dinh dưỡng trong đất.
Tuỳ thuộc vào địa hình, thành phần cơ giới, chế độ nước, tính chất lý hoá tính của đất để bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý.
* Cây trồng và cơ cấu cây trồng
Giống cây trồng là một nhóm cây trồng có đặc điểm kinh tế, sinh học và các tính trạng hình thái giống nhau, cho năng suất cao, chất lượng tốt ở các vùng sinh thái khác nhau và điều kiện kỹ thuật phù hợp. Vì vậy, giống cây trồng phải mang tính khu vực hoá, tính di truyền đồng nhất và không ngừng thoả mãn nhu cầu của con người (Nguyễn Văn Hiển, 2000) [17]
Cây trồng là thành phần chủ yếu của các hệ sinh thái nông nghiệp. Nội dung của việc bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý là chọn loại cây trồng nào để lợi dụng được tốt nhất các điều kiện về khí hậu và đất đai. Mặt khác, cây trồng là những nguồn lợi tự nhiên sống, nhiệm vụ của nông nghiệp là phải sử dụng nguồn lợi tự nhiên ấy một cách tốt nhất, nghĩa là dành cho chúng các điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp nhất.
Muốn bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý chúng ta cần phải nắm vững yêu cầu của các loài và giống cây trồng đối với các điều kiện khí hậu, đất đai và khả năng của chúng sử dụng các điều kiện ấy ( Lý Nhạc, Phùng Đăng Chinh và ctv (1987) [27] .
* Quần thể sinh vật và cơ cấu cây trồng
Xây dựng cơ cấu cây trồng là xây dựng hệ sinh thái nhân tạo, ngoài thành phần sống chủ yếu là cây trồng, còn có các thành phần khác như cỏ dại, sâu, bệnh, các vi sinh vật, các động vật… các thành phần sống này cùng với cây trồng tạo nên một quần thể sinh vật, chúng chi phối sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng.
Theo các tác giả Lý Nhạc, Phùng Đăng Chinh (1987) [27] thì khi bố trí cơ cấu cây trồng cần chú ý đến các mối quan hệ theo nguyên tắc:
- Lợi dụng mối quan hệ tốt giữa các sinh vật với cây trồng.
- Khắc phục, phòng tránh hoặc tiêu diệt mầm mống tác hại đối với cây trồng do các vi sinh vật gây nên.
Trong quần thể cây trồng, quần thể chủ đạo của cơ cấu cây trồng có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Mật độ của quần thể do con người quy định trước từ lúc gieo trồng.
- Sự sinh sản, tử vong và phát tán không xảy ra một cách tự phát mà chịu sự điều khiển của con người.
- Sự phân bố không gian tương đối đồng đều vì do con người điều khiển.
- Độ tuổi của quần thể cũng đồng đều vì có sự tác động của con người.
Trong cơ cấu cây trồng cũng xảy ra sự cạnh tranh cùng loài hoặc khác loài. Khi gieo trồng một loại cây trồng thì vấn đề cạnh tranh cùng loài rất quan trọng. Cần xác định mật độ gieo trồng và các biện pháp điều chỉnh quần thể để giảm sự cạnh tranh trong loài. Sự cạnh tranh khác loài cũng xảy ra khi ta trồng xen hoặc giữa cây trồng với cỏ dại. Vì vậy khi xác định cơ cấu cây trồng cần chú ý các vấn đề sau:
- Xác định thành phần cây trồng và giống cây trồng thích hợp với điều kiện cụ thể của cơ sở sản xuất.
- Bố trí cây trồng theo thời vụ tốt cũng tránh tác hại của cỏ dại, sâu, bệnh, Dịch sâu bệnh hại phát triển theo lứa và theo mùa, tác hại của chúng xảy ra nghiêm trọng trong thời kỳ sinh trưởng, phát triển nhất định của cây trồng. Do vậy xác định thời vụ tốt cũng có khả năng né tránh được tác hại của sâu bệnh.
* Hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng
Sau khi xác định cơ cấu cây trồng cần tính toán hiệu quả kinh tế. Cơ cấu cây trồng mới cần phải đạt hiệu quả kinh tế cao hơn cơ cấu cây trồng cũ. Để đạt hiệu quả kinh tế cao thì các loại cây trồng trong cơ cấu cây trồng đều phải đạt năng suất cao.
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là phải sản xuất đa dạng, ngoài cây trồng chủ yếu, cần bố trí cây trồng bổ sung để tận dụng điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng và của cơ sở sản xuất. Về mặt kinh tế cơ cấu cây trồng cần phải đạt được các yêu cầu sau đây:
- Bảo đảm yêu cầu chuyên canh và tỷ lệ sản phẩm hàng hoá cao.
- Đảm bảo việc hỗ trợ cho ngành sản xuất chính và phát triển chăn nuôi, tận dụng các nguồn lợi tự nhiên.
- Đảm bảo việc đầu tư lao động và vật tư kỹ thuật có hiệu quả kinh tế cao.
- Đảm bảo giá trị sử dụng và giá trị cao hơn cơ cấu cây trồng cũ.
Việc đánh giá hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng có thể dựa vào một số chỉ tiêu năng suất, giá thành, thu nhập (giá trị bán sản phẩm sau khi đã trừ đi chi phí đầu tư) và mức lãi (% của thu nhập so với đầu tư). Khi đánh giá trị kinh tế của cơ cấu cây trồng cần dựa vào năng suất bình quân của cây trồng và giá cả thu mua của thị trường. Tuy nhiên, cũng cần chú ý đến những điều kiện ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm như khí hậu, thời tiết, vị trí địa lý và các điều kiện xã hội khác (Lý Nhạc, Phùng Đăng Chinh và ctv, 1987) [27]
* Nông hộ và cơ cấu cây trồng
Theo Viện sĩ Đào Thế Tuấn (1997) [45] nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ và đã góp phần to lớn vào sự phát triển sản xuất nông nghiệp của nước ta trong những năm qua. Tất cả những hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn chủ yếu được thực hiện thông qua nông hộ. Do vậy, quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng thực chất là sự cải tiến sản xuất nông nghiệp ở các hộ nông dân. Do đó nông dân là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp và phát triển nông thôn._..
Kinh tế nông hộ là kinh tế của hộ nông nghiệp sống ở nông thôn, bao gồm cả thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Hộ nông dân là các hộ gia đình có tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất nông nghiệp, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia hoạt động trong thị trường với một trình độ ít hoàn chỉnh. Hộ nông dân có những đặc điểm cơ bản sau:
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng.
- Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của hộ từ tự cấp hoàn toàn đến sản xuất hàng hoá hoàn toàn. Trình độ này quyết định đến quan hệ giữa nông hộ với thị trường.
- Các hộ nông dân ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp với mức độ khác nhau, nên khó giới hạn được thế nào là một hộ nông dân thuần tuý. Vì vậy, hộ nông dân tái sản xuất giản đơn nhờ vào ruộng đất thông qua cải tiến cơ cấu cây trồng, nhờ đó mà tái sản xuất mở rộng trong nông nghiệp, phục vụ lợi ích chung của xã hội nên cần thiết phải có chính sách xã hội đầu tư thích hợp. Hộ nông dân không phải là một hình thái sản xuất đồng nhất mà là tập hợp các kiểu nông hộ khác nhau, có mục đích và cơ chế hoạt động khác nhau. Căn cứ vào mục đích và cơ chế hoạt động của nông hộ để phân biệt các kiểu hộ nông dân khác nhau.
- Kiểu nông hộ hoàn toàn tự cấp: ở kiểu hộ này, người nông dân ít có phản ứng với thị trường, nhất là thị trường lao động và vật tư.
- Kiểu nông hộ chủ yếu tự cấp, có trao đổi một phần nông sản lấy hàng tiêu dùng, có phản ứng ít nhiều với giá cả (chủ yếu giá vật tư).
- Kiểu nông hộ bán phần lớn sản phẩm nông sản, có phản ứng nhiều với thị trường.
- Kiểu nông hộ hoàn toàn sản xuất hàng hoá, có mục đích thu lợi nhuận.
Mục tiêu sản xuất của các hộ quyết định sự lựa chọn sản phẩm kinh doanh, cơ cấu cây trồng, quyết định mức đầu tư, phản ứng với giá cả vật tư, lao động và sản phẩm của thị trường.
Cũng theo Viện sĩ Đào Thế Tuấn, quá trình phát triển của các hộ nông dân trải qua các giai đoạn từ thu nhập thấp đến thu nhập cao.
- Giai đoạn nông nghiệp tự cấp: Nông dân trồng một cây hay một vài cây lương thực chủ yếu, ít đầu tư thâm canh, năng suất thấp, gặp nhiều rủi ro.
- Giai đoạn kinh doanh tổng hợp và đa dạng: Khi mới chuyển sang sản xuất hàng hoá, nông dân bắt đầu sản xuất những loại cây trồng phục vụ cho nhu cầu của thị trường, thị trường cần loại nông sản gì thì sản xuất cây trồng đó; sản xuất đa canh nên giảm bớt rủi ro.
Tóm lại, hộ nông dân chuyển từ sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ ở các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ, điều kiện kinh tế - xã hội và các chính sách của Nhà nước hỗ trợ, thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay, để áp dụng thành công một tiến bộ kỹ thuật mới hay một phương thức canh tác mới… vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và giá trị thu nhập/đơn vị diện tích canh tác thì cần phải có chính sách đầu tư, hỗ trợ, trợ giá của Nhà nước.
* Chính sách và cơ cấu cây trồng
Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng một cách có căn cứ khoa học, phù hợp với nhu cầu của thực tiễn và xu thế phát triển của xã hội cần có chính sách về khoa học - công nghệ để thông qua nghiên cứu, nhằm thiết lập ngay trên đồng ruộng của người nông dân những mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng có hiệu quả; đồng thời chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật cho nông dân nhằm nhân rộng mô hình. Bên cạnh đó cũng cần có những cơ chế chính sách về tài chính để hỗ trợ cho người nông khi mới bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cũng như chính sách khen thưởng để khuyến khích những hộ, địa phương chuyển đổi cơ cấu cây trồng thành công, có hiệu quả.
Quá trình phát triển kinh tế sẽ dẫn đến mức độ phân hoá giàu nghèo ngày cành mạnh, có sự chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị, để hạn chế tình trạng này cần thiết phải phát triển công nghiệp nông thôn, thâm canh, tăng vụ để sản xuất hàng hoá. Đa dạng cây trồng để đa dạng hoá các sản phẩm nông nghiệp là quá trình chủ yếu để cải tiến cơ cấu cây trồng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường nông sản ngày càng tăng.
Quá trình đa dạng hoá cây trồng là do sự phát triển của kinh tế hộ quyết định và còn tuỳ thuộc vào từng vùng, nhưng vấn đề khó khăn về vốn đầu tư cho sản xuất là yếu tố quyết định cơ bản. Các hộ nghèo kinh doanh rất đa dạng, chỉ khi họ giàu lên mới tập trung vào một số ngành nghề nhất định. Như vậy, chuyên môn hoá chỉ có thể xảy ra khi trình độ sản xuất hàng hoá đã phát triển đến mức cao (Đào Thế Tuấn, 1997) [45]
Một khó khăn khác làm cho nông dân ngần ngại không dám đầu tư vào sản xuất và chuyển đổi cơ cấu cây trồng là thiếu thị trường tiêu thụ nông sản. Do đó, để tìm kiếm, mở rộng thị trường, Nhà nước cần có chính sách để tạo môi trường lành mạnh, sòng phẳng trong phát triển thị trường và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, mạng lưới điện và thông tin…
Sự phân hoá của nông hộ và trình độ sản xuất chênh lệch của các kiểu nông hộ ảnh hưởng rất lớn đến cải tiến cơ cấu cây trồng. Các kiểu nông hộ khác nhau có trình độ tiếp thu và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật ở mức độ khác nhau. Trình độ là yếu tố quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng của các nông hộ trong giai đoạn đầu của sản xuất nông nghiệp hàng hoá, khi kỹ thuật áp dụng chưa phải cần nhiều vốn thì việc đa dạng hoá sản xuất là một xu thế cần thiết cho sự phát triển.
* Thị trường và cơ cấu cây trồng
Theo Robert S. Pindyck, Daniel L. Rubingeld (Kinh tế học vĩ mô, NXB Thống kê, Hà Nội, 1999) (dẫn Hồ Gấm, 2003) [14] thì thị trường là tập hợp những người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau dẫn đến khả năng trao đổi. Thị trường là trung tâm của các hoạt động kinh tế.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường có nhiều người mua và người bán, không có một cá nhân nào có ảnh hưởng đáng kể đến người mua và người bán. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo thường phổ biến một giá duy nhất là giá thị trường. Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là những người bán khác nhau có thể đặt giá khác nhau cho cùng một loại sản phẩm, khi đó giá thị trường được hiểu là giá bình quân phổ biến.
Thị trường là động lực thúc đẩy cải tiến cơ cấu cây trồng hợp lý. Theo cơ chế thị trường thì cơ cấu cây trồng phải làm rõ được các vấn đề: trồng cây gì, đối tượng phục vụ là ai. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường có tác động định hướng cho người sản xuất nên trồng cây gì, với số lượng chi phí như thế nào để đáp ứng được nhu cầu của xã hội và thu được kết quả cao. Thông qua thị trường, người sản xuất điều chỉnh quy mô sản xuất, cải tiến cơ cấu cây trồng, thay đổi giống cây trồng, cơ cấu mùa vụ cho phù hợp với thị trường.
Thị trường có tác dụng điều chỉnh cơ cấu cây trồng, chuyển dịch theo hướng ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Cải tiến cơ cấu cây trồng chính là điều kiện, là yêu cầu để mở rộng thị trường. Khu vực nông thôn là thị trường cung cấp nông sản hàng hoá cho toàn xã hội và là thị trường tiêu thụ sản phẩm của ngành công nghiệp, cung cấp nông sản cho ngành dịch vụ và đó cũng là nơi cung cấp lao động cho các ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, thị trường và sự cải tiến cơ cấu cây trồng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị trường là động lực thúc đẩy cải tiến cơ cấu cây trồng, song nó có mặt hạn chế là nếu để cho phát triển một cách tự phát sẽ dẫn đến sự mất cân đối ở một giai đoạn, một thời điểm nào đó. Chính vì vậy cần có những chính sách của Nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của thị trường.
Kinh tế hàng hoá là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm sản xuất ra dùng để mua bán, trao đổi trên thị trường, giá trị của sản phẩm hàng hoá phải thông qua thị trường và được thị trường chấp nhận (dẫn theo Hồ Gấm, 2003) [14].
2.1.4 Các phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu
Hệ thống là một vấn đề được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu hệ thống được đề cập đến từ rất sớm, một số phương pháp nghiên cứu phổ biến như phương pháp mô hình hoá, phương pháp chuyên khảo, phương pháp phân tích kinh tế…Sau đây là một số quan điểm, phương pháp của các nhà khoa học khi nghiên cứu về hệ thống.
Champer (1989) [63] đã đề xuất hướng nghiên cứu bắt đầu từ nông dân theo mô hình “nông dân trở lại nông dân”. Điểm xuất phát vấn đề bắt đầu từ sự lựa chọn của nông dân, nông dân trực tiếp tham gia thực hiện công tác nghiên cứu cùng với nhà khoa học và phổ biến, chuyển giao kiến thức, kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất cho nông dân khác trong vùng. Một số cách trong hướng nghiên cứu này là nghiên cứu có định hướng tới nông dân nghèo; coi trọng kiến thức của nông dân nghèo; đặt người nông dân vào việc kiểm tra và có vai trò đảo ngược tình thế.
FAO (1992) [64] đưa ra phương pháp phát triển hệ thống canh tác và cho đây là một phương pháp tiếp cận nhằm phát triển các hệ thống nông nghiệp và cộng đồng nông thôn trên cơ sở bền vững, việc nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngành trồng trọt phải được bắt đầu từ phân tích hệ thống canh tác truyền thống.
Những nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác của FAO là một nỗ lực nhằm bổ sung và hoàn thiện cho các tiếp cận đơn lẻ. Xuất phát điểm của hệ thống canh tác là nhìn nhận cả nông trại như một hệ thống; phân tích toàn bộ hạn chế và tiềm năng; xác định các nghiên cứu thích hợp theo thứ tự ưu tiên và những thay đổi cần thiết được thể chế vào chính sách; thử nghiệm trên thực tế đồng ruộng, hoặc mô phỏng các hiệu ứng của nó bằng các mô hình hoá trong trường hợp chính sách thay đổi. Sau đó tiến hành phân tích, đánh giá hiệu quả hiện tại trên quy mô toàn nông trại và đề xuất hướng cải tiến phát triển của nông trại trong thời gian tới.
Tác giả Phạm Chí Thành và cộng sự (1996) [49] đã giới thiệu các phương pháp mô tả hệ thống nông nghiệp theo các bước sau:
Mô tả nhanh điểm nghiên cứu, bao gồm phương pháp không dùng phiếu điều tra và phương pháp có dùng phiếu điều tra.
Phương pháp thu thập thông tin từ nông dân am hiểu công việc (KIP).
Phương pháp thu thập, phân tích và đánh giá thông tin (SWOT).
Thu thập thông tin, xác định, chuẩn đoán những hạn chế, trở ngại (phương pháp ABC và phương pháp WEB).
Xây dựng bản đồ mặt cắt trong mô tả hệ sinh thái nông nghiệp và mô tả hoạt động sản xuất nông hộ.
Khảo sát và chuẩn đoán (những nguyên lý và thực hành).
Sau khi thu thập thông tin, phải tiến hành xử lý, phân tích số liệu và trình bày kết quả các cuộc điều tra, khảo sát.
Phạm Chí Thành (1996) [49] và Mai Văn Quyền (1996) [37] đã có đúc kết các phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu cơ cấu cây trồng bao gồm:
- Tiếp cận từ dưới lên trên (bottom - up) là dùng phương pháp quan sát phân tích tìm điểm ách tắc của hệ thống để xác định phương pháp can thiệp thích hợp và có hiệu quả. Trước đây, thường dùng phương pháp tiếp cận từ trên xuống, phương pháp này tỏ ra không hiệu quả vì nhà nghiên cứu không thấy được hết các điều kiện của nông dân, do đó giải pháp đề xuất thường không phù hợp và được thay thế bằng phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của nông dân (PRA).
- Tiếp cận hệ thống (System approach): đây là phương pháp nghiên cứu dùng để xét các vấn đề trên quan điểm hệ thống, nó giúp cho sự hiểu biết và giải thích các mối quan hệ tương tác giữa các sự vật và hiện tượng.
- Tiếp cận theo quá trình phát triển lịch sử từ thấp lên cao: phương pháp này coi trọng phân tích động thái của sự phát triển cơ cấu cây trồng trong lịch sử. Vì qua đó, sẽ xác định được sự phát triển của hệ thống trong tương lai, đồng thời giúp cho việc giải quyết các trở ngại phù hợp với hướng phát triển đó.
Năm 1981, Zandstra H.G và cộng sự [67] đã đề xuất một phương pháp nghiên cứu cơ cấu cây trồng trên nông trại. Các tác giả đã chỉ rõ: sản lượng hàng năm trên một đơn vị diện tích đất có thể tăng lên bằng cách cải thiện năng suất cây trồng hoặc trồng tăng thêm các cây trồng khác trong năm. Nghiên cứu cơ cấu cây trồng là tìm kiếm những giải pháp để tăng sản lượng bằng cả hai cách.
Phương pháp nghiên cứu cơ cấu cây trồng này về sau được Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) và các chương trình nghiên cứu về cơ cấu cây trồng quốc gia trong mạng lưới Hệ thống Cây trồng Châu á (Asian Cropping System Network - ACSN) sử dụng và phát triển (Bùi Huy Hiền và ctv, 2001) [65]. Quá trình nghiên cứu liên quan đến một loạt các hoạt động trong nông trại. Tổ chức thực hiện theo các bước sau:
(i) Chọn điểm: địa điểm nghiên cứu là một hoặc vài loại đất. Tiêu chí để chọn điểm nghiên cứu là có tiềm năng năng suất, đại diện cho vùng rộng lớn, nông dân sẵn sàng hợp tác. Sẽ rất thuận lợi nếu chọn điểm nghiên cứu được Chính phủ ưu tiên vì chương trình sản xuất sau này sẽ thực hiện dễ dàng hơn.
(ii) Mô tả điểm: điểm nghiên cứu sau khi chọn sẽ được mô tả về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, hiện trạng cơ cấu cây trồng cần phải được đánh giá.
(iii) Thiết kế cơ cấu cây trồng: các mô hình cây trồng được thiết kế trên những đặc điểm của điểm nghiên cứu, nhằm đạt được sản lượng, lợi nhuận cao, ổn định và bảo vệ môi trường sinh thái.
(iv) Thử nghiệm cây trồng mới: cơ cấu cây trồng được thử nghiệm trên ruộng nông dân, nhằm xác định khả năng thích nghi và ổn định của chúng. Chỉ tiêu theo dõi gồm năng suất nông học, hiệu quả sử dụng đất, yêu cầu về tài nguyên (lao động, vật tư và hiệu quả kinh tế).
(v) Đánh giá sản xuất thử: những mô hình cây trồng có năng suất và hiệu quả được xác định dựa trên kết quả thử nghiệm, sau đó được đưa vào sản xuất thử nhằm đánh giá khả năng thích nghi trên diện rộng của mô hình triển vọng trước khi xây dựng những chương trình sản xuất ở qui mô lớn hơn.
(vi) Chương trình sản xuất: sau khi xác định những cơ cấu cây trồng thích hợp nhất và những biện pháp kỹ thuật liên hoàn kèm theo, các tổ chức khuyến nông với sự giúp đỡ của chính quyền, xây dựng chương trình quảng bá, thực hiện chương trình sản xuất.
Mạng lưới hệ thống cây trồng Châu á (ACSN) khi đưa ra hướng dẫn quá trình thiết kế và thử nghiệm Hệ thống Cây trồng cũng chỉ rằng "Nghiên cứu hệ thống cây trồng cải tiến cho một vùng bao gồm cả thâm canh, thay thế cây trồng năng suất thấp và đưa vào những kỹ thuật thâm canh cải tiến. ở những nơi kỹ thuật thâm canh còn hạn chế hoặc chưa có sẵn, các nhà nghiên cứu hệ thống cây trồng sẽ thực hiện các thử nghiệm đơn giản trên ruộng nông dân "International Rice Reseach Institute", (1984) [66].
2.1.5 Phát triển nông nghiệp hàng hoá và xây dựng nền kinh tế mở.
Đây là một quan điểm mang tính định hướng, quan điểm này dựa trên nền tảng của cơ chế thị trường. Nói đến thị trường là nói đến cung, cầu, giá cả các loại hàng hoá và dịch vụ. Bất cứ một nền sản xuất nào cũng tập trung giải quyết 3 vấn đề chủ yếu là sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như thế nào? Bàn về câu hỏi thứ nhất, thứ 2 trong nền kinh tế thị trường là không phải sản xuất tự cung tự cấp cho bản thân và gia đình người sản xuất. Chính vì vậy đây là nền kinh tế mở, nền kinh tế hướng ngoại, hướng tới thị trường trong nước và quốc tế, không phải sản xuất cái mà ta có mà sản xuất cái mà thị trường cần.
Phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá cũng dựa trên cơ sở xuất phát điểm và môi trường kinh tế – xã hội hiện nay ở nước ta. Trong một quá trình dài nền kinh tế nông thôn chủ yếu là sản xuất tự cung tự cấp và tập trung sản xuất lương thực với bất kỳ giá nào. Từ khi thực hiện cải cách kinh tế, nhiều chủ trương chính sách mới ra đời đã góp phần giải phóng sức sản xuất. Từ những năm 1990 trở lại đây trong nông nghiệp và nông thôn đã giành được một số kết quả nổi bật. Trước hết đó là đưa nước ra ta từ một nước nhập khẩu lương thực sang một nước đủ lương thực ăn, dự trữ và xuất khẩu đứng thư 2 thế giới chỉ sau Thái Lan.
Nhà nước đã tạo một môi trường thể chế thích hợp cho sự lựa chọn sản xuất, khuyến khích sản xuất hàng hoá, tạo hành lang và môi trường kinh tế thông thoáng và tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng, cho vay vốn sản xuất... giúp người sản xuất và các doanh nghiệp hoạt động một cách có hiệu quả.
Tuy nhiên muốn sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận với tư cách là sản phẩm hàng hoá, người sản xuất phải tìm hiểu thị trường, hiểu biết nhu cầu cả về số lượng, chất lượng, mẫu mã, hình thức và phải chào hàng, giới thiệu quảng cáo tiếp thị để sản phẩm của mình tiếp cận được với thị trường , đến được với người tiêu dùng.
Thị trường là mặt cầu, còn về mặt cung sản xuất phải dựa trên những tiềm năng, nguồn lực trong nông nghiệp. Phải biết khai thác lợi thế so sánh để biến các tiềm năng đó thành hiện thực. Nghiên cứu cung, cầu là giải quyết mối quan hệ giữa khai thác tiềm năng sẵn có để thoả mãn nhu cầu của thị trường dựa trên cơ sở lợi thế so sánh của mình.
Thực hiện đa dạng hoá cây trồng, khắc phục những mặt còn hạn chế, khó khăn của điều kiện tự nhiên, lựa chọn và xây dựng phát triển sản phẩm đặc sản, hàng hoá của từng vùng, nâng cao quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến tạo thành vùng có nông sản thực phẩm hàng hoá tập trung trọng điểm.
Phát triển công nghệ thông tin, thị trường, nghiên cứu khoa học kỹ thuật, mở rộng quan hệ quốc tế, liên kết sản xuất kinh doanh, khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến, phát huy lợi thế về lực lượng lao động, xây dựng một nền nông nghiệp vững mạnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động hội nhập quốc tế, phục vụ xuất khẩu.
Mặt khác, phát huy đặc điểm lợi thế của từng vùng, xây dựng một số mô hình nông nghiệp mới đa năng với sự tham gia hỗ trợ gắn kết của các ngành kinh tế khác như: du lịch sinh thái, thương mại, dịch vụ, vui chơi, giải trí...
Khuyến khích và bảo hộ phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác xã, định hướng và hỗ trợ kinh tế trang trại phát triển, đề cao tính chuyên môn hoá, tính chuyên nghiệp, thực hiện liên kết sản xuất kinh doanh giữa các trang trại, xây dựng các hiệp hội câu lạc bộ trang trại. Đồng thời, nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng đa dạng mô hình hợp tác xã mới hoạt động phù hợp với nền kinh tế thị trường. Mặt khác khuyến khích các công ty sản xuất kinh doanh, chế biến tiêu thụ nông sản thực phẩm ký hợp đồng kinh tế nông hộ. Xây dựng và hoàn thiện mối liên kết giữa bốn nhà: nhà khoa học, nhà quản lý, nhà doanh nghiệp và nhà nông trong phát triển kinh tế nông nghiệp.
Xây dựng nền kinh tế mở còn có nghĩa nền kinh tế năng động chứa đựng nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia hoạt động, tác động qua lại lẫn nhau, cạnh tranh và thúc đẩy nhau phát triển (Lê Đình Thắng 1998) [51]
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp; đời sống, các hoạt động kinh tế - xã hội, thậm chí cả nền văn minh từ xa xưa đã gắn với trồng trọt, chăn nuôi. Vì vậy, có thể nói rằng những nghiên cứu về cơ cấu cây trồng và hệ thống nông nghiệp ở nước ta gắn liền với lịch sử hình thành, đấu tranh và bảo vệ tổ quốc.
Lịch sử đã ghi lại, từ thời Hùng Vương dân ta đã di chuyển từ vùng gò đồi xuống vùng đồng bằng, ven biển để khai hoang xây dựng đồng ruộng sản xuất nông nghiệp và hình thành nên các thôn, bản. Trong cuốn “Vân đài loại ngữ”, tác giả Lê Quý Đôn - một học giả nổi tiếng của Việt Nam đã ghi chép nhiều về giống lúa tẻ, lúa nếp mà dân ta thường gieo cấy từ thời tiền Lê (980 - 1005) (Bùi Huy Đáp, 1985) [11]
Thời Nam bắc phân tranh (1533 - 1788) và tiếp sau là thời các vua triều Nguyễn (1802 - 1945) có những bậc “thần hoàng” nổi tiến như Nguyễn Lộ, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Công Trứ đã đưa dân đi khai khẩn đất đai ở các vùng đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long, xây dựng các công trình thuỷ lợi tưới tiêu và cải tạo đất, lựa chọn hệ thống cây trồng, bố trí mùa vụ sản xuất, quy hoạch sử dụng đất lâu bền.
Dưới thời thuộc Pháp (1867 - 1945), nhiều giống cây trồng mới đã được tuyển chọn trong nước hoặc du nhập từ nước ngoài vào sản xuất trong nước ở các đồn điền như cà phê, cam, quýt, chè…, đặc biệt là cao su; cây cao su đã được trồng với quy mô rộng lớn và được mở rộng ra đến tận Thanh Hoá. Tuy nhiên, dù thời nào đi nữa thì ở nước ta cây lúa nước vẫn là cây trồng chính. Năm 1880, Việt Nam đã xuất khẩu 300.000 tấn gạo cho các nước thuộc địa của Pháp (Mai Văn Quyền,1996) [37]
Do yêu cầu của việc tăng năng suất, sản lượng cây trồng để đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của con người nên các nghiên cứu về trồng xen, trồng gối, luân canh, tăng vụ đã được nghiên cứu từ rất sớm và việc nghiên cứu hệ thống nông nghiệp được bắt đầu từ nghiên cứu cơ cấu cây trồng.
Trong nghiên cứu về hệ thống canh tác phải được bắt đầu bằng công tác kiểm kê các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, đánh giá được hệ canh tác truyền thống. Việc cải tiến những hệ thống canh tác của nông dân đang được các nhà khoa học nông nghiệp nước ta quan tâm nghiên cứu và bước đầu đạt được nhiều kết quả tốt.
Tác giả Bùi Huy Đáp (1979) [10] khi nghiên cứu cơ cấu cây trồng trên đất canh tác chủ yếu nhờ nước trời ở miền Bắc đã đề xuất cơ cấu cây trồng là 2 vụ màu đông và xuân rồi sản xuất lúa tiếp chân, trong vụ xuân trồng các loại cây màu có thời gian sinh trưởng dài, ngắn khác nhau tuỳ theo trồng lúa mùa sớm hay mùa chính vụ. Đây là chế độ canh tác có thể sử dụng triệt để tiềm năng của các loại đất cao hạn cấy 1 vụ lúa mùa chờ nước trời. Trên chân đất chuyên màu của vùng đất bãi ven sông, hệ thống cây trồng đem lại hiệu quả kinh tế cao là ngô thu đông (rau màu thu đông) - ngô xuân (đậu tương, rau đậu các loại…). Ngay sau khi nước rút tiến hành trồng ngô thu đông (hoặc rau đậu sớm), sau đó trồng ngô xuân (hoặc đậu tương, rau đậu các loại).
Bùi Thị Xô (1994) [62] đã tiến hành xây dựng mô hình thử nghiệm đánh giá hiệu quả kinh tế một số công thức luân canh trên các vùng đất khác nhau của Hà Nội, kết quả thu được như sau:
+ Vùng thâm canh: Hiệu quả kinh tế đạt từ 115 - 339% so với mô hình cũ.
+ Vùng đất bạc màu: Hiệu quả kinh tế đạt 130 - 167% so với mô hình cũ.
+ Vùng đất trũng: Với công thức lúa xuân - cá giống, hiệu quả kinh tế thu được rất cao, tổng giá trị sản phẩm đạt 72 triệu đồng/ha/năm.
Trong hệ thống luân canh trên đất bạc màu ở miền Bắc Việt Nam, cây vụ đông có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đất, nhờ vụ đông mà đất trồng được che phủ trong suốt thời kỳ khí hậu khô hạn (trong điều kiện khô hạn, đất màu bị thoái hoá nhanh nhất, đồng thời các chất hữu cơ phân huỷ mạnh). Cây vụ đông đã làm tăng độ ẩm của đất từ 30 - 50% so với không trồng cây vụ đông. Đất bạc màu có trồng cây vụ đông đều làm tăng năng suất cây trồng vụ sau một cách rõ rệt (Bùi Huy Đáp, 1979), (Nguyễn Hữu Tề và CTV, 1995) [10] [38].
Tác giả Vũ Tuyên Hoàng (1995) [19] khi nghiên cứu, chọn tạo giống lúa cho các vùng khô hạn, ngập úng, chua phèn đã nhận xét: so với các vùng thâm canh, các vùng khó khăn còn có yêu cầu thêm về giống mới thích hợp hơn nữa, các tiêu chuẩn giống chống chịu cũng cần được xác định chuẩn xác hơn. Đối với các vùng khó khăn, công tác cải tạo đất và nguồn nước tưới luôn luôn cần kết hợp với giống và các biện pháp kỹ thuật thích hợp để tăng năng suất.
Điều kiện sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn nhiều khó khăn, chịu nhiều rủi ro (bão, lụt, hạn hán, sâu bệnh…) làm cho năng suất, sản lượng cây trồng thấp và không ổn định, bấp bênh. Một số giống cây trồng địa phương có khả năng chống chịu khá với điều kiện ngoại cảnh bất thuận, năng suất ổn định nhưng lại thấp, không đáp ứng được nhu cầu của con người. Do vậy cần có bộ giống tốt, năng suất cao, ổn định, phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng cụ thể theo nguyên tắc “đất nào cây ấy”.
Mỗi một khu vực có điều kiện sinh thái, đất đai, khí hậu khác nhau, do vậy các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở mỗi khu vực cho các kết quả khác nhau, cơ cấu cây trồng, hệ thống nông nghiệp được xây dựng ở mỗi vùng một khác.
- Vùng đồng bằng sông Hồng: Viện sỹ Đào Thế Tuấn khi nghiên cứu mô phỏng chiến lược phát triển nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng đã khẳng định rằng để phát triển nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng theo hướng sản xuất hàng hoá, bền vững và ổn định cần thực hiện theo các hướng sau:
+ Tăng sản xuất lương thực.
+ Tăng sản xuất các sản phẩm xuất khẩu.
+ Tạo việc làm mới để ổn định đời sống nông dân.
Khi nghiên cứu vùng đất thường xuyên ngập úng của huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, tác giả Nguyễn Văn Hoàn cho biết nếu chỉ đơn thuần cấy 1 vụ lúa/năm thì lợi nhuận thu được là 5,8 triệu đồng/năm/đơn vị diện tích canh tác (nơi nghiên cứu), còn nếu cấy lúa kết hợp nuôi cá thì lợi nhuận thu được trên diện tích canh tác ấy sẽ là 13,7 triệu đồng/ha [18].
- Vùng đất cát ven biển: Tác giả Vũ Biệt Linh và Nguyễn Ngọc Bính (1995) [23] khẳng định rằng nếu không thiết lập được các dải rừng phòng hộ trên các bờ cát bao quanh thì không có khả năng sản xuất nông nghiệp trên đất cát ven biển. Để giải quyết vấn đề này, phải có các biện pháp xen canh, gối vụ các cây trồng như lạc, đậu tương, vừng…; trong đó quan trọng nhất là cây họ đậu, tạo nguồn hữu cơ bổ sung cho đất.
- Vùng đồng bằng sông Cửu Long: Tác giả Trần An Phong (1996) [30] cho rằng khả năng thâm canh, tăng vụ và đa dạng hoá cây trồng ở vùng phù sa chủ động nước ven sông Tiền, sông Hậu cần phải đi đôi với việc đổi mới cơ cấu cây trồng. Còn tác giả Tào Quốc Tuấn (1994) [44] khi nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng hợp lý cho vùng phù sa ngọt ven sông Tiền và sông Hậu có nhân xét: các mô hình chuyên canh lúa đều sử dụng rất nhiều nước vào mùa khô; trong khi đó các mô hình luân canh 1 vụ lúa - 1 vụ màu, cây ăn quả hay mía sử dụng tiết kiệm nước hơn.
Những nhóm hộ nông dân khác nhau có những mục tiêu chiến lược khác nhau nên có những trở ngại khác nhau. Tỷ lệ nông dân sản xuất lúa gạo để bán ở đồng bằng sông Cửu Long cao hơn đồng bằng sông Hồng[45].
Cũng về vấn đề đánh giá nông hộ, các tác giả Phạm Chí Thành, Trần Đức Viên, Phạm Tiến Dũng (1996) [49] đã chia hộ nông dân thành các nhóm theo đất và vốn như sau: nhiều vốn - nhiều đất; nhiều đất - ít vốn; ít đất - ít vốn, ít đất - nhiều vốn; đồng thời các tác giả cũng chỉ ra rằng các nhóm này nên có các cơ cấu sản xuất khác nhau.
- Vùng trung du, miền núi phía bắc: Đậu tương và lạc là những cây công nghiệp ngắn ngày, ngoài giá trị về kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc cải tạo và bảo vệ đất trồng, do đó chúng là những cây trồng quan trọng trong việc xây dựng hệ thống nông nghiệp bền vững, đặc biệt là canh tác trên đất dốc. Vì vậy, nhiều tác giả đã nghiên cứu vai trò của cây đậu tương và cây lạc trong cơ cấu cây trồng ở vùng trung du, miền núi phía Bắc.
Tác giả Trần Danh Thìn (2001) [48] khi nghiên cứu vai trò của cây đậu tương, cây lạc ở một số tỉnh trung du, miền núi phía Bắc đã đưa ra kết luận: sử dụng phân khoáng, phối hợp giữa đạm, lân và vôi trong thâm canh không những chỉ nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế của việc trồng lạc và đậu tương, mà còn có tác dụng tạo ra một khối lượng lớn chất xanh, làm tăng độ che phủ đất và cung cấp nhiều chất hữu cơ cho đất qua các tàn dư thực vật. Điều này rất có ý nghĩa đối với việc cải tạo vùng đất đồi thoái hoá, chua, nghèo chất hữu cơ ở trung du và miền núi. Đây cũng là quan điểm sử dụng phân khoáng để nâng cao nhanh chóng hàm lượng chất hữu cơ cho đất trong chiến lược vừa sử dụng, vừa cải tạo đất vùng đồi.
Trồng xen đậu tương với cây ăn quả ở giai đoạn cây chưa khép tán đã mang lại hiểu quả kinh tế và cải tạo đất rõ rệt. Việc trồng xen đậu tương với xoài đã nâng cao khả năng giữ ẩm của đất, hạn chế sự phát triển của cỏ dại, làm tăng sinh trưởng của xoài và tăng thu nhập của người nông dân, đáp ứng được nhu cầu lấy ngắn nuôi dài.
- Vùng Tây Nguyên: Các chương trình của Nhà nước về Tây Nguyên đã cơ bản xác định được các tài nguyên thiên nhiên, kinh tế - xã hội của Tây Nguyên; đồng thời đã thực hiện được nhiều cuộc điều tra, đánh giá và các nghiên cứu, thí nghiệm về nông lâm nghiệp Tây Nguyên.
Cải tiến cơ cấu cây trồng trong thời gian tới cần nghiên cứu bố trí lại hệ thống cây trồng thích hợp với các điều kiện đất đai và chế độ nước khác nhau; phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp nhằm khai thác cao nhất các nguồn lợi tự nhiên, lao động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Đa dạng giống cây trồng và loại cây trồng là biện pháp tích cực để nâng cao tính ổn định của hệ thống (Trần Đình Long, 1997) [24].
Cũng theo tác giả Trần Đình Long (1997) [24] thì giống cây trồng là tư liệu sản xuất sống, có liên quan chặt chẽ với điều kiện ngoại cảnh, có vai trò quan trọng trong cải tiến cơ cấu cây trồng. Để tăng năng suất cần tác động các biện pháp kỹ thuật thích hợp theo yêu cầu của giống. Sử dụng giống tốt là một biện pháp để tăng năng suất, ít tốn kém.
Khi nghiên cứu các yếu tố hạn chế sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bào dân tộc Êđê trên cao nguyên Buôn Ma Thuột, Nguyễn Văn Hiển (2000) [17] đã xếp hạng các yếu tố cần thiết cho sản xuất nông nghiệp tại vùng theo thứ tự ưu tiên cần quan tâm là giống - phân bón - chăn nuôi - tín dụng.
Y Ghi Niê (2001) [26] khi phân tích hiệu quả kinh tế của hệ thống canh tác cây cà phê cho biết: cây cà phê trồng trên 3 loại đất khác nhau tại huyện Ea Kar, tỉnh Đak Lak đều đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Nguyễn Văn Lạng (2002) [20] khi nghiên cứu cơ sở khoa học xác định cơ cấu cây trồng hợp lý đã đánh giá được tiềm năng đất, nước, khả năng bố trí cây trồng theo diện tích và đã đề xuất nhiều mô hình luân canh, xen canh, thâm canh hợp lý, có hiệu quả kinh tế cao tại huyện Cư Jut, tỉnh Đăk Lăk.
Hồ Gấm (2003) [14] đã nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá tại huyện Đak Mil, tỉnh Đak Lak và cho rằng cơ cấu cây trồng, hiệu quả kinh tế của các loại hình sản xuất, thu nhập và tích luỹ của các nhóm nông hộ rất khác nhau phụ thuộc vào nguồn lực của các nông hộ, hệ thống cây trồng chính mà nông hộ sử dụng và thị trường giá cả nông sản.
Hệ thống cây trồng khá đa dạng và có sự khác biệt giữa các nhóm nông hộ theo các vùng. Bên cạnh những hệ thống cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao như hồ tiêu, cây rau, cà phê, cây bông vải, cây ngô, cây đậu tương, còn có những hệ thống cây trồng chưa hợp lý về sinh thái và hiệu quả kinh tế. Các cây trồng tuy có đa dạng về._.ăng suất nếu được đầu tư thâm canh có thể đến 120 tạ/ha, trung bình 100 tạ/ha. Trên chân đất trũng vụ đông thường là bỏ trống gây lang phí đất cho nên việc bố trí để phát triển cây rau cần vụ đông trên chân đất trũng là rất phù hợp với thực tế địa phương.
- Lựa chọn giống cho công thức luân canh mới:
+ Đối với cây lúa: tiếp tục phát triển các giống chịu úng cho năng suất cao đó là U17, U19, ĐB6. Một số giống lúa thuần chất lượng cao có khả năng cấy được trên chân đất trũng như: HT1, Tám thơm ... Một số giống lúa lai như: TH3-3, Syn6 ...
+ Đối với cây rau cần: Đây là cây trồng từ trước đến nay ít được đầu tư nghiên cứu chọn tạo giống. Bà con đa phần trồng các giống địa phương.
- Khả năng mở rộng diện tích:
Bảng 4.28 Chuyển đổi cơ cấu công thức luân canh trên đất trũng
TT
Công thức luân canh
Cơ cấu cũ
Cơ cấu mới
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
1
Lúa xuân - lúa mùa
1380
98,6
400
28,6
2
Lúa xuân - lúa mùa - cần
20
1,4
1000
71,4
Tổng
1400
100
1400
100
Diện tích có thể mở rộng của công thức luân canh số 2 là khoảng 1.000 ha tập trung ở các xã có kinh nghiệm trồng rau như: Hợp Thịnh, Hương Lâm, Đông Lỗ, Hoàng Lương ...
- Dự kiến giá trị sản lượng thu được khi mở rộng công thức luân canh trên:
Nếu công thức luân canh được mở rộng theo đúng dự kiến đề xuất của chúng tôi (bảng 4.29) thì trên đất trũng 1.400 ha một năm có thể thu được:
Bảng 4.29 Giá trị thu nhập của cơ cấu công thức luân canh mới trên đất trũng
TT
Công thức luân canh
Giá trị thu nhập cơ cấu CTLT cũ
Giá trị thu nhập cơ cấu CTLC mới
Diện tích (ha)
Tổng thu (tr.đ)
CPVC (tr.đ)
Thu nhập (tr.đ)
Diện tích (ha)
Tổng thu (tr.đ)
CPVC (tr.đ)
Thu nhập (tr.đ)
1
Lúa xuân - lúa mùa
1380
49.197
17.980
32.098
400
14.260
4.956
9.304
2
Lúa xuân - lúa mùa - cần
20
1.713
426
1.287
1.000
85.650
21.320
64.330
Tổng
1400
50.910
18.406
33.385
1.400
99.910
26.276
73.634
Nhìn vào bảng 4.29 ta thấy: Tổng giá trị thu nhập mà cơ cấu công thức luân canh mới mang lại (tính theo giá năm 2007) là 73,634 tỷ đồng/năm cao gấp 2,2 lần so với tổng giá trị của cơ cấu công thức luân canh cũ (33,385 tỷ đồng/năm). Có thể nói cây rau cần là cây trồng cho sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế cao, cần được đầu tư phát triển.
* Trên chân đất vàn:
Đây là chân đất chiếm diện tích lớn nhất (9.465 ha), cơ cấu cây trồng trên chân đất này đa dạng và phong phú nhất. Vụ xuân và vụ mùa thì cây lúa vẫn là cây trồng chủ đạo giống, vụ đông bà con nông dân vẫn trồng các cây trồng hiệu quả kinh tế thấp như cây khoai lang và một số diện tích bà con bỏ trống không canh tác. Qua điều tra nghiên cứu và đã tiến hành các thử nghiệm, chúng tôi đề xuất duy trì, phát triển các công thức luân canh:
Bảng 4.30 Chuyển đổi cơ cấu luân canh trên trân đất vàn
Cơ cấu cũ
Cơ cấu mới
TT
Công thức luân canh
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Lúa xuân-lúa mùa- ngô đông
2.965
31,33
2.965
31,33
Lúa xuân-lúa mùa-Khoai tây
1.000
10,57
0
0
Lúa xuân-lúa mùa-lạc đông
500
5,28
500
5,28
Lạc xuân-lúa mùa-Rau đông
300
3,17
0
0
Lúa xuân - đậu tương hè -lúa mùa muộn - rau
1.235
13,05
1.235
13,05
Lạc xuân - lúa mùa - khoai tây
700
7,40
3000
31,7
Lúa xuân - lúa mùa- khoai lang
500
5,28
0
0
Lạc xuân - lúa mùa - khoai lang
500
5,28
0
0
Khoai lang - đậu tương - khoai lang
200
2,11
0
0
Lạc - đậu tương – Lạc đông
0
0
500
5,28
Khoai lang - đậu tương - rau
300
3,17
0
0
Rau - Rau - Rau
1.265
13,37
1.265
13,37
Tổng
9.465
100
9.465
100
Nhìn vào bảng 4.30 ta thấy:
- Nên duy trì diện tích của các công thức luân canh số 1, 3, 5 và số 12.
- Nên xoá bỏ các công thức luân canh số 2, 4, 7, 8, 9 và 11. Thay vào đó là mở rộng diện tích các công thức luân canh số 6 và thêm công thức luân canh số 10.
Tóm lại, trong những năm tới, chúng tôi khuyến khích trên đất vàn tập trung phát triển 6 công thức luân canh. Đó là công thức luân canh số 1, 3, 5, 6, 10 và 12.
Nếu việc chuyển đổi công thức luân canh thực hiện theo đúng dự kiến đề xuất thì diện tích và sản lượng của các cây trồng trong 1 năm sẽ là:
Bảng 4.31 Diện tích, năng suất, sản lượng gieo trồng của cơ cấu cây trồng mới
TT
Cây trồng
Thời vụ
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Năng suất (tạ)
Sản lượng (tấn)
Lúa
Xuân
4.700
58
27.260
Mùa
7.700
53
40.810
Tổng
12.400
41,84
68.070
Ngô
Đông
2.965
10,00
45
13.343
Lạc
Xuân
3.500
24
8.400
Đông
1.000
22
2.200
Tổng
4.500
15,19
10.600
Khoai tây
Đông
3.000
10,12
150
45.000
Đậu tương
Hè
1.735
5,86
20
3.470
Rau
Xuân
1.265
-
-
Hè
1.265
-
-
Đông
2.500
-
-
Tổng
5.030
17,00
50.000
Tổng
29.630
Chúng tôi đề xuất trong những năm tới chỉ nên tập trung phát triển 6 cây trồng chủ yếu được nêu ở bảng 4.31.
Để đạt được mục tiêu về năng suất và sản lượng của các cây trồng được đề xuất trong bảng 4.31 thì vấn đề lựa chọn cơ cấu giống phù hợp là vô cùng quan trọng. Trên cơ sở kết quả điều tra cơ cấu giống trên địa bàn kết hợp với kết quả các thử nghiệm chúng tôi đề xuất cơ cấu giống mới như sau:
Bảng 4.32 Cơ cấu giống mới
TT
Cây trồng
Cơ cấu giống mới
Lúa
80% lúa thuần (KD18, Q5, ĐB5, ĐB6, U17, U19, HT1,Bắc thơm, Tám thơm,…) và 20% lúa lai (TH3-3, Syn6, N46, …)
Ngô
NK66, B06, …
Lạc
L23, L18, TB25, L14 …
Khoai tây
Các giống khoai tây của Đức.
Đậu tương
ĐT84, ĐT99, ĐT92, …
Rau
Bí xanh, bắp cải, su hào, sup lơ, cà chua, …
* Trên chân đất cao:
Chúng tôi khuyến khích duy trì diện tích sắn như hiện nay, cần lựa chọn trồng những giống năng suất cao, chất lượng tốt và đầu tư thâm canh để tăng năng suất từ 145,8 tạ/ha như hiện nay lên 200 tạ/ha.
- Các giống sắn được lựa chọn: KM94,
- Dự kiến sản lượng thu được: 310 (ha) x 200 tạ/ha = 62.000 tạ (6.200 tấn) củ sắn tươi cung cấp cho thị trường. Với giá bán 1000đ/kg, thì giá trị sản lượng mà cây sắn mang lại là 62.000 (tạ) x 100 x 1000 (đ/kg) = 6.200.000.000 đ (6,2 tỷ đồng).
4.5 Một số giải pháp góp phần thực thi cơ cấu cây trồng mới
4.5.1 Đổi mới cơ chế chính sách, tăng cường năng lực quản lý nhà nước để xây dựng nên một quan hệ sản xuất phù hợp
Một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là phải đổi mới cơ chế, chính sách, tăng cường quản lý của nhà nước, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh tế - xã hội trên cơ sở pháp luật hiện hành.
Nhờ có sự đổi mới của Đảng, trong những năm qua tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã được phát triển mạnh, do đó cần có một quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn. Vì vậy, phải khuyến khích xây dựng các tổ hợp tác và hợp tác xã sản xuất dịch vụ tiêu thụ sản phẩm trong các nông hộ.
Khuyến khích hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã trên cơ sở liên kết hợp tác, tự nguyện giữa các hộ, trang trại dưới nhiều hình thức. Hợp tác xã phải tập trung làm dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tổ chức tốt các quy hoạch và hướng dẫn nông dân ứng dụng khoa học - công nghệ mới, liên kết với các doanh nghiệp để mua vật tư và tìm nơi tiêu thụ nông sản cho nông dân.
UBND huyện Hiệp Hoà cần xúc tiến nhanh việc dồn điền đổi thửa và hoàn chỉnh cấp quyền sử dụng đất cho các nông hộ, các cơ sở sản xuất, kinh doanh để người sản xuất yên tâm đầu tư vào sản xuất.
Khuyến khích và tư vấn cho các nông hộ đầu tư, xây dựng các trang trại sản xuất nông-ngư nghiệp với nhiều kiểu hình; trong đó chú trọng đến kiểu hình tổng hợp nhằm tận dụng tốt nhất các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội.
Có kế hoạch ưu tiên phát triển từng loại cây trồng cụ thể trong từng giai đoạn để có biện pháp điều phối, hỗ trợ kịp thời theo định hướng chuyển đổi, Dành một tỷ lệ ngân sách thích hợp phục vụ cho công tác nghiên cứu áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất.
4.5.2 Khoa học kỹ thuật
Tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ là khâu then chốt để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Vì vậy cần phải đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật từ khâu làm đất đến khâu nhân giống, chăm sóc và thu hoạch. Khuyến khích các hộ nông dân sử dụng các giống lúa mới, đưa các giống lúa năng suất cao, chất lượng tốt vào trồng phổ biến trên địa bàn, đồng thời gắn với công nghệ bảo quản sau thu hoạch.
Tăng cường đầu tư áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nghiên cứu và xây dựng nhiều mô hình sản xuất mới trên địa bàn như mô hình cánh đồng 50 triệu đồng/ha/năm theo hướng “đa cây, đa con, đa thời vụ” bằng các cây trồng có giá trị kinh tế cao (khoai tây, lạc, lúa chất lượng, bưởi Diễn…); mô hình lúa - cá - cần kết hợp, trên cơ sở đó lựa chọn các mô hình có hiệu quả cao làm điểm trình diễn về kỹ thuật để tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho nông dân bằng biện pháp trực quan. Mở rộng công tác khuyến nông, khuyến ngư phổ biến rộng rãi các phương pháp bảo vệ thực vật tiên tiến (IPM) áp dụng rộng rãi công nghệ sinh học vào phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến.
4.5.3 Mở rộng và tìm kiếm thị trường
Củng cố mạng lưới thương nghiệp, phát triển chợ nông thôn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia tiêu thụ hàng hoá sản xuất của huyện. Mở rộng liên kết với các tỉnh, địa phương khác để liên kết tiêu thụ sản phẩm của nhau, nhằm tạo thị trường ổn định cho sản phẩm của nông dân trong huyện.
Kiểm soát và tạo lập thị trường nông sản nông thôn một cách bình đẳng và ổn định. Hướng nông dân tập trung sản xuất vào những sản phẩm đã có các nhà máy chế biến trong huyện và vùng lân cận.
Dự báo và điều tiết cơ cấu diện tích cây trồng theo sự biến động giá cả nông sản.
Đầu tư các công nghệ thu hoạch để bảo quản và nâng cao chất lượng nông sản, giảm tiêu hao và thất thoát sau thu hoạch.
4.5.4 Tổ chức chỉ đạo thực hiện
Có sự phối hợp chặt chẽ giữa "4 nhà":
(1) Nhà nước: UBND huyện tổ chức quy hoạch thành vùng sản xuất tập trung, có các cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất. Các cơ quan chuyên môn như phòng Nông nghiệp, trạm Khuyến nông, trạm BVTV tổ chức tập huấn kỹ thuật, chỉ đạo nông dân thực sản xuất.
(2) Nhà khoa học: nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật mới về kỹ thuật thâm canh, các giống cây trồng mới…
(3) Nhà doanh nghiệp: thu mua nông sản của các hộ nông dân.
(4) Nhà nông: Có trách nhiệm trồng cây theo đúng quy trình kỹ thuật đã được tập huấn.
5. Kết luận và kiến nghị
5.1 Kết luận
1. Hiệp Hoà là huyện trung du miền núi, địa hình tương đối bằng phẳng, khí hậu ôn hoà, phần lớn là đất bạc mầu, khả năng giữ nước, giữ dinh dưỡng kém nên những cây trồng họ đậu (lạc, đậu tương) được xác định là cây trồng ưu thế.
2. Cơ cấu cây trồng phong phú tuy nhiên cây lúa vẫn là cây trông chủ đạo chiếm diện tích 53,09%, tiếp đến là các cây trồng khác như cây ngô, lạc, khoai lang, khoai tây, đỗ tương, rau ... Năng suất của các cây trồng chưa cao.
3. Thực trạng cơ cấu các công thức luân canh đa dạng:
- Trên chân đất trũng có 2 công thức luân canh, trong đó công thức luân canh: lúa xuân – lúa mùa – rau cần cho thu nhập 64,33 triệu đồng/ha/năm. Nên khuyến khích mở rộng.
- Trên chân đất vàn có 11 công thức luân canh, trong đó có 8 công thức luân canh có diện tích lớn trên 500 ha, cho thu nhập từ 17,4 -74,83 triệu đồng/ha/năm. Nên đầu tư phát triển.
- Trên chân đất cao chủ yếu là cây sắn (310 ha) cho thu nhập là 15,12 triệu đồng/ha/năm, và cây mía (15 ha) cho thu nhập là 19,6 triệu đồng/ha/năm. Nên duy trì diện tích sắn như hiện nay.
4. Qua kết quả thử nghiệm chúng tôi rút ra kết luận:
Giống khoai tây Sorala của Đức sinh trởng và phát triển tốt, cho hiệu quả kinh tế cao đồng thời mắt củ nông nên rất phù hợp với chế biến xuất khẩu.
Giống lúa chất lợng HT1 cho hiệu quả kinh tế cao, gạo ngon, cơm mềm rất phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng hiện nay.
Giống lạc L23 cho năng suất cũng nh hiệu quả kinh tế cao.
Tóm lại: các giống trên nên được khuyến khích phát triển trong các công thức luân canh mũi nhọn của địa phương.
5. Từ kết quả điều tra kết hợp với kết quả thử nghiệm chúng tôi đề xuất chuyển đổi cơ cấu cây trồng như sau:
Lúa: 45,02 %
Rau: 17,88 %
Lạc: 13,33 %
Khoai tây: 8,89 %
Ngô: 8,78 %
Đậu tơng: 5,14 %
Sắn: 0,92 %
Mía: 0,04 %
5.2 Đề nghị
1. Nhà nước cần quy hoạch thành vùng sản xuất tập trung, có các cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất, tổ chức tập huấn và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật cho bà con nông dân.
2. Tập trung đầu tư phát triển các cây trồng hàng hoá thế mạnh mang lại hiệu quả kinh tế cao như: cây lúa chất lượng, cây lạc, khoai tây,... để phát triển các cây trồng hàng hoá mũi nhọn của huyện.
3. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp, tư thương thu mua các sản phẩm nông nghiệp của bà con nông dân.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
Bill Mollison (1994). Đại cương về nông nghiệp bền vững. NXB Nông nghiệp. Hà Nội
Lê Hữu Cần (1998). Nghiên cứu cơ sở khoa học của sự hình thành hệ thống cây trồng mới ở các huyện vùng ven biển Thanh Hoá. Luận án Tiến sĩ khoa học nông nghiệp. Viện KH KTNN Việt Nam. Hà Nội.
Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên (1995). Phát triển hệ thống canh tác. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
Tôn Thất Chiểu, Đỗ Đình Thuận (1996). Đất Việt Nam. NXB Nông nghiệp. Hà Nội. tr. 36 – 39.
Nguyễn Thị Dần (1991), Thái Phiên. Sử dụng phân bón hợp lý cho lạc trên một số loại đất nhẹ. Tiến bộ kỹ thuật về trồng lạc và đậu đỗ ở Việt Nam. NXB Nông nghiệp, trang 81-91.
Nguyễn Thị Dần, Lê Duy Mỳ, Nguyễn Thị Lan (1995). ảnh hưởng của chất hữu cơ đến một số tính chất vật lý - nước trong mối quan hệ với độ phì nhiêu thực tế của đất trồng cạn trên đất bạc mầu Hà Bắc. Đề tài KN.01.01, Viện TN-NH, trang 79-90.
Đường Hồng Dật và chính sách (1994). Lịch sử nông nghiệp Việt Nam. NXB Nông nghiệp. Hà Nội. tr. 262 – 293.
Bùi Đình Dinh (1995) Yếu tố dinh dưỡng để phát triển nền nông nghiệp bền vững. NXB nông nghiệp.
Lê Song Dự (1990). “Nghiên cứu đưa cây đậu tương vào hệ thống canh tác ở miền Bắc Việt Nam”. Tài liệu Hội nghị hệ thống canh tác Việt Nam. Tr.16-22.
Bùi Huy Đáp (1979). Cơ sở khoa học của vụ đông. NXB Nông nghiệp. Hà Nội
Bùi Huy Đáp (1985). Văn minh lúa nước và nghề trồng lúa Việt Nam. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
Nguyễn Điền (1997). Công nghiệp hóa Nông nghiệp và nông thôn ở các nước châu á và Việt Nam. NXB CTQG. Hà Nội.
Trương Đích (1995). Kỹ thuật trồng các giống cây trồng mới năng suất cao. NXB Nông nghiệp. Hà Nội. tr. 115-119.
Hồ Gấm (2003). Nghiên cứu góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá tại huyện Dak Mil. tỉnh Dak Lak. Luận văn Thạc sỹ Nông nghiệp. Đại học Nông nghiệp I. Hà Nội.
Trần Đức Hạnh, Đoàn Văn Điếm, Nguyễn Văn Viết (1997), Lý thuyết về khai thác hợp lý nguồn tài nguyên khí hậu nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội
Phạm Thị Hương, Phạm Tiến Dũng (2005). Hệ thống nông nghiệp (Bài giảng cao học nông nghiệp). Trường ĐHNNI. NXB Nông nghiệp. Hà Nội
Nguyễn Văn Hiển (chủ biên) (2000). Chọn giống cây trồng. NXB Giáo dục. Hà Nội
Nguyễn Văn Hoàn (1999). Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá ở huyện Hiệp Hoà. tỉnh Bắc Giang. Luận văn Thạc sỹ kinh tế Nông nghiệp. Đại học Nông nghiệp I. Hà Nội.
Vũ Tuyên Hoàng (1995). Chọn tạo các giống lúa cho các vùng đất khô hạn. ngập úng. chua phèn. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
Nguyễn Văn Lạng (2002). Nghiên cứu cơ sở khoa học xác định cơ cấu cây trồng hợp lý tại huyện CưJut. tỉnh Dak Lak. Luận văn Thạc sỹ Nông nghiệp. Đại học Nông nghiệp I. Hà Nội
Nguyễn Thị Lan, Phạm Tiến Dũng, Đoàn Văn Điếm, Nguyễn Thanh Lâm (2000). “Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón tới sinh trưởng. phát triển. chất lượng hạt ngô và môi trường canh tác”. Kết quả nghiên cứu khoa học 1997 – 1999 (của nữ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học). ĐHNNI. NXB Nông nghiệp.
Cao Liêm, Trần Đức Viên (1990). Sinh thái học nông nghiệp và bảo vệ môi trường. NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. Hà Nội.
Vũ Biệt Linh, Nguyễn Ngọc Bình (1995). Các hệ thống nông lâm kết hợp ở Việt Nam. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
Trần Đình Long (1997). Chọn giống cây trồng. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
Shimpei Murakami (1992). Những bài học từ thiên nhiên. Viện kinh tế sinh thái.
Y Ghi Niê (2001). Nghiên cứu một số giải pháp góp phần phát triển chăn nuôi bền vững tại huyện Ea Kar, tỉnh Dak Lak. Luận văn Thạc sỹ Nông nghiệp. Đại học Nông nghiệp I. Hà Nội
Lý Nhạc, Phùng Đăng Chinh, Dương Hữu Tuyền (1987). Canh tác học. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm (1998).Cây phân xanh phủ đất với chiếm lược sử dụng hiện quả đất dốc Việt Nam. Canh tác trên đất dốc ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, trang 166-173.
Trần An Phong (1995). Đánh giá hiện trạng sử dụng đất theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền. NXB nông nghiệp.
Trần An Phong (1996). Cơ sở khoa học bố trí sử dụng đất nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long. NXB Nông nghiệp. Hà Nội
Nguyễn Thị Thanh Phụng. Hoạt tính sinh học một số đất Việt Nam. Kết quả nghiên cứu khoa học 1967-1977, Trường Đại học nông nghiệp 2. NXB nông nghiệp, trang 188-197
Nguyễn Thị Thanh Phụng (1982). Nghiên cứu về đặc điểm vi sinh vật đất trong một số hệ sinh thái nông nghiệp ở Việt Nam - KHNN, trang 294-300.
Phòng lao động thương binh và xã hội huyện Hiệp Hoà. Báo cáo tổng kết năm 2007.
Phòng nông nghiệp huyện Hiệp Hoà. Báo cáo tổng kết từ năm 2003-2007.
Phòng Thống kê huyện Hiệp Hoà. Niên giám thống kê huyện Hiệp Hoà các năm 2003 - 2007.
Phạm Bình Quyền và CTV. Hệ sinh thái vùng đồng bằng. Chương trình khoa học cấp nhà nước 52D-02. 1990
Mai Văn Quyền (1996). Nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác,hệ thống nông nghiệp. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam. TP. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Hữu Tề, Đoàn Văn Điếm (1995). Một số kết quả nghiên cứu hệ thống cây trồng hợp lý trên đất đồi gò, bạc màu huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Kết quả nghiên cứu hệ thống cây trồng trung du, miền núi và đất cạn đồng bằng. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
Lê Minh Toán (1998). Nghiên cứu chuyển đổi hệ thống cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa ở huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Luận văn Thạc sỹ Nông nghiệp. Đại học Nông nghiệp I. Hà Nội.
Đào Thế Tuấn (1978). Cơ sở khoa học của việc xác định cơ cấu cây trồng hợp lý. NXB Nông nghiệp. Hà Nội
Đào Thế Tuấn (1984). Hệ sinh thái nông nghiệp. NXB Nông nghiệp. Hà Nội
Đào Thế Tuấn (1984). Cơ sở khoa học của việc xác định cơ cấu cây trồng hợp lý. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
Đào Thế Tuấn (1989). “Hệ thống nông nghiệp”. Tạp chí cộng sản (6). tr. 4-9
Tào Quốc Tuấn (1994). Xác định cơ cấu cây trồng hợp lý vùng phù sa ngọt ven và giữa sông Tiền, sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long. Luận án Phó tiến sỹ nông nghiệp
Đào Thế Tuấn (1997). Kinh tế hộ nông dân. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
Đào Thế Tuấn (1962). Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý ở hợp tác xã. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
Nguyễn Duy Tính (1995). Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
Trần Danh Thìn (2001). Vai trò của cây đậu tương. cây lạc và một số biện pháp kỹ thuật thâm canh ở một số tỉnh trung du, miền núi phía Bắc. Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp. Đại học Nông nghiệp I. Hà Nội.
Phạm Chí Thành, Phạm Tiến Dũng, Đào Châu Thu, Trần Đức Viên (1996). Hệ thống nông nghiệp (Bài giảng cao học nông nghiệp). Trường ĐHNNI. NXB Nông nghiệp. Hà Nội
Phạm Chí Thành, Trần Đức Viên (2000). Chuyển đổi cơ cấu cây trồng những vấn đề lý luận và thực tiễn. NXB Nông nghiệp. Hà Nội
Lê Đình Thắng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn – những vấn đề lý luận và thực tiến. NXB Nông nghiệp.1998.
Lê Duy Thước (1991). “Về khí hậu đất đai và vấn đề bố trí cây trồng ở miền Bắc Việt Nam”. Tạp chí Tổ quốc. (số 297). tr. 17.
Lê Duy Thước (1997). Nông lâm kết hợp. Giáo trình cao học nông nghiệp. NXB Nông nghiệp. Hà Nội
Hoàng Quốc Thịnh (2004). Nghiên cứu cơ cấu cây trồgn thâm canh trên đất bạc mầu Hiệp Hoà. Bắc Giang có yếu tố bón phân hữu cơ và phân khoáng hỗn hợp. Luận văn Thạc sỹ khoa học nông nghiệp.
Đào Châu Thu (2004). Bài giảng cao học hệ thống nông nghiệp.
Trạm cải tạo đất bạc mầu Hà Bắc. Kết quả nghiên cứu khoa học năm 2003.
Trạm khí tượng thuỷ văn huyện Hiệp Hoà. Thời tiết khí hậu huyện Hiệp Hoà giai đoạn 1997- 2007.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (1996). Phân tích chính sách nông nghiệp nông thôn. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
UBND huyện Hiệp Hoà. Tổng hợp báo cáo tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Hiệp Hoà giai đoạn 2001-2010; 2008-2020.
UBND tỉnh Bắc Giang. : 5 chương trình phát triển kinh tế - xã hội trọng tâm giai đoạn 2006-2010
Viện nghiên cứu cao su Việt Nam (2000). “Nghiên cứu đề xuất mô hình canh tác cao su tiểu điền ở Việt Nam”. Báo cáo tổng kết đề tài cấp Tổng Công ty. giai đoạn 1997 - 2000.
Bùi Thị Xô (1994). “Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý trên các vùng đất nông nghiệp ở ngoại thành Hà Nội”. Tạp chí khoa học công nghệ và quản kinh tế.
Tiếng Anh
Champer. Robert. Paccy. Amold (1989). Farm inovation and Agrgicultural Research Intermediate Technology. Publications LonDon.
FAO (1992). Land evaluation and farming systems analysis for land use planning. Workshop Documents. FAO-ROMA.
Bui Huy Hien. Nguyen Trong Thi (2001). Rice based cropping system in Red River Delta and Mekong River Delta. 2001 IFA Regional Conference for Asia and Pacific. Hanoi. Vietnam. 10 – 13 December 2000. pp. 1 – 24.
International Rice Research Institute (1984). Cropping System in Asia. on- farm research and management. Manila. Philippine.
Zandstra H.G.. F.C. Price. E.C.Litsinger J.A and Morris (1981). Methodology for on farm cropping system rescarch. IRRI. Philippinne. P.31-35.
Phụ lục
Phụ lục 1: Kết quả phân tích phương sai
1. Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm một số giống khoai tây
BALANCED ANOVA FOR VARIATE NS FILE KTAY 10/ 9/ 8 17:20
-------------------------------------------------------------- :PAGE 1
Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm giống khoai tây
VARIATE V003 NS
LN SOURCE OF VARIATION DF SUMS OF MEAN F RATIO PROB ER
SQUARES SQUARES LN
========================================================================
1 NL 4 6.73050 1.68262 1.05 0.441 3
2 G$ 2 129.022 64.5111 40.22 0.000 3
* RESIDUAL 8 12.8317 1.60397
------------------------------------------------------------------------
* TOTAL (CORRECTED) 14 148.584 10.6132
------------------------------------------------------------------------
TABLE OF MEANS FOR FACTORIAL EFFECTS FILE KTAY 10/ 9/ 8 17:20
-------------------------------------------------------------- :PAGE 2
Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm giống khoai tây
MEANS FOR EFFECT NL
------------------------------------------------------------------------
NL NOS NS
1 3 14.5900
2 3 15.6333
3 3 15.5000
4 3 14.6967
5 3 13.7933
SE(N= 3) 0.731202
5%LSD 8DF 2.38437
------------------------------------------------------------------------
MEANS FOR EFFECT G$
------------------------------------------------------------------------
G$ NOS NS
Diamant 5 16.6040
Sorala 5 17.2140
VT2 5 10.7100
SE(N= 5) 0.566386
5%LSD 8DF 1.84693
------------------------------------------------------------------------
ANALYSIS OF VARIANCE SUMMARY TABLE FILE KTAY 10/ 9/ 8 17:20
-------------------------------------------------------------- :PAGE 3
Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm giống khoai tây
F-PROBABLIITY VALUES FOR EACH EFFECT IN THE MODEL. SECTION - 1
VARIATE GRAND MEAN STANDARD DEVIATION C OF V |NL |G$ |
(N= 15) -------------------- SD/MEAN | | |
NO. BASED ON BASED ON % | | |
OBS. TOTAL SS RESID SS | | |
NS 15 14.843 3.2578 1.2665 8.5 0.4405 0.0001
2. Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm trồng một số giống lạc
BALANCED ANOVA FOR VARIATE NS FILE LAC 10/ 9/ 8 18:13
-------------------------------------------------------------- :PAGE 1
Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm giống lạc
VARIATE V003 NS
LN SOURCE OF VARIATION DF SUMS OF MEAN F RATIO PROB ER
SQUARES SQUARES LN
========================================================================
1 GIONG$ 2 18.5456 9.27282 13.61 0.000 3
2 NL 9 2.68121 .297913 0.44 0.897 3
* RESIDUAL 18 12.2659 .681439
------------------------------------------------------------------------
* TOTAL (CORRECTED) 29 33.4928 1.15492
------------------------------------------------------------------------ TABLE OF MEANS FOR FACTORIAL EFFECTS FILE LAC 10/ 9/ 8 18:13
-------------------------------------------------------------- :PAGE 2
Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm giống lạc
MEANS FOR EFFECT GIONG$
------------------------------------------------------------------------
GIONG$ NOS NS
L14 10 21.2020
L18 10 22.7320
L23 10 22.9800
SE(N= 10) 0.261044
5%LSD 18DF 0.775600
------------------------------------------------------------------------
MEANS FOR EFFECT NL
------------------------------------------------------------------------
NL NOS NS
1 3 22.2733
2 3 21.8967
3 3 22.6800
4 3 22.6533
5 3 22.5333
6 3 22.1933
7 3 21.8967
8 3 21.9433
9 3 22.3567
10 3 22.6200
SE(N= 3) 0.476599
5%LSD 18DF 1.41604
-----------------------------------------------------------------------
ANALYSIS OF VARIANCE SUMMARY TABLE FILE LAC 10/ 9/ 8 18:13
-------------------------------------------------------------- :PAGE 3
Kết quả phân tích phương sai thử nghiệm giống lạc
F-PROBABLIITY VALUES FOR EACH EFFECT IN THE MODEL. SECTION - 1
VARIATE GRAND MEAN STANDARD DEVIATION C OF V |GIONG$ |NL |
(N= 30) -------------------- SD/MEAN | | |
NO. BASED ON BASED ON % | | |
OBS. TOTAL SS RESID SS | | |
NS 30 22.305 1.0747 0.82549 3.7 0.0003 0.8972
3. Kết quả phân tích thử nghiệm lúa
Kiểm định sự bằng nhau của 2 phương sai
Giả thiết Ho: Hai phương sai bằng nhau
Đối thiết H1: Hai phương sai khác nhau
Kết quả kiểm định sự bằng nhau của 2 phương sai.
F-Test Two-Sample for Variances
KD18
HT1
Mean
51.8
49.55
Variance
1.122222222
0.525
Observations
10
10
df
9
9
F
2.137566138
P(F<=f) one-tail
0.136580392
F Critical one-tail
3.178893105
Nhận xét: F = 2,13 >1; F< F critical nên chấp nhận Ho, bác bỏ H1.
Kết luận: Hai phương sai bằng nhau
So sánh 2 mẫu độc lập khi 2 phương sai bằng nhau
Giả thiết Ho: m1 = m2
Đối thiết h1: m1 ≠ m2
Kết quả so sánh
t-Test: Two-Sample Assuming Equal Variances
KD18
HT1
Mean
51.8
49.55
Variance
1.122222222
0.525
Observations
10
10
Pooled Variance
0.823611111
Hypothesized Mean Difference
0
df
18
t Stat
5.543785546
P(T<=t) one-tail
1.45338E-05
t Critical one-tail
1.734063592
P(T<=t) two-tail
2.90676E-05
t Critical two-tail
2.100922037
Nhận xét:
Giá trị thực nghiệm = 5,5 đều lớn hơn t lý thuyết 1 phía và 2 phía.
Và giá trị P một phía và P 2 phía đều nhỏ hơn 0,05 nên bác bỏ Ho, chấp nhận H1.
Kết luận:
Năng suất của 2 giống HT1 và KD18 khác nhau. Cụ thể là giống KD18 có năng suất cao hơn giống HT1.
Phụ lục 2: Hiệu quả kinh tế trên 1 ha của một số loại cây trồng chính
(Tính giá năm 2007)
TT
Cây
trồng
Thời
vụ
Tổng thu
Chi phí vật chất
Thu nhập (tr,đ)
Sản lượng (tạ)
Đơn giá (1000đ)
Thành tiền
(tr,đ)
Làm đất (1000đ)
Giống
Phân chuồng
Ure
Supe lân
KCl
Thuốc BVTV (tr,đ)
Tổng (tr,đ)
SL
(kg)
ĐG (1000đ)
TT (tr,đ)
SL
(tạ)
ĐG (1000đ)
TT (tr,đ)
SL
(tạ)
ĐG (1000đ)
TT (tr,đ)
SL
(tạ)
ĐG (1000đ)
TT (tr,đ)
SL
(tạ)
ĐG (1000đ)
TT (tr,đ)
1
Lúa
Xuân
54
330
17,82
0,9
80
5,5
0,44
80
15
1,2
2,7
420
1,134
5
150
0,75
2,2
500
1,1
0,5
6,024
11,796
Mùa
49,4
350
17,29
0,9
60
6
0,36
80
20
1,6
2,5
440
1,1
4,5
170
0,765
2
520
1,04
0,6
6,365
10,925
2
Ngô
Đông
40,5
400
16,2
0,5
14
21
0,294
90
20
1,8
2,5
500
1,25
4,5
170
0,765
1,8
600
1,08
0,5
6,189
10,011
3
Lạc
Xuân
20,5
1000
20,5
0,5
220
18
3,96
80
15
1,2
1,3
420
0,546
6
150
0,9
2
500
1
0,5
8,606
11,894
Đông
19
1600
30,4
0,5
220
20
4,4
80
20
1,6
1,3
500
0,65
6
170
1,02
2
600
1,2
0,6
9,97
20,43
4
Đậu tương
Hè
16,5
800
13,2
0,5
60
14
0,84
70
15
1,05
0,6
440
0,264
4,5
170
0,765
0,6
520
0,312
0,5
4,231
8,969
5
Khoai tây
Đông
120
200
24
0,5
850
3,2
2,72
80
20
1,6
2,7
500
1,35
5
170
0,85
2,5
600
1,5
0,5
9,02
14,98
6
Khoai lang
Xuân
120
90
10,8
0,5
200
4
0,8
60
15
0,9
1,2
420
0,504
3
150
0,45
1,5
500
0,75
0,1
4,004
6,796
Đông
100
100
10
0,5
200
4,2
0,84
60
20
1,2
1,2
500
0,6
3
170
0,51
1,5
600
0,9
0,1
4,65
5,35
7
Rau
Xuân
100
300
30
0,5
3
1000
3
80
15
1,2
2,7
420
1,134
4
150
0,6
2
500
1
0,6
8,034
21,966
Hè
100
300
30
0,5
3
1000
3
80
15
1,2
2,7
440
1,188
4
170
0,68
2
520
1,04
0,6
8,208
21,792
Đông
100
400
40
0,5
3
1000
3
80
20
1,6
2,7
500
1,35
4
170
0,68
2
600
1,2
0,6
8,93
31,07
8
Sắn
Xuân
145,8
150
21,87
0,5
1000
2
2
80
15
1,2
2,5
420
1,05
5
150
0,75
2,5
500
1,25
0
6,75
15,12
9
Mía
Xuân
370
70
25,9
0,5
1200
2
2,4
80
15
1,2
2,2
42
0,092
4,5
150
0,675
2,5
500
1,25
0,2
6,3174
19,5826
Phụ lục 3: Một số hình ảnh minh hoạ
Mô hình trồng khoai tây vụ đông năm 2007
Mô hình trồng lúa HT1 vụ mùa năm2007
Mô hình trồng lạc vụ xuân năm 2008Phụ lục 4: Phiếu điều tra nông hộ
Họ tên chủ hộ:…………………… năm sinh:…………nghề nghiệp:……………
Thôn (Xóm):………………..Xã ……………….-H. Hiệp Hoà- T. Bắc Giang
Số nhân khẩu:…… (người). Số ngườii lao động:…… (người)
Tổng thu nhập bình quân hàng năm:………………...(triệu đồng)
Trong đó: Nông nghiệp :…………... ..(triệu đồng)
Phi nông nghiệp :………… ….(triệu đồng)
I- Đất đai
Hạng mục
Vụ xuân
Vụ mùa
Vụ đông
Ghi chú
Thành phần cơ giới (m2)
Thịt nặng
Thịt TB
Thịt nhẹ
Chân đất (m2)
Cao
Trung bình
Trũng (thấp)
Cây trồng (m2)
Cây trồng
Thời vụ
Loại cây trồng
Giống cây
trồng
Số lượng giống
(kg)
Chi phí (nghìn đồng)
Năng suất
(kg
/sào)
Ghi chú
Phân chuồng
Phân tổng hợp NPK
Đạm
Lân
Kali
Phân bón qua lá
Phân khác
BV
TV
Thuỷ lợi phí
Công
Vụ Xuân
Vụ mùa
Vụ đông
Ghi chú:
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..…………………………………………………
Ngày tháng năm 2007
Người điều tra Chủ hộ điều tra
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHTT045.doc