lời mở đầu
Sau hơn mười năm đổi mới, nước ta đã trải qua một quá trình biến đổi mạnh mẽ đầy ấn tượng trong lịch sử kinh tế. Nền kinh tế vĩ mô tăng trưởng, tốc độ tăng GDP 8% -10%/ năm.Trong đó, lĩnh vực dịch vụ thương mại có mức tăng bình quân cao nhất 12%. Xuất khẩu tăng nhanh, đời sống nhân dân ngày một tăng cao. Trong quá trình đó, các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã có những chuyển biến tích cực, không ngừng hoàn thiện để vươn lên và tự khẳng định trên thương trường.
Song hoạt động k
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu các biện pháp mở rộng và phát triển kinh doanh ở các Doanh nghiệp thương mại nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải cạnh tranh quyết liệt. Các doanh nghiệp thương mại nhà nước không còn được bao cấp như trước nên phải dựa vào khả năng của chính mình, phải năng động sáng tạo trong việc lựa chọn kinh doanh, trong tạo dựng các mối quan hệ làm ăn. Vì vậy không ít doanh nghiệp đã rơi vào tình trạng kinh doanh khó khăn, lúng túng và bị động, chưa tìm được những giải pháp hữu hiệu để đẩy mạnh và phát triển kinh doanh hiệu quả. Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh còn chưa được xem xét đúng mức, vì thế các giải pháp đẩy mạnh và phát triển kinh doanh còn thiếu tính khả thi.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế Việt Nam và kinh tế khu vực ngày càng mở rộng, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn lúng túng trước hàng loạt vấn đề. Doanh nghệp phải làm gì trên lộ trình Việt Nam tham gia AFTA và hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)? Doanh nghiệp phải làm gì trong việc hợp tác và phân công lao động quốc tế gữa các thành viên ASEAN? Doanh nghiệp phải làm gì để không còn phải chấp nhận gia công mà tự mua nguyên liệu bán thành phẩm trên thị trường quốc tế? Doanh nghiệp phải làm gì để giảm phụ thuộc vào các thị trường trung gian chen chân vào các thị trường cuối cùng? Rõ ràng, các doanh nghiệp đang rất cần phía Nhà nước, mà cụ thể trong lĩnh vực thuơng mại là các doanh nghiệp thương mại nhà nước mở đường, hướng dẫn và hỗ trợ để họ thích nghi dần với trào lưu tự do hoá thương mại trong nền kinh tế thế giới.
Về phương diện lý luận, vấn đề kinh doanh thương mại nói chung và các phương hướng giải pháp mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước nói riêng còn nhiều ý kiến khác nhau và thiếu sự thống nhất trong đánh giá.
Vì tất cả những lý do trên, việc nghiên cứu các biện pháp mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở nước ta hiện nay là hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề này, tôi đã lựa chọn đề tài:"Nghiên cứu các biện pháp mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước".
Nội dung đề tài gồm các phần:
- Lời mở đầu.
-Chương I: Cơ sở lý luận chung về kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
-Chương II: Thực trạng kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
-Chương III: Một số biện pháp nhằm mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước.
-Kết luận.
Vấn đề mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước là một vấn đề lớn và phức tạp đòi hỏi không chỉ kiến thức mà còn phải có kinh nghiệm thực tế phong phú mới có thể giải quyết đầy đủ. Vì vậy đề án không thể tránh khỏi có những thiếu sót. Sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô và các bạn sinh viên trong khoa sẽ là rất quí báu giúp tôi trau dồi thêm kiến thức.
Qua đây, tôi xin phép được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS -TS Đặng Đình Đào giảng viên khoa thương mại trường đại học Kinh tế quốc dân Hà nội đã giúp tôi hoàn thành đề án này.
Chương I: Cơ sở lý luận chung về kinh doanh của
doanh nghiệp thương mại
I. bản chất của kinh doanh thương mại:
1.Bản chất kinh doanh thương mại:
Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá, quốc tế ngày càng phát triển mạnh cùng với sự phát triển đa dạng của hàng hoá trên phạm vi toàn thế giới. Hoà nhận với xu thế ấy, Việt Nam đã và đang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hàh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, ở đó cho tăng cả về chất và lượng, nhiều loại hàng hoá thoả mãn nhu cầu vô cùng đa dạng và phong phú của con người.
Để tồn tại và phát triển con người cần nhiều nhu cầu khác nhau: ăn, ở, mặc đi lại, học tập, giải trí... Muốn thoat mãn những nhu cầu ấy, con người phải thông qua những hoạt động sản xuất và trao đổi các sản phẩm với nhau hay là thông qua hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh là việc tiến hành một, một số hoặc tấ cả công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Với sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng phát triển tất yếu dẫn đến nhu cầu để trao đổi sản phẩm giữa những người sản xuất chuyên môn hoá với nhau. Như vậy phân công lao động chuyên hoá sản xuất và tính chất sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra là nguồn gốc phát triển thương mại.
Thương mại là quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Hoạt động thượng mại gắn liền với lĩnh vực lưu thông hàng hoá và lấy hàng hoá là đối tượng mua bán.
Như thế kinh doanh thương mại là một dạng của lĩnh vực đầu tư để thực hiện việc mua bán lưu thông hàng hoá trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Kinh doanh thương mại thực sự trở thành một lĩnh vực hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế hàng hoá và nhất là trong nền kinh tế thị trường và xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá ngày nay.
2.Nội dung của kinh doanh thương mại.
2.1.Mục tiêu:
Lợi nhuận luôn được nhà kinh doanh đề cập như là một mục tiêu trước mắt, lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh. Một doanh nghiệp luôn phải cố gắng nỗ lực để thu được doanh thu bù đắp được chi phí và kinh doanh có lãi. Song lợi nhuận vẫn chỉ là một trong nhiều mục tiêu của quá trình kinh doanh của bản thân doanh nghiệp. Trong kinh doanh thương mại, nhà kinh doanh phải quan tâm tới nhưũng mục tiêu cơ bản đó là: khách hàng, đổi mới, chất lượng, cạnh tranh, lợi nhuận mà tuỳ theo từng giai đoạn, chu kỳ kinh doanh để xây dựng tháp hệ thống các mục tiêu thích hợp cho doanh nghiệp.
Khách hàng với nhu cầu của họ là điểm xuất phát cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khách hàng theo quan điểm hiện đại là người trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp và nuôi sống doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải giữ cho được khách hàng truyền thống, thu hút khách mới, và hướng đến khách hàng tiềm năng.
Đổi mới sản phẩm kinh doanh cũng như đổi mới các dịch vụ phục vụ khách hàng là mục tiêu cơ bản cuả doanh nghiệp để hướng tới cung cấp tốt hơn những nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm đồng bộ đa dạng.
Chất lượng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp phải ngày càng được nâng cao. Mục tiêu này xuất phát từ qui luật "Ai có sản phẩm chất lượng cao, giá cả phải chăng thì người đó chính là người chiếm lĩnh thị trường".
Cạnh tranh là mục tiêu mà doanh nghiệp phải theo đuổi. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm dịch vụ cũng như nâng cao vị thế của doanh nghiệp thì mới có thể tồn tại và phát triển kinh doanh.
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh và đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sau một thời kỳ kinh doanh, đồng thời là nguồn thu nhập và phân phối cho các qũy doanh nghiệp để thực hiện tái sản xuất kinh doanh, mở rộng và phát triển kinh doanh.
2.2.Nội dung hoạt động kinh doanh thương mại:
Đối với các dong nghiệp thương mại, khi tiến hành công việc kinh donh nhằm thu lợi nhuận, doanh nghiệp phải thực hiện các nội dung chủ yếu sau:
1.Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá và dịch vụ để làm cơ sở cho hoạt độgn kinh doanh.
2.Tổ chức công tác tạo nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu thị trường.
3.Tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại.
4.Lựa chọn kênh phân phối và tổ chức chuyển giao hàng hoá.
5.Quản lý hàng hoá, thực hiện các dịch vụ và phân tích đánh giá kết quả kinh doanh.
2.2.1.Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá và dịch vụ để làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh:
Doanh nghiệp thương mại là một tác nhân trên thị trường nên phải nghiên cứu thị triường để phát triển kinh doanh thích ứng với thị trường. Nghiên cứu thị trường là xuất phát điểm để đề ra các chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, từ các chiến lược đã xác định tiến hành thực hiện các kế hoạch trung gian, chính sách thị trường. Bất kỳ doanh nghiệp thương mại nào cũng phải nghiên cứu thị trường khi bắt đầu kinh doanh, đang kinh doanh hay muốn mở rộng phát triển kinh doanh.
Đối tượng kinh doanh thương mại là hàng hoá và dịch vụ. Mỗi doanh nghiệp có thể kinh doanh một loại hàng hoá hoặc một nhóm hàng hoá. Doanh nghiệp phải nghiên cứu xác định được nhu cầu của khách hàng, sự đáp ứng cho các nhu cầu đó hiện có và khả năng nguồn cung ứng (sản xuất hoặc nhập khẩu) loại hàng đó. Cũng có thể doanh nghiệp kinh doanh những loại hàng hoá mới và các cơ sở vật chất phù hợp với mặt hàng đã lựa chọn để đi vào kinh doanh. Đấy là công việc mà doanh nghiệp phải tiến hành thường xuyên để có phương án sản phẩm dịch vụ kinh doanh tốt nhất.
Qua các bước thu thập thông tin, sử lý thông tin, ra quyết định của qúa trình nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp phải giải đáp được các vấn đề:
- Đâu là thị trường có triển vọng nhất đối với các sản phẩm của doanh nghiệp, hay lĩnh vực nào phù hợp nhất đối với các hoạt động của doanh nghiệp.
- Khả năng bán của doanh nghiệp trên thị trường là bao nhiêu .
- Cần có biện pháp như thế nào để chất lượng mẫu mã hàng hoá dịch vụ tốt hơn.
- Cần có chiến lược, chính sách như thế nào để tăng cường khả năng trên thị trường.
Từ việc xác định khả năng bán và lượng dự trữ kế hoạch, doanh nghiệp xác định được nhu cầu đặt hàng sau khi đã trừ đi hàng tồn kho, hàng tiết kiệm, hình thành quĩ mua bán hàng hoá của doanh nghiệp.
2.2.2.Tổ chức công tác tạo nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu thị trường:
Để thực hiện nhiệm vụ đảm bảo cung ứng cho sản xuất, tiêu dùng những loại hàng hoá đủ về số lượng, tốt về chất lượng, kịp thời gian yêu cầu, thuận lợi cho khách hàng, các doanh nghiệp thương mại phải tổ chức tốt công tác tạo nguồn cho doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp phải huy động tối đa các nguồn lực để phục vụ cho công tác tạo nguồn. Các nguồn lực của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể huy động được gồm: vốn hữu hình như tiền, nhà cửa, kho tàg, quầy hàng... và vốn vô hình như: sự nổi tiếng của các nhãn hiệu hàng hoá kinh doanh, tín nhiệm của khách hàng đối với doanh nghiệp, ... và con người với tài năng kinh nghiệm, nghề nghiệp được đào tạo, được huy động vào kinh doanh các nguồn lực thì có hạn, vì vậy trong quá trình tạo nguồn hàng cũng như trong tổ chức các hoạt động nghiệp vụ tiếp theo sau là bán, dự trữ, bảo quản, vận chuyển, khuyến mại và thực hiện dịch vụ phục vụ khách hàng, doanh nghiệp phải huy động theo hướng tiết kiệm, sử dụng triệt để để tiến hành kinh doanh một cách nhanh chóng, thuận lợi, rút ngắn được thời gian chuẩn bị, phát triển kinh doanh của doanh nghiệp cả về bề rộng lẫn bề sâu.
Công tác tạo nguồn hàng là toàn bộ những hoạt động nghiệp vụ nhằm tạo ra nguồn hàng hoá đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, đúng qui cách, cỡ loại, mẫu mã... cho các nhu cầu khách hàng.
Đối với các doanh nghiệp thương mại trong cơ chế thị trường cần xác định được các nguồn hàng chủ yếu sau:
-Nguồn hàng hoá sản xuất trong nước.
-Nguồn hàng nhập khẩu.
-Nguồn hàng tồn kho đầu kỳ.
-Nguồn hàng tự sản xuất, tự khai thác.
-Nguồn hàng liên doanh, liên kết.
-Nguồn đặt hàng và thu mua.
-Nguồn hàng của đơn vị cấp trên, nhận đại lý hoặc ký gửi.
Các nguồn hàng trên có thể là nguồn hàng tập trung để phục vụ cho những nhu cầu đặt hàng lớn theo đơn đặt hàng và hợp đồng ký kết trước hoặc do nguồn phi tập trung do doanh nghiệp tự khai thác trôi nổi trên thị trường.
Để tổ chức tốt công tác tạo nguồn hàng, các doanh nghiệp thương mại sử dụng các biện pháp sau:
-Tổ chức mạng lưới thu mua.
- áp dụng các biện pháp kinh tế trong hoạt động khai thác tạo nguồn hàng.
-Đầu tư, liên doanh, liên kết giúp dỡ các đơn vị nguồn hàng.
-Tổ chức tốt hệ thống thông tin từ các nguồn hàng về doanh nghiệp.
-Tổ chức quản lý dự trữ, bảo quản hàng hoá ở doanh nghiệp thương mại.
2.2.3.Tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại :
Nhằm ghép mối trong giao dịch mua bán đối với các đơn vị, doanh nghiệp phải thực thi trên các nguyên tắc:
-Số lượng, chủng loại hàng hoá phải đáp ứng yêu cầu thị trường mà donh nghiệp có khả năng cung ứng.
-Tổng quãng đường vận chuyển hàng trong kinh doanh là nhỏ nhất.
-Đơn giản hoá các mối quan hệ mua bán.
-Trong quan hệ mua bán hai bên đều phải có lợi.
Việc giao dịch thương mại chủ yếu thông qua:
-Mối quan hệ giao dịch thương mại trực tiếp.
-Quan hệ giao dịch thương mại gián tiếp.
Trong các mói quan hệ giao dịch thuơng mại, doanh nghiệp phải giải quyết các vấn đề:
-Thoả thuận về giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá.
-Tổ chức vận chuyển, tiếp nhận, thanh toán...
-Ký kết hợp đồn với các bên đối tác.
Tổ chức tốt các mối quan hệ giao dịch thương mại là điều kiện tiền đề để đảm bảo cho qúa trình bán hàng gặp thuận lơị và có kết quả.
2.2.4.Lựa chọn kênh phân phối và tổ chức chuyển giao hàng hoá:
Tổ chức hoạt động phân phối, bán hàng là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng bậc nhất của doanh nghiệp thương mại. Chỉ có bán được hàng doanh nghiệp mới thu hồi được vốn, trang trải được chi phí lưu thông và có lợi nhuận. Kết quả bán hàng phản ánh sự đúng đắn của mục tiêu, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời thể hiện trình độ tổ chức, năng lực điều hành, tỏ rõ thế lực của doanh nghiệp trên thương trường. Bán hàng là kết quả tổng hợp của nhiều hoạt động, nó bao gồm các nội dung chính sau:
-Xác định đúng cung cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường của doanh nghiệp.
-Lựa chọn các kênh phân phối, bán hàng thích hợp.
-Chính sách phân phối hàng hoá phù hợp với yêu cầu thị trường.
-Thực hiện xúc tiến bán hàng.
-Tổ chức nghiệp vụ bán hàng.
Để thực hiên tốt công tác bán hàng, doanh nghiệp phải lựa chọn xác định các kênh phân phối, phương thức, hình thức bán hàng sao cho phù hợp với đặc điểm, tính chất hoạt động của doanh nghiệp và loại hàng hoá dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng. Doanh nghiệp có thể lựa chon kênh phân phối dài hoặc ngắn, áp dụng cho từng khu vực thị trường cụ thể.
Kênh phân phối ngắn là kênh phân phối hàng hoá từ doanh nghiệp thương mại trực tiếp đến người tiêu dùng cuối cùng hoặc nếu có chỉ thông qua mạng lưới bán lẻ trung gian. Loại kênh này đảm bảo đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, chi phí lưu thông có thể thấp, quan hệ giao dịch mua bán đơn giản, thuận tiện. Tuy nhiên tổ chức phát triển phức tạp, quan hệ thị trường hẹp nên chỉ phù hợp với hàng hoá có tính chất thương phẩm.
Kênh phân phối dài là kênh mà hàng hoá đi từ doanh nghiệp thương mại qua các nhà bán lẻ, bán buôn, nhà môi giới trung gian mới đến tay người tiêu thụ cuối cùng. ở kênh này quan hệ mua bán theo từng khâu chặt chẽ, lưu thông có khối lượng hàng hoá lớn, vòng quay vốn nhanh hơn, có điều kiện để doanh nghiệp mở rộng thị trường, phát triển kinh doanh. Kênh này tuy thời gian lưu chuyển và chi phí lưu thông lớn nhưng thích hợp khi kinh doanh nhiều loại hàng hoá phù hợp với quan hệ mua bán của nhiều doanh nghiệp.
Tuỳ theo nhu cầu chuyển giao lớn tập trung ổn định hay nhu cầu nhỏ lẻ không ổn định mà có thể sử dụng kênh dài hay kênh ngắn dể chuyển giao hàng hoá.
Ngoài sự lựa chọn kênh phân phối, doanh nghiệp cần thực hiện chính sách phân phối hàng hoá hợp lý trên cơ sở các nguyên tắc:
- Nguyên tắc hiệu quả kinh tế.
- Nguyên tắc đồng bộ liên tục.
- Nguyên tắc ưu tiên.
Doanh nghiệp phải xác định các phương thức, hình thức bán hàng hợp lý, có hiệu quả. Tuỳ theo yêu cầu xác định khác nhau mà có các hình thức bán hàng sau:
- Theo mức chiết khấu thương mại có hình thức bán buôn, bán lẻ.
- Theo địa điểm giao nhận hàng hoá có hình thức bán tại kho người cung cấp, kho người tiêu thụ, hoặc tại h, cửa hàng, quầy hàng của doanh nghiệp thương mại.
Trong hoạt động bán hàng cần chú trọng đến những nội dung sau:
- Khối lượng, chất lượng hàng hoá dịch vụ đáp ứng được tối đa nhu cầu của khách hàng.
- Tổ chức tốt các hoạt động trong quá trình bán hàng (trước, trong, sau khi bán)
- áp dụng các phương pháp bán hàng và quy trình bán hàng, hoàn thiện nhằm nâng cao không ngừng năng suất lao động của người bán hàng hoá dịch vụ và chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng.
- Không ngừng cải tiến thiết kế cửa hàng, quầy hàng và các loại hình cơ sở vật chất kinh doanh. Đổi mới các loại thiết bị dụng cụ bảo quản, trưng bày và bán, đảm bảo cho khách hàng bao giờ cũng được phục vụ bằng những phương tiện hiện đại nhất.
- Làm tốt công tác quảng cáo kết hợp với bán hàng, làm công cụ thúc đẩy bán hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Tổ chức tốt lao động bán hàng, đảm bảo cho thời gian lao động của nhân viên bán hàng được sử dụng có hiệu quả nhất.
- Nghiêm chỉnh thi hành luật pháp trong kinh doanh.
- Xây dựng một thái độ bán hàng văn minh, lịch sự, tất cả vì khách hàng.
2.2.5. Quản lý hàng hóa, thực hiện các dịch vụ và phân tích đánh giá kết quả kinh doanh:
Việc quản lý hàng hóa được tiến hành từ khâu chuẩn bị để tiếp nhận hàng hóa cho tới khi chuyển giao hàng hóa cho người tiêu thụ. Đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý hàng hóa là công tác dự trữ hàng hóa, bởi đây là yếu tố đảm bảo cho bán hàng diễn ra liên tục và đáp ứng yêu cầu mở rộng lưu thông không ngừng. Đây cũng là phương tiện quan trọng để tăng khả năng cạnh tranh và tìm kiếm lợi nhuận trên thương trường. Doanh nghiệp thưong mại thực hiện các dịch vụ bảo quản, dự trữ, cũng như các dịch vụ trong quá trình bán hàng và thu được thu nhập từ các hoạt động đó.
Sau mỗi chu kỳ kinh doanh, doanh nghiệp thương mại phải tiến hành tính toán tổng thu nhập, chi phí cũng như các chỉ tiêu kinh doanh để xem xét đánh giá hiệu quả kinh doanh đã đạt được. Từ những đánh giá về mặt tích cực cũng như những điểm hạn chế của kỳ kinh doanh trước, doanh nghiệp tiếp tục xây dựng các kế hoạch cho kỳ kinh doanh mới.
II. Doanh nghiệp thương mại nhà nước và vai trò, chức năng của doanh nghiệp thương mại nhà nước :
1. Khái niệm và các loại hình doanh nghiệp thương mại nhà nước
1.1 Khái niệm:
Theo pháp luật của nhà nước ta, doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh được thành lập hợp pháp, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh và lấy hoạt động kinh doanh làm nghề nghiệp chính. Có doanh nghiệp nhà nước, có doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp hợp tác xã, doanh nghiệp liên doanh...
Đặc điểm nhiều thành phần kinh tế của nền kinh tế nước ta đã được khẳng định. Các thành phần kinh tế ấy không chỉ có trong sản xuất mà tồn tại trong mọi giai đoạn của quá trình sản xuất xã hội. Trong kinh doanh thương mại cũng có sự góp mặt của mọi thành phần kinh tế. Doanh nghiệp thương mại nhà nước là một phần tử của hệ thống kinh doanh thương mại trong nền kinh tế quốc dân chuyên kinh doanh mua bán hàng hóa dịch vụ.
Doanh nghiệp thương mại nhà nước là một loại hình doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 20 / 4 / 95. Nhà nước ra quyết định thành lập, đầu tư từ 51% vốn chở lên và quản lý với tư cách chủ sở hữu phần vốn đầu tư.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp thương mại nhà nước kinh doanh sản phẩm gì, qui cách, chất lượng, giá bán ra sao, địa chủ tiêu thụ... đều do nhà nước quyết định từ trên xuống. Doanh nghiệp chỉ là một đơn vị kinh doanh thụ động, không cần quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về giải phóng và huy động mọi nguồn lực, năng lực sản xuất nhằm phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, doanh nghiệp thương mại nhà nước có quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh theo qui định của nhà nước, hoạt động linh hoạt động hơn và kinh doanh có hiệu quả hơn.
1.2 Các loại hình doanh nghiệp thương mại nhà nước :
- Căn cứ vào tính chất các mặt hàng kinh doanh có thể chia thành :
+ Doanh nghiệp kinh doanh chuyên môn hóa : Đó là các doanh nghiệp chuyên kinh doanh một hoặc một số mặt hàng có cùng công dụng, trạng thái hoặc tính chất nhất định (Ví dụ : Tổng Công ty Xăng dầu, Tổng Công ty Muối...).
+ Doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp : Là các doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng có công dụng, trạng thái hoặc tính chất khác nhau (Ví dụ : Tổng Công ty Bách hóa, Công ty Xuất nhập khẩu thiết bị...).
+ Doanh nghiệp kinh doanh đa dạng hóa : Là các doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng vừa kinh doanh, vừa sản xuất hàng hóa và thực hiện các hoạt động dịch vụ.
- Căn cứ vào qui mô của doanh nghiệp :
+ Doanh nghiệp có qui mô nhỏ : Là doanh nghiệp có số lao động dưới 50 người và mức vốn dưới 1 tỷ đồng.
+ Doanh nghiệp có qui mô vừa : Là doanh nghiệp có số lao động dưới 200 người và mức vốn dưới 5 tỷ đồng.
+ Doanh nghiệp có qui mô lớn : Là doanh nghiệp có số lao động từ 200 người trở lên và mức vốn từ 5 tỷ đồng trở lên.
- Phân loại theo cấp quản lý :
+ Các doanh nghiệp do Bộ, Ngành của Trung ương quản lý.
+ Các doanh nghiệp do địa phương quản lý (Tỉnh, Thành phố, Quận, huyện...).
- Phân loại theo vùng sinh thái, địa phương:
Việc phân chia vùng, địa phương trong cả nước có thể thuận tiện trong quản lý và đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của từng vùng, từng vùng, từng địa phương (như : Vùng núi trung du phía Bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc trung bộ, Duyên hải miền Trung, Tây nguyên, Đông nam bộ, Đồng bằng sông Cửu long, vùng biên giới phía bắc, phía tây nam...).
- Ngoài ra tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, người ta còn có thể phân loại doanh nghiệp căn cứ vào mức lưu chuyển hàng hóa từng năm, phạm vi kinh doanh...
2. Vai trò của doanh nghiệp thương mại nhà nước trong nền kinh tế :
2.1 Vai trò của kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường :
Là các doanh nghiệp chuyên hoạt động trong lĩnh vực thương mại, các doanh nghiệp thương mại nhà nước góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, tạo ra động lực kích thích đối với người sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá sản xuất lớn. Phát triển kinh doanh thương mại cũng có nghĩa là phát triển các quan hệ hàng hóa tiền tệ. Đó là con đường lớn nhất để chuyển từ sản xuất tự nhiên thành sản xuất hàng hóa.
Bản thân nhà sản xuất không phải lúc nào cũng có thể tiến hành tổ chức hậu cần đầu vào và đầu ra và nếu có thì hiệu quả thường thấp. Với sự hỗ trợ của các nhà kinh doanh thương mại, việc sản xuất của nhà sản xuất được tiến hành thuận lợi, sản phẩm của nhà sản xuất được tiêu thụ, phân phối tới mọi nơi có nhu cầu, tăng nhanh khối lượng và tốc độ lưu chuyển hàng hóa, báo hiệu và kích thích nhà sản xuất.
Vì mục tiêu lợi nhuận, nhà sản xuất sẽ tìm mọi cách cải tiến công tác, áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới, hạ chi phí. Đồng thời cạnh tranh trong thương mại buộc người sản xuất phải năng động, không ngừng nâng cao tay nghề, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm các nguồn lực và tính toán thực chất hoạt động kinh doanh. Cùng với các công ty nước ngoài, các doanh nghiệp thương mại tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm mới và kỹ thuật tiên tiến cho các nhà sản xuất trong nước. các doanh nghiệp thương mại làm cầu nối giữa các doanh nghiệp trong nước với công ty nước ngoài trong hợp tác sản xuất kinh doanh và chuyển giao công nghệ một cách có hiệu quả, hay có thể hợp tác kinh doanh và góp vốn đầu tư với các doanh nghiệp trong nước để nhập khẩu thiết bị máy móc phát triển sản xuất. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản xuất phát triển.
Kinh doanh thương mại kích thích nhu cầu và luôn tạo ra nhu cầu mới. Người tiêu dùng thực hiện hành vi mua không xuất phát từ tình cảm mà từ lý trí của họ. Và lợi ích của sản phẩm hay mức độ thoả mãn nhu cầu của nó sẽ tạo ra khả năng tái tạo nhu cầu. Một mặt kinh doanh thương mại làm cho cầu trên thị trường trung thực với nhu cầu, thương mại buộc các nhà sản xuất phải đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phẩm. Điều này có tác động ngược trở lại người tiêu dùng, khơi dậy các nhu cầu tiềm năng, tăng trưởng nhu cầu và là gốc rễ cho sự phát triển sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp thương mại tạo ra các dịch vụ để hoàn thiện sản phẩm.Kinh doanh thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, làm cho quan hệ thương mại nước ta với các nước không ngừng phát triển, tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh và từng bước đưa thị trường nước ta hội nhập với thị trường thế giới, biến nước ta thành một bộ phận của phân công lao động quốc tế.
2.2.Vai trò của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế quốc dân:
Quá trình chuyển đổi từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đa thành phần đang đặt ra những nội dung mới về nhận thức và hướng phát triển của các thành phần kinh tế . Trong lĩnh vực thương mại, những năm gần đây có sự chuyển đổi rất lớn về cơ cấu các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường. Doanh nghiệp thương mại nhà nước trong cơ chế mới không còn hoạt động độc quyền như trong thời kỳ bao cấp mà kinh doanh song song với các doanh nghiệp thương mại khác trên thị trường. Cơ chế kinh tế đã thay đổi, song doanh nghiệp thương mại nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng và cần có nhận thức đúng đắn để giữ được vai trò vốn có của nó.
Các doanh nghiệp thương mại nhà nước thành lập và làm chủ sở hữu, vừa là các đơn vị kinh tế vi mô, vừa là lực lượng kinh tế vĩ mô trong tay nhà nước. Là các chủ thể kinh tế vi mô, các doanh nghiệp do nhà nước lập ra phải bảo đảm và gia tăng nguồn lực kinh tế của nhà nước đã đầu tư vào các doanh nghiệp này, phải đóng góp đáng kể trong GDP và tỷ lệ nộp ngân sách nhà nước. Là lực lượng kinh tế vĩ mô, các doanh nghiệp thương mại nhà nước phải góp phần tạo ra môi trường hay tiền đề, thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp khác và phải cung cấp, đảm bảo các mặt hàng thiết yếu chiến lược cho nhân dân, ổn định đời sống xã hội.
Ngày nay, nhà nước đang ngày càng phát triển, bất chấp sự xuất xứ đa dạng của nhà nước vẫn có những quan điểm chung khẳng định vai trò và tác dụng của doanh nghiệp nhà nước nói chung và doanh nghiệp thương mại nhà nước nói riêng. ở các nước tư bản chủ nghĩa, dù rằng khu vực kinh tế nhà nước hoạt động thiếu năng động và kém hiệu quả hơn khu vực kinh tế tư nhân những không phải vì thế mà chính phủ xoá bỏ hoàn toàn kinh tế nhà nước. ở các nước đó, doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong nhiều lĩnh vực, duy trì trong một phạm vi, quy mô phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự quản lý của chính phủ. Vì vậy chính phủ ở các nước dó chủ trương không cần kinh tế nhà nước ở những ngành lĩnh vực kinh doanh mà nhà nước không cần duy trì kinh tế quốc doanh và kinh tế tư nhân có thể làm tốt hơn. Trong những ngành, lĩnh vực cần thiết cho xã hội, do dân cư nhưng kinh tế tư nhân không đủ điều kiện đầu tư thì dù có nhiều rủi ro, chính phủ cũng phải duy trì doanh nghiệp nhà nước ở mức độ cần thiết.
Xu thế chung của doanh nghiệp thương mại nhà nước là tồn tại, phát triển như là một bộ phận hưu cơ nằm trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước và gắn chặt với các doanh nghiệp sản xuất nhà nước. Sản xuất và thương mại liên kết với nhau trong những chủ thể kinh tế lớn và bù đắp cho nhau trong kinh doanh.
ở nước ta, vai trò của doanh nghiệp thương mại nhà nước phải được xét trên quan điểm lịch sử và thực tiễn. Với quan điểm lịch sử cho thấy, khi xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hưỡng xã hội chủ nghĩa từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá thì số lượng doanh nghiệp thương mại nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, thương nghiệp tư nhân nhỏ bé và bị hạn chế, vai trò quyết định trên thị trường thuộc về doanh nghiệp thương mại nhà nước. Xuất phát từ thực tế khách quan, nền kinh tế nước ta còn lạc hậu thương nghiệp tư nhân mới được phát triển, số lượng thương nghiệp tư nhân tăng nhanh nhưng chỉ tập trung phân bố ở các lĩnh vực ngành hàng đem lại lợi nhuận cao, khu vực đông dân cư, quy mô nhỏ lẻ là chủ yếu, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nên hoạt động của doanh nghiệp thương mại nhà nước vẫn cần thiết phải có. Thực tế hiện nay, doanh nghiệp thương mại nhà nước vẫn là những doanh nghiệp chủ đạo trong kinh doanh một số ngành hàng nhất là trong hoạt động xuất nhập khẩu - nơi mà doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa thực sự cáng đáng được, tỷ trọng xuất nhập khẩu các mặt hàng chủ đạo vẫn thuộc về các doanh nghiệp thương mại nhà nước.
Mặt khác, doanh nghiệp thương mại nhà nước phải thực hiện một số nhiệm vụ xã hội mà không thể giao cho các thàh phần kinh tế khác. Doanh nghiệp thương mại nhà nước vẫn là những chủ thể mua bán lớn, có tác dụng trực tiếp tiêu thụ nông lâm hải sản và hàng công nghiệp.
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, doanh nghiệp thương mại nhà nước cũng như các doanh nghiệp nhà nước khác tồn tại không vì bản thân nó mà vì lợi ích cộng đồng. Khi doanh nghiệp thương mại nhà nước được tổ chức lại, mở rộng và phát triển theo hướng trở thành nhà buôn lớn thì thương nghiệp tác động đến đời sống riêng lẻ không làm được. Dù xoá bỏ vai trò độc quyền của kinh tế nhà nước trong thương mại song doanh nghiệp thương mại nhà nước vẫn là phần quan trọng đặc biệt trong cơ cấu tổ chức thương nghiệp nhiều thành phần, sự phát triển của nó trong bối cảnh mới phải vừa cạnh tranh vừa hợp tác để cùng phát triển.
3. Chức năng của doanh nghiệp thương mại nhà nước :
Là một loại hình doanh nghiệp thuộc hệ thống kinh doanh thương mại, doanh nghiệp thương mại nhà nước cũng như nhiều loại hình doanh nghiệp thương mại khác phải thực hiện chức năng chung đối với một doanh nghiệp thương mại. Những chức năng đó gắn liền với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp thương mại và là tiêu thức để phân biệt doanh nghiệp thương mại với doanh nghiệp của các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Các chức năng của doanh nghiệp thương mại bao gồm:
3.1.Phát hiện nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và tìm mọi cách để thoả mãn nhu cầu đó:
Ra đời từ sự phát triển của sản xuất và phân công lao động xã hội, doanh nghiệp thương mại đã trở thành bộ phân trung gian độc lập giữa sản xuất và tiêu dùng, thực hiện chức năng phục vụ nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng bằng các loại hàng hoá, dịch vụ đa dạng. Nếu không phục vụ một cách hữu ích cho sản xuất và tiêu dùng, các doanh nghiệp thương mại không còn là trung gian cần thiết và không còn lý do tồn tại trong nền kinh tế. Muốn phục vụ sản xuất và tiêu dùng có hiệu quả, các doanh._. nghiệp thương mại cần phải thường xuyên nghiên cứu nhu cầu thị trường để phát hiện tìm ra những hàng hoá, dịch vụ thoả mãn nhu cầu và bằng mọi cách cung cấp hàng hoá, dịch vụ đó để thoả mãn nhu cầu thị trường. Có như vậy doanh nghiệp mới tìm kiếm được lợi nhuận và phát triển kinh doanh.
3.2.Phải không ngừng nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng để nâng cao hiệu quả kinh doanh :
Trong môi trương kinh doanh có sự cạnh tranh gay gắt - giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành; giữa trong ngành và ngoài ngành; trong nước và quốc tế, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp thương mại trước hết phải là người "hậu cần tốt"cho sản xuất và tiêu dùng, đem dến cho khách hàng những hàng hoá đủ về chất lượng và tốt về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, hợp lý về thời gian và giá cả.
Hơn nữa, doanh nghiệp thương mại còn tác động vào người sản xuất để tạo ra hàng hoá theo nhu cầu. Đồng thời tiếp tục sản xuất trong khâu lưu thông, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sản phẩm sẵn sàng bước vào tiêu dùng. Đây là một chức năng quan trọng trong kinh doanh thương mại.
Để nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng, cũng như là để tìm kiếm lợi nhuận, các doanh nghiệp thương mại phải nghiên cứu thực hiện hoạt động dịch vụ khách hàng.
Doanh nghiệp thương mại phải định hướng khách hàng trong mọi hoạt động kinh doanh, đặt khách hàng vào vị trí trung tâm trong hoạt động của mình, không ngừng nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
3.3.Giải quyết tốt các mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp và quan hệ giữa doanh nghiệp với bên ngoài:
Doanh nghiệp thương mại tồn tại trong môi trường kinh doanh một mặt bị tác động bởi các yếu tố của môi trường kinh doanh mặt khác lại tác động trở lại môi trường kinh doanh.Chỉ khi các doanh nghiệp phối hợp tốt nhất các yếu tố bên trong và bên ngoài thì mới có thể thành công. Giải quyết tốt các mối quan hệ bên trong và bên ngoài là việc cần thiết để doanh nghiệp tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng đó. Trong đó giải quyết tốt các mối quan hệ bên trong là cơ sở nền tảng để giải quyết tốt mối quan hệ bên ngoài. Các mối quan hệ bên ngoài bao gồm bạn hàng, các quan hệ với khách hàng, người cung ứng.
Đó là các chức năng chung của các doanh nghiệp thương mại.Bên cạnh đó doanh nghiệp thương mại nhà nước còn có những chức năng riêng , đó là:
- Góp phần điều hoà cung cầu, tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững, công bằng và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế trong đó phaỉ đảm bảo lưu thông những mặt hàng chủ yếu, thực hiện chính sách xã hội, bình ổn giá cả... và góp phần tạo thêm việc làm mới, ngành nghề mới.
- Nắm chắc bán buôn và đóng vai trò nòng cốt trong liên kết kinh tế, hướng các thành phần kinh tế khác phát triển theo quỹ đạo định hướng.
- Hướng dẫn các thành phần kinh tế phát triển kinh doanh vì mục đích quốc tế dân sinh.
Doanh nghiệp thương mại nhà nước phải thực hiện tốt và toàn diện các chức năng nêu trên kể cả các doanh nghiệp thương mại nhà nước hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và các doanh nghiệp thương mại nhà nước hoạt động vì mục tiêu công ích.
III.ý nghĩa và sự cần thiết của việc mở rộng và phát triển
kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước :
Mở rộng và phát triển là điều kiện bắt buộc đối với mọi chủ thể tham gia vào kinh tế thị trường. Nếu không mở rộng, phát triển được thì chủ thể đó sễ dần dần bị thụt lùi và gạt ra khỏi quỹ đạo phát triển chung. Đối với các doanh nghiệp thương mại nhà nước, yêu cầu mở rộng và phát triển xuất phát từ bản chất của kinh doanh thương mại cũng như vai trò của thành phần kinh tế này trong nền kinh tế hay do vai trò kinh tế vi mô cũng như vi mô của nó.
Nếu mở rộng kinh doanh là sự biến đổi, tăng lên về mặt lượng thì phát triển kinh doanh là sự tăng lên về mặt chất của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mở rộng kinh doanh có thể là sự mở rộng danh mục mặt hàng kinh doanh , mở rộng ngành hàng kinh doanh , kinh doanh tổng hợp, đa dạng hoá, liên kết mở rộng các mối quan hệ trong kinh doanh, mở rộng thị trường, mở rộng các hình thức mua bán ở phạm vi trong và ngoài nước. Phát triển phải gắn liền với mở rộng, biểu hiện bằng sự tăng lên về thu nhập, nâng cao mức độ hoàn thành kế hoạch, doanh nghiệp tăng được cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình, nâng cao thu nhập cho người lao động.
Cụ thể, doanh nghiệp có thể tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường đã chiếm lĩnh được hay phát triển ra thị trường mới. Doanh nghiệp đưa ra thị trường các hàng hoá mới, hàng hoá cải tiến với nhiều điều kiện hấp dẫn về giá cả, chất lượng, chủng loại, dịch vụ, thời gian, địa điểm, phương thức thanh toán...Doanh nghiệp có thể phát triển theo hướng đa dạng hoá sản phẩm (kinh doanh những mặt hàng mới trên thị trường mới, thuộc những lĩnh vực ngành hàng kinh doanh truyền thống của doanh nghiệp), hay đa dạng hoá kinh doanh (là kinh doanh hàng hoá mới trên những thị trường mới thuộc lĩnh vực ngành nghề doanh nghiệp chưa từng kinh doanh). Những hình thức phát triển này ngược lại đòi hỏi doanh nghiệp phải có một tiềm lực khá tương xứng và vững chắc về nhiều mặt.
Kết quả cuối cùng của quả trình này chính là nâng cao được hiệu quả kinh doanh và thực hiện được các mục tiêu lợi nhuận, vị thế và sự an toàn mà doanh nghiệp đã đặt ra.
Thực tế trong hơn 10 năm đổi mới, hệ thống các doanh nghiệp thương mại nhà nước có nhiều biến đổi, các chỉ tiêu kinh tế quan trong của doanh nghiệp thương mại nhà nước trong thời kỳ 1991-1995 đạt mức cao nhưng gần đây lại có dấu hiệu chững lại.
Có thể giải thích rằng, thành tựu cao của doanh nghiệp thương mại nhà nước trong giai đoạn 1991-1995 là kết quả của sự chuyển đổi cơ chế, nhưng nguyên nhân sâu xa là do dư địa thành công đối với doanh nghiệp lớn hơn. Bởi vì nhu cầu thị trường đối với tất cả hàng hoá còn lớn. Do nhiều năm bao cấp quan hệ cung cầu luôn luôn rơi vào trạng thái "đói hàng", khi cơ chế thay đổi doanh nghiệp thương mại nhà nước được tự do phát triển hơn, đồng thời cầu thị trường còn lớn. Vì vậy doanh nghiệp không gặp trở ngại đáng kể trong kinh doanh hàng hoá.
Trong những năm gần đây, cung có chiều hướng vượt cầu về mặt số lượng do các thành phần kinh tế khác tham gia vào kinh doanh sản xuất hàng hoá ngày càng nhiều. Nhu cầu thị trường đặc biệt ở các thành phố có xu hướng chuyển lên cấp cao hơn, nhu cầu thị trường nông thôn phát triển chậm, khả năng khai thác thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp thương mại nhà nước nói riêng còn yếu.
Trước bối cảnh đó, hiện tượng phát triển chững lại của các doanh nghiệp thương mại nhà nước chứng tỏ sự đổi mới của chúng chưa thực sự đủ sức để khai thác và mở rộng thị trường khi có nhu cầu biến đổi. Điều đó cũng chứng tỏ rằng, chủ thể kinh tế vi mô của doanh nghiệp thương mại nhà nước trong nền kinh tế thị trường còn yếu. Con đường đổi mới doanh nghiệp thương mại nhà nước chủ yếu đã thực hiện là thông qua
giải thể và sát nhập. Nhưng cả hai con đường này đều chưa đưa đến sự biến đổi về chất trong công cuộc đổi mới. Bởi một là số doanh nghiệp được giải thể cũng không đưa lại nguồn lực đáng kể cho những doanh nghiệp còn lại, hai là những doanh nghiệp được sát nhập vừa quy mô nhỏ, lại vừa diễn ra chủ yếu thông qua con đườngtập trung bằng mệnh lệnh hành chính, trong điều kiện quy chế hoạt động giữa các doanh nghiệp sát nhập với nhau chưa rõ ràng, không ít trường hợp đã làm cho doanh nghiệp mới yếu đi. Sự hình thành mới và một số sát nhập nhanh choáng các doanh nghiệp thương mại nhà nước với các dơn vị sản xuất để hình thành các tổng công ty là một minh chứng cho hiện tượng này. Con đường cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn cho sự phát triển của bản thân doanh nghiệp nhưng còn diẽen ra hết sức chậm chạp. Nhìn chung, quá trình đổi mới hệ thóng doanh nghiệp thương mại nhà nước vẫn chưa tạo được một thực lực về tài chính, quản lý và về con người để đủ sức đón thời cơ mới của môi trường kinh doanh đang thay đổi, để định hướng chiến lược kinh doanh đúng đắn và dành thắng lợi trong cạnh tranh nhằm tạo cho doanh nghiệp phát triển một cách ổn định và vững chắc khi không còn sự bao cấp của Nhà nước.
Mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước cần được đẩy mạnh (theo một tầm cao) hơn nữa bằng không chỉ các chính sách kinh tế của nhà nước mà quan trọng hơn là phaỉ bằng chính nội lực và ý chí của các doanh nghiệp. Trong thời gian tới, doanh nghiệp thương mại nhà nước vẫn phải tiếp tục mở rộng và phát triển kinh doanh theo hướng tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp khác nhằm động viên mọi nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời phải lấy tiêu chuẩn hiệu quả làm thước đo cho sự tồn tại và phát triển của mình.
Chương II:thực trạng kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
I.Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước :
1.Tổng quan về hoạt động thương mại nước ta hiện nay:
Công tác đổi mới toàn diện kinh tế - xã hội nước ta mở đầu từ Đại hội VI trải qua gần 10 năm. Từ đó đến nay, nước ta đã có những thay đổi to lớn và sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để chuyển nền kinh tế theo hướng mới, Đảng đã đề ra hướng chuyển: Từ một thành phần kinh tế , phát triển nền kinh tế với 5 thành phần kinh tế , xoá bỏ phân phối hiện vật sang kinh tế hàng hoá, từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, bảo đảm quyền độc lập tự chủ, tự trang trải của các đơn vị sản xuất kinh doanh và từ nền kinh tế đóng chuyển sang nền kinh tế mở cửa, kêu gọi các nước đầu tư vào nước ta.
Nhìn chung, chúng ta đã hình thành được thị trường thông suốt. Cục diện chung của thương mại từ sau đổi mới đến nay hoạt động khá nhộn nhịp. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội tăng nhanhhàng năm từ 10-12%, năm 1997 đạt khoảng 160 ngàn tỷ đồng, năm 1998đạt 179 tỷ đồng tăng 9,3% so năm 1997. Năm 1998, tổng mức bán lẻ hàng hoá trên thị trường xã hội ở hầu hết các địa phương cả nước đều có sự tăng trưởng hơn năm 1997. Thành phố Hồ Chí Minh đạt: 48177 tỷ đồn chiếm 27% tổng mức cả nước, thành phố Hà nội đạt 17041 tỷ đồng chiếm gần 10% cả nước, An giang 7447 tỷ đồng, Nghệ An 4611 tỷ đồng, Tiền Giang 3995 tỷ đồng... Tuy nhiên 8 tháng đầu năm 1999, tổng lưu chuyển hàng hoá bán lẻ mới đạt 15535 tỷ đồng. Hàng hoá lưu thông trên thị trường phong phú đa dạng. Các mặt hàng chiến lược liên quan tới nền kinh tế quốc dân như: xăng dầu, xi măng, sắt thép, phân bón hoá học, đường... được bảo đảm, không còn xảy ra những cơn sốt giá cả, kể cả sốt cục bộ như những năm trước (1992,1993,1994). Những mặt hàng chính sách cung ứng cho vùng sâu, vùng xa được đảm bảo đầy đủ. Về ngoại thương, Việt Nam đã nhanh chóng thích nghi với tình hình mới theo chủ trương đa dạng hoá quan hệ và đa dạng hoá hình thức trao đổi mua bán. Nhờ đó tổng mức lưu chuyển hàng hoá ngoại thương tăng nhanh qua các năm. Năm 1992 tăng 15,7%, năm 1993 tăng 34,9%, năm 1994 tăng 17,2%, năm 1995 tăng 37,7%, năm 1996 tăng 35,2%, năm 1997 tăng 12,8%. Năm 1998 và 8 tháng đầu năm 1999, tuy bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực và thời tiết không thuận lợi song tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1998 đạt 20,75 tỷ USD với kim ngạch xuất khẩu đạt 9,35 tỷ USD, tăng 0,9% so với năm 1997, kim ngạch nhập khẩu đạt 1,39 tỷ USD giảm 3% so với năm 1997. Trong 8 tháng đầu năm 1999, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 7.302 triệu USD bằng 72% kế hoạch năm và tăng 15% so với cùng kỳ năm 1998, rút ngắn tỷ lệ nhập siêu xuống còn 0,013% kim ngạch xuất khẩu (nhập khẩu 8 tháng này là 7295 triệu USD). Chúng ta đã có nhiều mặt hàng chủ lực, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước, đó là gạo, thuỷ sản, cao su, dầu thô, sản phẩm may mặc... đã bước đầu hình thành một thị trường với bên ngoài.
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ mua bán với hơn 130 nước trên thế giới, đồng thời đã gia nhập các tổ chức thương mại quốc tế khu vực và toàn cầu như: AFTA, APEC, chuẩn bị gia nhập WTO... Đây chính là cơ hội thuận lợi để hoạt động ngoại thương Việt Nam có bước phát triển mới, là cơ hội thuận tiện để có vị trí đáng kể trên thị trường quốc tế.
2.Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước:
Đóng góp vào thành tựu chung của hoạt động thương mại cả nước, các doanh nghiệp thương mại nhà nước đang tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả kinh doanh, thể hiện là một hợp phần quan trọng, tất yếu đối với nền kinh tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng địnhtiếp tục đổi mới đường lối kinh tế. Trong đó, củng cố đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chính phủ đã đề ra nhiều Nghị định, chủ trương, biện pháp nhằm tổ chức, sắp xếp lại, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế doanh nghiệp nhà nước như: Nghị định 388/HĐBT, Quyết định 90/TTg, Quyết định 91/TTg, Chỉ thị 500/TTg, Nghị định 44/CP là những văn bản mang tính pháp luật quy địnhviệc thành lập, gỉai thể và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 được Quốc hội khoá IX thông qua là sự khẳng định tồn tại khách quan và sự cần thiết của doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường.
Đối với ngành thương mại, Nghị quyết số 12 của BCT khoá VII ngày 3/1/1996 về "tiếp tục đổi mởi tổ chức và hoạt động thương nghiệp , phát triển thị trường theo định hướng XHCN ", Luật thương mại được Quốc hội khoá IX thông qua là những văn bản lớn để khẳng định sự đóng góp tích cực của ngành thương mại và phương hướng cũng như giải pháp của ngành, của doanh nghiệp trong sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Những chủ trương biện pháp của Đảng, Chính phủ trong đổi mới doanh nghiệp nhà nước nói chung và các doanh nghiệp nhà nước thương mại nói riêng đã được triển khai và đạt được những kết quả nhất định, đồng thời cũng đang gặp nhiều vấn đề cần giải quyết.
Để đánh giá đúng thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh, đề ra các biện pháp mở rộng và phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước trước hết chúng ta phải nghiên cứu thực trạng doanh nghiệp thương mại nhà nước trong thời gian qua.
2.1.Về số lượng doanh nghiệp thương mại nhà nước :
Trong thời gian qua, số lượng các doanh nghiệp thương mại bao gồm doanh nghiệp nhà nước ở trung ương và địa phương, doanh nghiệp tập thể, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mà ngược lại với sự tăng tổng số doanh nghiệp thương mại, số lượng và tỷ trọng của doanh nghiệp thương mại nhà nước có xu hướng giảm đi qua các năm.
Bảng 1: số lượng doanh nghiệp thương mại nhà nước
phân theo loại hình tổ chức
phân loại
1993
1994
1995
1996
1997
tổng số DNTM
*D.N có vốn đầu tư trong nước
1.D.N nhà nước
- D.N nhà nước trung ương
- D.N nhà nước địa phương
2.D.N tập thể
3.D.N tư nhân
4. Công ty cổ phần
5. Công ty trách nhiệm hữu hạn
*D.N có vốn đầu tư nước ngoài
5444
5444
1799
461
1368
211
1835
19
1580
-
8028
7953
1922
463
1459
197
3894
33
1907
76
10806
10689
1805
456
1340
248
6298
23
2315
117
14872
14741
1778
468
1310
268
8123
40
4532
130
14625
14505
1566
429
1137
186
9135
48
3570
120
Nguồn:Vụ thương mại và giá cả Tổng cục thống kê.
Xu hướng giảm về số lượng của doanh nghiệp thương mại nhà nước là tất yếu bởi trong một số lĩnh vực ngành hàng, các doanh nghiệp thương mại nhà nước thực hiện không tốt hơn so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và phải bị thay thế trong điều kiện cạnh tranh.
Mặc dù, số lượng doanh nghiệp thương mại nhà nước giảm nhưng vẫn chiếm một tỷ đáng kể trong số doanh nghiệp thương mại. Năm 1994 chiếm 23,94%, năm 1995 chiếm 16,70%, năm 1996 chiếm 11,96%, năm 1997 chiếm 11,72% trong tổng số doanh nghiệp thương mại. Tỷ trọng tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội thuộc khu vực kinh tế nhà nước giảm qua các năm song tỷ trọng về tổng mức lưu chuyển hàng hoá xã hội thuộc khu vực này khá cao.
chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội khu vực kinh tế nhà nước
3730
3965
4219
4598
tỷ trọng tổng số(%)
29,4
27
27,1
26,9
tỷ trọng tổng mức LCHH xã hội khu vực kinh tế nhà nước trong tổng số(%)
47,53
49,65
50,25
49,96
Thực tế cho thấy doanh nghiệp thương mại nhà nước tuy có giảm về số doanh nghiệp, về tổng mức bán lẻ, xong qui mô kinh doanh được thu hồi, thay đổi theo hướng là đầu mối bán buôn và giữ được vai trò chủ đạo trong bán buô số ngành hàng trọng yếu như xi măng, xăng dầu, sắt thép...
Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp thương mại nhà nước có đóng góp đáng kể: năm 1997 tổng giá trị xuất khẩu đạt 5911990 USD, trong đó xuất khẩu trực tiếp là: 3806248 USD; 6tháng đầu năm 1998 đạt tổng trị giá xuất khẩu là 3133045 USD, trong đó xuất khẩu trực tiếp là: 1809918 USD. Năm 1997, tổng giá trị nhập khẩu là: 4784474 USD, trong đó nhập khẩu trực tiếp là: 2296854 USD, trong đó nhập khẩu trực tiếp là: 1851287 USD.
Năm 1995, số doanh nghiệp thương mại nhà nước tham gia xuất nhập khẩu 358 doanh nghiệp chiếm 25% số doanh nghiệp thương mại nhà nước , năm 1997 số doanh nghiệp thương mại nhà nước tham gia xuất nhập khẩu tăng lên là 548 doanh nghiệp chiếm 35% tổng số doanh nghiệp thương mại nhà nước. Như vậy, các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã tích cực tham gia vào hoạt động ngoại thương, đa dạng hoá các hoạt động thương mại dịch vụ và mở rộng thị trường đa dạng hoá quốc tế, dẫn tới mở đường cho các thành phần kinh tế khác hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương.
Về mạng lưới kinh doanh , năm 1998 thị trường cả nước đã có gần 1,1 triệu điểm hoạt động kinh doanh trong đó 21727 điểm thuộc doanh nghiệp thương mại nhà nước, trong đó có 7562 điểm ở nông thôn chỉ chiếm 35% (với dân số chiếm khoảng 80% dân số cả nứơc) và 1705 diểm biên giới hải đảo chiếm 8%. Như vậy, sự phân bố điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại nhà nước mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn như Tp Hồ Chí Minh, Hà nội.
Trong 21727 điểm kinh doanh của doanh nghiệp thương mại nhà nước năm 1998 có 18187 điểm kinh doanh thương nghiệp chiếm tỷ trọng chủ yếu (83,7%) còn lại là 798 điểm kinh doanh nhà hàng, 651 điểm kinh doanh khách sạn, 167 điểm kinh doanh dịch vụ . Tính bình quân mỗi tỉnh thành phố có 27 doanh nghiệp , khách sạn, nhà hàng du lịch, dịch vụ. Với hệ thống các điểm kinh doanh , khách sạn nhà hàng đã mang lại một khoản lợi nhuận lớn cho ngân sách nhà nước và làm thay đổi bộ mặt của đất nước.
2.2.Về vốn kinh doanh và quản lý tài chính:
Do tính chất của hoạt động thương mại, các doanh nghiệp thương mại nhà nước luôn cần một lượng vốn lớn, nhất là vốn lưu động. Tuy nhiên trong những năm qua, các doanh nghiệp bị thiếu vốn nghiêm trọng. Do thiếu vốn, nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, không phát huy được quyền tự chủ kinh doanh theo những ngành hàng được phân công hoặc tự lựa chọn trong cơ chế thị trường. Vấn đề đặt ra là: Muốn tham gia thị trường nhiều hơn, muốn đầu tư cho sản xuất chế biến, muốn vươn tới thị trường các nướcphải có vốn lớn. Và quan trọng hơn là việc sử dụng, bảo toàn và phát triển nguồn vốn có vai tró quyết định đến sự hoạt động, phát triển hay giải thể của doanh nghiệp.
Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, số lượng doanh nghiệp thương mại nhà nước theo qui mô tổng nguồn vốn các năm vừa qua như sau:
mức vốn
1996
1997
6 tháng 1998
s.lượng D.N
cơ cấu(%)
s.lượng D.N
cơ cấu(%)
s.lượng D.N
cơ cấu(%)
Dưới 1 tỷ
từ 1 - 5 tỷ
từ 5 - 10 tỷ
từ 10 - 50 tỷ
từ 50 - 100 tỷ
từ 100 tỷ trở lên
354
567
244
250
98
53
22,5
36,2
15,6
16
6,3
3,4
167
484
246
445
103
121
10,7
30,9
15,7
28,4
6,6
7,7
145
485
246
461
111
118
9,3
31
15,7
29,4
7
7,6
Nhìn vào thống kê trên ta có thể thấy:
Số doanh nghiệp thương mại nhà nước có mức vốn dưới 1 tỷ đồng có xu hướng giảm, năm 1996 có 354 doanh nghiệp , năm 1997 có 167 doanh nghiệp và 6 tháng đầu năm 1998 còn 145 doanh nghiệp. Điều này thể hiện các Nghị định chính phủ ban hành 6 tháng cuối năm 1996 (50/CP,59/CP) về nâng vốn pháp định của doanh nghiệp thương mại nhà nước lên một tỷ đồng và quy địnhviệc bổ sung vốn điều lệ hoặc phá sản đối với doanh nghiệp chưa dủ vốn đã có tác dụng tích cực.
Số các doanh nghiệp có mức vốn từ 1 - 5 tỷ đồng chiếm tỷ trọng khá cao (trên 30%) trong tổng số doanh nghiệp thương mại nhà nước , đây là các doanh nghiệp có mức vốn tương đối nhỏ. Các doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng hầu hết là các doanh nghiệp địa phương, không hoặc ít đóng vai trò điều tiết hàng hoá.
Số doanh nghiệp có mức vốn từ 5 --50 tỷ đồng chiếm tỷ lệ đáng kể và tăng lên. Như vậy các doanh nghiệp này có thể hoạt động khá linh hoạt trên thị trường .
Các doanh nghiệp có mức vốn tư 50 tỷ trở lên có xu hướng tăng lên qua các năm. Năm 1996 có 151 doanh nghiệp chiếm 9,7%, năm 1997 có 224 doanh nghiệp chiếm 14,3%, 6 tháng đầu năm 1998 có 229 doanh nghiệp chiếm 14,6%. Điều này chứng tỏ số doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn có xu hướng tăng.Trong đó số các doanh nghiệp có mức vốn từ 100 tỷ trở lên đã tăng lên nhanh chóng và có thể thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao về cân đối ổn định hàng trong nước và là đối trọng khi kinh doanh với các công ty nước ngoài. Tuy nhiên vẫn chưa đáng kể so với các tập đoàn lớn trên thế giới.
Số lượng doanh nghiệp thương mại nhà nước đông nhưng chưa mạnh, vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy đã được nâng lên một bước về vốn đầu tư của nhà nước, giảm bớt những doanh nghiệp quá nhỏ qua giải thể hay cổ phần hoá nhưng tốc độ cải thiện còn chậm. Nguồn vồn phân bổ còn phân tán. Ngay cả những doanh nghiệp trọng điểm của nhà nước tình trạng thiếu vốn vẫn là phổ biến. ở Tp Hồ Chí Minh - một địa bàn hoạt động sôi nổi nhất về thương mại thì các doanh nghiệp thương mại nhà nước vẫn có 70% trong tình trạng thiếu vốn.
Cơ cấu vốn kinh doanh còn nhiều hạn chế. Vốn cố định hầu hết nằm ở tài sản cố định và ít nằm trong đầu mối giao thông quan trọng nên chưa phát huy được tác dụng. Vốn lưu động còn mỏng làm hạn chế tính chủ động về nguồn hàng dự trữ khi cần, giảm sức cạnh tranh và hạn chế hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.Thực tế lượng vốn huy động vào quá trình kinh doanh chỉ đạt 80%. Riêng vốn lưu động mới chỉ đạt khoảng 50% trong tổng số vốn lưu động hiện có, số còn lại nằm trong hàng hoá vật tư, ở các khoản nợ phải thu, phải trả khác. Mỗi năm các doanh nghiệp thương mại do Bộ thương mại quản lý mới được bổ sung thêm 10 tỷ đồng. Lượng vốn đó chưa đáp ứng được yêu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp mà mới chỉ mang tính trợ giúp nhỏ lẻ.
Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải vay được vốn từ ngân hàng hay huy động vốn cổ phần, liên doanh, liên kết... Song việc vay vốn ngân hàng chưa thực sự thích ứng cho hoạt động kinh doanh loại hình doanh nghiệp thương mại cũng như đặc điểm chu chuyển thực tế từng mặt hàng và ngành hàng. Nhất là đối với doanh nghiệp kinh doanh nông sản xuất khẩu phải thu mua sản phẩm theo mùa vụ như gạo, mía, hạt điều... Mặt khác lãi suất ngân hàng quá cao (1,75%/tháng), thời hạn ngắn, doanh nghiệp không đủ sức ứng trước vốn cho nông dân thâm canh tăng năng suất, dự trữ nguyên liệu, nguồn hàng xuất khẩu với số lượng đủ lớn, đáp ứng nguyên liệu cho sản xuất chế biến lâm thổ sản. Điều này đã dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lớn giữa các bạn hàng trong nước, bị thua thiệt khi phải buôn bán nhỏ lẻ từng thương vụ với bạn hàng nước ngoài.
2.3.Quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước :
Quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước lớn song hiệu quả còn hạn chế, tốc độ chu chuyển vốn cồn thấp (năm 92-93 vào khoảng 4 vòng/năm). Nhất là ở các doanh nghiệp địa phương vốn ít, chỉ chiếm 20% tổng số vốn của các doanh nghiệp thương mại nhà nước, hiệu quả sử dụng và vòng quay vốn là rất thấp. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp không chú ý đúng mức tới việc tổ chức các kênh lưu thông hợp lý hoặc tổ chức đại lý và có quy trình cung ứng chắc chắn, ổn định cho thị trường nội địa, dễ bị một số doanh nghiệp có vốn hoặc tạo được vốn khá nhưng lại thiếu năng động trong quản lý sử dụng vốn không đúng mục đích, dùng vốn lưu động để xây dựng cơ bản và mua sắm trang thiết bị đắt tiền... đầu tư xây dựng cơ bản chưa có trọng điểm, tràn lan hoặc dự báo không đúng diễn biến của thị trường dẫn đến tình trạng thua lỗ không trả được nợ. Một số doanh nghiệp đưa vốn lưu động vào liên doanh, liên kết nhưng chưa phát huy đựoc hiệu quả hoặc chưa có hiệu quả, thậm chí có trường hợp thất thoát vốn trong quá trình liên doanh.
Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác lấn át. Về cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước, do từ trước tới nay các doanh nghiệp thương mại nhà nước chịu sự quản lý theo hai mặt: quản lý của nhà nước theo quy định của pháp luật và quản lý nhà nước theo chủ sở hữu vốn của doanh nghiệp nhà nước nên có tình trạng vừa buông lỏng vừa cứng nhắc. Hai mặt này có lúc bị lẫn lộn, làm cho giới hạn trách nhiệm tài chính của doanh nghiệp thương mại nhà nước không rõ ràng và cuối cùng nhà nước phải gánh chụi thua lỗ (nếu có), nếu không lại gây cho doanh nghiệp phải tuân thủ cứng nhắc các quy định về sử vốn bỏ qua nhiều cơ hội kinh doanh, không tạo động lực thực sự thúc đẩy doanh nghiệp và người lao động làm ăn có hiệu quả.
2.4.Về lao động :
Lao động là một yếu tố hết sức quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp để nâng cai hiệu quả sản xuất kinh doanh cần phải biết khuyến khích lợi ích cả vật chất lẫn tinh thần và trách nhiệm đối với người lao động. Doanh nghiệp cũng cần có những chính sách thu hút lao động có chất lượng hướng vào doanh nghiệp để tuyển chọn khi mở rộng kinh doanh.
Về số lượng lao động, các doanh nghiệp thương mại nhà nước có số lao động bình quân hàng năm tăng không đáng kể, xu hướng lao động chuyển sang và tăng nhanh ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tuy nhiên lượng lao động trong các doanh nghiệp thương mại nhà nước là không nhỏ. Tình hình phân bổ lao động ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước những năm gần đây:
Qui mô lao động
1997
số doanh nghiệp
số lao động
1998
số doanh nghiệp
số lao động
1 -10 lao động
11 - 30 lao động
31 - 100 lao động
101 - 500 lao động
500 - 1000 lao động
1000 lao động trở lên
31
271
593
572
68
31
116
5769
35287
122039
46093
58939
18
265
613
570
69
31
135
5591
36088
121313
47410
57970
Có thể thấy tổng số doanh nghiệp thương mại nhà nước, số các doanh nghiệp có lao động dưới 100 lao động và từ 101 - 500 lao động chiếm đa số. Điều đó cho ta thấy qui mô lao động của doanh nghiệp thương mại nhà nước chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp có trên 500 lao động chỉ chiếm 6,3% (năm 1997).
Lực lượng lao động ở các doanh nghiệp được thay thế và bổ sung bằng đội ngũ lao động trẻ khoẻ, có nghiệp vụ , thay dần đội ngũ lao động cũ. Chất lượng lao động chưa cao về trình độ nghiệp vụ chuyên môn, chủ yếu vẫn là lao động phổ thông thực hiện các hoạt động dịch vụ , bán hàng, vận chyển... lao động chưa thể hiện được sự chuyên sâu trong hoạt động thương mại và còn thua kém về sự năng động, tính linh hoạt sáng tạo và tinh thần trách nhiệm đối với doanh nghiệp nếu so sánh với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác như doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần... Điều này ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước chưa phản ánh đúng tiềm năng thực sự của doanh nghiệp, và cũng ảnh hưởng tới thu nhập của doanh nghiệp và bản thân người lao động. Đa số các doanh nghiệp thương mại nhà nước hiên nay có mức thu nhập tháng bình quân trên đầu người ở mức 400.000 đồng trở xuống và có tới 33 doanh nghiệp có mức thu nhập bình quân đầu người 150.00 đồng (năm 1997). Số doanh nghiệp có mức thu nhập bình quân đầu người trên 1 triệu đồng/ tháng chỉ chiếm khoảng 15% trên tổng số doanh nghiệp thương mại nhà nước.
Một vấn đề đang đặt ra cho các doanh nghiệp thương mại nhà nước cũng như cho các doanh nghiệp nhà nước nói chung là năng lực trình độ của đội ngũ nhà quản lý, quản trị và cán bộ nghiệp vụ kinh doanh ở các doanh nghiệp còn thấp. Nhất là học vấn và bề dầy kinh nghiệm trong buôn bán làm ăn với bạn hàng nước ngoài. Theo điều tra của các doanh nghiệp nhà nước thời gian gần đây cho thấy khả năng điều hành của giám đốc doanh nghiệp như sau:
tiêu chí
doanh nghiệp
trung ương
doanh nghiệp
địa phương
có lãi
đủ chi
thua lỗ
có lãi
đủ chi
thua lỗ
Theo số năm làm việc
- làm 5 năm liên tục
- 6 -9 năm liên tục
- 10 -14 năm liên tục
- 15 -19 năm liên tục
- trên 20 năm liên tục
Theo bằng cấp
- Không có bắng cấp
- Có bằng trung cấp
- Có bằng đại học
- Có bằng thạc sĩ trở lên
68
74
71
71
64
13
69
76,7
80,6
25
19
20
22
33
13
27,4
23,1
19,4
7
7
9
7
3
74
3,6
0,2
54
65
67
65
63
14
80,5
73,5
70
39
27
26
27
29
15
18,9
24,5
20
7
8
7
8
8
71
0,6
2,0
10
Có thể thấy dù là ở doanh nghiệp trung ương hay địa phương, cán bộ quản trị có bằng cấp càng cao thì khả năng doanh nghiệp có lãi càng nhiều và thâm niên làm việc càng nhiều thì khả năng bị thua lỗ giảm đi. Những yếu kém thiếu hụt về học vấn và bề dầy kinh nghiệm của giám đốc, tổng giám đốc doanh nghiệp sé dẫ đến thất bại trong đàm phán, bị động, thậm chí, bị lường gạt trong kinh doanh . Đó sé là nguy cơ dẫn đến sự thua thiệt, thậm chí phá sản doanh nghiệp mà trong những năm gần đây chúng ta vẫn bắt gặp. Cần phải coi đây là một trong những vấn đề trọng tâm bức xúc phải giải quyết để nâng cao nội lực cho các doanh nghiệp.
2.5.Về thị trường:
Do chuyển sang cơ chế thị trường nhường chỗ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thương mại nhà nước đã giảm bớt đầu mối bán lẻ mà tăng cường vai trò bán buôn trên thị trường trong nước, tuy thương mại nhà nước chiếm tỷ trọng không lớn về bán lẻ (khoảng 20-30%) nhưng vẫn giữu vai trò chủ đạo, điều phối hoạt động thương mại trên cả nước thông qua việc nắm giữ các nguồn hàng và mạng lưới bán buôn trên toàn quốc (70-80%) cùng một số mặt hàng quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với nền kinh tế như: xăng, dầu, than, thuốc lá...
Các doanh nghiệp thương mại nhà nước trong những năm gần đây đã chú trọng phát triển đầu t._.ội đồng phát triển thương mại Hồng Kông) AMCHAM (đại diện văn phòng thương mại Mỹ), TRADEN (Uỷ ban phát triển thương mại Nui Di Lân)... Kinh phí hỗ trợ không chỉ chi cho các doanh nghiệp tìm hiểu thị trường mà còn hỗ trợ thêm cho các tham tán thương mại nước ngoài...
Yêu cầu đặt ra trong tổ chức mạng lưới thông tin để xúc tiến thương mại là phải chọn lọc, khoa học, khách quan và hợp lý thông tinì mới mang lại hiệu quả cao và khả thi cho các doanh nghiệp. Trước mắt cần hỗ trợ cho một số doanh nghiệp tham gia hội chợ quốc tế tại các nước âu, Mỹ .
Bên cạnh việc hiện đại hoá, nâng cao chất lượng hệ thống thông tin phục vụ các doanh nghiệp, nhà nước cũng cần xây dựng, nâng cấp các cơ sở hạ tầng. Về cơ bản, các ngành thương mại dịch vụ chưa tác động thâm nhập vào thị trường nông thôn, miền núi được là bao vì hệ thống đừơng xá, nhà ga, phương tiện vận chuyển, kho tàng còn chưa được cải thiện. Hoạt động xuất nhập khẩuvẫn phải phụ thuộc nhiều vào hệ thống vận tải chuyên chở của nước ngoài, làm tăng đáng kể chi phí vận tải, nâng cao giá thành sản phẩm hàng hoá, giảm sức cạnh tranh; Nhà nước cần đầu tư xây dựng hệ thông sân bay, bến cảng, nhà ga, các đội xe, tàu vận tảivới đủ các thiết bị chuyên dùngcho việc bốc xếp, đo lươngd, kiểm nghiệm hàng hoá đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
III.giải pháp từ phía doanh nghiệp:
Để mở rộng, phát triển kinh doanh, các doanh nghiệp thương mại nhà nước cần có sự hỗ trợ nhiều mặt từ phía nhà nước. Song nhà nước cũng chỉ có chức năng "bà đỡ", hỗ trợ ở tầm vĩ mô. Điều quan trọng cơ bản là các doanh nghiệp thương mại nhà nước phải tự thân vận động, tự bươn chải để tồn tại, thực hiện tốt các nhiệm vụ kế hoạch đã đề ra , không ngừng vươn lên để phát triển ổn định. Vì vậy, những giải pháp do doanh nghiệp đề ra để phát triển kinh doanh có vai trò tích cực và quyết định nhất, đồng thời chi phối tác dụng và hiệu quả của các giải pháp từ phía nhà nước và môi trường kinh doanh.
Để phát triển, nâng cao nội lực, sức cạnh tranh trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp thương mại nhà nước cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây:
1.Xây dựng, thực hiện chiến lược kinh doanh đồng thời lựa chọn phương án kinh doanh thích hợp:
Đối với các doanh nghiệp thương mại nhà nước, vấn đề chiến lược kinh doanh gần đây mới được quan tâm và nghiên cứu. Càng tiến tới thời điểm hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực Đông Nam á, vào WTO trong tương lai, các nhà quản trị doanh nghiệp càng thấy rõviệc đưa chiến lược kinh doanh vào cuộc sống của doanh nghiệp là điều tất yếu bởi họ nhận thức được rằng, muốn tồn tại, phát triển đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước thông tinì phải sử dụng các công cụ quản trị doanh nghiệp phù hợp với môi trường kinh doanh mà nó hoạt động.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là một quá trình liên tục kể từ khi xây dựng đến khi thực hiện, đánh gia, kiểm tra và điều chỉnh chiến lược được xây dựng trong một thời gian tương đối dài (từ 2 cho đến 10 năm) và luôn có tư tưởng tiến công, quyết tâm giành thắng lợi trong cạnh tranh, chiến lược kinh doanh giúp doanh nghiệp nhận thức rõ mục đích, hướng đi của mình, tạo điều kiện để doanh nghiệp nắm bắt, tận dụng được thời cơ kinh doanh và chủ động tìm giải pháp khắc phục vượt qua khó khăn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Việc xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh tạo ra căn cứ vững chắc để doanh nghiệp đề ra chính sách, quyết định phù hợp với sự biến động của thị trường , tăng cường vị thế cạnh tranh, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Căn cứ vào mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước và chiến lược phát triển của ngành thương mại, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược kinh doanh trong đó xác định rõ mục tiêu phát triển và cơ cấu sản xuất kinh doanh, bạn hàng và thị trường, các nguồn lực phát triển, kế hoạch và biện pháp tổ chức thực hiện cho từng thời kỳ. Theo đó mọi hoạt động của doanh nghiệp phải nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể của chiến lược.
Từ những thàng công của nhiều công ty trên thế giới như Microsoft, Toyota, Sony và Việt Nam như Petro Việt Nam, Công ty Kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam Vifon, Công ty Dệt Việt Thắng cho thấy các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thương mại nhà nước nói riêng muốn tồn tại và phát triển phái có chiến lược kinh doanh, trong đó lợi thế cạnh tranh phải đươc xác định trong tất cả các bước của quá trình hình thành chiến lược. Phải phân tích chính xác cả về định tính và định lượng môi trường vĩ mô và vi mô nhất là phân tích cung cầu, áp lức cạnh tranh từ phía khách hàng, ba đối thủ dẫn đầu, những người cung ứng, những đối thủ tiềm ẩn mới, những sản phẩm thay thế, những chính sách của nhà nước trong từng giai đoạn, đảm bảo tính thực tiễn của chiến lược.
Điều này cũng cho thấy, các doanh nghiệp thương mại nhà nước cần gấp rút xây dựng chiến lược tăng tốc, đổi mới thực sự toàn diện giai đoạn năm 2000 - 2006. Đây cũng là dịp để các doanh nghiệp tiến hành rà soát lại tổng thể các mặt hàng, các nguồn lực của doanh nghiệp để chuẩn bị hội nhập.
Trên cơ sở chiến lược kinh doanh, các doanh nghiệp phải trả lời các câu hỏi: phải kinh doanh cái gì? kinh doanh như thế nào? bán cho ai? Những chi phí dự kiến? Đồng thời mỗi doanh nghiệp căn cứ vào khả năng và điều kiện hiện tại để tiến hành lựa chọn phương thức kinh doanh thích hợp, kết hợp chuyên doanh với kinh doanh tổng hợp, kinh doanh thương mại với sản xuất hàng hoá.
Như vậy trong từng giai đoạn, thời kỳ cụ thể, doanh nghiệp cần xây dựng phương án kinh doanh để phát huy tối đa lợi thế cạnh tranh. Cần xác địnhlợi thế cạnh tranh trung tâm của doanh nghiệp, những việc nào có thể đạt được tối ưu thì tập trung xây dựng phương án kinh doanh để phát triển ưu thế đó.
Một phương án kinh doanh trên cơ sở phối hợp tốt các yếu tố của môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường sẽ mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Như vậy phương án kinh doanh sẽ định hướng các hoạt động tạo ra lợi nhuận và thực hiện các mục tiêu đã định của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2. Các giải pháp cho đầu vào:
Trong hoạt động kinh doanh, nếu có được yếu tố đầu vào : thông tin, nguồn vốn, nguồn vật chất hàng hoá, nguồn lao động... tốt, đáp ứng nhu cầu thông tinì hoạt động đầu ra sẽ có điều kiện tiến hành thuận lợi, nâng cao được chất lượng đầu vào, các doanh nghiệp thương mại nhà nước sẽ có cơ hội thu lợi nhuận nhờ tăng doanh thu, giảm chi phí, từ đó tái đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh. Các biện pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng đầu vào cho các doanh nghiệp thương mại nhà nước bao gồm:
2.1. Nâng cao hiệu quả công tác thu thập và xử lý thông tin :
Các doanh nghiệp thương mại nhà nước nên tiến hành cụ thể việc thu thập thông tin thị trường và giá cả, thông tin về đối thủ cạnh tranh và các thông tin có liên quan trực tiếp cũng như gián tiếp, thông tin ngắn hạn cũng như dài hạn, đặc biệt là tổ chức thu thập thông tin phản hồi.
Doanh nghiệp nên tiến hành thu thập ý kiến khách hàng, tổ chức hội nghị khách hàng định kỳ để xác định đúng và chính xác các xu hướng thay đổi nhu cầu, thị hiếu. Cần tìm ra những thông tin giải đáp những câu hỏi về tình hình thị trường trong và ngoài nước, chú trọng vào những thị trường có xu hướng mở, đang kỳ tăng trưởng.
Vấn đề nghiên cứu đối thủ cạnh tranh phải được quan tâm hơn nữa bởi hiện nay các doanh nghiệp thương mại nhà nước phải đương đầu với cạnh tranh và gặp không ít khó khăn. Do vậy, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp thương mại nhà nước không thể không nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, biết lợi dụng điểm yếu của họ và khuyếch đại điểm mạnh của mình.
Các doanh nghiệp thương mại nhà nước cũng phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu hàng hoá, nghiên cứu và đánh giá khả năng thoả mãn nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, nghiên cứu chất lượng hàng hoá, năng lực cạnh tranh của hàng hoá, mẫu mã bao bì kèm theo.
Khi đã có tư liệu về thị trường, các doanh nghiệp cần xem xét phân tích xem hàng hoá của mình có phù hợp với nhu cầu thị trường hay không. Nếu hàng hoá đó đã phù hợp rồi thì cần nâng cao chất lượng lên thông qua lựa chọn nhà sản xuất, nếu chưa phù hợp thì nhất thiết phải đổi mới hàng hoá. Nghiên cứu giá cả cũng có ý nghĩa quan trọng giúp nhà kinh doanh gắn kết doanh nghiệp với thị trường. Qua nhiều giá cả của các thị trường hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh, quan hệ tỷ giá giữa các loại hàng hoá, các vùng giá cả trên thị trường Việt Nam và thế giới sẽ giúp doanh nghiệp rút ra những kết luận cần thiết khi định giá hàng hoá sao cho doanh nghiệp vừa bán được hàng vừa thu được lợi nhuận cao.
Các doanh nghiệp cần chấn chỉnh và tăng cường hệ thống thông tin trong doanh nghiệp, tăng cường kỉ luật báo cáo thông tin từ dưới lên. Đồng thời phải đầu tư vi tính hoá hệ thống thông tin, lập ngân quỹ riêng cho hoạt động thu thập và xử lý thông tin.
2.2. Giải pháp về vốn:
Trên cơ sở phương án kinh doanh đã chọn, các doanh nghiệp thương mại nhà nước cần lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn. Ngoài nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp, bất kỳ một doanh nghiệp quốc doanh nào cũng cần huy động những nguồn vốn bổ sung nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh và mở rộng qui mô hoặc đầu tư chiều sâu. các nguồn vốn bao gồm: nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung, vay ngân hàng, vay đối tượng bên ngoài, phát hành cổ phiếu, cổ phần tham gia thị trường chứng khoán, liên doanh...
Các doanh nghiệp cần phải đẩy nhanh việc cổ phần hoá thông qua đó huy động đa dạng các nguồn vốn, đẩy mạnh hoạt động liên doanh liên kết với các thành phần kinh tế khác, nhất là với doanh nghiệp nước ngoài để thu hút cũng như tiếp thu được công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của họ.
Việc lựa chọn nguồn vốn nào vào đầu tư hoạt động kinh doanh là rất quan trọng cần phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Nếu đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng qui mô kinh doanh thì trước hết cần huy động nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung thì lợi nhuận để lại, lấy từ quĩ phát triển sản xuất kinh doanh , phần còn lại vay tín dụng Nhà nước , vay ngân hàng, liên doanh... nhu cầu cần bổ sung vốn lưu động trước hết doanh nghiệp cần phải sử dụng linh hoạt các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các qui theo các mục đích đã định nhưng chưa sử dụng, lợi nhuận để lại, các khoản phải trả, phải thu nhưng chưa đến kỳ hạn... Các doanh nghiệp cần nghiên cứu sử dụng vốn cố định - phần vốn lâu nay bị bỏ phí chưa sử dụng đến, và nghiên cứu cơ chế sử dụng vốn đảm bảo khâu dự trữ trong lưu thông.
Sau đó có thể các doanh nghiệp thương mại nhà nước nên chú trọng mở rộng và phát triển mạng lưới đại lý cho các doanh nghiệp trên khắp cả nước: Thành thị - nông thôn - miền núi, vùng sâu, vùng xa. Khắc phục được tình trạng mua đi bán lại nhiều lần dẫn đến tăng giá, vừa tiết kiệm dược vốn lưu động ứng trước, tăng nhanh được vòng quay của vốn.
2.3. Tăng cường liên kết kinh tế :
+ Để cạnh tranh , ở hầu hết các nước trên thế giới, các doanh nghiệp đều liên kết với nhau dưới hình thức "hiệp hội" - là một hình thức liên kết dọc theo ngành bao gồm các nhà sản xuất và tiêu thụ theo ngành đó.
Liên kết kinh tế giữa các nhà sản xuất và thương mại có tác dụng thiết thực đối với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp . Dù dưới hìng thức liên kết nào thì kết quả chung đều là có sự ổn định của "đầu vào"đồng thời lại khai thông được "đầu ra" một cách nhanh chóng. Liên kết giữa nhà sản xuất và thương mại đã xoá đi hiện tượng tranh mua, tranh bán làm đội giá lên mức không đáng có trên thị trường trong nước và làm dìm giá ở thị trường ngoài nước, đồng thời làm cho nhà sản xuất ngày càng đáp ứng nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước .Vì đây là hình thức quan trọng giúp các doanh nghiệp thương mại nhà nước tạo được nguồn hàng cũng như nguồn tiêu thụ ổn định, nâng cao được uy tín kinh doanh . Đây là hướng chuyển từ chuyên môn hoá kinh doanh thương mại của các doanh nghiệp thương mại nhà nước sang kinh doanh thương mại và khai thác chế biến sản phẩm, hay tạo điều kiện sát nhập các doanh nghiệp thương mại nhà nước vào các doanh nghiệp sản xuất thành các tổng công ty hiện nay.
+Các doanh nghiệp thương mại nhà nước cũng có thể tạo mối liên kết với các doanh nghiệp qui mô nhỏ hơn cùng ngành hàng kinh doanh để đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế , xây dựng một mạng lưới lưu thông hàng hoá cho các doanh nghiệp thương mại nhà nước, giữ vững vai trò chủ đạocủa kinh tế nhà nước .
Trong mối liên kết này, các doanh nghiệp thương mại nhà nước cần chú trọng kết hợp với hợp tác xã thương mại để tạo nguồn thu mua những hàng nông lâm, hàng thủ công mỹ nghệ đảm bảo chi phối bán buôn, nâng cao tỷ lệ bán lẻ trên thị trường , đặc biệt là các thị trường nông thôn, miền núi nơi còn rất thiếu hàng. Các doanh nghiệp cần coi xây dựng hệ thống đại lý mua bán là phương thức quan trọng để mở rộng thị trường. Từ đó phát huy tính tích cực của các thành phần kinh tế trong lĩnh vực thương mại.
+Với điều kiện có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện thiết bị quản lý hiện đại, đội ngũ cán bộ điều hành đủ năng lực và có trình độ cao thì các doanh nghiệp thương mại nhà nước có thể chuyển từ hình thức liên kết ngành dọc thành những tập đoàn đa dạng hoá hình thức hoạt động theo hướng lên kết các doanh nghiệp thương mại vào trong tập đoàn, cùng nhau hùn vốn thành lập công ty tài chính đầu tư, tiến hành sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp có thể mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh của mình thông qua tiềm lực phối hợp của cả tập đoàn và sự phát triển của tập đoàn.
2.4. Không ngừng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên:
+ Đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp luôn có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính họ là người đưa ra và thực hiện các quyết định kinh doanh. Một đội ngũ cán bộ công nhân viên lành nghề, luôn học hỏi, có nỗ lực, có nhiệt tình cao trong doanh nghiệp là sự bảo đảm cho sự thành công của doanh nghiệp.
+ Trong doanh nghiệp, nhà quản trị phải thực hiện các chức năng: từ xây dựng mục tiêu , chiến lược , tổ chức các nguồn lực doanh nghiệp , xây dựng bộ máy quản lý, tác nghiệp, đến bố trí sử dụng nhân sự, đôn đốc thúc đẩy kiểm soát các hoạt động, ngoài ra nhà quản trị còn nghiên cứu các yếu tố môi trường, theo dõi, dự báo các biến động, thay đổi có thể, nhằm hạn chế những tổn thất, thiệt hại cho quá trình sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân của những doanh nghiệp kinh doanh yếu kém và thua lỗ chủ yếu là do hạn chế trong trình độ của nhà quản lý.
Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải tạo điều kiện cho các nhà quản lý doanh nghiệp tham gia các khoá học đào tạo và bồi dưỡng kiến thức quản trị kinh doanh hiện đại. Nhà quản lý cần không ngừng học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm của các doanh nghiệp quản lý thành công cả trong và ngoài nước, đồng thời phải tu dưỡng phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp phát triển toàn diện các phẩm chất cần có của người cán bộ quản lý trong thời kinh tế thị trường. Các nhà qunả lý cần phải trau dồi năng lực trình độ, tầm hiểu biết về thông lệ quốc tế, về trình độ kỹ thuật, về ngoại ngữ, chuyên môn nghiệp vụ ngoại thương và các lĩnh vực kinh tế đối ngoại khác.
+ Đối với người lao động, là thành phần trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh nên họ trực tiếp làm ra của cải, kết quả kinh doanh cho doanh nghiệp . Do vậy phải thường xuyên tạo điều kiện cho người lao động nâng cao trình độ, đưa ra những ý kiến đóng góp, kích thích tinh thần sáng tạo và tích cực trong công việc bằng các hình thức khuyến khích vật cháat và tinh thần, xây dựng bầu không khí trong lao động để gắn bó người lao động với doanh nghiệp.
+ Trong đội ngũ người lao động, các doanh nghiệp thương mại nhà nước cần đặc biệt chú ý huấn luyệnlực lượng bán hàng. Đây là công tác có hiệu quả tức thời mà các doanh nghiệp cần tiến hành trong thời gian sớm nhất. Tuỳ theo doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá có tính phức tạp hay giản đơn việc huấn luyện bán hàng dài hay ngắn. Chẳng hạn như công ty IBM chỉ đề những người mới tuyển làm việc độc lập sau 2 năm huấn luyện và tập sự. Mỗi năm công ty còn dành 15% thời gian để huấn luyện bổ sung. Những người bán hàng lâu năm vẫn phải được cập nhật thông tin mới nhất về sản phẩm , các chính sách của công ty, các biện pháp đối phó của doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh ... thông qua các cuộc họp tổng kết từng kỳ hoặc thông báo bằng văn bản, hay do giám đốc kinh doanh trực tiếp phổ biến. Các nhân viên mới được tuyển chọn phải trải qua một quá trình huấn luyện về nghiệp vụ chào bán hàng của doanh nghiệp theo một nội dung được chuẩn bị nghiêm túc bởi các giám đốc kinh doanh. Những việc này dù tiêu tốn nhiều thời gian và kinh phí nhưng có hiệu quả lâu dài nâng cao nội lực doanh nghiệp và khả năng phát triển kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.
3.Đổi mới quản lý kinh doanh:
3.1. Hình thành và phát triển các hình thức kinh doanh mới:
Việc phát triển các hình thức kinh doanh mới là nhằm nâng cao doanh thu , tận dụng khai thác các cơ hội và nguồn lực sẵn có trong kinh doanh. Các doanh nghiệp thương mại nhà nước có thể phát triển kinh doanh trong lĩnh vực cho thuê những thiết bị chưa sử dụng hết công suất, chưa hết thời gian khấu hao, cung cấp các thiết bị chuyên dùng cho các doanh nghiệp khác hoặc có thể cung cấp các thiết bị tư vấn ngành hàng và về các đối tác quốc tế. Các doanh nghiệp có thể tăng xuất khẩu vô hình bằng cách phát triển các dịch vụ quốc tế có thu ngoại tệ như tái xuất các sản phẩm nước ngoài, thực hiện các dịch vụ kho vận, cung cấp thông tin và quảng cáo cho các doanh nghiệp nước ngoài.
3.2. Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh :
Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanhlà đảm bảo cho quá trình đã được vận hành thông suốt đều đặn , nhịp nhàng giữa các khâu ký hợp đồng mua vào, thanh toán, dự trữ tiêu thụ... đảm bảo ăn khớp chặt chẽ giưã các bộ phận trong nội bộ doanh nghiệp, nhằm sản xuất ra nhiều sản phẩm chất lượng tốt, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá. Các biện pháp quản lý điều hành sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế tối đa tình trạng ứ động vật tư hàng hoá, sản phẩm kém chất lượng không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, gây lãng phí và làm chậm tốc độ luân chuyển của vốn.
Để làm được điều này, doanh nghiệp cần phải tăng cường quản lý từng yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh cũng như tổ chức tốt công tác kiểm tra đánh giá và phân tích kinh doanh.
+ Quản lý tài sản cố định, vốn cố định:
Nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định, sử dụng triệt để diện tích sản xuất kinh doanh. Sử lý rứt điểm các tài sản không dùng, hư hỏng thanh lý nhằm thu hồi vốn cố định chưa sử dụng vào luân chuyển, bổ sung thêm vốn cho sản xuất kinh doanh.
Xây dựng và chấp hành tốt các nội qui, quy chế sử dụng, bảo dưỡng sửa chữa tài sản cố định, xây dựng các chế độ thưởng phạt nghiêm minh nhằm nâng cao trách nhiệm vât chất trong việc sử dụng tài sản cố định.
Thường xuyên quan tâm đến việc bảo toàn vốn cố định, quản lý chặt chẽ tài sản cố định về mặt hiện vật không đổ nát hư hỏng. Tài sản cố định trước thời hạn khấu hao, hàng năm phải lập kế hoạch khấu hao theo tỷ lệ của Nhà nước qui định và điều chỉnh kịp thời giá trị tài sản cố định khi có trượt giá để tính đúng, tính đủ vào giá thành sản phẩm hàng hoá.
+ Quản lý vốn lưu động:
Trong một doanh nghiệp thương mại thì vốn lưu động chiếm tỷ lệ khá lớn (70 - 80%) trong tài sản của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động phụ thuộc vào việc sử dụng tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ quay vòng của vốn lưu động. Do vậy doanh nghiệp cần tăng cường các biện pháp quản lý tài sản lưu động, vốn lưu động.
Xác định vốn lưu động cần thiết cho từng kỳ sản xuất kinh doanh nhằm huy động hợp lý các nguồn vốn bổ sung. Nếu xác định không đúng nhu cầu sẽ dẫn đến tình trạng hoặc là thiếu vốn làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị ngừng trệ hoặc là huy động thừa vốn dẫn đến lãng phí và làm chậm tốc độ lưu chuyển vốn.
Tổ chức tốt quá trình lao động, tăng cường kỷ luật và các qui định kiểm tra, kiểm nghiệm sản phẩm bằng các hình thức vật chất thông qua tiền lương, tiền thưởng động viên cán bộ, công nhân viên, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động, tiết kiệm chi phí tiền lương.
+ Xây dựng tốt mối quan hệ với bạn hàng nhằm củng cố uy tín trên thương trường. Tổ chức tốt quá trình thanh toán và giảm các khoản nợ đến hạn chưa đòi được, tránh tình trạng công nợ dây dưa, không có khả năng thanh toán.
+ Tổ chức công tác kế toán và phân tích hoạt động kinh tế :
Qua các số liệu, tài liệu kế toán, báo cáo tài chính, doanh nghiệp thường xuyên nắm được vốn hiện có cả về giá trị và hiện vật, nguồn hình thành và cả sự biến động tăng giảm trong kỳ, hình thành và khả năng thanh toán,... nhờ đó các doanh nghiệp đề ra các giải pháp đúng đắn xử lý kịp thời các vấn đề tài chính nhằm bảo đảm cho quá trình kinh doanh được tiến hành thuận lợi.
Vì vậy, Tổ chức công tác kế toán tốt ở doanh nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng cường quản lý điều tra, kiểm soát quá trình kinh doanh sử dụng các loại vốn đạt hiệu quả cao từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hệ thống kế toán là hệ thống thông tin thực hiện các số liệu kết toán, tự nó chưa thể chỉ ra các biện pháp cần thiết để tăng cường quản lý vốn sản xuất kinh doanh. Vì vậy, định kỳ các doanh nghiệp phải tiến hành phân tích tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh, đánh giá từng chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh trong kỳ. Từ đó tìm ra các nguyên nhân và có các biện pháp khắc phục kịp thời.
3.3.Hiện đại hoá hoạt động thương mại và văn minh thương nghiệp:
Trong điều kiện bùng nổ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay, việc mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh và cải tiến công tác quản lý bán hàng sẽ tạo ra một lợi thế so sánh cho các doanh nghiệp thương mại nhà nước.
Hiện đại hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước, bắt đầu từ việc xây dựng các mô hình kinh doanh hiện đại phải được đặt ra như một yêu cầu thực tiễnnhằm tăng cường khả năng cạnh tranh. Điều đó cũng giúp cho các doanh nghiệp bảo đảm được sức phát triển khi một bộ phận dân cư đang giầu lên tham gia vào thị trường với nhu cầu về hàng hoá có chất lượng cao hơn.
Kinh doanh thương mại hiện đại không chỉ thể hiện ở cơ sở vật chất kỹ thuật, các cửa hàng bán hàng tự chọn, các siêu thị lớn nhỏ, các trung tâm thương mại... mà chủ yếu thể hiện ở công nghệ quản lý, phương thức kinh doanh, tính hiện đại văn minh của hàng hoá.
Trước hết, các doanh nghiệp thương mại nhà nước cần áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để rút ngắn chu kỳ sản xuất chế biến và hoàn thiện sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên vật liệu, nâng cao năng suất lao động tạo ra sản phẩm mới hợp thị hiếu và chất lượng cao theo tiêu chuẩn trong nước và quốc tế (ISO-9000, ISO- 9002).
Hơn nữa, các doanh nghiệp cần nâng cao trình đọ văn minh thương mại, thể hiện ở phong cách giao tiếp để mời gọi, chiều lòng khách hàng, giữ chữ tín để làm ăn lâu dài, thực hiện các dịch vụ khách hàng trước, trong và sau khi bán hàng.
Các hình thức quảng cáo, khuyến mại, chào hàng tại nhà, biếu trước cho sử dụng rồi mới mua sau, bán hàng kèm quà tặng nhỏ, tăng khối lượng mà không tăng giá bán, quay số mở thưởng trong một đợt bán hàng khuyến mãi... là những thủ thuật của người bán hàng, hay nói cách khác là những nghệ thuật tiếp thị cũng là một khía cạnh của văn minh thương mại.
Việc khai thác các dịch vụ phục vụ khách hàng hiện nay mở ra những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp thương mại nhà nước. Có thể nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại sản phẩm thậm chí cùng một nhãn hiệu của cùng một cơ sở sản xuất thì phần dịch vụ khách hàng sẽ là phần riêng có do doanh nghiệp thương mại tạo ra, mang một bản sắc riêng. Nếu tổ chức các dịch vụ tối ưu, đáp ứng nhu cầu khách hàng tốt hơn đối thủ cạnh tranh sẽ nâng cao hiệu quả của mặt hàng, đồng thời dễ dàng thay đổi các dịch vụ theo nhu cầu làm nâng cao khả năng cơ bản của cạnh tranh và tạo lập uy tín cho doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp thương mại nhà nước đã vươn lên cung cấp các dịch vụ lắp đặt, hướng dẫn sử dụng, giao hàng tin cậy, dịch vụ tín dụng... nhưng mới chỉ mang tính chất giải quyết tình thế theo sự đòi hởi của nhu cầu thị trường, giá cả dịch vụ còn cao chưa mang tính cạnh tranh. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải thiết kế quá trình dịch vụ, qui định nội dung dịch vụ sao cho tối ưu nhất, đồng thời thường xuyên thẩm định mức độ phù hợp của dịch vụ so với nhu cầu và hiệu quả kinh doanh của quá trình dịch vụ, giảm bớt chi phí, duy trì những dịch vụ tối ưu nhất phục vụ nhu cầu thị trường.
Kết luận
Trong quá trình chuyến đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường cần khẳng định vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước, Trong lĩnh vực phân phối lưu thông còn phải kể đến vai trò to lớn của các doanh nghiệp thương mại nhà nước. Nhận thức rõ tầm quan trọng của thương nghiệp, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ : "Phát triển thương nghiệp đẩy lưu thông hàng hoá thông suốt dễ dàng trong cả nước, nhất là vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thương nghiệp quốc doanh được củng cố và phát triển trong những ngành hàng thiết yếu đối với sản xuất và đời sống, trước hết là ở địa bàn còn bỏ trống, nắm bán buôn chi phối bán lẻ. Từng bước tổ chức hợp tác xã mua bán và mạng lưới đại lý để cùng thương nghiệp quốc doanh đủ sức ngăn giữ những biến động bất thường, ổn định thị trường giá cả..."
Để thực hiện được tư tưởng chỉ đạo đó, các doanh nghiệp thương mại nhà nước càng cần thiết phải mở rộng phát triển kinh doanh, coi đây là yếu tố sống còn của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Thời gian qua, các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã không ngừng cải tiến phương thức kinh doanh, mở rộng mạng lưới kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ... Tuy nhiên, các doanh nghiệp thương mại nhà nước còn bộc lộ nhiều bất cập, khó khăn về vốn, quản lý sử dụng vốn, vấn đề cạnh tranh, vấn đề đội ngũ cán bộ và lao động ... Điều này đặt ra một yêu cầu cấp bách cho những nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô cũng như các cán bộ cấp doanh nghiệp làm thế nào để mở rộng, phát triển hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và giữ vững vai trò chủ đạo của doanh nghiệp thương mại nhà nước.
Trên đây là một số đề xuất về các giải pháp nhằm mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước. Để hoàn thành đề tài này ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi còn có sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của PGS - TS Đặng Đình Đào. Hy vọng những ý kiến đề xuất trong đề tài sẽ có giá trị thực tiễn giúp các doanh nghiệp thương mại nhà nước phát triển hoạt động kinh doanh của mình và hướng tơí mục tiêu phát triển bền vững. Trong điều kiện hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, tôi rất mong có sự cảm thông và những ý kiến đóng góp quí báu để tôi có thể hoàn thiện hơn nữa đề tài cũng như sự hiểu biết của mình./.
tài liệu tham khảo
1.Giáo trình kinh tế thương mại - trường đại học Kinh tế quốc dân.
2. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại - trường đại học Kinh tế quốc dân.
3. Giáo trình Cẩm nang thương mại dịch vụ - trường đại học Kinh tế quốc dân.
4. Nghị quyết 12/ BCT khoá VII.
5. Báo cáo tổng kết năm 1998 - Bộ thương mại .
6. Tạp chí thương mại các năm 1996, 1997, 1998, 1999.
7. Tạp chí Kinh tế dự báo các năm 1998, 1999.
8.Tạp chí Kinh tế phát triển các năm 1998, 1999
9. Các tạp chí khác
Mục lục
Lời mở đầu ______________________________________________________1
Chương I
Cơ sở lý luận chung về kinh doanh của
doanh nghiệp thương mại
I. bản chất của kinh doanh thương mại
1.Bản chất kinh doanh thương mại ____________________________________3
2.Nội dung của kinh doanh thương mại_________________________________4
II. Doanh nghiệp thương mại nhà nước và vai trò, chức năng của doanh nghiệp thương mại nhà nước
1. Khái niệm và các loại hình doanh nghiệp thương mại nhà nước____________________9
2. Vai trò của doanh nghiệp thương mại nhà nước trong nền kinh tế ________10
3.chức năng của doanh nghiệp thương mại nhà nước ____________________13
III.ý nghĩa và sự cần thiết của việc mở rộng và phát triển
kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước_____________15
Chương II
thực trạng kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại
nhà nước trong giai đoạn hiện nay
I.Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
thương mại nhà nước
1.Tổng quan về hoạt động thương mại nước ta hiện nay__________________17
2.Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước______18
II. Những nguyên nhân và kinh nghiệm rút ra từ hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước
1.Những nguyên nhân rút ra ________________________________________29
2.Một số kinh nghiệm bước đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp thương mại nhà nước ______________________________31
Chương III
Một số biện pháp nhằm mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước
I. Mục tiêu và phương hướng phát triển loại hình doanh nghiệp thương mại nhà nước
1. Mục tiêu đổi mới và phát triển loại hình doanh nghiệp thương mại nhà nước______33
2. Phương hướng phát triển loại hình doanh nghiệp thương mại nhà nước_____________33
II. Những giải pháp cơ bản từ môi trường kinh doanh
1. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách, sắp sếp lại hệ thống doanh nghiệp
thương mại nhà nước_______________________________________________35
2. Tiếp tục đổi mới chính sách quản lý Nhà nước đi đôi với nâng cao
quyền tự chủ cho các doanh nghiệp thương mại nhà nước_________________37
3. Tạo lập môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại nhà nước_________39
III.giải pháp từ phía doanh nghiệp
1.Xây dựng, thực hiện chiến lược kinh doanh đồng thời lựa chọn
phương án kinh doanh thích hợp _____________________________________43
2. Các giải pháp cho đầu vào ________________________________________45
3.Đổi mới quản lý kinh doanh _______________________________________49
Kết luận _______________________________________________________53
Tài liệu tham khảo _____________________________________________54
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34041.doc