Nghiên cứu các thành phần kinh tế ở Việt Nam và sự hình thành các Tổng Công ty và tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986. Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạ

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu các thành phần kinh tế ở Việt Nam và sự hình thành các Tổng Công ty và tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội. Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do vậy, đến nay nền kinh tế của Việt Nam đã có những bước chuyển biến rõ rệt và đang trên đà phát triển thành một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo con đường xã hội chủ nghĩa. Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo ra khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Năm 1991 Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ra đời. Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng của nền kinh tế thị trường đã được hình thành tại Việt Nam như Luật đất đai, Luật thuế, Luật phá sản, Luật môi trường, Luật lao động và hàng trăm các văn bản pháp lệnh, nghị định của chính phủ đã được ban hành nhằm cụ thể hóa việc thực hiện luật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đến năm 1995, mô hình và cơ chế hoạt động của tổng công ty chính thức được đưa vào Luật Doanh nghiệp nhà nước. Mục tiêu của mô hình tổng công ty nhà nước là nhằm xóa bỏ dần cơ chế chủ quản hành chính, tách hẳn quản lý sản xuất kinh doanh ra khỏi quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước liên kết, tập hợp lại với nhau trong “ngôi nhà” tổng công ty để trở thành những “quả đấm thép” của nền kinh tế. Một cách cụ thể, nếu như trước đây các cơ quan nhà nước như UBND các cấp, các sở, các bộ, ban ngành (cơ quan chủ quản) trực tiếp quản lý các doanh nghiệp nhà nước thì giờ đây chức năng ấy được chuyển giao cho các tổng công ty. - Tính cấp thiết của đề tài Một trong những thành tựu lớn nhất của gần 18 năm đổi mới ở Việt Nam là đổi mới kinh tế, tạo nên những tiềm lực mới cho sự phát triển của đất nước. Có được thành tựu ấy là do nhiều nguyên nhân, trong đó đổi mới tư duy kinh tế, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, gắn với thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ bản nhất. Một thời chưa xa, Việt Nam lúng túng trong nền kinh tế chỉ thừa nhận hai thành phần là quốc doanh và tập thể. Và không ít người cho rằng, chỉ có như vậy mới thực sự là xã hội chủ nghĩa. Chúng ta không phê phán một cách phi lịch sử, nhưng quan trọng là đã nhận ra những lẽ cần thiết của sự tồn tại hai thành phần kinh tế đó và những hạn chế làm kìm hãm sự phát triển của đất nước khi thực hiện nền kinh tế chỉ có hai thành phần như vậy để từ đó tìm ra cách làm ăn mới phù hợp với quy luật phát triển. Từ Đại hội VI (1986), Đảng Việt Nam đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế với nhiều hình thức rất phong phú, đa dạng và sáng tạo. Nhờ đó, chỉ sau hơn 10 năm, vẫn những con người ấy, cũng những điều kiện tự nhiên ấy, từ một đất nước thiếu ăn quanh năm, trông chờ chủ yếu vào sự viện trợ từ bên ngoài; hàng tiêu dùng khan hiếm, người lao động không có việc làm... đã trở thành một đất nước không những đủ ăn, mà còn có lương thực, thực phẩm dự trữ và đến nay xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới; nhu cầu tiêu dùng trong nước được thỏa mãn về nhiều mặt, kết cấu hạ tầng phát triển, nền kinh tế - xã hội sôi động, đất nước không ngừng phát triển. Chính nhờ đổi mới cơ chế, chính sách nhằm không ngừng phát triển các thành phần kinh tế, các tiềm năng của xã hội được khai thác, nội lực được phát huy, sức mạnh của bên ngoài được huy động. Để đạt được những thành tựu như vậy ta càng thấy rõ vai trò vô cùng quan trọng của các thành phần kinh tế của Việt nam. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và nhà nước Việt Nam chủ trương “Xây dựng nền kinh tế theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa”. Để thực hiện chủ trương này, Đảng và Nhà nước đã khẳng định: “... Phải tiếp tục duy trì và không ngừng nâng cao vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế tất yếu dẫn đến việc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước ...” Mục đích nghiên cứu: Mục đích của bài viết là căn cứ để phân chia thành phần kinh tế ở Việt Nam và sự hình thành các tổng công ty và tập đoàn kinh tế Nhà nước. Từ đó tìm ra nguyên nhân của hạn chế và đề ra các giải pháp khắc phục. - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đối tượng nghiên cứu của bài viết là căn cứ phân chia thành phần kinh tế của Viẹt Nam, nêu sự hình thành các tổng công ty và tập đoàn kinh tế Nhà nước. Bài viết tập trung xem xét các vấn đề liên quan đến kinh tế của Việt Nam và cách giải quyết của nó. - Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được dùng trong bài là: Phương pháp duy vật biện chứng, Phương pháp duy vật lịch sử, Phương pháp logic,… Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong khoa học xã hội bao gồm phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp. Chương 1: Các thành phần kinh tế của Việt Nam Chương 2: Ý nghĩa của việc nghiên cứu nền kinh tế nhiều thành phần Chương 3: Sự hình thành các tổng công ty, tập đoàn kinh tế của Việt Nam Do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh được những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đánh giá chân thành của các thầy cô. Tôi hy vọng đề tài này có thể mang lại một phương pháp tiếp cận mới với vấn đề “Các thành phần kinh tế ở Việt Nam và sự hình thành các tổng công ty và tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam” và là một tài liệu tham khảo có ích. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Thầy giáo hướng dẫn khoa học TS. Trần Viẹt Tiến để đề tài hoàn thiện hơn. CHƯƠNG 1 CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM 1. Khái niệm về thành phần kinh tế 1.1 Định nghĩa thành phần kinh tế Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ với nhau tác động lẫn nhau tạo thành cơ chế kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế. 1.2 Các thành phần kinh tế của Việt Nam Theo Văn kiện đại hội IX, nền kinh tế Việt Nam có 5 thành phần kinh tế: Kinh tế Nhà nước Kinh tế tập thể Kinh tế tư bản nhà nước Kinh tế tư nhân Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.3 Thành phần kinh tế Nhà nước Thành phần kinh tế Nhà nước là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất, kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu Nhà nước hoặc phần vốn của Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. Cơ sở hình thành: Dựa trên sở hữu công cộng mà nhà nước là chủ đại diện 1.3.1 Vai trò của kinh tế Nhà nước Mở đường của kinh tế nhà nước Lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế Là nguồn lực nuôi bộ máy nhà nước 1.3.2. Định hướng phát triển kinh tế nhà nước theo hướng phân loại và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước Xác định các doanh nghiệp công ích cần thiết, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận là chính. Những doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận tập trung kiện toàn và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiêp, doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp hoạt động tốt, có khả cạnh tranh. Mạnh dạn nghiên cứu và ứng dụng các hình thức quản lý trong các doanh nghiệp Nhà nước. Hoàn thiện hệ thống chính sách tuyển dụng, đãi ngộ, gắn trách nhiệm với quyền hạn và nghĩa vụ, sớm tiêu chuẩn các chức danh. 1.4 Thành phần kinh tế tập thể Thành phần kinh tế tập thể là sự liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với các hình thức đa dạng, linh hoạt phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham gia. Cơ sở hình thành: dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp Vai trò của kinh tế tập thể phục vụ cho kinh tế hộ và kinh tế trang trại phát triển và thu hút được vốn, lao động cho quá trình sản xuất kinh doanh. tập trung được vốn nhà rỗi trong dân cư, giải quyết công ăn việc làm cho lao động tại địa phương. 1.4.2 Định hướng phát triển Xây dựng và thực hiện có hiệu lực các chính sách kinh tế vĩ mô đối với kinh tế tập thể. xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất và đời sống, chính sách thị trường xuất khẩu, chế biến, giá cả, tín dụng, đào tạo cán bộ. khuyến khích làm giàu chính đáng đi đối với xoá đói giảm nghèo, từng bước công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH- HĐH). 1.5 Thành phần kinh tế tư bản nhà nước Thành phần kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác liên doanh sản xuất kinh doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài nước nhằm sử dụng, khai thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia, đặt dưới sự kiểm soát giúp đỡ của nhà nước. Cơ sở hình thành: dựa trên sở hữu hỗn hợp. 1.5.1 Vai trò của kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc huy động, sử dụng vốn kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của các nhà tư bản. 1.5.2 Định hướng phát triển Đa dạng hoá các hình thức liên kết liên doanh liên kết với các tổ chức và công ty tư bản nước ngoài. Nâng dần tỷ lệ đầu tư của phía Việt Nam. Áp dụng nhiều phương thức góp vốn kinh doanh dưới nhiều hình thức như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm tạo thế và lực cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, tăng sức cạnh tranh và hợp tác với bên ngoài. Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ quyền lợi người lao động. 1.6 Thành phần kinh tế tư nhân Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm: Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của người lao động và các hộ gia đình. Kinh tế tiểu chủ cũng dựa trên tư hữu nhỏ nhưng có thuê mướn lao động. Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghia về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động. Cơ sở hình thành: dựa trên hình thức sở hữu tư nhân 1.6.1 Vai trò của kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, là nòng cốt của một nền kinh tế. 1.6.2 Định hướng phát triền Thành phần kinh tế tư nhân khuyến khích tư nhân đầu tư vào sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, xoá bỏ định kiến, mặc cảm và nhận thức lệch lạc về tư nhân. Tăng cường công tác quản lý theo luật. 1.7 Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế mà vốn do các chủ thể kinh tế nước ngoài đầu tư. Cơ sở hình thành: dựa trên hình thức sở hữu tư bản tư nhân(100% vốn nước ngoài) và hỗn hợp (liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong nước). 1.7.1 Vai trò của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - Thu hút được vốn, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý hiện đại. - Tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động. - Tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1.7.2 Định hướng phát triển Tạo điều kiện để thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. 1.8 Cơ sở tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần Lý thuyết về quốc hữu hóa và hợp tác hóa Sự phát triển không đồng đều giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mối quan hệ giữa CSHT và KTTT Toàn cầu hóa và tính tất yếu của nó. 2. Căn cứ để phân chia thành phần kinh tế của Việt Nam Phải khẳng định trước hết nền kinh tế Việt Nam còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Điều này là do trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu. Vậy sở hữu là gì? Con người sinh ra từ tự nhiên. Để tồn tại và phát triển con người phải dựa vào tự nhiên, chiếm hữu tự nhiên để thỏa mãn nhu cầu nhất định. Do vậy, chiếm hữu biểu hiện quan hệ giữa người với tự nhiên, là hành vi gắn liền với hoạt động lao động sản xuất. Chiếm hữu là phạm trù khách quan, tất yếu, vĩnh viễn, là điều kiện trước tiên của hoạt động lao động sản xuất. Chủ thể chiếm hữu là cá nhân, tập thể, xã hội. Đối tượng của sự chiếm hữu từ buổi ban đầu của loài người là những cái có sẵn trong tự nhiên, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, các chủ thể không chỉ chiếm hữu tự nhiên mà cả xã hội, tư duy, thân thể, chiếm hữu những cái hữu hình và vô hình. Trong kinh tế, chiếm hữu không chỉ giới hạn bởi sự chiếm hữu đầu tiên (yếu tố và điều kiện của sản xuất tức sản xuất mà còn chiếm hữu qua phân phối, trao đổi và tiêu dùng). Sở hữu là hữu là hình thức xã hội của chiếm hữu trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Khái niệm chiếm hữu khái quát hơn khái niệm sở hữu. người chiếm hữu chưa chắc là người sở hữu; người sở hữu đương nhiên là người chiếm hữu. Phạm trù sở hữu khi được thể chế hóa thành quyền sở hữu được thực hiện thông qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. chế độ sở hữu xác định dưới dạng các quyền: sở hữu, sử dụng, quản lý, chi phối, định đoạt, thừa kế, chuyển nhượng…. Sở hữu được xem dưới góc độ pháp lý và kinh tế. Sở hữu về mặt pháp lý được xem là mối quan hệ giữa người với người về đối tượng sở hữu. thông thường về mặt pháp lý, sở hữu được ghi trong hiến pháp, nó khẳng định ai là chủ của đối tượng sở hữu. Sở hữu về mặt kinh tế biểu hiện thông qua thu nhập, thu nhập càng cao, sở hữu về mặt kinh tế càng được thực hiện. Sở hữu luôn hướng tới lợi ích kinh tế. Sở hữu đầy đủ là trong chế độ sở hữu phát triển, quyền sở hữu pháp lý và quyền sở hữu kinh tế thống nhất gắn chặt ở một chủ sở hữu. Vậy sở hữu là quan hệ kinh tế giữa người với người trong sự chiếm hữu tự nhiên, là một phạm trù lịch sử, thay đổi cùng với sự thay đổi của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử. Sự biến đổi và phát triển của các hình thức sở hữu là quá trình lịch sử - tự nhiên. Các hình thức sở hữu: hình thức đầu tiên là công hữu, sau đó do sự phát triển của lực lượng sản xuất, có sản phẩm dư thừa, có kẻ chiếm làm của riêng xuất hiện tư hữu. Đó là hai hình thức sở hữu cơ bản thể hiện ở mức độ, quy mô và phạm vi sở hữu khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và lợi ích của chủ sở hữu chi phối. Chẳng hạn, công hữu thể hiện thông qua sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân. Sở hữu tư nhân thể hiện ở tư hữu lớn, tư hữu nhỏ. Ngoài ra còn có hình thức sở hữu hỗn hợp. nó phát sinh tất yếu do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất cũng như quá trình xã hội hóa nói chung đòi hỏi đồng thời nhằm thỏa mãn nhu cầu, lợi ích ngày càng tăng và khắc phục sự bất lực, yếu kém của các chủ thể kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sở hữu hỗn hợp là một hình thức phái sinh từ hình thức sở hữu khác, hình thành thông qua hợp tác, liên doanh, liên kết tự nguyện, phát hành mua bán cổ phiếu. các hình thức sở hữu đều có ưu nhược điểm vốn có của nó. Sở hữu công cộng: bao gồm Ưu điểm: tạo cơ sở cho mọi người bình đẳng trước tư liệu sản xuất; bố trí hợp lý tài nguyên trong phạm vi toàn xã hội. Nhược điểm: tước bỏ sự tích lũy tài sản – cơ sở của sự phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội mà chỉ tạo mục đích theo đuổi lợi ích tiêu dùng, tức là sở hữu công cộng không tạo điều kiện làm giàu cho con người. Trong điều kiện thể chế, cơ chế và hệ thống luật pháp thiếu đồng bộ, cùng với sự đồng nhất sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân và coi ngang hàng với nhau, chỉ dừng ở hiến pháp, văn bản, thực tế là vô chủ thì không thể không dẫn đến hai thái cực đối lập nhau, phổ biến là sự tham nhũng tài sản, tiền vốn của xã hội của một bộ máy quan liêu, nhiều kẻ lợi dụng chức quyền, ô dù, thông qua biến hợp đồng thành thông đồng, lợi dụng nhà nước, quốc doanh để làm ăn phi pháp, thay ruột tư nhân trong cái vỏ quốc doanh và cực còn lại là việc xa lạ, cha chung không ai khóc của phía phần lớn người lao động mà ngộ nhận minh là chủ. Sở hữu tư nhân: Ưu điểm: phát huy tốt tiềm năng, thế mạnh về vốn, lao động, công nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý, mối liên hệ với thị trường nghĩa là chủ thể kinh tế năng động và linh hoạt vì thế thúc đẩy sản xuất và các thành tựu xã hội phát triển nhanh chóng; tạo cơ may để làm giàu. Con người có được công cụ và phương tiện theo đuổi những dự kiến, phương án mà cho là hợp lý; động lực thúc đẩy con người hoạt động kinh tế, theo đuổi lợi ích kinh tế cá nhân, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả. Nhược điểm: tư hữu về tư liệu sản xuất nghĩa là cá nhân tùy ý sử dụng và định đoạt vì thế xã hội không thể chiếm hữu và phân phối trực tiếp tư liệu sản xuất vì mục đích chung, khó đảm bảo được các cân đối lớn trong nền kinh tế; biến quyền sở hữu tài sản thành quyền bóc lột lao động người khác; nguồn gốc bất bình đẳng và các tệ nạn xã hội khác phát sinh. Đặc biệt đối với tư hữu nhỏ chỉ phù hợp với trạng thái lực lượng sản xuất kém phát triển, vốn ít, dân trí thấp nên khó áp dụng khoa học công nghệ. Việt Nam giành được chính quyền trước thực trạng một nền kinh tế lạc hậu thấp kém, chúng ta đã dùng sức mạnh chính trị và tư tưởng làm trái với yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất bằng cách xóa bỏ ngay chế độ tư hữu thông qua chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và tập thể hóa nông nghiệp, chuyển trực tiếp sang chế độ công hữu dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Cần nhấn mạnh rằng nguồn gốc của sự nhận thức không đúng trên bắt nguồn từ chỗ hiểu không đúng tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong tác phẩm “những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, Mác và Ăngghen giải thích thêm “không phải là xóa bỏ sở hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản”, tức là chế độ tư hữu trong những điều kiện tách người sản xuất khỏi tư liệu sản xuất, rằng chế độ tư hữu tư sản dùng sản phẩm của người lao động làm công cụ nô dịch, bóc lột chính bản thân họ”. C. Mác nói: “ phương pháp đặc thù để thực hành sự kết hợp ấy (tư liệu sản xuất và sức lao động) chính là cái dùng để phân biệt các thời kỳ kinh tế khác nhau mà kết cấu xã hội đã trải qua” và Mác cho rằng chế độ tư hữu chưa thể bị xóa bỏ chừng nào mà chưa có được lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ phổ biến mà chế độ trở thành xiềng xích đối với chúng, nó chỉ có thể bị xóa bỏ trong điều kiện cá nhân được phát triển toàn diện. Ở Việt Nam hiện nay có các hình thức sở hữu sau: Sở hữu nhà nước là hình thức sở hữu mà nhà nước là đại diện cho nhân dân sở hữu những tài sản, tài nguyên, những tư liệu sản xuất chủ yếu và những của cải của đất nước. nhà nước là chủ sở hữu còn quyền sử dụng giao cho các tổ chức kinh tế và các cá nhân để phát triển kinh tế một cách hiệu quả nhất. Đó là sự tách biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng, chủ sở hữu với chủ kinh doanh, làm cơ sở và tạo điều kiện để nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình, còn doanh nghiệp nhà nước có được tính tự chủ của đơn vị sản xuất hàng hóa thực sự Sở hữu tư nhân của người sản xuất nhỏ là sở hữu về tư liệu sản xuất của bản thân người lao động. Chủ thể của sở hữu này là nông dân, cá thể, thợ thủ công, tiểu thương. Họ vừa là chủ sở hữu đồng thời là người lao động. Nếu qui mô và phạm vi rộng hơn là tư hữu của tiểu chủ, chủ trang trại có thuê lao động. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ là đại biểu cho sở hữu tư nhân nhỏ. Sở hữu tư nhân tư bản là hình thức sở hữu của các nhà tư bản (trong và ngoài nước) đầu tư vào các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. thành phần này dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Sở hữu tư nhân có vị trí và vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta là nhận thức đúng vị trí, vai trò của nó và quan trọng hơn phải thông qua luật pháp, thể chế, cơ chế, chính sách, môi trường để hình thành sở hữu tư nhân và các loại hình kinh tế của nó. Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu mà các chủ thể tự nguyện tham gia đóng góp vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh dịch vụ khi họ thấy có lợi. sở hữu hỗn hợp là hình thức tất yếu, phù hợp, linh hoạt và hiệu quả trong thời kỳ quá độ, nhằm khai thác tiềm năng của nền kinh tế cũng như của mọi doanh nghiệp, mọi công dân để phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Hình thức tổ chức của sở hữu hỗn hợp rất đa dạng, linh hoạt như hợp doanh giữa nhà nước với tư nhân (trong và ngoài nước), đó là công ty liên doanh liên kết (đầu tư trực tiếp và gián tiếp), công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các loại hình hợp tác xã… Một chủ thể kinh tế (nhà nước, doanh nghiệp người lao động, các tổ chức kinh doanh khác) tùy khả năng và điều kiện của mình có thể tham gia nhiều hình thức góp vốn. sở hữu hỗn hợp chức đựng trong nó nhiều loại hình kinh tế (thành phần kinh tế). Sở hữu tập thể chỉ là một hình thức sở hữu phái sinh từ sở hữu hỗn hợp và các hình thức sở hữu khác… Sở hữu tập thể là phần lợi nhuận mà các thành viên thống nhất không chia đẻ lại nhằm tái sản xuất mở rộng và hình thành các loại quỹ tập thể. Trong sở hữu tập thể quyền sở hữu pháp lý vẫn thuộc về các thành viên, nhưng quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử dụng lại mang tính tập thể. Sở hữu tập thể biểu hiện trong các hợp tác xã nông nghiệp, công nghiệp, … ở cả các nhóm, tổ đội và các công ty cổ phần và cả trong các doanh nghiệp nhà nước, phần lợi nhuận của doanh nghiệp được hưởng để sử dụng làm các quỹ tập thể và đầu tư tái sản xuất mở rộng. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Đó là một tất yếu khách quan vì những lí do sau đây: Thứ nhất, sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan và khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành, các vùng, các doanh nghiệp. chính sự phát triển không đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết là hình thức, quy mô và quan hệ sở hữu phù hợp với nó, nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau. Thứ hai, một số thành phần kinh tế do xã hội cũ để lại: các thành phần kinh tế này vẫn có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có lợi cho đất nước trong việc giải quyết việc làm, tăng sản phẩm, huy động nguồn vốn…(như là thành phần kinh tế tư nhân: cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân). Vì thế, nhà nước bằng đường lối, chính sách, luật pháp, cơ chế, biện pháp khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Thứ ba, một số thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước. các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau, tạo thành cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thứ tư, để phát triển và tăng trưởng kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, xã hội. nhà nước xây dựng hệ thống những cơ sở kinh tế mới cùng với kết quả của quá trình quốc hữu hóa, hình thành thành phần kinh tế nhà nước. Thứ năm, trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, thông qua hợp tác và đầu tư nước ngoài, nhà nước cùng với các nhà tư bản, các công ty nước ngoài cùng đầu tư hình thành kinh tế tư bản nhà nước. CHƯƠNG 2 Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨC NỀN KINH TẾ NHIỀN THÀNH PHẦN 2.1. Khái niệm Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuẩt, phù hợp với thực trạng thấp kém và không đồng đều của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Sự phù hợp này lại có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nghiên cứu kĩ về nền kinh tế nhiều thành phần từ đó có biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Có các biện pháp phù hợp để khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước như: vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm tổ chức quản lí… Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước, là trạm trung gian đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lạc hậu lên Chủ nghĩa xã hội và bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc quyền, tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kĩ thuật, phát triển lực lượng sản xuất. 2.2 Sự cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta Chính sách đối với phát triển các thành phần kinh tế là một bộ phận trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Từ chỗ không thừa nhận kinh tế tư nhân đến chỗ thừa nhận nó; từ chỗ thừa nhận kinh doanh nhỏ ở một số ngành nghề, đến chỗ không hạn chế về quy mô và lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Từ chỗ cho làm, đến chỗ được làm, mỗi lần thay đổi tư duy như vậy là một lần nhận thức của Việt Nam được mở rộng, sâu thêm và kinh tế tư nhân cùng các thành phần kinh tế phát triển. Những biến đổi như vậy đã thúc đẩy các thành phần kinh tế đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm tạo cơ hội cho những chủ thể kinh tế, các doanh nhân mới năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm với mình và với đất nước. Từ Đại hội VI đến nay, Đảng Việt Nam luôn luôn khẳng định thực hiện nhất quán nền kinh tế nhiều thành phần với ý nghĩa nêu trên và được coi như một giải pháp chiến lược góp phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất. Nghị quyết Trung ương 6, khóaVI, chỉ rõ: "Trong điều kiện nước Việt Nam, các hình thức kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội". Đại hội VIII của Đảng nêu 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đại hội IX của Đảng xác định, ở Việt Nam hiện nay, cần phát triển 6 thành phần kinh tế, tức là ngoài 5 thành phần kinh tế nêu trên, có thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và nhấn mạnh các thành phần kinh tế đó đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. 2.3 Phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài nguyên quốc gia và các tài sản sở hữu nhà nước như hầm mỏ, đất đai, rừng, biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác... Đại hội VIII của Đảng, chỉ rõ, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở "làm đòn bẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới". Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật. Sản xuất hàng hóa càng phát triển, sự cạnh tranh càng gay gắt thì những người lao động riêng rẽ, các hộ cá thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng có yêu cầu phải liên kết, hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển. Vì thế, phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã là con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ manh mún với sản xuất hàng hóa lớn, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh tế hợp tác là hình thức kinh tế mang tính tập thể, xã hội hóa, là nhân tố quan trọng để xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nó giáo dục ý thức cộng đồng, tinh thần hợp tác hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên xã hội, giữa các thành phần kinh tế để sản xuất, kinh doanh đúng pháp luật. Với những ưu việt như vậy, Đại hội IX của Đảng xác định: Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác xã đa dạng. Nhà nước phải giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học - công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường... để cùng với kinh tế nhà nước ngày càng giữ vai trò nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Trong chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội IX của Đảng coi kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Loại hình kinh tế này xuất hiện và phát huy tác dụng ở cả thành thị và nông thôn, cả trong nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Sự phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa gắn với thị trường có vai trò quan trọng trước mắt cũng như lâu dài trong việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở Việt Nam, thành phần kinh tế này có vai trò quan trọng xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, về phát triển nền sản xuất hàng hóa, về giải quyết các vấn đề xã hội. Đại hội VIII của Đảng khẳng định: "Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước. Khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7419.doc
Tài liệu liên quan