Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 126
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO GẠCH RỖNG CÁCH ÂM, CÁCH NHIỆT TỪ
ĐẤT SÉT VÀ VẬT LIỆU PHẾ THẢI
Trần Thị Thanh Huyền, Phan Trọng Thủy, Trần Văn Hân
Sinh viên lớp D12X4, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu chế tạo một loại gạch xốp
nhẹ bằng cách sử dụng các vật liệu phế thải và đất sét nung ở nhiệt độ cao. Sản
phẩm thu được có khối lượng nhỏ so với viên gạch thông thường, giá trị khối
lượng thể tích
5 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 465 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu chế tạo gạch rỗng cách âm, cách nhiệt từ đất sét và vật liệu phế thải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhỏ nhất là 0,966 g/cm3. Tuy nhiên cường độ chịu nén lại kém
hơn viên gạch thông thường, cường độ cao nhất có thể đạt là 51 daN/cm2. Do
vậy, vật liệu này chỉ có thể sử dụng để làm các vật liệu bao che, vách ngăn,
không chịu tải trọng lớn trong kết cấu.
Từ khóa: Gạch xốp nhẹ, khối lượng thể tích, cường độ chịu nén, độ hút nước.
1. Giới thiệu
Vật liệu gạch truyền thống có khối
lượng lớn, gây áp lực rất nặng cho
móng, kéo dài thời gian thi công, rất tốn
kém và khả năng cách âm cách nhiệt
kém. Việc sử dụng phế thải làm gạch
xốp sẽ giúp làm giảm tải trọng tác dụng
xuống móng, cách âm, cách nhiệt tốt,
sạch môi trường, bảo vệ sức khỏe con
người khỏi tác hại của các nguồn phế
thải, tiết kiệm được lượng đất sét. Hơn
thế nữa, gạch xốp không cần dùng đến
các nguyên liệu quý hiếm như điatômit,
trêpen, vermiculit... nên giảm được giá
thành sản phẩm.
Nước ta là một nước nông nghiệp
và hàng năm thải ra một lượng lớn đến
hàng triệu tấn các chất phế thải như mùn
cưa, trấu, bã mía, vỏ hạt điều, vỏ lạc,
rơm, vỏ cà phê. Vì vậy, chúng em chọn
đề tài nghiên cứu ― Nghiên cứu chế tạo
gạch xốp từ đất sét và vật liệu phế thải
mùn cưa, xốp, vỏ trấu‖ nhằm mục đích
tìm ra loại vật liệu cách âm cách nhiệt
tận dụng phế thải phổ biến ở địa phương
là mùn cưa, vỏ trấu, xốp, phế thải.
2. Cơ sở khoa học
2.1 Quá trình hóa lý khi nung đất sét [1]
Những biến đổi hoá lý khi nung đất sét:
Đất sét là một hệ đa khoáng, khi
gia công nhiệt xảy ra nhiều quá trình hoá
lý phức tạp, tạo ra những khoáng mới.
- 0 0100t C , nước tự do bay hơi,
đất sét bị co
- 0 0450 650t C , nước liên kết
bay hơi, tạp chất hữu cơ cháy, đất sét
mất tính dẻo, caolinit chuyển thành
mêtacaolinit ( 2 3 2.2Al O SiO )
2 3 2 2 2 3 2 2.2 .2 .2 2Al O SiO H O Al O SiO H O
-
0 0700 900t C , mêtacaolinit và
đá vôi bị phân huỷ thành 2 3Al O và 2SiO
2 3 2 2 3 2.2 2Al O SiO Al O SiO ,
3 2CaCO CaO CO
-
0 0900 1100t C , các oxít kết
hợp lại tạo thành khoáng silimanit
( 2 3 2.2Al O SiO ) và khoáng mulit
( 2 2 23 .2Al O SiO )
2 3 2 2 3 2.2Al O SiO Al O SiO ,
2 3 2 2 2 2. 3 2Al O SiO Al O SiO
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 127
-
0 01100 1350t C , một số thành
phần dễ chảy lấp vào lỗ rỗng làm sản
phẩm đặc chắc, đất sét ở trạng thái đang
dung kết, nhiệt độ thời điểm đó được gọi
là nhiệt độ dung kết của đất sét.
-
0 01350t C , toàn bộ đất sét chảy
ra, sản phẩm bị biến dạng, nhiệt độ đó
gọi là nhiệt độ chảy của đất sét.
* Những biến đổi thể tích khi sấy
nung
Khi sấy nung đất sét xảy ra hiện
tượng co ngót, nếu độ co ngót quá lớn dễ
gây ra hiện tượng nứt nẻ, cong vênh, tạo
những khuyết tật cho sản phẩm. Để hạn
chế hiện tượng này, yêu cầu trước tiên là
chọn lượng nước nhào trộn thích hợp
trước khi nung, sản phẩm được phơi, sấy
đến độ ẩm phù hợp, khi tăng hay giảm
nhiệt độ cần phải tăng giảm từ từ áp dụng
những biện pháp công nghệ phù hợp với
sản phẩm, dây chuyền sản xuất v.v..
2.2 Phƣơng pháp tạo rỗng bằng phụ
gia cháy [2]
Phương pháp này thường được sử
dụng để chế tạo vật liệu cách nhiệt sử
dụng ở nhiệt độ cao hay vật liệu chịu
lửa. Chất kết dính ceramic từ đất sét khó
chảy hoặc đất sét chịu lửa, cốt liệu rỗng
sản phẩm diatomit, trepel nung. Chất tạo
rỗng là phế thải, khi cháy để lại các lỗ
hổng lớn ăn thông với nhau. Chất tạo
rỗng có kích thước hạt nhất định được
trộn lẫn với hỗn hợp tạo hình, sau đó
được sấy và nung. Nhiệt độ nung sản
phẩm không được thấp hơn nhiệt độ
cháy của chất tạo rỗng. Sản phẩm chế
tạo theo phương pháp này thường có
kích thước và hình dạng không đổi so
với hình dạng ban đầu do loại trừ khả
năng phồng nở cũng như co ngót quá
lớn. Do vậy độ rỗng của sản phẩm đúng
bằng thể tích chất tạo rỗng được đưa vào
trước đó. Độ rỗng tạo ra khi sử dụng
chất phụ gia cháy dao động trong
khoảng 60 – 65% đối với các phụ gia
cháy thông thường và 70 – 80% đối với
các loại phụ gia cháy mới có hiệu quả
tạo rỗng cao. Phụ gia cháy cần thỏa mãn
một số yêu cầu như: khi cháy lượng chất
khí thải ra không quá lớn gây phồng nở,
giữ nguyên hình dạng ban đầu của sản
phẩm, không làm đặc chắc sản phẩm sau
khi tách chất tạo rỗng.
Những điều kiện nêu trên có thể
được đáp ứng thông qua việc lựa chọn
loại phụ gia cháy. Trong suốt thời gian
dài phế thải được dùng làm phụ gia cháy,
tuy nhiên khi sử dụng với khối lượng lớn,
phế thải rất khó được trộn đồng đều với
thành phần chính. Sau khi cháy hạt phế
thải để lại hệ thống lỗ hổng mao quan lớn
hình khe, ăn thông với nhau gây ảnh
hưởng xấu đến cường độ, khả năng cách
nhiệt cũng như các tính chất sử dụng
khác của vật liệu cách nhiệt so với cấu
trúc tổ ong có cùng độ rỗng. Tuy nhiên
ưu điểm của hạt phế thải là khí thải khi
chạy thoát ra dễ dàng, không gây phồng
nở và do vậy dù sử dụng lượng lớn phế
thải vẫn không gây biến dạng, nứt nẻ sản
phẩm. Hiện nay pôlystyrol phồng nở hạt
mịn được dùng khá phổ biến cho phép
tạo ra cấu trúc rỗng gồm các lỗ hổng kín,
hình cầu, có đường kính dao động trong
khoảng rộng và phụ thuộc vào thành
phần hạt của pôlystyrol. Vật liệu này
thường được sử dụng với khối lượng nhỏ,
do đó lượng khí thải ra không lớn nên
khó gây phồng nở sản phẩm, ngay cả khi
cần tạo ra độ rỗng kín.
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 128
3. Quá trình chế tạo:
Các mẫu được chế tạo theo cấp phối trong bản sau:Bảng 3.1. Cấp phối tỉ lệ đất sét, phế
thải, nước
Cấp phối
Khối lƣợng
cấp phối
(kg)
Tỉ lệ đất sét
(%)
Tỉ lệ mùn
trấu (%)
Tỉ lệ mùn
xốp (%)
Khối lƣợng
nƣớc (%)
1 35 70 4 26
2 35 70 6 24
3 35 70 8 22
e 35 70 2 28
f 35 70 4 26
t 35 70 6 24
Sau khi tạo hình, các mẫu được
phơi tự nhiên ngoài sân với thời gian
phơi từ 3 đến 4 ngày và được nung ở
nhiệt độ từ 700-900oC khoảng 3 ngày.
Sản phẩm được kiểm tra các chỉ
tiêu gồm: Cường độ chịu nén, độ hút
nước, khối lượng thể tích
4. Kết quả nghiên cứu
4.1 Mối quan hệ giữa hàm lƣợng phế
thải và khối lƣợng thể tích
- Khi % xốp,trấu tăng thì
v tăng,
cụ thể là:
+ Khi trấu tăng từ 0% lên 4% thì
v giảm từ 1.215 xuống còn 1.118 giảm
0.0097%, khi trấu tăng từ 4 % lên 6 %
thì v giảm từ 1.118 xuống 1.078 giảm
0.004% , khi trấu tăng từ 6 % lên 8 % thì
v giảm từ 1.078 xuống 1.075 giảm
0.00003% {Hình a}
+ Khi xốp tăng từ 0% lên 2% thì
v giảm từ 1.215 xuống còn 1.021 giảm
0.0019 %, khi xốp tăng từ 2% lên 4% thì
v giảm từ 1.021 xuống còn 1.005 giảm
0.0016 , khi xốp tăng từ 4% lên 6 % thì
v giảm từ 1.005 xuống còn 0.966 giảm
0.0004% {Hình b}
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 129
Hình a: BĐ Mối quan hệ giữa % phế Hình b: BĐ mối quan hệ giữa % phế thải
thải trấu với khối lượng thể tích v xốp với khối lượng thể tích v
4.2 Mối quan hệ giữa hàm lƣợng phế
thải và độ hút nƣớc
pH
- Khi % xốp,trấu tăng thì
pH tăng,
cụ thể là:
+ Khi trấu tăng từ 0% lên 4% thì
pH tăng từ 12.289 lên 15.031 tăng
0.027 %, khi trấu tăng từ 4 % lên 6 % thì
pH tăng từ 15.031 lên 15.469 tăng
0.00438 % , khi trấu tăng từ 6 % lên 8 %
thì
pH tăng từ 15.469 lên 15.985 tăng
0.0052 % {Hình c}.
+ Khi xốp tăng từ 0% lên 2% thì
pH tăng từ 12.289 lên 13.95 tăng
0.017 % , khi xốp tăng từ 2% lên 4% thì
pH tăng từ 13.95lên 14.4 tăng0.00052
% , khi xốp tăng từ 4% lên 6% thì
pH
tăng từ 14.47 lên 15.031 tăng 0.009%
{Hình d}.
Hình c: BĐ mối quan hệ giữa % phế thải Hình d: BĐ mối quan hệ giữa % phế
trấu với độ hút nước
pH thải xốp với độ hút nước pH
4.3 Mối quan hệ giữa hàm lƣợng phế
thải và Cƣờng độ nR
- Khi % xốp,trấu tăng thì nR giảm,
cụ thể là:
+ Khi trấu tăng từ 0% lên 4% thì
nR giảm từ 51 xuống còn 27.599 giảm
0.234% , khi trấu tăng từ 4% lên 6% thì
nR giảm từ 27.599 xuống 26.706 giảm
0.0089% , khi trấu tăng từ 6% lên 8% thì
nR giảm từ 26.706 xuống 18.927 giảm
0.078% {Hình e} .
+ Khi xốp tăng từ 0% lên 2% thì
nR giảm 51xuống còn 30.847 giảm
0.0019 % , khi xốp tăng từ 2% lên 4%
thì nR giảm từ 30.847 xuống còn 26.233
giảm 0.0046, khi xốp tăng từ 4% lên 6%
thì nR giảm từ 26.233 xuống còn 25.317
giảm 0.00092% {Hình f}.
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 130
Hình e: BĐ mối quan hệ giữa % phế Hình f: BĐ mối quan hệ giữa % phế thải
thải trấu với cường độ nén nR xốp với cường độ nén nR
5. Kết luận
Sản phẩm có khối lượng nhỏ so
với viên gạch thông thường
31.215 /v g cm với mẫu 8% trấu thì
31.075 /v g cm và 6% xốp
thì
30.966 /v g cm . Với tính chất này
thì gạch có thể làm việc như vật liệu
cách âm cách nhiệt. Tuy nhiên cường
độ chịu nén kém hơn viên gạch thông
thường
251 /nR daN cm . Vậy chỉ nên
sử dụng như vật liệu bao che, vách
ngăn, không chịu tải trọng lớn trong
kết cấu. Ngoài ra, độ hút nước tương
đối cao 8% trấu:
15,985%pH , 6%
xốp:
15,031%pH so với mẫu
thường
12,289%pH nên tránh sử
dụng tại các vị trí thường xuyên tiếp
xúc với nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phùng Văn Lự. Giáo trình vật liệu xây dựng. Nhà xuất bản giáo dục.
[2] TS. Nguyễn Tấn Quý. Công nghệ vật liệu cách nhiệt. Nhà xuất bản xây dựng (2009).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_che_tao_gach_rong_cach_am_cach_nhiet_tu_dat_set_v.pdf