Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình chuyển dịch lao động nông thôn tại huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương

Tài liệu Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình chuyển dịch lao động nông thôn tại huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương: ... Ebook Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình chuyển dịch lao động nông thôn tại huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1848 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình chuyển dịch lao động nông thôn tại huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Ở nước ta lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhưng năng suất lao động thấp. Đây là một trong những trở lực chủ yếu hạn chế tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH) là sự xuất phát từ đòi hỏi phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, cơ cấu kinh tế nước ta được điều chỉnh theo hướng đẩy mạnh CNH-HĐH. Đi đôi với nó là chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ; từ lao động kỹ thuật thấp, lạc hậu năng suất lao động thấp sang lao động có công nghệ, kỹ thuật, năng suất lao động cao hơn. Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn phù hợp với nền kinh tế thị trường là vấn đề cấp thiết và có tính chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông thôn sang lĩnh vực khác và khu vực khác là một vấn đề quan trọng với thực tế Việt Nam, đặc biệt khi sức đẩy lao động dư thừa ở nông thôn lớn hơn nhiều lần sức hút lao động ở đô thị. Bình Giang là một huyện nông nghiệp. Ngày nay, hoà trung với xu hướng phát triển của đất nước, Bình Giang đã ngày càng phát triển trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đời sống người dân ngày càng được cải thiện. Hệ thống cơ sở hạ tầng được củng cố và nâng cấp; các khu - cụm công nghiệp đã và đang được hình thành, các làng nghề được khôi phục. Do đó càng làm cho các làn di chuyển lao động phát triển mạnh mẽ hơn theo hướng chuyển dịch lao động nông thôn sang làm các công việc phi nông nghiệp với các hoạt động rất đa dạng. Tuy nhiên, thực tế còn tồn tại những vấn đề bức xúc về giải quyết việc làm và chuyển dịch lao động của huyện, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Thứ nhất, nông nghiệp huyện Bình Giang chủ yếu là sản xuất nhỏ, trình độ sản xuất hàng hoá thấp, cùng với tình trạng dư thừa lao động dẫn tới năng suất lao động thấp. Một trong những giải pháp nâng cao năng suất lao động là chuyển đổi nghề cho một bộ phận lao động. Thứ hai, mục tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Bình Giang lần thứ XXV để ra là phấn đấu đến năm 2020, đưa huyện Bình Giang trở thành một huyện công nghiệp. Nhưng hiện nay vẫn còn sự bất hợp lý giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, tỷ lệ lao động đang làm việc trong ngành nông nghiệp năm 2007 chiếm 46,26% trong khi ngành nông nghiệp đóng góp 41,22% tổng giá trị sản xuất; mặt khác tốc độ tăng trưởng giá trị sản phẩm của ngành nông nghiệp chậm hơn so với các ngành khác, năm 2007 giá trị ngành nông nghiệp tăng 5,6%, trong khi đó ngành công nghiệp tăng 16,35% và dịch vụ tăng 11,50%. Điều đó chứng tỏ năng suất lao động trong nông nghiệp thấp, đòi hỏi quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp phải nhanh hơn nữa để bắt kịp với cơ cấu kinh tế. Thứ ba, xu thế phát triển các khu - cụm công nghiệp, làng nghề và khu dân cư dẫn đến tình trạng thu hẹp đất sản xuất nông nghiệp, trong khi công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất chưa được chú trọng dẫn đến tình trạng một bộ phận người nông dân không có khả năng tìm cho mình công việc mới. Những vấn đề đó đòi hỏi việc phân tích một cách hệ thống các yếu tố ảnh hưởng và mức độ tác động của các yếu tố này đến tình hình chuyển dịch lao động để đưa ra các đề xuất nhằm tạo việc làm và sử dụng hợp lý nguồn lao động của huyện là việc làm cấp thiết, có ý nghĩa và hết sức cần thiết. Xuất phát từ những thực trạng trên, chúng tôi chọn đề tài: "Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình chuyển dịch lao động nông thôn tại huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương". 1.2 Mục tiêu của đề tài 1.2.1 Mục tiêu chung: Trên cơ sở đánh giá thực trạng tình hình chuyển dịch lao động nông thôn tại huyện Bình Giang từ năm 2005 đến hết năm 2007, xác định và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình chuyển dịch lao động từ đó đưa ra các khuyến nghị phù hợp nhằm thúc đẩy chuyển dịch lao động nông thôn theo hướng từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp và giải quyết việc làm cho lao người lao động. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch lao động; - Mô tả thực trạng và xu thế chuyển dịch lao động nông thôn trên địa bàn huyện: (1) giữa các ngành nghề nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ; (2) giữa nơi làm việc cùng huyện và khác huyện); - Xác định và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình chuyển dịch lao động nông thôn (chính sách phát triển kinh tế của huyện, các yếu tố về bản thân người lao động và nhóm các yếu tố về hộ gia đình); - Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm tác động tích cực đến tình hình chuyển dịch lao động nông thôn tại huyện Bình Giang theo hướng từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp và tạo việc làm cho người lao động. 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu những yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch lao động nông thôn, các đặc điểm của người lao động và hộ gia đình ảnh hưởng đến chuyển dịch lao động nông thôn tại huyện Bình Giang. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới tình hình dịch chuyển lao động. Có nhiều yếu tố tác động tới tình hình chuyển dịch lao động. Tuy nhiên trong đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu trong phạm vi, đặc điểm của người lao động và hộ. Về không gian: Huyện Bình Giang có 18 xã - thị trấn, do điều kiện về nguồn lực và thời gian có hạn chúng tôi chia huyện Bình Giang làm 2 khu vực: Khu vực I (là các xã phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề và khu dân cư) và Khu vực II (là các xã thuần nông) để nghiên cứu. Về thời gian: Đề tài thu thập số liệu thứ cấp theo số liệu niên giám thống kê từ năm 2005 đến hết năm 2007 và số liệu khảo sát hộ gia đình tháng 5 năm 2008. PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÌNH HÌNH CHUYỂN DỊCH LAO ĐỘNG NÔNG THÔN 2.1 Cơ sở lý luận về chuyển dịch lao động nông thôn 2.1.1 Một số khái niệm * Lao động Lao động là hoạt động của con người diễn ra giữa người với tự nhiên. Trong quá trình lao động, con người sử dụng các tiềm năng trong cơ thể tác động vào giới tự nhiên chiếm giữ những chất trong giới tự nhiên, biến đổi những chất đó làm cho chúng trở lên có ích trong đời sống của mình. Mác cho rằng lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó với sức lao động của mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với giới tự nhiên. {1} Ngày nay, khái niệm lao động đã được mở rộng, theo Savchenko (1987) {2} lao động là hoạt động có mục đích của con người, bất cứ làm việc gì con người cũng phải tiêu hao một năng lượng nhất định. Tuy nhiên chỉ tiêu hao năng lượng có mục đích mới được gọi là lao động. Theo Từ điển tiếng Việt {3}, lao động sản xuất là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và giá trị tinh thần cho xã hội. Vì vậy, lao động là điều kiện không thể thiếu được của đời sống con người, lao động mãi là nguồn gốc động lực phát triển xã hội. Bởi vậy, xã hội càng phát triển thì tính chất, hình thức và phương thức tổ chức lao động càng tiến bộ. * Lực lượng lao động Có nhiều quan niệm khác nhau về lực lượng lao động. Theo quan niệm của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. Các nước thành viên của tổ chức này đều thống nhất với quan niệm này. Giữa các nước chỉ có sự khác nhau về độ tuổi quy định. Gần đây, nhiều nước đã lấy tuổi tối thiểu là 15, còn độ tuổi tối đa có sự khác nhau tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Các trị số tối đa về tuổi thường trùng với tuổi về hưu. Ở Australia không quy định giới hạn tuổi tối đa. Theo Tổng cục Thống kê (1995), lực lượng lao động là những người từ 15 tuổi trỏ lên có việc làm và không có việc làm {4} Hiện nay, Bộ Luật Lao động ở Việt Nam quy định là đủ 15-60 tuổi đối với nam và đủ 15-55 tuổi đối với nữ. Trong đề tài chúng tôi quan niệm về lực lượng lao động phù hợp với định nghĩa của ILO và theo Bộ luật Lao động hiện hành, tuy nhiên chỉ lấy trị số tối đa của độ tuổi mà không chia theo giới. Từ đó khái niệm lực lượng lao động được hiểu là những người có năng lực hành vi, đủ 15-60 tuổi đang có việc làm và chưa có việc làm. Ngoài ra là những người không thuộc lực lượng lao động. * Chuyển dịch Theo Từ điển tiếng Việt thì chuyển dịch là thay đổi hoặc làm thay đổi vị trí trong quãng ngắn {3}. Chuyển dịch được hiểu ở hai khía cạnh: thứ nhất, đó là sự thay đổi từ vị trí này sang vị trí khác; thứ hai, đó là quá trình làm biến đổi các yếu tố trong cấu trúc và mối quan hệ giữa các yếu tố hợp thành một tổng thể theo chủ đích và phương hướng xác định. Như vậy, có thể hiểu chuyển dịch là chuyển từng quãng ngắn hoặc làm thay đổi cơ cấu thành phần. * Chuyển dịch lao động Xét về mặt cầu nó gắn liền và phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế vì vậy, trước hết chúng tôi đưa ra khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế như sau: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm biến đổi cơ cấu kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình làm biến đổi các yếu tố của cấu trúc và mối quan hệ giữa các yếu tố đó hợp thành nền kinh tế theo chủ đích và phương hướng xác định {10}. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi cấu trúc nền kinh tế dựa trên sự biến đổi cơ cấu của các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Sự biến đổi này được quy định bởi sự thúc đẩy của lực lượng sản xuất làm cho tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế không đồng đều. Xét về tổng thể nguồn nhân lực trong xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động được xem xét sự biến đổi cấu trúc lực lượng lao động. Vì vậy, có thể định nghĩa chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn là quá trình biến đổi, chuyển hoá khách quan từ cơ cấu lao động cũ sang cơ cấu lao động mới tiến bộ hơn, phù hợp quá trình và trình độ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Từ khái niệm về chuyển dịch cơ cấu lao động đó có thể định nghĩa chuyển dịch lao động theo ngành kinh tế như sau: Chuyển dịch lao động theo ngành là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự thu hút lao động khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi cấu trúc lao động theo ngành và mối quan hệ tương quan giữa chúng so với thời điểm trước đó. Lao động theo ngành của một địa phương chia theo 3 nhóm: nhóm ngành công nghiệp - xây dựng, nhóm ngành nông nghiệp - lâm nghiệp - thuỷ sản, nhóm ngành thương mại - dịch vụ. Trong từng nhóm ngành có thể còn được chia thành các ngành và ngành hẹp theo sự phân cấp trong hệ thống ngành kinh tế quốc dân. Chẳng hạn, trong nhóm ngành nông nghiệp - thuỷ sản chia thành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản; trong nông nghiệp lại được chia thành trồng trọt và chăn nuôi... Chuyển dịch lao động theo vùng là sự thay đổi phân công lao động xã hội về mặt không gian địa lý. Không gian địa lý nơi lao động trong hộ đang làm việc xác định trong đề tài bao gồm: làm việc tại địa bàn huyện đang sinh sống và di chuyển ra ngoài huyện. * Việc làm Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, khái niệm việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người {5}. Theo Bộ Luật lao động thì khái niệm việc làm được xác định là “Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” {6} . Như vậy, khái niệm việc làm có thể hiểu là hoạt động lao động của con người nhằm mục đích tạo ra thu nhập và hoạt động này không vi phạm pháp luật. * Người có việc làm Ở nước ta trong thời kỳ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, thì quan niệm người có việc làm là người nằm trong biên chế nhà nước hoặc làm việc trong hợp tác xã {8}. Hiện nay, quan niệm này đã thay đổi, chúng tôi thống nhất với quan điểm của Nguyễn Hữu Dũng về người có việc làm như sau: "người có việc làm là người đang làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội" {9}. Tại hội nghị quốc tế lần thứ 13, các nhà thống kê về lao động của ILO đã đưa ra quan niệm người có việc làm là người làm việc gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không nhận tiền công hay hiện vật {5}. Dựa trên khái niệm tổng quát về người có việc làm của Tổ chức lao động quốc tế, khi thu nhập thông tin về người có việc làm, các nước đều đưa ra điều kiện cụ thể về giới hạn thời gian làm việc, giới hạn tuổi và những nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới tình trạng không làm việc trong tuần lễ điều tra, nhưng họ sẽ tiếp tục trở lại làm việc trong thời gian nghỉ. Về giới hạn thời gian làm việc thường phức tạp và rất khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ phát triển, mức sống và khả năng tạo thu nhập ở mỗi nước. Cơ sở xác định các mức chuẩn này là căn cứ vào số giờ (hoặc số ngày công) tối thiểu cần phải làm việc để đảm bảo một mức sống tối thiểu. Điều này có thể xác định cho lao động trong khu vực kết cấu, làm công ăn lương theo mức tiền lương tối thiểu hiện hành. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của đề tài thuộc khu vực nông thôn, chủ yếu làm việc trong khu vực phi kết cấu nên chúng tôi không căn cứ vào chỉ tiêu này để xác định người có việc làm phải đủ chính xác bao nhiêu giờ (ngày công). Về giới hạn tuổi, để phù hợp với khái niệm lực lượng lao động, khái niệm người có việc làm trong đề tài được hiểu là lao động từ 15-60 tuổi đang làm việc để hưởng tiền lương, tiền công hay lợi nhuận hoặc đang tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ cho gia đình mình không nhận tiền công hay lợi nhuận. * Thất nghiệp: Về khái niệm thất nghiệp, chúng tôi thống nhất quan điểm với ILO: "Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một người trong lực lượng lao động muốn tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành" {5}. Như vậy, người thất nghiệp là người thuộc lực lượng lao động có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được việc làm. Người không có nhu cầu làm việc (người không làm việc): Là những người không thuộc lực lượng lao động, bao gồm các đối tượng từ đủ 15-60 đang đi học, làm nội trợ, không có nhu cầu làm việc, những người mất khả năng lao động do ốm đau, bệnh tật. 2.1.2 Khung lý thuyết liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Lần đầu tiên Ricardo đưa ra khái niệm dư thừa ở nông thôn trong mô hình hai khu vực. Ông cho rằng, lao động dư thừa ở nông thôn về hình thức khác với lao động dư thừa ở thành thị {12}. Ở thành thị, lao động dư thừa có nghĩa là những người có mong muốn làm việc và tích cực tìm việc làm nhưng không thể tìm được việc làm. Ngày nay các nhà kinh tế gọi hiện tượng này là thất nghiệp. Nhưng rất ít người ở khu vực nông thôn dư thừa nông thôn theo nghĩa này, thực tế trong các hộ gia đình ở nông thôn, hầu hết lao động đều có việc làm nhưng năng suất rất thấp, các thành viên của hộ gia đình phải chia nhau làm những việc mà họ có, đó là hiện tượng thất nghiệp trá hình hoặc bán thất nghiệp. Để khắc phục tình trạng thiếu việc làm của lao động nông thôn, cần đưa một lực lượng lao động dư thừa ra khỏi khu vực nông nghiệp. Bởi vì, một số thành viên của hộ có thể chuyển đi mà hoàn toàn không làm giảm sản lượng nông nghiệp, số lao động còn lại có cơ hội tăng thời gian lao động. Tuy nhiên, theo quan điểm của Lewis (1955) cho rằng việc rút lao động dưa thừa ra khỏi nông nghiệp mà không làm giảm đầu ra của nông nghiệp, do vậy cần tăng năng suất lao động trong nông nghiệp {12}. Khung lý thuyết liên quan đến hoạt động phi nông nghiệp của hộ nông dân được xây dựng dựa trên mối liên kết giữa hai khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp, nhân tố "kéo" và "đẩy" việc tham gia hoạt động phi nông nghiệp của người nông dân và mô hình kinh tế hộ của Chayanov {13}. 2.1.2.1 Các mối liên kết giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp Có 3 nhóm liên kết chính giữa hai khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp (sơ đồ 2.1). Nhóm liên kết sản xuất thể hiện mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau về đầu vào và đầu ra của cả hai khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Người nông dân cần các sản phẩm của ngành công nghiệp để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ngược lại, khu vực sản xuất phi nông nghiệp cũng cần đầu vào là sản phẩm của nông nghiệp. Sơ đồ 2.1 Các mối liên kết giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp {13} Nhóm liên kết thứ hai chỉ mối liên hệ về tiêu dùng, trong đó người nông dân mua sản phẩm của khu vực sản xuất phi nông nghiệp phục vụ cho sinh hoạt của họ và ngược lại (chưa tính đến sự đa dạng hoá sản xuất của hai khu vực). Sự liên kết, di chuyển lao động và vốn giữa hai khu vực được chú ý đến nhiều hơn, đặc biệt là lao động. Khi năng suất lao động nông nghiệp tăng lên vừa có thể giải phóng lao động, vừa kích thích mức tăng của mức lương của khu vực phi nông nghiệp cao mới thu hút được lao động. Mối quan hệ về chia sẻ rủi ro sẽ thúc đẩy người dân tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp. Do bản chất của hoạt động nông nghiệp phụ thuộc vào thời tiết, mùa vụ nên chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Người nông dân thường đa dạng hoá hoạt động của mình để vừa nâng cao thu nhập vừa hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, mặc dù hoạt động phi nông nghiệp có năng suất lao động cao hơn nhưng nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro. 2.1.2.2 Các yếu tố "kéo" và "đẩy" việc tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động nông thôn Yếu tố đẩy lao động ra khỏi nông nghiệp để tham gia hoạt động phi nông nghiệp chủ yếu là các yếu tố bất lợi nằm trong hộ gia đình. Reardon (1997) {14} đưa ra nhân tố "đẩy" sau đây: Tăng trưởng dân số, tăng sự khan hiếm của đất có thể sản xuất, giảm khả năng tiếp cận với đất phì nhiêu, giảm độ màu mỡ và năng suất của đất, giảm các nguồn lực tự nhiên cơ bản, giảm doanh thu đối với nông nghiệp, tăng nhu cầu tiền trong cuộc sống, các sự kiện và cú sốc xảy ra, thiếu khả năng tiếp cận với thị trường đầu vào cho sản xuất nông nghiệp. Quan hệ “kéo” và “đẩy” đưa ra một khung khổ tương đối toàn diện cho việc xác định sự tham gia của hộ nông dân vào các hoạt động phi nông nghiệp. Tuy nhiên công cụ này chỉ phân tích cung lao động của hộ. Về mặt thực tiễn, hai hộ gia đình có các điều kiện giống nhau nhưng ở hai vùng địa lý khác nhau có thể có các phản ứng khác nhau. Nói cách khác, các đặc điểm của vùng cũng ảnh hưởng đến sự tham gia hoạt động phi nông nghiệp của hộ nông dân. Thêm vào đó còn có những yếu tố của chính bản thân người lao động. Điều này giải thích tạo sao hai người có cùng điều kiện như nhau nhưng lại chọn cách phản ứng khác nhau khi tham gia vào họat động phi nông nghiệp. Cũng như mô hình về mối liên kết giữa hai khu vực, một điểm khá quan trọng trong quan hệ “kéo” và “đẩy” là sự giao thoa giữa hai nhóm yếu tố. Thực tế, có những yếu tố khó có thể ghép vào quan hệ “kéo” hay “đẩy”. Bởi vì, ở một quy mô nhất định nó là yếu tố "kéo", nhưng ở một quy mô khác nó lại là yếu tố “đẩy”. 2.1.2.3 Mô hình kinh tế hộ nông dân Chayanov Theo mô hình kinh tế hộ nông dân với hoạt động phi nông nghiệp (Chayanov) {13}, xét về mô hình của hộ nông nghiệp, các nhân tố quyết định đến hoạt động phi nông nghiệp được chỉ rõ trên cơ sở mô hình của hộ kết hợp chặt chẽ với khu vực phi nông nghiệp. Mô hình này cho rằng hộ nông dân cung cấp lao động cho khu vực phi nông nghiệp khi và chỉ khi tiền công của khu vực phi nông nghiệp cao hơn so với giá bóng (shadow price) của thời gian trong đó bao gồm cả thời gian nghỉ ngơi của hộ gia đình. Mô hình này không chú ý đến nhu cầu tiêu dùng sản phẩm vật chất hay thu nhập xác định mức độ thoả dụng của người nông dân mà thời gian nghỉ ngơi là một đại lượng quan trọng. Khi mức thu nhập ở một mức nào nhất định, người nông dân sẽ xác định thời gian nghỉ ngơi cũng có giá như thời gian lao động. 2.2 Cơ sở thực tiễn về tình hình chuyển dịch lao động nông thôn 2.2.1 Kinh nghiệm chuyển dịch lao động nông thôn ở một số nước trên thế giới 2.2.1.1 Hàn Quốc Quá trình phát triển các tập đoàn kinh tế lớn ở Hàn quốc luôn đi cùng với phát triển công nghiệp quy mô nhỏ theo hình thức vệ tinh ở nông thôn phục vụ cho các tập đoàn công nghiệp. Nhờ đi bằng cả hai chân như vậy, Hàn Quốc không chỉ giải được bài toán về kinh tế mà cả bài toán về công bằng xã hội. Nông thôn Hàn quốc đã có những thay đổi rất lớn cả về kinh tế và xã hội do ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế nhanh (GDP đạt ở mức bình quân trên 8%/năm), phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, hướng vào xuất khẩu đã thu hút một lượng lớn lao động nông thôn ra thành thị, giải quyết cơ bản tình trạng thất nghiệp trong nông thôn. Chiến lược mà Hàn Quốc áp dụng là tập trung mọi nguồn lực cho phát triển công nghiệp và nhờ công nghiệp phát triển để tích luỹ cho nền kinh tế. Chính sự tích luỹ này đã làm tiền đề cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn ở Hàn Quốc. Rút dần lao động trẻ ra khỏi nông nghiệp: Trong vòng 25 năm qua, tại Hàn Quốc lao động nông nghiệp giảm bình quân hàng năm 1,9%, dân số nông thôn giảm bình quân 2,7% và đã xảy ra xu hướng ngày càng nhiều người dân từ bỏ làm nông nghiệp nhưng vẫn sinh sống ở nông thôn. Quá trình công nghiệp hóa đã thu hút khối lượng lớn lao động nông nghiệp đặc biệt là lao động trẻ. Năm 1990 lực lượng lao động nông nghiệp có 16,4% là thanh niên, đến năm 1995 chỉ còn 13%. Nguyên nhân chính là thanh niên tìm kiếm được cơ hội việc làm trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Lực lượng lao động nông nghiệp ngày một già đi (Đồ thị 2.1) Đồ thị 2.1 Tuổi của lao động nông nghiệp Hàn Quốc Nguồn: Nông nghiệp Hàn Quốc, Viện Kinh tế Nông thôn Hàn Quốc, 1999, trang 29 Hàn Quốc đã thực hiện chính sách nguồn nhân lực trong nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động nông nghiệp. Từ đó rút dần lao động trẻ ra khỏi nông nghiệp. Chính sách này tập trung vào ba chương trình lớn đó là: Chương trình hỗ trợ trang trại gia đình; Chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp và Chương trình hỗ trợ giáo dục và đào tạo. Mục tiêu của các chính sách này là nhằm bảo vệ và hỗ trợ cho các nhà kinh doanh nông nghiệp có trình độ, kỹ năng canh tác, các công ty kinh doanh nông nghiệp, những người có khả năng thúc đẩy năng suất và quản lý việc canh tác một cách hiệu quả và ổn định. Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn: Phong trào làng mới (Saemaul Undong) một phong trào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm đã được triển khai rất thành công ở Hàn Quốc. Việc phát triển công nghiệp nông thôn dựa vào phát triển các nhà máy vệ tinh của các tập đoàn kinh tế. Sự nối kết này cũng chính là sự nối kết giữa nông thôn và thành thị theo nguyên tắc thành thị phát triển sẽ đem đến sự phồn thịnh cho nông thôn. Đầu tư của Chương trình được tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng nằm giúp cho hình thành các doanh nghiệp nhỏ đồng thời làm tăng năng suất nông nghiệp, làm ổn định đời sống của người dân làm nông nghiệp, không tạo ra các mâu thuẫn khi lao động được rút sang họat động phi nông nghiệp. Chương trình Làng mới sử dụng chiến lược tiếp cận từ trên xuống trong lập kế họach nhưng triển khai thực hiện lại từ dưới lên một cách dân chủ với sự tham gia đóng góp cả tài chính vào lao động của người dân địa phương. Nhà nước chỉ đầu tư một khối lượng nhỏ ban đầu bằng hiện vật như xi măng và sắt thép. Cũng chính Chương trình này đã làm cho công nghiệp xi măng và sắt thép của Hàn quốc phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ đầu. Phát triển công nghiệp hóa nông thôn: Nông nghiệp truyền thống của Hàn Quốc là sản xuất quy mô nhỏ, lúa là cây trồng chính. Vì thế ngoài mùa vụ nông nghiệp, nông dân còn thực hiện các họat động tạo thu nhập phi nông nghiệp khác để có thêm thu nhập trang trải chi tiêu cho gia đình. Ngay những năm đầu của thập kỷ 60, Hàn Quốc đã có chính sách khuyến khích phát triển các họat động này để thu hút lao động nông nhàn trong đó chính sách tập trung vào khuyến khích các họat động chế biến nông sản và các tài nguyên thiên nhiên tại địa phương. Chính phủ cung cấp vốn và hỗ trợ kỹ thuật đối với các họat động tạo việc làm phi nông nghiệp và việc tổ chức sản xuất theo hình thức hợp tác. Hỗ trợ xây dựng nhà máy ở nông thôn trong những năm 70s: Nhờ đẩy mạnh đầu tư phát triển, công nghiệp ở đô thị đã đạt mức toàn dụng về quy mô vào những năm 70s, vì vậy các nhà máy được khuyến khích chuyển về khu vực nông thôn để giải quyết việc làm và tạo thêm thu nhập phi nông nghiệp cho nông dân; chính phủ đã lên kế hoạch đưa ít nhất một nhà máy về một làng. Những nhà máy đưa về vùng nông thôn được nhận ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, được nhận hỗ trợ xây dựng nhà máy và cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, thực hiện chính sách di dời nhà máy về nông thôn theo phương châm “mỗi làng một nhà máy” không đạt được như mục tiêu đề ra do chi phí quá cao về xây dựng cơ sở hạ tầng để đặt nhà máy tại từng làng. Hơn nữa do các nhà máy phân tán trên các vùng nông thôn làm nảy sinh chi phí cho công tác marketing cũng như tiếp cận các dịch vụ cần thiết khác về ngân hàng, thông tin cho sản xuất và thị trường, thu hút công nhân lành nghề... Phát triển cụm công nghiệp nông thôn những năm 80s: Dự án phát triển cụm công nghiệp nông thôn đầu tiên được thực hiện vào năm 1984 và là dự án đầu tiên trong triển khai thực hiện Luật Phát triển nguồn thu nhập phi nông nghiệp. Nhờ rút ra bài học kinh nghiệm từ chính sách hỗ trợ đưa nhà máy về từng làng ở nông thôn của thập kỷ trước, dự án phát triển cụm công nghiệp ở nông thôn giúp giảm chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, từng nhà máy trong cụm công nghiệp cũng giảm được chi phí họat động nhờ sử dụng các trang thiết bị dùng chung. Chính quyền địa phương thiết kế xây dựng các cụm công nghiệp theo quy định của luật pháp, sau khi xây dựng xong cơ sở hạ tầng tại cụm công nghiệp, chính quyền địa phương bán mặt bằng trong cụm công nghiệp cho nhà đầu tư đến xây dựng nhà máy. Các dự án công nghiệp về nông thôn được hưởng ưu đãi về miễn giảm thuế trong một số năm và nhận được hỗ trợ tài chính ưu đãi từ Chính phủ. Các dự án này đã góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và nhất là góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn Hàn Quốc. Biểu 2.1 Kết quả thực hiện phát triển cụm công nghiệp đến 1997 của Hàn Quốc Chỉ tiêu Số cụm công nghiệp được thành lập (cụm) 288 Số diện tích đất bán cho xây dựng nhà máy (000 pyong) 9600 Số dự án đang họat động (dự án) 2500 Tổng số công nhân đang làm việc (người) 100000 Trong đó lao động là người địa phương (người) 65000 Nguồn: Nông nghiệp Hàn Quốc, Viện Kinh tế Nông thôn Hàn Quốc, 1999, trang 195. 2.2.1.2 Trung Quốc Trung Quốc là là một nước lớn về nông nghiệp, dân số nông thôn chiếm đến 80%, giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là mẫu chốt nhằm thực hiện hiện đại hoá Trung Quốc. Thành tựu nổi bật trong đổi mới ở Trung Quốc là xuất phát từ đổi mới trong nông nghiệp và cơ cấu lại kinh tế nông thôn. Hai đặc trưng quan trọng nhất trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn Trung Quốc là Phát triển công nghiệp hương trấn và sản nghiệp hóa nông nghiệp. Phát triển các họat động phi nông nghiệp ở nông thôn: Trong những năm đầu của đổi mới, cải cách trong nông nghiệp đi kèm với phát triển các họat động phi nông nghiệp, nhất là công nghiệp hương trấn ở Trung quốc. Sở dĩ công nghiệp Hưng trấn của Trung quốc phát triển mạnh do trong thời kỳ đầu hội đủ các yêu cầu về phát triển và đặc biệt là có thị trường tiêu thụ rộng lớn, tuy nhiên, về sau công nghiệp Hưng trấn gặp phải nhiều khó khăn nhất là về thị trường tiêu thụ do yêu cầu về chất lượng sản phẩm trên thị trường tăng cao trong khi điều kiện về đổi mới công nghệ của công nghiệp nông thôn không đáp ứng kịp. Năm 1993 có khoảng 109,5 triệu lao động được thu hút vào làm việc tại khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn, tăng 6,24 triệu hay 6% so với năm 1992, (Báo cáo Kinh tế hàng năm của Trung Quốc, Green Report, 1994. Biểu 2.2 Lao động được thu hút vào lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn Trung Quốc ĐVT: triệu người Công nghiệp Xây dựng Vận tải Thương mại Tổng cộng 1978 19,800 2,690 1,185 1,642 25,317 1984 36,561 6,835 1,293 4,553 49,242 1985 41,367 7,900 1,142 16,858 67,267 1991 58,136 13,843 7,323 14,358 93,660 1992 63,364 15,407 7,969 16,523 103,260 1993 66,500 Na 43,000 na 109,500 Nguồn: Báo cáo Green Report năm 1994, trang 17 Nhờ phát triển mạnh mẽ các hoạt động phi nông nghiệp, lao động nông thôn có nhiều cơ hội tiếp cận việc làm, qua đó thay đổi nhanh chóng cơ cấu lao động ở nông thôn, cụ thể Đồ thị 2.2 Thay đổi cơ cấu GDP và việc làm ở Trung Quốc Nguồn: Niên giám thống kê Trung Quốc năm 2001, 2003 Sản nghiệp hóa nông nghiệp: Trong bối cảnh chuyển sang kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, bản thân nông nghiệp của Trung Quốc cũng phải tự đổi mới để thích nghi để giải quyết mâu thuẫn vốn có giữa sản xuất nhỏ lẻ của nông dân với những thay đổi nhanh chóng và khó dự báo trước của thị trường. Qua một số thử nghiệm và chọn lọc, Trung Quốc đưa ra chính sách về “sản nghiệp hóa nông nghiệp” nhằm tìm lời giải cho phát triển nông nghiệp và nông thôn Trung Quốc. Sản nghiệp hóa nông nghiệp ở Trung Quốc được hiểu là việc tổ chức kết hợp giữa nông hộ với công ty hoặc nông hộ kết hợp với tập thể, nông hộ cùng với các tổ chức kinh tế khác tiến hành liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, kết hợp giữa nông nghiệp-công nghiệp và thương mại, kết nối các khâu thành một dây chuyền. Sản nghiệp hóa nông nghiệp ở Trung Quốc bao gồm 5 đặc trưng cơ bản sau: (i) Nhất thể hóa ngành nghề, liên kết hữu cơ giữa các ngành nông nghiệp trước sản xuất, trong sản xuất và sau sản xuất; thực hiện nhất thể hóa thương mại, gia công và chế biến nông sản hàng hóa, liên kết nhiêu nông hộ sản xuất nhỏ với thị trường lớn, liên kết giữa công nghiệp tiên tiến và nông nghiệp truyền thống, liên kết thành thị với nông thôn, thúc đẩy chuyên môn hóa sản xuất, dịch vụ hóa xã hội, kết nối các khâu sản xuất-gia công-vận chuyển-tiêu thụ nông sản hàng hóa thành một dây chuyền cùng thúc đẩy và phối hợp phát triển; (ii) Chuyên môn hóa các khâu trong dây chuyền từ sản xuất tới tiêu thụ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả tổng thể của sản nghiệp hóa; (iii) Thương phẩm hóa, hàng hóa làm ra nhằm phục vụ trao đổi trên thị trường, lấy thị trường làm hướng đích cuối cùng; (iv) Quản trị hóa xí nghiệp, dùng biện pháp quản lý xí nghiệp theo kiểu công nghiệp để quản lý nông nghiệp từ đó làm cho lối sản xuất phân tán, tiểu nông của._. các hộ nông dân dần đi vào tiêu chuẩn hóa, tổ chức tiêu thụ nông sản một cách khoa học để tối đa hóa lợi nhuận cho nông dân; (v) Xã hội hóa dịch vụ, đi vào thúc đẩy kết hợp chặt chẽ các yếu tố sản xuất, cung cấp dịch vụ toàn diện cho các khâu trong dây chuyền sản nghiệp hóa. Trong hai thập kỷ qua, chính sách về sản nghiệp hóa nông nghiệp đã mang lại thành tựu quan trọng. Từ năm 1997 đến 2001 số tổ chức kinh doanh sản nghiệp hóa nông nghiệp đã tăng từ 11834 lên hơn 66000 với các loại hình tổ chức này ngày càng đa dạng. Đến năm 2002 số các tổ chức sản nghiệp hóa đã lên tới 94000, trong đó phân theo ngành gồm: trồng trọt 44,8%, chăn nuôi 24,1%, thủy sản 8,2%, lâm nghiệp 10,4% và các loại hình khác 10,5%. Về hình thức liên kết, phương thức hợp đồng chiếm 51,9%, hợp tác 12,6%, cổ phần 13,3% và các phương thức khác khoảng 20%. Các tổ chức sản nghiệp hóa nông nghiệp đã thu hút được 7,2 triệu hộ nông dân tham gia (chiếm 30,5% tổng số hộ nông dân toàn quốc). 2.2.1.3 Thái Lan Về cơ bản Thái Lan vẫn là nước nông nghiệp, tuy đóng góp của nông nghiệp trong GDP dưới 10% nhưng nông nghiệp vẫn là ngành thu hút và tạo việc làm cho 44% lực lượng lao động toàn xã hội và khu vực nông thôn còn là địa bàn sinh sống của gần 70% dân cư. Công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cơ cấu lớn trong GDP của đất nước; đây là kết quả của chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế được thực hiện bắt đầu từ những năm đầu của thập kỷ 60. Điều đáng chú ý là ban đầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế chủ trương hướng vào thay thế nhập khẩu, nhưng nhanh chóng được thay bằng hướng về xuất khẩu trong những năm 1970. Biểu 2.3 Dân số, lao động của Thái Lan 2000-2004 2000 2001 2002 2003 2004 Dân số (tr.người) 62,4 62,9 63,4 63,9 64,4 % dân số nông thôn 78.4 71.4 68.4 68.0 69.0 Lực lượng lao động (tr. người) 33,1 34,0 34,5 35,4 36,2 % thất nghiệp người trên 15 tuổi 3.6 2.4 1.8 1.8 1.5 Cơ cấu phân bổ lao động (%) Nông nghiệp 47.4* 45.1 44.6 43.4 44.0 Công nghiệp 18.6* 18.9 19.3 20,7 21.2 Dịch vụ 34.0* 35.2 36.1 38.0 38.9 Nguồn: Niên giám thống kê ASEAN, 2004, 2005 * Số liệu năm 1999 Đa dạng hóa họat động nông nghiệp gia tăng việc làm thông qua các họat động thương mại: Mặc dầu nhận được sự đầu tư của cả nhà nước và tư nhân, nhưng do lợi nhuận thấp, rủi ro cao, nông nghiệp và nông thôn Thái Lan đang phát triển theo hướng đa dạng hóa. Trong chính sản xuất nông nghiệp, việc đa dạng hóa được thực hiện bắt đầu bằng việc trồng nhiều loại cây thay vì chỉ trồng lúa và cao su như trước đây; bước tiếp theo là đa dạng hóa trong nội bộ ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản sang hệ thống canh tác đa dạng, nhờ đó danh sách hàng nông sản xuất xuất của Thái Lan được mở rộng từ hai hàng hóa truyền thống là lúa và cao su sang bột sắn, gà đông lạnh, tôm tươi đông lạnh .v.v. Từ năm 2000 đến nay, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm đều và tỷ trọng lao động phi nông nghiệp tăng. Phần lớn các công việc phi nông nghiệp ví dụ như bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ôtô, xe máy, đồ dùng gia đình và cá nhân (chiếm 11,9%), chế tạo (9,2%). Khu vực nông thôn có tới 73% người lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, 27% phi nông nghiệp. Tuy nhiên chuyển dịch cơ cấu lao động ở Thái lan không đồng đều giữa các vùng. Khu vực Băng Cốc và vùng Trung tâm, phần lớn lao động làm phi nông nghiệp, 26,5% làm việc trong lĩnh vực bán buôn và bán lẻ, và những người làm việc phục vụ cho bán buôn và bán lẻ là 14,9%. Trong khi đó, phần lớn lao động ở vùng phía bắc, đông bắc và phía nam của đất nước tham gia trong khu vực nông nghiệp. Ở khu vực phía bắc và phía nam, sau sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ lao động tham gia vào bán buôn và bán lẻ tương ứng là 10,7% và 14,2%, tỷ lệ lao động công nghiệp tương ứng 4,9% và 6,6%. Vùng đông bắc, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp còn thấp hơn, chỉ có 6,2% tham gia thương mại bán buôn bán lẻ và 3,2% tham gia vào lĩnh vực giáo dục. Gia tăng các nhân tố ảnh hưởng tích cực tới việc làm: Theo một số phân tích về Thái lan, có hai nhóm nhân tố ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực tới cơ hội việc làm phi nông nghiệp là: Nhóm các nhân tố ảnh hưởng tích cực gồm: (i) nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ phi nông nghiệp tăng; (ii) chi tiêu của chính phủ cho phát triển nông thôn và cơ sở hạ tầng trên toàn đất nước; (iii) các chương trình xúc tiến phát triển doanh nghiệp phi nông nghiệp, đặc biệt đối với họat động sản xuất dệt lụa và vải bông, hàng thủ công mỹ nghệ; (iv) có nhiều điểm thu hút khách du lịch vào Thái Lan, công tác xúc tiến du lịch khá hiệu quả nhờ đó giúp tăng việc làm phi nông nghiệp. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, nhóm các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực tới cơ hội việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn gồm: (i) ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế, thiên tai làm cho nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ phi nông nghiệp giảm sút; (ii) người lao động nông thôn thiếu các kỹ năng cần thiết cho họat động phi nông nghiệp, (iii) thiếu vốn để đầu tư cho các doanh nghiệp phi nông nghiệp do tỉ lệ tiết kiệm ở khu vực nông thôn quá nhỏ. 2.2.1.4 Mông Cổ Là nước có nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, cơ cấu kinh tế của Mông Cổ có sự thay đổi để đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới, kéo theo đó, cơ cấu lao động và sử dụng lao động trong các ngành của nền kinh tế quốc dân cũng biến đổi theo. Biểu 2.4 Cơ cấu dân số nông thôn và cơ cấu GDP theo ngành 1990 1995 2000 % dân số nông thôn trong tổng dân số cả nước 43,0 48,1 42,8 % nông nghiệp trong GDP 15,2 36,7 29,1 % công nghiệp trong GDP 40,9 27,6 21,9 % dịch vụ trong GDP 43,9 35,7 49,0 Nguồn: Elizabeth Morris và Bruun, 2005. Trong giai đoạn chuyển đổi từ 1990-2000, cơ cấu dân số nông thôn Mông Cổ vẫn duy trì ở mức cao, thậm chí năm 1995, tỷ trọng dân số nông thôn lại tăng thêm 5% so với năm 1990. Kết quả này là hậu quả của chính sách tư nhân hóa ngành chăn nuôi và sự trì trệ của khu vực đô thị. Cơ cấu nông nghiệp trong GDP cũng có sự thay đổi, tăng từ 15,2% năm 1990 lên 36,7% năm 1995 và giảm còn 29,1% vào năm 2000. Đến năm 2002, nông nghiệp đóng góp 21% GDP và khu vực nông thôn vẫn là địa bàn sinh sống của 43% dân cư. Ngành chăn nuôi có vai trò lớn, đóng góp 79% giá trị sản lượng nông nghiệp và 31% tổng việc làm toàn xã hội. Năm 2002 trong số gần 250 ngàn hộ gia đình chăn nuôi gia súc thì khoảng 72,3% có cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào chăn nuôi. Thất nghiệp tăng cao do cơ cấu lại nền kinh tế: Trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo cơ chế thị trường, rất nhiều người mất việc làm, một số bị đẩy ra khỏi lực lượng lao động, chuyển về làm việc trong khu vực chăn nuôi hoặc làm việc trong khu vực phi chính quy. Trong quá trình chuyển đổi này, lao động lớn tuổi gặp nhiều khó khăn trong tìm việc làm mới, trong khi tỷ lệ lao động là trẻ em lại tăng lên do phát triển chăn nuôi. Rất nhiều phụ nữ mặc dù được tính là người có việc làm nhưng thực chất chỉ tham gia vào việc nội trợ ở nhà, nhiều người trong số này bị sa thải từ các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước, hoặc bị buộc nghỉ hưu sớm. Theo số liệu tổng điều tra năm 2000, 51% dân số Mông Cổ từ 15 tuổi trở lên được tính là có việc làm, tỷ lệ này ở nông thôn là 66%, thành thị 41%. Riêng khu vực nông thôn, tỷ lệ nam có việc làm là 72% và nữ là 60%. Khu vực sản xuất nông nghiệp thu hút 47% tổng lực lượng lao động cả nước, tính theo khu vực nông thôn-thành thị thì khu vực nông nghiệp thu hút 82% lao động nông thôn và 8% lao động thành thị. Chăn nuôi và chế biến nông sản là hai ngành nghề chính trong nông thôn. Tạo việc làm nhờ phát triển chăn nuôi và các ngành phụ trợ: Do nông nghiệp và nông thôn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Mông Cổ nên chính sách việc làm đối với khu vực nông thôn trở thành một vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển nông thôn. Chính phủ đã đưa ra một số khung chính sách và chương trình quốc gia về vấn đề này như chương trình dịch vụ chăn nuôi, thú y, cấp nước sạch, phòng ngừa thiên tai, cùng với các chương trình khuyến khích phát triển ngành sản phẩm như sữa, len và sản phẩm từ len. Chương trình hỗ trợ chăn nuôi gia súc được thực hiện với mục chỉ tiêunh là hỗ trợ những người chăn nuôi cải thiện điều kiện làm việc và điều kiện sống của họ thông qua phát triển hệ thống dịch vụ, tăng cường năng lực và khả năng sản xuất phù hợp với phát triển vùng và bảo vệ môi trường. Chương trình xúc tiến việc làm quốc gia: Chương trình này được thiết kế nhằm lồng ghép các chính sách việc làm vào chiến lược quốc gia, tăng cường sự tham gia chủ động của các cơ quan chính phủ, cộng đồng, tăng khả năng tiếp cận thông tin về việc làm. Các biện pháp cụ thể là cải thiện các dịch vụ tài chính, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển hợp tác xã, phát triển doanh nghiệp gia đình, lồng ghép chính sách tạo việc làm với bảo vệ môi trường và phân bố lại dân cư nông thôn, tạo việc làm tại địa phương thông qua phát triển du lịch và cơ sở hạ tầng. Chính sách thị trường lao động nhằm vào khuyến khích việc làm cho thanh niên và người nghèo, tăng cường phát triển kỹ năng và đào tạo nghề để đáp ứng nhu cầu thị trường, cải thiện về thông tin và nâng cao nhận thức về khuyến khích tạo việc làm. 2.2.1.5 Kinh nghiệm về chuyển dịch lao động nông thôn - Chính sách chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn gắn liền với quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế, vì vậy cần phải đáp ứng các vấn đề mới phát sinh của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong điều kiện đất chật, người đông quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đồng nghĩa với quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng của đất nông nghiệp. - Một bộ phận nông dân không còn đất hoặc còn rất ít đất để sản xuất nông nghiệp, trong khi đó lại chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng về chuyển đổi nghề nghiệp nên dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp và vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo, đặc biệt đối với những lao động đã lớn tuổi. Vì vậy, ngoài chính sách đền bù khi thu hồi đất, cần có các giải pháp hỗ trợ về đào tạo nghề mới, chuyển đổi nghề nghiệp và cần phải làm trước khi thu hồi đất nông nghiệp cho mục đích công nghiệp, xây dựng mở mang đô thị. - Chuyển dịch cơ cấu lao động phải đảm bảo phù hợp với cơ cấu kinh tế không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng nguồn nhân lực. Trong nông thôn, khi cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển hướng sang các loại cây trồng, con nuôi có giá trị kinh tế cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường, sản xuất được tổ chức lại theo quy mô thích hợp cùng với việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới nhất là ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ sạch đảm bảo phát triển bền vững, bên cạnh đó là các họat động dịch vụ mới nảy sinh theo một xâu chuỗi của chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng liên kết giữa các khâu, các tác nhân cùng tham gia vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Khi đó, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn phải đáp ứng kịp các nhu cầu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cả về số lượng, chất lượng lao động bao gồm cả kỹ năng lao động và tác phong làm việc công nghiệp, cơ cấu theo ngành nghề, cơ cấu phân bổ theo vùng, miền. Công tác đào tạo, định hướng nghề nghiệp phải được quan tâm đặc biệt trong chính sách phát triển nguồn nhân lực. - Chính sách phát triển nguồn nhân lực phải hướng vào đẩy nhanh khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, cần đặc biệt chú ý đến phát triển khoa học công nghệ, có chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể và trong từng thời kỳ cụ thể, có xác định bước đi và chiến lược để đạt mục tiêu đề ra. - Chính sách phát triển công nghiệp cần chú ý giữa bố trí công nghiệp tập trung hay phân tán, mức độ tập trung hay phân tán của bố trí quy hoạch công nghiệp ảnh hưởng mạnh tới chuyển dịch cơ cấu lao động và dòng dân di cư. Kinh nghiệm của Hàn quốc cho thấy, việc bố trí các doanh nghiệp về nông thôn ngoài tác động tạo việc làm cho lao động nông thôn nhưng cũng có thể làm cho giá thành sản xuất của các doanh nghiệp này tăng cao nếu không đi đồng bộ với cải thiện cơ sở hạ tầng và các dịch vụ đi kèm khác và như thế có thể dẫn đến sự phát triển thiếu bền vững của công nghiệp hóa nông thôn. - Chính sách phát triển sản nghiệp hóa nông nghiệp Trung Quốc là một minh chứng về phát huy tính tích cực trong kết nối thành thị-nông thôn, công nghiệp-nông nghiệp, sản xuất-thị trường. Trong đó cần có các “đầu tàu” kết nối các khâu của quá trình sản xuất, kết nối những người nông dân nhỏ liên kết với các tổ chức kinh tế thông qua liên kết sản xuất- tiêu thụ, kết hợp sản xuất-chế biến-tiêu thụ, kết nối các khâu thành một dây chuyền đảm bảo gắn kết lợi ích, quyền lợi, trách nhiệm của các tác nhân tham gia. - Kinh nghiệm của Mông Cổ về xúc tiến cơ hội việc làm trong khu vực nông thôn cho thấy, chiến lược việc làm nông thôn không nên chỉ giới hạn vào một ngành (chăn thả gia súc). Thực tế đã chứng minh nhiều hộ gia đình đã tìm được việc làm mới tại các trung tâm kinh tế, trong đó nhiều hộ gia đình không còn đàn gia súc nữa nhưng đã tìm được việc làm mới, có các họat động tạo thu nhập và việc làm trong khu vực phi chính quy. Trong khu vực nông thôn có tỷ lệ lớn dân số sống dưới mức nghèo khổ, thì điều quan trọng là cần phải phát triển địa phương đa dạng, tạo việc làm và thu nhập cả từ phía hỗ trợ của chính phủ và sự sáng tạo của địa phương. - Về cách tiếp cận trong phát triển kinh tế địa phương, trước tiên cần nhấn mạnh vào xác định cơ hội rồi sau đó mới đưa ra sự giúp đỡ. Chiến lược việc làm cần phải lồng ghép nhiều chương trình khác nhau. Đào tạo gắn với việc làm; lập nghiệp và mở rộng kinh doanh đi kèm với với các dịch vụ hỗ trợ. - Thực tế ở các nước cho thấy việc khuyến khích tạo việc làm trong khu vực nông thôn được thực hiện thông qua nhiều chương trình, dự án của Chính phủ và các nhà tài trợ. Để nâng cao hiệu quả thì những họat động này nên được kết hợp với nhau từ trên xuống dưới, từ cộng đồng nông thôn tới thành phố. Những người hưởng lợi cần được nhận thức về cách tiếp cận và công cụ về dịch vụ việc làm, khuyến nông, đào tạo nghề, tài chính vi mô, phát triển cơ sở hạ tầng và bảo hiểm xã hội. Để sử dụng có hiệu quả các nguồn hỗ trợ, cần có sự điều phối tốt giữa các cơ quan của chính phủ và các chương trình phát triển,giảm chồng chéo và phổ biến tốt các kinh nghiệm điển hình. Một thách thức là tìm ra được một cơ chế điều phối để giảm được các gánh nặng về chi phí giao dịch hội họp, báo cáo để những cố gắng được chuyển từ phòng họp tới người dân nông thôn đang tìm kiếm việc làm tốt hơn để cải thiện cuộc sống của họ. - Khi nông nghiệp còn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thì việc đặt vấn đề tăng thu nhập và làm giàu của nông dân và cư dân nông thôn cần đặc biệt chú trọng trong chiến lược công nghiệp hóa đất nước. Tiềm năng sản xuất của nông dân chỉ được phát triển và đóng góp vào lợi ích của quốc gia khi có được môi trường thuận lợi phù hợp với lợi ích của nông dân, khi họ được tiếp cận một cách công bằng tới đất đai và các dịch vụ cần thiết để sử dụng đất đai một cách hữu ích. Những hỗ trợ ban đầu trong quá trình công nghiệp hóa có thể lại tập trung vào để nâng cao năng suất nông nghiệp, chỉ khi nâng cao được năng suất trong nông nghiệp, hộ gia đình ở nông thôn, đặc biệt là hộ nông dân mới có thể tăng được thu nhập và ví thế sẽ tăng được nhu cầu về hàng hóa phi nông nghiệp. - Tương tự, việc tăng các họat động phi nông nghiệp ở nông thôn như chế biến nông sản, vận tải, dịch vụ cung cấp đầu vào và các sản phẩm chế tạo khác sẽ tăng sức mua ở khu vực nông thôn, công nghiệp phát triển sẽ tạo thêm nhiều việc làm cho khu vực nông thôn. Quá trình công nghiếp hóa cùng với tăng năng suất lao động cho phép người lao động giải thoát khỏi nông nghiệp nhưng đồng thời vẫn cung cấp đủ thực phẩm cần thiết với giá cả phù hợp đồng thời giảm tối thiểu hàng nông sản phải nhập khẩu. - Cũng theo kinh nghiệm của các nước các nội dung chính của chiến lược phát triển nông thôn nên bao gồm: (i) bãi bỏ các chính sách kinh tế và các đầu tư công cộng có ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất nông nghiệp, (ii) đẩy mạnh thực hiện chiến lược phát triển nông thôn tổng hợp để tạo sự tiếp cận công bằng về đất đai, khuyến khích người sản xuất nông nghiệp, (iii) ban hành các chính sách, chương trình nhằm giúp đỡ những người bị thiệt thòi trong khu vực nông thôn có được lợi ích thỏa đáng thông qua tiếp cận và sử dụng các nguồn lực của đất nước, (iv) thực thi luật về bảo tồn để bảo vệ nguồn lực đất đai, nguồn nước, nguồn lợi biển để đảm bảo sử dụng bền vững lâu dài (v) cải thiện các dịch vụ hỗ trợ và tăng cường cơ sở hạ tầng để khuyến khích sản xuất ở nông thôn, mở rộng thị trường đặc biệt đối với dịch vụ nghiên cứu và triển khai, hệ thống tưới, tiêu nước, cũng như cơ sở hạ tầng về vận tải và viễn thông; (vi) thực hiện chương trình kiểm soát kế hoạch hóa gia đình để giảm căng thẳng về áp lực đất đai và các nguồn lực có định khác, (vii) tăng cường các dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, dịch vụ dinh dưỡng để nâng cao chất lượng lực lượng lao động, (viii) nâng cao hiệu quả họat động của các cơ quan nhà nước cung cấp dịch vụ hỗ trợ phát triển nông thôn, (ix) sự tham gia của công chúng hay đại diện vào quá trình hoạch định chính sách của chính phủ. 2. 3 Tình hình chuyển dịch lao động nông thôn ở Việt Nam Cơ cấu dân số nông thôn của Việt Nam khá trẻ nên số lượng người bổ sung vào lực lượng lao động hàng năm ngày càng tăng với khoảng 0,5 triệu người/năm trong giai đoạn 1996-2004. Điều đó dẫn đến áp lực về việc làm ở khu vực nông thôn ngày càng lớn. Tuy nhiên, về mặt tương đối, tỷ lệ dân số nông thôn có xu hướng giảm dần trong tổng dân số mặc dù mức giảm còn chậm. Cho đến năm 2004 lực lượng lao động nông thôn vẫn chiếm tới 77,2% lao động của cả nước, chỉ giảm 2.4% trong vòng 8 năm qua. Cơ cấu lao động nông nghiệp trong tổng thể chung lực lượng lao động của toàn bộ nền kinh tế đã giảm xuống nhưng hiện vẫn còn chiếm tới gần 58% năm 2004, giảm 11% so với năm 1996. Chuyển dịch cơ cấu lao động không hoàn toàn tỷ lệ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục xảy ra trong thời gian tới do năng suất lao động ở những ngành phi nông nghiệp thường lớn hơn trong khu vực nông nghiệp và vì vậy, khả năng thu hút lao động của các ngành này thường thấp hơn tốc độ tăng trưởng của chúng. 2.4 Mối quan hệ giữa quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá với chuyển dịch lao động nông thôn Công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH) và đô thị hoá là một tất yếu khách quan của nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả Việt Nam. Ngày nay, do tác động của toàn cầu hoá và cách mạng khoa học công nghệ quá trình này ngày càng diễn ra nhanh hơn. CNH-HĐH và đô thị hoá diễn ra đã tác động mạnh mẽ tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và những biến đổi xã hội khác của các quốc gia theo cả nghĩa tích cực và tiêu cực. CNH-HĐH là qua trình chuyển đổi về quy trình công nghệ - kỹ thuật, cơ chế vận hành trong mọi lĩnh vực sản xuất và dịch vụ xã hội theo hướng cơ khí hoá, điện tử hoá, tự động hoá với phương pháp sản xuất dây chuyền, sản xuất lớn và hàng loạt, theo các tiêu chuẩn kỹ thuật chính xác cùng với việc phát triển quan hệ lao động mới, tác phong lao động công nghiệp. Đồng thời tăng cường áp dụng, vận dụng và sáng tạo các thành tựu khoa học, công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại vào các quá trình sản xuất hàng hoá. Quá trình đô thị hoá luôn có mối liên hệ, gắn kết với CNH-HĐH, do đó đô thị hoá phải tính đến các mục tiêu, yêu cầu của CNH-HĐH, điều này thể hiện trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 của Đảng ta {21}. Đây là chiến lược đẩy mạnh CNH-HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Quá trình đô thị hoá gắn với CNH-HĐN nhằm giải quyết các mối quan hệ hài hoà, tạo môi trường thuận lợi cho thúc đẩy lẫn nhau phát triển. Đô thị hoá là môi trường thuận lợi cho phát triển nhanh các ngành dịch vụ chất lượng và trình độ cao ở nước ta các năm vừa qua và các năm sắp tới. Quá trình đô thị hoá với sự phát triển của dân số đô thị, phát trển các khu công nghiệp, khu chế xuất có tác động rất lớn đối với sự hình thành và phát triển hệ thống dịch vụ chất lượng và trình độ cao, hệ thống các trung tâm thương mại, dịch vụ vận tải, dịch vụ thông tin viễn thông, khách sạn nhà hàng, tài chính - tiền tệ. Tại những nơi có tốc độ đô thị hoá cao, mở cửa toàn diện với các nền kinh tế thị trường phát triển thì hình thanh và phát triển các trung tâm dịch vụ tài chính tầm cỡ quốc tế có vai trò lớn trong tạo việc làm dịch vụ chất lượng và trình độ cao cho lao động đô thị và lao động các vùng lân cận. Quá trình đô thị hoá thúc đẩy phát triển dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống tại các vùng đô thị mới, vùng ven các thành phố lớn, vùng đô thị hoá, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu dịch vụ du lịch, giải trí. Các dịch vụ này đảm bảo sự duy trì hoạt động và phát triển ổn định của các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp, hộ gia đình. Từ đó, quá trình CNH-HĐH và đô thị hoá thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Qua các năm, các giai đoạn lao động nông nghiệp giảm dần, tác động đến sự phát triển mạnh các ngành công nghiệp ở nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các ngành sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động như sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp khai thác mỏ, dệt may, da giày, cơ khí, lắp ráp, cơ khí sửa chữa. Quá trình CNH-HĐH và đô thị hoá tác động đến sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp tại nông thôn gắn với các vùng sản xuất nguyên liệu, các cụm công nghiệp làng nghề tiểu thủ công nghiệp. CNH-HĐH và đô thị hoá còn tác động đến cơ giới hoá, điện khí hoá, hệ thống thông tin, mạng lưới giao thông nông thôn, phát triển các loại hình dịch vụ ở nông thôn như kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, tín dụng, thương mại... tạo nên sự hoạt động sôi nổi của các loại thị trường ở nông thôn. Đặc biệt là ở các thị trấn, thị tứ trên địa bàn nông thôn, có chức năng trung tâm công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ, văn hoá hỗ trợ cho quá trình CNH-HĐH và đô thị hoá nông thôn. PHẦN 3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Đặc điểm địa bàn 3.1.1 Vị trí địa lý Bình Giang nằm ở phía Tây Nam tỉnh Hải Dương, có toạ độ địa lý từ 20o48' đến 20o46' vĩ độ Bắc và 106o07' đến 106o16' kinh Đông; phía Bắc giáp huyện Cẩm Giàng, phía Đông giáp huyện Gia Lộc, phía Nam giáp huyện Thanh huyện tỉnh Hải Dương và phía Tây giáp tỉnh Hưng Yên. Là huyện của tỉnh Hải Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với vị trí địa lý thuận lợi cách thủ đô Hà Nội 40 km về phía Đông, cách thành phố Hải Dương 15 km, cách thành phố Hải phòng 60 km về phía Tây. Trong địa bàn huyện có các tuyến giao thông quan trọng như Quốc lộ 5A, 38, 20A (392), những tuyến đường giao thông huyết mạch này đã tạo điều kiện thuận lợi cho huyện Bình Giang tiếp nhận những thông tin kinh tế thị trường, chuyển giao nhanh các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, cải thiện môi trường đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội. 3.1.2 Điều kiện tự nhiên 3.1.2.1 Đặc điểm địa hình - khí hậu: Bình Giang nằm ở khu vực đồng bằng Châu thổ sông Hồng, độ cao trung bình từ 5 - 15 m so với mặt nước biển. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông. Dạng địa hình chủ yếu của Bình Giang là dạng địa hình đồng bằng được bồi đẵp bởi các dòng sông. Khí hậu của huyện Bình Giang mang đầy đủ tính chất của khí hậu nhiện đới gió mùa. Mùa hè nóng ẩm mưa nhiều, mùa đông thường lạnh khô hạn. Nhiệ độ trung bình năm là 23,4oC, tổng lượng mưa trung bình/năm từ 1.600 đến 1.700 mm. 3.1.2.2 Đất đai: Tài nguyên đất của Bình Giang được hình thành do sự bồi tụ của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Tổng diện tích tự nhiên là 10.479 ha, chiếm 6,34% diện tích tự nhiên tỉnh Hải Dương, là huyện có diện tích thấp thứ 2 của tình. Đến năm 2007, Diện tích tự nhiên trên đầu người là 971,74m2/người. Quá trình CNH-HĐH và đô thị hoá cùng với việc phát triển cơ sở hạ tầng, các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, nhà ở, công trình công cộng đã dẫn đến biến động đất nông nghiệp của huyện. Bảng 3.1 Diện tích đất nông nghiệp của huyện qua các năm Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 So sánh năm 2007/2005(%) I. Diện tích đất tự nhiên (TN) ha 10.479 10.479 10.479 100,00 1. Đất nông nghiệp ha 7.663 7.591 7.485 97,68 - Đất SX nông nghiệp ha 6.907 6.831 6.727 97,39 - Đất nuôi trồng thuỷ sản ha 756 760 758 100,26 2. Đất phi nông nghiệp ha 2.783 2.855 2.961 106,40 3. Đất chưa sử dụng ha 33 33 33 100,00 II. Một số chỉ tiêu BQ - Diện tích đất TN/người m2 991,25 981,62 971,74 98,03 - Đất nông nghiệp/khẩu m2 724,87 711,09 694,10 95,76 - Đất nông nghiệp/lao động m2 1.246 1.231 1.208 96,95 Nguồn: Phòng Thống kê huyện Diện tích đất nông nghiệp của huyện giảm dần, đến hết năm 2007 diện tích đất nông nghiệp là 7485 ha giảm 178 ha so với năm 2005, trong đó đất sản xuất nông nghiệp giảm 180 ha. Nguyên nhân giảm là do tốc độ đô thị hoá, tăng nhu cầu nhà ở và đất giành để thu hút đầu tư từ các cụm công nghiệp. Đất nông nghiệp giảm, nhưng quy mô dân số lại tăng lên, lực lượng lao động được bổ sung thêm do đó số diện tích đất tự nhiên/đầu người, diện tích đất nông nghiệp/người và diện tích đất nông nghiệp/lao động giảm dần qua các năm. So với năm 2006, diện tích đất tự nhiên/người năm 2007 giảm 1,97%, diện tích đất nông nghiệp giảm 4,24% và diện tích đất nông nghiệp/lao động giảm 3,05%. Giảm đất sản xuất nông nghiệp cho mục đích CNH-HĐH và đô thị hoá là xu thế tất yếu, tuy nhiên điều này kéo theo tình trạng mất việc làm, chuyển đổi nghề, di chuyển nơi làm việc, thất nghiệp của lao động nông nghiệp, nông thôn. 3.1.3 Điều kiện kinh tế - xã hội Những năm qua, Bình Giang đang từng bước phát về kinh tế - xã hội. Tổng giá trị sản xuất có tốc độ tăng hàng năm và ổn định qua nhiều năm. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng là 8,9%. Năm 2006, 2007 tốc độ tăng trưởng là 10,43 và 10,38%. Tuy nhiên xét theo ngành thì tốc độ phát triển tổng giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp năm 2007 chỉ đạt 5,65%, trong khi con số này của ngành công nghiệp – xây dựng là 16,53% và thương mại - dịch vụ là 11,50%. Bảng 3.2 Giá trị sản xuất của huyện năm 2005-2007 Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số lượng (triệu đồng) Cơ cấu (%) Số lượng (triệu đồng) Cơ cấu (%) Số lượng (triệu đồng) Cơ cấu (%) Tổng giá trị SX 781.100 100,00 862.625 100,00 952.198 100,00 Tăng trưởng (%) 8,90 10,43 10,38 1. Nông nghiệp 353.100 45,20 371.500 43,06 392.500 41,22 Tăng trưởng (%) 4,00 5,21 5,65 1.1 Trồng trọt 264.860 75,01 247.196 66,54 251.828 64,16 1.2 Chăn nuôi -NTTS 80.613 22,83 112.973 30,41 125.051 31,86 1.3 Dịch vụ 7.627 2,16 11.331 3,05 15.621 3,98 2. CN - TTCN-GT&XD 208.000 26,00 240.500 27,88 280.248 29,43 Tăng trưởng (%) 17,50 15,63 16,53 3. Thương mại & DV 225.000 28,80 250.626 29,06 279.450 29,35 Tăng trưởng (%) 9,86 11,39 11,50 Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH từ năm 2005 đến năm 2007 của UBND huyện Bình Giang. Cơ cấu kinh tế của huyện Bình Giang chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng của các ngành CN&XD – TM&DV, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong tổng giá trị sản xuất. Năm 2005, cơ cấu kinh tế Nông nghiệp – CNXD – TM&DV của huyện là 45,2%, 26%, 28,8%, đến năm 2007, cơ cấu này là 41,22%, 29,43%, 29,35%. Cơ cấu giá trị ngành nông nghiệp cũng có hướng chuyển dịch theo hướng tiến bộ, cơ cấu ngành trồng trọt năm 2007 giảm 10% so với năm 2005, cơ cấu ngành chăn nuôi năm 2007 tăng 9,03%. Tuy nhiên giá trị ngành nông nghiệp vẫn chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi – nuôi trồng thủy sản (NTTS). Dịch vụ trong nông nghiệp không đáng kể. Sự nghiệp y tế, văn hoá, thông tin thể thao tiếp tục phát triển; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, công tác quốc phòng - quân sự địa phương được tăng cường và luôn giữ ổ định. 3.1.4 Quy mô dân số và lao động Quy mô dân số của huyện Bình Giang có sự biến động tăng qua các năm. Dân số trung bình năm 2007 tăng so với năm 2006 là 1,02% một phần là tăng dân số tự nhiên 0,95% và tăng cơ học ở các cụm công nghiệp, làng nghề. Dân số ở khu vực nông thôn của huyện chiếm tỷ lệ cao, hàng năm trên 95%; số lượng nữ giới cao hơn nam giới, hàng năm tỷ lệ nữ giới chiếm trên 51%. Với mức tăng dân số như trên sẽ thuận lợi cho việc cung cấp nhân lực cho sản xuất và có nguồn lực dự trữ dồi dào. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế chưa phát triển đồng bộ sẽ gây khó khăn cho việc đáp ứng các nhu cầu cho chất lượng cuộc sống người dân và các vấn đề xã hội khác. Bảng 3.3 Dân số huyện phân theo khu vực, giới tính Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1. Tổng dân số (người) 105.715 106.752 107.838 Tỷ lệ tăng tự nhiên (%) 0,96 0,96 1,02 Dân số theo KV Thành thị SL (người) 3.512 3.793 5.326 CC (%) 3,33 3,55 4,94 Nông thôn SL (người) 102.194 102.959 102.512 CC (%) 96,67 96,45 95,06 DS theo giới tính Nam SL (người) 50.998 51.290 52.117 CC (%) 48,24 48,05 48,33 Nữ SL (người) 54.717 55.462 55.721 CC (%) 51,76 51,95 51,67 2. Lực lượng lao động (người) 61.499 61.656 61.956 Tỷ lệ tăng lực lượng lao động (%) 0,38 0,26 0,49 3.Tỷ lệ LĐ với dân số (%)=2/1 * 100% 58,17 57,76 58,38 Nguồn: Phòng Thống kê huyện Lực lượng lao động của huyện bao gồm những người đủ năng lực hành vi, từ 15-60 đang làm việc hoặc đang thất nghiệp. Lực lượng này hàng năm đều tăng và chiếm từ 57,76% - 58,38% dân số. 3.1.4 Đặc điểm của các xã nghiên cứu Chúng tôi chia huyện Bình Giang làm 2 khu vực: Khu vực I gồm xã Tráng Liệt, Hưng Thịnh; Khu vực II gồm 2 xã Thái Dương và Thái Hoà. - Xã Tráng Liệt: Tráng Liệt là một xã nằm bao quanh thị trấn Kẻ Sặt, có đường Quốc lộ 38, tỉnh lộ 392 đi qua. Giai đoạn 2000 - 2005, xã được ưu tiên quy hoạch phát triển cụm công nghiệp làng nghề. Điều này đã tạo cho xã một lợi thế lớn cho lao động của xã chuyển sang nghề phi nông nghiệp và phát triển kinh doanh, thương mại và dịch vụ. Ngoài ra, đây cũng là vùng thí điểm sản xuất rau sạch của huyện tạo điều kiện thuận lợi cho người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao thu nhập. - Xã Hưng Thịnh: Được ưu tiên phát triển cụm công nghiệp do xã có đườn._. nhiều hơn người lớn tuổi, nên thuận lợi hơn khi tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp. Bằng phương pháp tính điểm như đã nêu ở mục 4.2.2 ta có thể thấy rõ hơn về những lý do mà lực lực lượng bổ sung trẻ này tham gia vào hoạt động phi nông nghiệp. Ở khu vực I, lý do có chuyên môn kỹ thuật là lý do chính lao động trẻ làm việc sau năm 2005 ở khu vực I có việc làm phi nông nghiệp, sau đó là các lý do: nhu cầu tuyển dụng tăng, nhu cầu dịch vụ tăng, thu nhập từ nông nghiệp thấp, thiếu việc làm trong nông nghiệp và có nghề truyền thống. Ngoài ra, ở khu vực này tư tưởng của chủ hộ mong muốn con cái trưởng thành có việc làm phi nông nghiệp cũng là một lý do khiến lao động trẻ ở khu vực này có nghề phi nông nghiệp với 30,77% (4/13) lao động trẻ được hỏi bị ảnh hưởng bởi tư tưởng này của bố mẹ. Bảng 4.18 Lý do chọn nghề phi nông nghiệp của lao động trẻ khu vực I Lý do Quan trọng nhất Quan trọng hai Quan trọng ba Tổng tần suất Tổng điểm Điểm trung bình 1. Nghề truyền thống 2 2 7 11 17 1,55 2. Thu nhập từ NN thấp 1 4 2 7 13 1,86 3. Thiếu việc làm trong NN 2 1 0 3 5 1,67 4. Nhu cầu tuyển dụng tăng 2 3 2 7 14 2,00 5. Nhu cầu dịch vụ tăng 2 3 2 7 14 2,00 6. Có trình độ chuyên môn 4 0 0 4 12 3,00 Tổng 13 13 13 Nguồn: Số liệu điều tra Ở khu vực II, lý do quan trọng nhất khiến lao động trẻ chọn nghề phi nông nghiệp là do thu nhập từ nông nghiệp thấp sau đó là các lý do như: Có trình độ chuyên môn, Thiếu việc làm trong nông nghiệp, nhu cầu tuyển dụng tăng và nhu cầu dịch vụ tăng. Bảng 4.19 Lý do chọn nghề phi nông nghiệp của lao động trẻ khu vực II Lý do Quan trọng nhất Quan trọng hai Quan trọng ba Tổng tần suất Tổng điểm Điểm trung bình 1. Thu nhập từ NN thấp 9 1 2 12 31 2,58 2. Thiếu việc làm trong NN 3 9 4 17 31 1,82 3. Nhu cầu tuyển dụng tăng 2 5 9 16 25 1,56 4. Nhu cầu dịch vụ tăng 0 1 1 2 3 1,50 5. Có trình độ chuyên môn 3 1 1 5 12 2,4 Tổng 17 17 17 Nguồn: Số liệu điều tra Những lao động trẻ có điều kiện, cơ hội nâng cao trình độ và thay đổi nghề nghiệp hơn người lớn tuổi; đổng thời bố mẹ của một số lao động trẻ này có tư tưởng muốn con cái thoát nghề nông nên đã trang bị cho con cái những điều kiện cần thiết (trình độ văn hoá, chuyên môn) định hướng nghề cho nhóm lao động trẻ. Nhiều tuổi dẫn đến hạn chế trong việc tham gia các khoá đào tạo để chuyển nghề do e ngại và quá tuổi được tuyển dụng vào làm việc khiến họ chấp nhận điều kiện làm việc hiện tại. Nguyên nhân khác được phát hiện khiến lao động ở hai khu vực chuyển từ việc làm nông nghiệp sang phi nông nghiệp là do sản xuất nông nghiệp không ổn định, rủi ro cao với 57/74 ý kiến (77,03%). b. Ảnh hưởng về tuổi của người lao động đến khả năng di chuyển địa điểm làm việc Qua bảng 4.20 ta thấy, số lao động di chuyển ra làm việc ngoài huyện có đến 82,35% (14/17) lao động ở nhóm tuổi dưới 30 chia đều cho 2 khu vực, nhóm tuổi từ 30 - 45 có tỷ lệ lao động di chuyển ra làm việc ngoài huyện chiếm 17,65%, không có lao động ở nhóm tuổi trên 45 dịch chuyển ra làm việc ngoài huyện. Ở nhóm tuổi trên 30, đặc biệt là nhóm tuổi từ 45-65 có đến 98,59% (70/71) lao động đã và sẽ làm việc trên địa bàn huyện (trong đó: 45 lao động ở khu vực II và 25 lao động ở khu vực I). Đối với lực lượng lao động không di chuyển nhưng đã ra làm việc ở ngoài huyện nhóm tuổi dưới 30 cũng chiếm tới 66,67%. Bảng 4.20 Tuổi của lao động theo nơi làm việc Các chỉ tiêu Dưới 30 tuổi Từ 30 - 45 tuổi Từ 46 -60 tuổi Chung SL (người) CC (%) SL (người) CC (%) SL (người) CC (%) SL (người) CC (%) I. Lao động bổ sung 34 100 0 0 0 0 34 100 1. Trong huyện 28 0 0 28 - Khu vực I 10 0 0 10 - Khu vực II 18 0 0 18 2. Ngoài huyện 6 0 0 6 - Khu vực I 4 0 0 4 - Khu vực II 2 0 0 2 II. Lao động o dịch chuyển 48 24,62 76 38,97 71 36,41 195 100 1. Trong huyện 42 74 70 186 - Khu vực I 25 33 25 83 - Khu vực II 17 41 45 103 2. Ngoài huyện 6 2 1 9 - Khu vực I 4 1 1 6 - Khu vực II 2 1 0 3 III Lao động dịch chuyển 14 82,35 3 17,65 0 0 17 100 - Khu vực I 7 1 0 8 - Khu vực II 7 2 0 9 Tổng 96 39,02 79 32,11 71 28,87 246 100,00 Nguồn: Phân tích từ số liệu điều tra Như vậy, người nhiều tuổi sẽ rất hạn chế đến khả năng di chuyển địa điểm làm việc ra ngoài huyện. Lao động trẻ thì có xu hướng tham gia làm việc và có tỷ lệ dịch chuyển ra ngoài huyện nhiều hơn người lớn tuổi. 4.3.2.4 Giới tính của người lao động a. Ảnh hưởng của giới tính đến khả năng dịch chuyển lao động theo ngành. Tại thời điểm điều tra số lượng nữ giới tham gia làm việc nhiều hơn nam giới. Tuy vậy, qua số liệu điều tra, có sự khác biệt về đặc tính làm việc theo ngành giữa nam giới và nữ giới. Bảng 4.21 Giới tính của lao động theo ngành Các chỉ tiêu Nam Nữ Chung SL (người) CC (%) SL (người) CC (%) SL (người) CC (%) I. Lao động bổ sung 16 47,06 18 52,94 34 100 1. Nông nghiệp 1 3 4 - Khu vực I 0 1 1 - Khu vực II 1 2 3 2. Phi nông nghiệp 15 15 30 - Khu vực I 10 3 13 - Khu vực II 5 12 17 II. Lao động o dịch chuyển 58 42,03 80 57,97 138 1. Nông nghiệp 33 67 100 - Khu vực I 7 15 22 - Khu vực II 26 52 78 2. Phi nông nghiệp 25 13 38 - Khu vực I 20 9 29 - Khu vực II 5 4 9 III. Lao động dịch chuyển 47 63,51 27 36,49 74 100 1. NN → CN-TTCN 14 24 38 - Khu vực I 12 4 16 - Khu vực II 2 20 22 2. NN → TM & DV 33 3 36 - Khu vực I 28 2 30 - Khu vực II 5 1 6 Tổng 121 49,19 125 50,81 246 100,00 Nguồn: Phân tích từ số liệu điều tra Lực lượng lao động nữ giới có tới 57,97% (80/183) lao động không dịch chuyển trong đó có tới 83,75% (67/80) hoạt động nông nghiệp và chủ yếu là ở khu vực II. Số lao động bổ sung làm việc phi nông nghiệp có 64,71% nam giới, 35,29% lao động nữ giới; Số lao động dịch chuyển từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp có 63,51% lao động là nam giới, 36,49% lao động nữ giới chủ yếu ở khu vực II dịch chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (nghề may). Như vậy, nữ giới có tỷ lệ tham gia hoạt động phi nông nghiệp và tỷ lệ dịch chuyển từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp thấp hơn nam giới. Nam giới chịu trách nhiệm gánh vác gia đình, sức ép về thu nhập để có điều kiện trang trải mọi sinh hoạt, hoạt động của gia đình nên đã thúc đẩy họ tham gia việc làm phi nông nghiệp để nâng cao thu nhập. Như vậy giới tính của người lao động ảnh hưởng lớn đến khả năng dịch chuyển từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. b. Ảnh hưởng của giới tính đến khả năng di chuyển nơi làm việc của lao động Bảng 4.22 Giới tính của lao động theo nơi làm việc Các chỉ tiêu Nam Nữ Chung SL (người) CC (%) SL (người) CC (%) SL (người) CC (%) I. Lao động bổ sung 16 47,06 18 52,94 34 100 1. Trong huyện 12 16 28 - Khu vực I 7 3 10 - Khu vực II 5 13 18 2. Ngoài huyện 4 2 6 - Khu vực I 3 1 4 - Khu vực II 1 1 2 II. Lao động o dịch chuyển 91 46,67 104 53,33 195 1. Trong huyện 85 101 186 - Khu vực I 56 27 83 - Khu vực II 29 74 103 2. Ngoài huyện 6 3 9 - Khu vực I 4 2 6 - Khu vực II 2 1 3 III Lao động dịch chuyển 14 82,35 3 17,65 17 100 - Khu vực I 7 1 8 - Khu vực II 7 2 9 Tổng 121 49,19 125 50,81 246 100,00 Nguồn: Phân tích từ số liệu điều tra Qua bảng 4.22 ta thấy, mặc dù số lượng lực lượng lao động bổ sung và lực lượng lao động không dịch chuyển nữ giới cao hơn nam giới nhưng nam giới có tỷ lệ làm việc ngoài huyện cao gấp 2 lần so với nữ giới. Đối với lực lượng lao động dịch chuyển có 82,35% lao động là nam giới và chỉ có 17,65% là nữ giới. Như vậy, nam giới có khả năng làm việc và dịch chuyển ra ngoài huyện cao hơn nữ giới. Nam giới ít có sự ràng buộc về gia đình hơn nữ giới nên có điều kiện di chuyển cao hơn. 4.3.2.5 Tình trạng hôn nhân của người lao động Sự rằng buộc về hôn nhân – gia đình có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng có việc làm phi nông nghiệp của lao động. Trong số lao động điều tra, có 63,42% lao động có vợ hoặc chồng; 30,89% lao động chưa kết hôn. a. Xét theo ngành Qua bảng 4.23 cho chúng ta thấy 100% lực lượng lao động bổ sung là những người chưa kết hôn, trong đó có 88,24% (30/34) làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp. Số lao động không dịch chuyển chủ yếu là những lao động đã kết hôn (có vợ hoặc có chồng) với 89,86%. Lực lượng lao động này có tới 70,97% (88/124) hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và khu vực II chiếm đến 77,27% (68/88). Lực lượng lao động chuyển dịch từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp có đến 54,04% lao động chưa có gia đình cao hơn lệ những người có vợ hoặc chồng chuyển dịch là 10,8%. Như vậy có thể nói, tình trạng hôn nhân của gia đình cũng ảnh hưởng đến khả năng dịch chuyển ngành của lao động. Người chưa kết hôn có khả năng tham gia các ngành phi nông nghiệp nhiều hơn và có tốc độ chuyển dịch từ nông sang phi nông nghiệp mạnh hơn so với những người đã kết hôn (có vợ/chồng). Bảng 4.23 Tình trạng hôn nhân của lao động theo ngành và nơi làm việc Các chỉ tiêu Có vợ/chồng Ly dị - Goá Chưa kết hôn Chung SL (người) CC (%) SL (người) CC (%) SL (người) CC (%) SL (người) CC (%) A. Theo ngành I. Lao động bổ sung 0 0 0 0 34 100 34 100 1. Nông nghiệp 0 0 4 4 2. Phi nông nghiệp 0 0 30 30 II. Lao động o dịch chuyển 124 89,86 12 8,70 2 1,44 138 100 1. Nông nghiệp 88 11 1 100 2. Phi nông nghiệp 36 1 1 38 III. Lao động dịch chuyển 32 43,24 2 2,71 40 54,04 74 1. NN → CN-TTCN 18 1 19 38 2. NN → TM & DV 14 1 21 36 B. Theo nơi làm việc I. Lao động bổ sung 0 0 34 100 34 100 1. Trong huyện 0 0 28 28 2. Ngoài huyện 0 0 6 6 II. Lao động o dịch chuyển 156 80,00 12 6,15 27 13,85 195 100 1. Trong huyện 154 10 22 186 2. Ngoài huyện 2 2 5 9 III Lao động dịch chuyển 0 0 2 11,76 15 88,24 17 100 - Khu vực I 0 1 7 8 - Khu vực II 0 1 8 9 Tổng 156 63,42 14 5,69 76 30,89 246 100,00 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra b. Theo nơi làm việc Qua bảng số liệu điều tra cũng cho thấy, lực lượng lao động bổ sung chưa kết hôn cũng có khả năng làm việc ngoài huyện, nhưng với tỷ lệ là 18,52% (5/27) điều này phù hợp với sự phân tích về tình hình dịch chuyển lao động ra ngoài huyện là ít. Về tình hình dịch chuyển nơi làm việc, người chưa kết hôn tham gia dịch chuyển tới 88,24%. Lao động đang sinh sống với vợ/chồng hầu hết làm việc ở địa bàn huyện, chỉ có 1,28% (2/156) là đã làm việc ngoài huyện. Người đã kết hôn thường bị rằng buộc về mối quan hệ gia đình (vợ/chồng con) nên khả năng di chuyển ra làm việc ngoài huyện ít hơn những người chưa có gia đình. Thực tế cho thấy khi có gia đình sẽ hạn chế cơ hội làm ở các doanh nghiệp nhất là nữ giới và việc làm xa nhà (do thời gian làm ở các doanh nghiệp trên địa bàn và khu vực lân cận rất khắt khe và phải làm theo ca). 4.3.3 Các yếu tố về hộ gia đình 4.3.3.1 Diện tích đất nông nghiệp của hộ Qua bảng 4.25 ta thấy những hộ có ít đất nông nghiệp (dưới 4 sào) có lao động chuyển dịch sang phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao hơn. Hộ ít đất có lao động chuyển dịch chiếm đến 76,00% (38/50) và hộ nhiều đất có lao động chuyển dịch chỉ chiếm tỷ lệ 11,11% (2/18). Trong 68 hộ có lao động chuyển dịch thì có đến 55,88% hộ có ít đất nông nghiệp và chủ yếu ở khu vực I (42/68); Số hộ có diện tích đất trung bình (4-7 sào) cũng có tỷ lệ chuyển dịch là 41,18%, số hộ có trên 7 sào đất nông nghiệp có tỷ lệ chuyển dịch thấp hơn nhiều (2,94%) và đều thuộc những hộ ở khu vực I. Cũng qua bảng 4.25 ta cũng thấy được rằng có đến 82,35% số hộ ít đất có lao động dịch chuyển ra ngoài huyện làm việc, không hộ nào nhiều đất có lao động chuyển dịch. Đất là một tư liệu sản xuất không thể thiếu của người dân nông thôn. Thiếu đất hoặc không có đất người dân sẽ thiếu hoặc sẽ không có tư liệu sản xuất và dẫn đến thiếu hoặc mất việc làm. Để có việc làm người lao động sẽ phải tìm kiếm việc phi nông nghiệp hoặc phải đi nơi khác làm việc. Bảng 4.24 Diện tích đất nông nghiệp của hộ theo ngành và nơi làm việc Các chỉ tiêu Có dưới 4 sào Có từ 4-7 sào Có trên 7 sào Chung SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) Tổng số hộ 50 52 18 120 A. Theo ngành I. Hộ có lao động chuyển dịch 38 55,88 28 41,18 2 2,94 68 100 1. NN → CN-TTCN 21 13 1 35 - Khu vực I 8 6 0 14 - Khu vực II 13 7 1 21 2. NN → TM & DV 17 15 1 33 - Khu vực I 14 12 1 27 - Khu vực II 3 3 0 6 II. Hộ o có lao động chuyển dịch 12 23,08 24 46,15 16 30,77 52 100 - Khu vực I 7 7 5 19 - Khu vực II 5 17 11 33 B. Theo nơi làm việc I. Dịch chuyển 14 82,35 3 17,65 0 0 17 100 - Khu vực I 7 1 0 8 - Khu vực II 7 2 0 9 II. Không dịch chuyển 36 49 18 103 100 - Khu vực I 22 24 6 52 - Khu vực II 14 25 12 51 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra Qua đó có thể thấy rằng diện tích đất sản xuất nông nghiệp của hộ sẽ quyết định khả năng tham gia việc làm phi nông nghiệp và sự chuyển dịch từ lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp càng ít hộ càng chịu sức ép về giải quyết việc làm cho lao động trong hộ, và đây chính là yếu tố “đẩy” người lao động trong hộ ra khỏi khu vực nông nghiệp. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp ở huyện Bình Giang còn ở quy mô nhỏ do đó người dân chủ yếu sống dựa vào đất nông nghiệp với hình thức qui mô hộ. Với sức ép khi bị thu hồi đất ở khu vực I, những người dân mất đất buộc phải tìm cho mình một công việc mới. Tuy nhiên trình độ văn hoá, chuyên môn còn hạn chế nên những nghề mới của họ chỉ dựa vào những nghề đơn giản như buôn bán, kinh doanh và vừa học vừa làm tại các xưởng sản xuất. 4.3.3.2 Thu nhập của hộ Do điều kiện phát triển kinh tế của huyện tăng trưởng khá, ổn định nên tại các hộ điều tra số hộ khá chiếm tới 40,83% và số hộ nghèo chỉ còn 9,17% (Bảng 4.25). Bảng 4.25 Ảnh hưởng do thu nhập của hộ Các chỉ tiêu Hộ khá Hộ trung bình Hộ nghèo Chung SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) Tổng số hộ 49 40,83 60 50,00 11 9,17 120 100 A. Theo ngành I. Hộ có lao động chuyển dịch 38 55,88 28 41,18 2 2,94 68 100 1. NN → CN-TTCN 19 15 1 35 - Khu vực I 7 7 0 14 - Khu vực II 12 8 1 21 2. NN → TM & DV 19 13 1 33 - Khu vực I 17 9 1 27 - Khu vực II 2 4 0 6 II. Hộ o có lao động chuyển dịch 11 32 9 52 100 - Khu vực I 5 10 4 19 - Khu vực II 6 22 5 33 B. Theo nơi làm việc I. Dịch chuyển 9 52,94 7 41,18 1 5,88 17 100 - Khu vực I 6 1 1 8 - Khu vực II 3 6 0 9 II. Không dịch chuyển 40 53 10 103 100 - Khu vực I 23 26 3 52 - Khu vực II 17 27 7 51 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra Về chuyển dịch theo ngành: Số hộ khá có lao động dịch chuyển cao nhất với tỷ lệ chuyển dịch chiếm tới 55,88%, hộ trung bình có lao động chuyển dịch là 41,18%, hộ nghèo ít có lao động chuyển dịch. Về chuyển dịch nơi làm việc, số hộ khá có lao động dịch chuyển ra ngoài huyện làm việc cũng cao nhất (52,94%), số hộ nghèo chiếm tỷ lệ ít nhất. Những hộ khá thường có lao động chuyển dịch hoặc đã làm việc phi nông nghiệp, hoặc đi làm việc ở ngoài huyện bởi hầu hết những lao động chuyển dịch này thu nhập của họ cao hơn so với ở nông nghiệp và ở huyện. Mặt khác những hộ khá và trung bình có lao động chuyển dịch từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp và dịch chuyển ra làm việc ngoài huyện là vì những hộ này có điều kiện để đầu tư (nâng cao trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn) cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi (vốn, cơ sở vật chất) cho người lao động trong hộ hơn những hộ nghèo. Như vậy, những hộ nghèo thường ít có lao động chuyển dịch hơn những hộ trung bình và hộ khá. 4.3.3.3 Số nhân khẩu của hộ Những hộ gia đình có quy mô lớn sẽ có thể có nhiều điều kiện hơn về lao động và vì thế dễ dàng chuyển đổi hơn, đồng thời quy mô hộ lớn trong sản xuất nông nghiệp đồng nghĩa với sức ép về việc làm lớn hơn cho hộ gia đình vì vậy buộc hộ gia đình phải đa dạng hóa sang phi nông nghiệp, hoặc dịch chuyển lao động đi làm việc ở khu vực khác. Qua bảng 4.26 ta thấy, xét về tỷ lệ hộ có lao động chuyển dịch, hộ có số khẩu trung bình thì chiếm tỷ lệ chuyển dịch cao nhất với 61,77%, số hộ nhiều khẩu chiếm tỷ lệ chuyển dịch là 33,82% và số hộ có ít khẩu có tỷ lệ chuyển dịch thấp nhất 4,41%. Xét về bản chất từng nhóm hộ, thì số hộ nhiều khẩu có tỷ lệ chuyển dịch mạnh nhất và có đến 95,83% (23/24) hộ chuyển dịch; ở nhóm hộ trung bình thì tỷ lệ chuyển dịch là 54,55%, và ở nhóm hộ ít khẩu là 15,79% (3/19). * Về chuyển dịch nơi làm việc: Những hộ nhiều khẩu chiếm tỷ lệ chuyển dịch nhiều nhất với 76,47% tổng số hộ dịch chuyển và cũng có tỷ lệ chuyển dịch mạnh nhất với 54,17% (13/24) tổng số hộ nhiều khẩu, hộ trung bình chiếm tỷ lệ ít hơn và hộ ít khẩu thì chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Bảng 4.26 Tình hình nhân khẩu của hộ Các chỉ tiêu Hộ có ít khẩu (dưới 4 khẩu) Hộ trung bình (4 - 5 khẩu) Hộ nhiều khẩu (trên 5 khẩu) Chung SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) Tổng số hộ 19 15,80 77 64,17 24 20,00 120 A. Theo ngành I. Hộ có lao động chuyển dịch 3 4,41 42 61,77 23 33,82 68 100 1. NN → CN-TTCN 1 19 15 35 - Khu vực I 0 9 5 14 - Khu vực II 1 10 10 21 2. NN → TM & DV 2 23 8 33 - Khu vực I 2 19 6 27 - Khu vực II 0 4 2 6 II. Hộ o có lao động chuyển dịch 16 35 1 52 100 - Khu vực I 13 6 0 19 - Khu vực II 3 29 1 33 B. Theo nơi làm việc I. Dịch chuyển 1 5,88 3 17,65 13 76,47 17 100 1.Khu vực I 1 2 5 8 2. Khu vực II 0 1 8 9 II. Không dịch chuyển 18 17,48 74 71,84 11 10,68 103 100 1. Khu vực I 14 32 6 52 2. Khu vực II 4 42 5 51 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra Như vậy, hộ có số nhân khẩu nhiều thì tỷ lệ chuyển dịch mạnh hơn hộ có số nhân khẩu trung bình và ít. 4.4 Đánh giá chung về thực trạng chuyển dịch lao động nông thôn tại huyện Bình Giang 4.4.1 Về tình hình dịch chuyển lao động nông thôn Tỷ lệ nhân khẩu trong độ tuổi lao động hiện nay tham gia lao động ngày càng tăng. Lao động chuyển dịch khá nhanh từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp. Cơ cấu lao động làm việc theo ngành của khu vực nông thôn huyện Bình Giang chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Năm 2007, tỷ trọng lao động trong ngành Nông nghiệp giảm 31,46% so với năm 2005 tỷ trọng lao động trong ngành Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp - xây dựng, Thương mại - dịch vụ tăng lần lượt là 11,46% và 14,03%. Lao động khu vực I có tốc độ chuyển dịch từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp nhanh hơn khu vực II. Tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm 49,38% (từ 70,10% năm 2005 xuống còn 20,72%). Lao động ở khu vực này chủ yếu chuyển sang lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Ở thời điểm điều tra tỷ lệ lao động làm lĩnh vực này tăng lên 30,5% so với năm 2005, từ 12,74% (12/97) lên 43,24% (48/111). Ở khu vực II tỷ lệ lao động có việc làm từ nông nghiệp giảm từ 92,17% năm 2005 xuống còn 60,74% vào thời điểm điều tra. Lao động ở khu vực này chủ yếu chuyển sang lĩnh vực Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp – xây dựng (CN-TTCN-XD), tỷ lệ lao động trong lĩnh vực CN-TTCN-XD tăng 25,89%, từ 5,22% (6/115) lên 31,11% (41/135). Lao động di chuyển ít ra ngoài huyện. Năm 2005, tỷ lệ lao động làm việc trên địa bàn huyện là 95,43%, đến năm 2007 tỷ lệ lao động làm việc trên địa bàn huyện là 88%. Như vậy, tỷ lệ lao động trên địa bàn huyện giảm; đồng thời tỷ lệ lao động làm việc ngoài huyện có xu hướng tăng. Trong số lao động điều tra, chỉ có 2,96% (4/135) lao động nông thôn ở khu vực II đang làm việc ở tỉnh khác - số này chủ yếu là thợ kim hoàn lên Hà Nội để làm việc. Lao động chủ yếu làm việc trên địa bàn huyện hoặc di chuyển đến thành phố Hải Dương để làm việc. Lao động nông thôn ở huyện Bình Giang có tỷ lệ thất nghiệp là 6,29%, trong khi đó ở khu vực I chiếm tới 10,90%. Quá trình công nghiệp hoá dẫn đến đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, qui mô và trình độ chuyên môn của lao động nông thôn còn thấp so với nhu cầu của thị trường. Đây là nguyên nhân làm cho gia tăng tỷ lệ lao động thất nghiệp ở khu vực I khi không còn đất sản xuất và sự yếu kém trong công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm ở địa phương. Khu vực II có tốc độ chuyển dịch chậm hơn khu vực I do không có nhiều lợi thế như khu vực I; sản xuất nông nghiệp ở khu vực này còn trì trệ, chưa thực sự chuyển đổi để nâng cao thu nhập cho hộ. Khu vực I có nhu cầu dịch vụ phát triển nhanh do ảnh hưởng của việc hình thành các khu dân cư, các cụm công nghiệp. Tỷ lệ lao động chuyển từ nông nghiệp sang thương mại - dịch vụ khá lớn 30,5%, nhưng chủ yếu là buôn bán nhỏ. Những dịch vụ ăn theo các khu dân cư, cụm công nghiệp trên phát triển một cách tự phát, chưa có sự qui hoạch và quản lý đồng bộ của chính quyền nên tính bền vững không cao, tiềm ẩn bất ổn về an ninh trật tự và an toàn xã hội. 4.4.2 Về các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình dịch chuyển lao động Quá trình chuyển dịch lao động nông thôn là cách nói chung nhưng bao gồm nhiều quá trình chuyển dịch lao động khác nhau ở khu vực nông thôn. Loại chuyển dịch cơ động nông thôn quan trọng nhất và có nhiều ý nghĩa nhất là chuyển dịch lao động giữa nông nghiệp với phi nông nghiệp và sự di chuyển lao động ra ngoài khu vực. Có nhiều yếu tố tác động và cơ chế tác động của các yếu tố này đến quá trình chuyển dịch lao động nông thôn khá phức tạp. * Chính sách phát triển kinh tế của huyện như chính sách phát triển nông nghiệp, phát triển các cụm công nghiệp - khu dân cư, phát triển thương mại dịch vụ cũng tác động đến sự dịch chuyển lao động nông thôn. Đây là những yếu tố vừa kéo, vừa đẩy người lao động hoạt động phi nông nghiệp cũng như nơi làm việc của lao động. * Các yếu tố về bản thân người lao động - Trình độ giáo dục (văn hoá - chuyên môn) có ảnh hưởng đến khả năng chuyển dịch của lao động. Ở mức độ vĩ mô, chất lượng của lực lượng lao động nông thôn có tác động tương đối lớn đến tốc độ chuyển dịch. Xu hướng chung là trình độ giáo dục của lao động càng cao thì khả năng chuyển dịch của lao động càng lớn. - Giới tính của lao động: Yếu tố giới cũng có ảnh hưởng đến khả năng chuyển dịch. Nam giới có nhiều khả năng chuyển dịch lao động hơn nữ giới. - Tuổi của lao động: Kết quả nghiên cứu cho thấy, xu hướng chung là tuổi của lao động càng trẻ thì khả năng chuyển dịch lao động càng cao hơn. - Sự rằng buộc về hôn nhân – gia đình có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng có việc làm phi nông nghiệp của lao động, người chưa kết hôn thì khả năng chuyển dịch lao động càng cao hơn. * Các yếu tố về hộ - Yếu tố diện tích đất nông nghiệp của hộ có ảnh hưỏng đến quá trình chuyển dịch lao động nông nghiệp – phi nông nghiệp. Người lao động có đất nông nghiệp lớn hơn có xu hướng chuyển dịch lao động nông nghiệp – phi nông nghiệp thấp hơn và ngược lại sức ép chuyển dịch lao động sang khu vực phi nông nghiệp tăng lên khi đất đai SXNN của họ quá hạn hẹp. Trong trường hợp này đất đai là yếu tố “đẩy” đối với quá trình chuyển dịch lao động. - Thu nhập của hộ gia đình và chênh lệch về thu nhập giữa hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp của lao động là yếu tố tiếp theo ảnh hưởng đến khả năng lao động nông thôn chuyển dịch. Những hộ khá thường có lao động chuyển dịch. Thu nhập nông nghiệp cao thì khả năng chuyển dịch của lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp giảm xuống và ngược lại. Đây là một trong những yếu tố “kéo” cơ bản đối với quá trình chuyển dịch lao động nông thôn. - Số nhân khẩu/hộ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chuyển dịch lao động, nhiều khẩu sẽ có sức ép về việc làm trong hộ lớn hơn do đó khả năng dịch chuyển của lao động trong hộ cũng lớn hơn. 4.5 Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tích cực quá trình chuyển dịch lao động nông thôn tại huyện Bình Giang 4.5.1 Phát triển giáo dục và đào tạo nghề Chú trọng công tác giáo dục nhằm nâng cao trình độ dân trí cho người lao động, nhất là khu vực thuần nông. Trình độ văn hoá là điều kiện cần thiết để người lao động tiếp tục trang bị trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng nghề nghiệp để áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh. Công tác đào tạo nghề phải tăng nhanh cả về quy mô, chất lượng hiệu quả và tạo ra cơ cấu lao động hợp lý. Phát triển đào tạo nghề phải gắn với ngành kinh tế, khu vực kinh tế, vùng dân cư và gắn với thị trường lao động theo quan hệ cung cầu trên địa bàn huyện. Vì trình độ văn hoá của lao động nông thôn huyện Bình Giang còn thấp nên khó tham gia các khoá đào tạo chuyên môn cao. Do đó hình thức đào tạo nghề ngắn hạn là phù hợp để lao động nông thôn trang bị chuyên môn. Tuy nhiên đào tạo nghề phải gắn với với việc làm nên thực hiện đào tạo theo địa chỉ vì đây là hình thức đào tạo đem lại hiệu quả cao. Đào tạo nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp hoặc dưới hình thức vừa học vừa làm tại các doanh nghiệp tỷ lệ lao động có việc làm sau khi đào tạo là rất cao. Song về lâu dài cũng phải chú trọng đến công tác đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động, đặc biệt là lao động trẻ. Thực hiện xã hội hoá công tác đào tạo nghề nhằm thu hút mọi nguồn lực cho các hoạt động đào tạo nghề, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gai đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có cơ hội học nghề và tìm kiếm việc làm. 4.5.2 Quy hoạch các cụm công nghiệp, chợ và khu dân cư mới gắn với giải quyết việc làm cho người lao động Diện tích đất nông nghiệp của các hộ khu vực I bị thu hẹp có tác động khá rõ nét thúc đẩy người lao động chuyển đổi việc làm từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Vì vậy, cần bố trí quy hoạch công nghiệp, các chợ phân tán trên địa bàn có nhu cầu bức xúc về việc làm, vì bố trí quy hoạch công nghiệp, các chợ ảnh hưởng mạnh tới chuyển dịch lao động. Chính sách chuyển dịch lao động nông thôn gắn liền với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và đô thị hoá. Quá trình này đồng nghĩa với quá trình giảm đất nông nghiệp để chuyển sang mục đích sử dụng khác. Ngoài chính sách đề bù khi thu hồi đất cần có giải pháp hỗ trợ về đào tạo nghề, chuyển đổi nghề và ưu tiên cho lao động địa phương vào làm việc tại các doanh nghiệp. 4.5.3 Phát triển mạnh kinh tế hộ và kinh tế trang trại ở khu vực thuần nông (khu vực II) Tiếp tục có các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá, chuyển hướng sang các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường nhằm nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Tuy nhiên cũng phải làm tốt công tác tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật và có định hướng tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Phải chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực bao gồm cả số lượng, chất lượng lao động và tác phong làm việc công nghiệp, kỹ năng ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ sạch. 4.5.4 Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp Phải có quy hoạch hợp lý các cụm công nghiệp, khu dân cư và có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp đặt cơ sở sản xuất kinh doanh đặt cơ sở trên địa bàn các xã chủ yếu làm nông nghiệp, dân số đông. Các doanh nghiệp này sẽ là cơ sở để giải quyết lao động nông nhàn và chuyển dịch lao động sang khu vực phi nông nghiệp. 4.5.5 Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động, có quy định cụ thể hơn về tính minh bạch và công khai hoá quá trình tuyển dụng đối với tất cả các cơ quan, doanh nghiệp để tạo cơ hội cạnh tranh bình đẳng giữa người lao động. PHẦN 5. KẾT LUẬN 5.1 Tỷ lệ nhân khẩu trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động tăng. Tuy nhiên khu vực I xuất hiện nhiều lao động thất nghiệp do không thể tìm được việc làm trong khi đất sản xuất bị thu hẹp. 5.2 Lao động chuyển dịch khá nhanh từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp. Khu vực II có tốc độ chuyển dịch lao động sang khu vực phi nông nghiệp chậm hơn khu vực I. Lao động chủ yếu làm việc trên địa bàn huyện, một số ít lao động ở khu vực II làm việc ra ngoài tỉnh. 5.3 Chuyển dịch lao động nông nghiệp sang nghề phi nông nghiệp là hướng đi đúng đắn để giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Dịch chuyển lao động đến những vùng đô thị để được làm việc trong môi trường lao động ổn định, có thu nhập cao giúp hộ giải quyết tình trạng thiếu việc làm cho lao động trong hộ. 5.4 Nguyên nhân quan trọng nhất khiến người lao động ở khu vực I thất nghiệp là do không có đất sản xuất còn ở khu vực II là trình độ văn hoá thấp và thiếu thông tin việc làm. Thất nghiệp không phải là vấn đề cần quan tâm ở khu vực II mà vấn đề chính là thiếu việc làm và việc làm có thu nhập không cao. Ở khu vực I, lý do quan trọng khiến người lao động chuyển sang nghề phi nông nghiệp chính là không còn đất sản xuất nông nghiệp và ở khu vực II là thu nhập từ nông nghiệp thấp. 5.5 Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tình hình chuyển dịch lao động nông thôn huyện Bình Giang: Chính sách phát triển kinh tế của huyện; các yếu tố về bản thân người lao động (trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, tuổi, giới, tình trạng hôn nhân); các yếu tố về hộ (diện tích đất nông nghiệp, mức thu nhập và số nhân khẩu của hộ). 5.6 Một số giải pháp nhằm tác động tích cực đến chuyển dịch lao động nông thôn huyện Bình Giang: Chính quyền huyện Bình Giang cần chú trọng hơn trong công tác giáo dục và đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đặc biệt là lao động trẻ và lao động khu vực bị giải toả đất nông nghiệp; Cần hoàn thiện chính sách thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, các chính sách đầu tư, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở huyện theo quy hoạch và lợi thế so sánh của từng xã và thu hút nhiều lao động; Hoàn thiện chính sách thông tin thị trường lao động. Các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc đào tạo cho người lao động cả về quy mô và cơ cấu nghề; người lao động cần tích cực, chủ động hơn trong đào tạo nghề và tìm việc làm. Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Tr­êng ®¹i häc N«ng nghiÖp hµ néi ---------------  Vò ngäc ch©u Nghiªn cøu c¸c yÕu tè ¶nh h­ëng ®Õn t×nh h×nh chuyÓn dÞch lao ®éng n«ng th«n t¹i huyÖn B×nh Giang, tØnh H¶i D­¬ng luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ n«ng nghiÖp M· sè: 60.31.10 Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: ts. NguyÔn mËu dòng   Hµ néi – 2008 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVTN cao hoc.doc
Tài liệu liên quan