Tài liệu Nghiến cứu biện pháp triển khai nhân rộng một số mô hình khuyến nông hiệu quả trên địa bàn huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh: ... Ebook Nghiến cứu biện pháp triển khai nhân rộng một số mô hình khuyến nông hiệu quả trên địa bàn huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1603 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nghiến cứu biện pháp triển khai nhân rộng một số mô hình khuyến nông hiệu quả trên địa bàn huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bé gi¸o dôc vµ §µo t¹o
trêng ®¹i häc n«ng nghiÖp Hµ Néi
----------------*****--------------
nguyÔn thÞ nhµn
nghiªn cøu biÖn ph¸p triÓn khai nh©n réng mét sè m« h×nh khuyÕn n«ng hiÖu qu¶ trªn ®Þa bµn huyÖn QuÕ Vâ – tØnh b¾c ninh
b¸O c¸O tiÕN §é
luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ
Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ n«ng nghiÖp
M· sè: 60.31.10
Ngêi híng dÉn khoa häc: TS. D¬ng v¨n hiÓu
Hµ néi - 2009
BÁO CÁO TIẾN ĐỘ
§Ò tµi:
“ Nghiến cứubiện pháp triển khai nhân rộng một số mô hình khuyến nông hiệu quả trên địa bàn huyện Quế Võ - tỉnh Bắc Ninh”
1/những công việc đã làm được:
- Cơ bản hoàn thiện đề cương chi tiết.
- Trên cơ sở đó tiến hành thu thập được 70% các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Đã và đang thu thập tình hình cơ bản của huyện Quế Võ và kế hoạch điều tra tại cơ sở.
- Đã việt được luận văn như sau:
+ Phần đặt vấn đề: 100%
+ Phần cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn: 80%
+ Phần đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu: 50%
2/ Những công việc đang làm:
- Tiếp tục thu thập số liệu thứ cấp vào các bảng biểu trong luận văn.
- Điều tra số liệu đang trong quá trình tiến hành.
3/ Những khó khăn gắp phải:
- Về mặt thời gian
4/ Kiến nghị với bộ môn:
- Các thầy, cô tư ván cho em hệ thống các chỉ tiêu sẽ sử dụng trong phân tích nghiên cứu đề tài.
- Hỗ trợ về phương pháp nghiên cứu để thực hiện tốt đề tài.
- Hỗ trợ việc phân tích từ số liệu điều tra (phương pháp, hệ thống chỉ tiêu phân tích).
Em xin trân trọng cảm ơn!
1. MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngày nay đất nước ta đang trên con đường khởi sắc. Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến việc đổi mới và phát triển nền kinh tế. Trước kia nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, nó đã phát triển một cách trì trệ và khó khăn, khủng hoảng kinh tế xã hội thường xuyên xẩy ra. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã họp Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đề ra quyết định tiến hành công cuộc đổi mới chuyển đổi nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Là một nước với trên 70% dân cư sống ở nông thôn, chủ yếu làm nông nghiệp. Toàn đất nước Việt nam nói chung và huyện Quế Võ nói riêng ngày nay khi quá trình CNH- HĐH phát triển đã làm cho quỹ đất nông nghiệp bị giảm đi đáng kể bởi sự mọc lên của các khu công nghiệp, các cum công nghiệp, các công ty đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp làm cho diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người giảm và thu nhập từ việc trồng lúa đang có xu hướng giảm nhanh do hiệu quả thấp so với các cây trồng khác.
Vì vậy bên cạnh những chính sách do Nhà nước hỗ trợ trong nông nghiệp thì việc đưa các mô hình khuyến nông đã được đánh giá có hiệu quả sớm được triển khai nhân rộng và áp dụng những thành tựu khoa học ký thuật về di truyền chọn giống cấy trồng và vật nuôi, sử dụng phân bón, thuỷ lợi, thuốc trừ sâu, các công cụ cơ giới hoá đã cho phép làm tăng năng suất, sản lượng cây trồng nông nghiệp và giảm sự tiêu hao sức lao động trên một đơn vị sản phẩm sản xuất ra, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu lương thực trong nước và tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản.
Có rất nhiều những thành tựu khoa học ký thuật cho nông nghiệp đã được chuyển giao tới nông dân huyện Quế Võ thông qua các chương trình khuyến nông, các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn. Tuy vậy, hiệu qủa của công tác chuyển giao ký thuật sản xuất trong nông nghiệp còn nặng nề khi đưa từ trên xuống, chưa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã hội, tập quán và nhu cầu của nông dân và của cộng đồng. Chưa gắn chặt giữa việc chuyển giao với thị trường tiêu thụ các sản phẩm. Công tác chuyển giao chưa huy động được sự tham gia có hiệu quả của người nông dân và cộng đồng và vì thế các kỹ thuật sản xuất trong nông nghiệp thường không bền vững. Mà muốn nhân rộng những mô hình được thực hiện và đánh giá có hiệu quả váo trong sản xuất nông nghiệp của địa phương thì việc đầu tiên phải làm cho người dân họ nhận thức được việc đó sẽ đem lại cho họ được lợi gì vì đối với người dân thì nhận thức của họ chỉ có giới hạn chính vì thế việc gì họ cũng nghĩ là phải có lợi trước mắt, muốn họ hiểu được nhiều và sâu hơn về những lợi ích từ các mô hình này là một vấn đề hết sức quan trọng nhằm mang lại cho họ có năng suất cao hơn so với các mô hình trước để họ chấp nhận và đưa vào địa bàn của mình điều này cần có những nhà chuyên môn và nhà khoa học chuyên nghiệp giúp họ hiểu để áp dụng những tiến bộ khoa học trong moi khâu trong đó khâu giống vẫn là vấn đề hết sức quan trong để đem lại cho họ có hiệu quả cao trong sản xuất.
Cũng chính vì lý do trên mà trong sản xuất nông nghiệp việc nhân rộng các mô hình khuyến nông có hiệu quả của Quế Võ là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết để đảm bảo an ninh lương thực của cộng đồng, vì điều đó tôi chon vấn đề “ Nghiến cứubiện pháp triển khai nhân rộng một số mô hình khuyến nông hiệu quả trên địa bàn huyện Quế Võ - tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài tốt nghiệp của mình.
1.2. Mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng các mô hình khuyến nông có hiệu quả để nghiên cứu đề ra biện pháp tối ưu để đưa ra nhân rộng trên địa bàn, đề xuât nhằm khắc phục những khó khăn để việc triển khai nhân rộng có hiệu quả cao.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá được cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển nhân rộng một số mô hình khuyến nông có hiệu quả trên địa bàn huyện Quế Võ.
- Đánh giá được thực trang của việc phát triển nhân rộng một số mô hình khuyến nông có hiệu quả trên địa bàn để có những biện pháp hợp lý nhằm mang lại hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp Quế Võ.
- Đề xuất phương thức, biện pháp và chính sách khuyến khích trong việc phát triển một số mô hình khuyến nông hiệu quả trong nông nghiệp huyện Quế Võ.
1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu
- Việc triển khai nhân rộng một số mô hình khuyến nông hiệu quả trên địa bàn huyện Quế Võ có thực sự quan trọng không?
- Muốn triển khai nhân rộng một số mô hình khuyến nông có hiệu quả thì cần phải làm những việc gì?
- Việc triển khai nhân rộng mô hình khuyến nông taị huyện Quế Võ có những khó khăn và thuận lợi gì?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Để đạt được mục tiêu trên nghiên cứu cần tập trung vào tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc nhân rộng một số mô hình khuyến nông có hiệu quả tại huyện Quế Võ đó là điều kiện kinh tế, điều kiện về nhân lực của các hộ nông dân và thực tế các mô hình trình diễn.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài này tập trung nghiên cứu phát triển nhân rộng một số mô hình khuyến nông hiệu quả trên địa bàn huyện Quế Võ.
- Về thời gian: Đề tài dự kiến thu thập số liệu thứ cấp trong khoảng thời gian từ 2006-2008, số liệu khảo đầu năm 2009.
- Về nội dung: Nghiên cứu phát triển nhân rộng một số mô hình khuyến nông hiệu quả trên địa bàn huyện Quế Võ. Những giải pháp để khắc phục những khó khăn trong việc phát triển để nhân rộng một số mô hình khuyến nông hiệu quả trên địa bàn.
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1.Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Các khái niệm về tăng trưởng và phát triển
Những mục tiêu phát triển của các quốc gia đều dựa vào khả năng khai thác nguồn lực trong nước và nước ngoài. Mỗi quốc gia trên thế giới đều có sự kết hợp và khả năng khai thác các nguồn lực khác nhau. Song, quan niệm chung nhất là phải tạo ra được sự tiến bộ toàn diện cả về kinh tế, xã hội và môi trường, nhưng coi tăng trưởng là tiền đề cần thiết cho sự phát triển.
Tăng trưởng kinh tế mới chỉ giới hạn trong khuôn khổ làm tăng thêm sản lượng bằng cách mở rộng quy mô, chứ chưa đề cập đến mối quan hệ của nó đến các vấn đề xã hội.
Vậy, tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định [18]. Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra.
Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta thường dùng mức tăng lên của GNP, GDP. Mức tăng đó thường đứng trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hay tính bình quân theo đầu người của thời kỳ sau so với thời kỳ trước đó.
Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai đoạn nhất định sẽ cho ta khái niệm tốc độ tăng trưởng. Đó là sự tăng thêm sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế – xã hội [18].
Phát triển kinh tế phản ánh sự vận động của nền kinh tế từ trình độ thấp lên trình độ cao hơn.
2.1.1.2. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển kinh tế
Gồm có các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế - xã hội.
* Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng kinh tế, có 2 chỉ tiêu cơ bản:
- Tổng thu nhập: phản ánh một cách khái quát nhất quy mô sản lượng hàng hoá và dịch vụ đã làm ra trong năm gồm:
+ Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ mà tất cả công dân một nước sản xuất ra không phân biệt sản xuất được thực hiện ở trong nước hay ngoài nước trong một thời kỳ nhất định.
+ Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của nước đó (dù nó thuộc về người trong nước hay người ngoài nước) trong một thời gian nhất định.
Tổng sản phẩm quốc dân được xác định theo phương trình kinh tế sau đây:
GNP = GDP + thu nhập tài sản ròng
Thu nhập tài sản ròng bằng tổng thu về thu nhập nhân tố từ nước ngoài trừ đi tổng thu về thu nhập nhân tố cho nước ngoài.
- Chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người: thông thường sử dụng chỉ tiêu GNP bình quân đầu người, GDP bình quân đầu người.
* Các chỉ tiêu về cơ cấu kinh tế – xã hội gồm: một số chỉ tiêu như chỉ tiêu cơ cấu ngành trong GDP; chỉ tiêu về cơ cấu hoạt động ngoại thương; chỉ tiêu về sự liên kết kinh tế; chỉ tiêu về mức tiết kiệm - đầu tư.
2.1.1.3 Các lý thuyết phát triển kinh tế
Các lý thuyết phát triển kinh tế có thể được chia thành 5 loại [31], đó là:
- Lý thuyết Linear-Stages (trong những năm 1950 và 1960)
- Các mô hình thay đổi về cơ cấu (trong những năm 1960 và đầu những năm 1970).
- Lý thuyết phụ thuộc thế giới (International Dependency)
- Cách mạng tân cổ điển (những năm 1980)
- Các lý thuyết tăng trưởng mới (cuối những năm 1980 và 1990).
Nội dung chính của các lý thuyết như sau:
1. Lý thuyết các giai đoạn phát triển (Linear-Stages).
Ý tưởng về các giai đoạn phát triển khác nhau xuất hiện từ thế kỷ 18. Adam Smith lần đầu tiên cho rằng tất cả các xã hội đều trải qua 4 giai đoạn, cụ thể là săn bắn, hái lượm, sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng hoá. Theo Karl Marx, tất cả các xã hội đều phải trải qua, đó là chế độ phong kiến, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Mô hình tăng trưởng về phát triển của Walt W.Rostow là một điểm cộng thêm của ý tưởng này.
Trong đầu những năm 1950, khi thế giới đang khôi phục lại từ sự tàn phá của Thế chiến Hai và hầu hết những nước là thuộc địa của các nước phát triển đều được độc lập, có một nhu cầu lớn về các chính sách phát triển. Để chống lại mối đe doạ lan rộng từ chế độ cộng sản, các nước tư bản phát triển cố gắng đưa ra các đề xuất chính sách cứng rắn đối với các nước mới độc lập, các đề xuất này nhằm đưa các nước kém phát triển đi theo chiều hướng phát triển. Thành công của Kế hoạch Marshall của Mỹ nhằm giúp các nước mới thành lập ở các nước Tây Âu là thực tế và kinh nghiệm lịch sử của nước phát triển trong việc chuyển đổi các xã hội nông nghiệp sang các nước công nghiệp hiện đại có thể có những bài học quan trọng cho các nước đang phát triển, dẫn đến việc hình thành các lý thuyết giai đoạn của Rostow. Theo Rostow, việc chuyển đổi từ kém phát triển đến phát triển có thể được nhận thấy trong hàng loạt các bước hay giai đoạn thông qua đó tất cả các nước phải đi đến. Ông miêu tả ba giai đoạn này là:
Xã hội truyền thống: Giai đoạn này là giai đoạn đầu tiên của sự phát triển, như các xã hội săn bắn và hái lượm của Adam Smith hay các xã hội phong kiến của Marx.
Giai đoạn chuẩn bị cho sự cất cánh: Đây là giai đoạn bắt đầu có sự tiết kiệm. Một hay hai lĩnh vực sản xuất hàng hoá quan trọng với tiềm năng phát triển lớn được chú ý đến và đầu tư trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cũng được thực hiện.
Giai đoạn cất cánh: Giai đoạn này là giai đoạn quan trọng nhất trong 5 giai đoạn của mô hình Rostow. Lĩnh vực này có thể được nhận biết nhờ 3 đặc điểm chính, đó là: Thứ nhất, có sự gia tăng trong tỷ lệ đầu tư sản xuất từ 5% hay thấp hơn, trở thành 10% hay nhiều hơn thu nhập quốc dân. Thứ hai, sự phát triển của một hay hai lĩnh vực sản xuất quan trọng hơn với một tỷ lệ tăng trưởng cao. Thứ ba, sự tồn tại hay xuất hiện nhanh chóng của các khuôn khổ về thể chế, xã hội và chính trị làm nẩy sinh các động lực cho sự mở rộng khu vực hiện đại.
Hướng tới giai đoạn trưởng thành: Đây là giai đoạn khi mà tất cả các cản trở đối với giai đoạn cất cánh không còn và xã hội đã tự đi vào con đường tăng trưởng kinh tế bền vững.
Thời đại tiêu dùng: Đây là giai đoạn cuối cùng. Một khi đã đạt được tới giai đoạn này thì tất cả các vấn đề mà các nước kém phát triển phải đối mặt với cũng sẽ qua và các xã hội sẽ đạt tới một giai đoạn tiêu dùng rộng lớn hơn.
Mô hình tăng trưởng Harrod-Domar:
Nền tảng lý thuyết của Lý Thuyết Giai Đoạn của Rostow và trọng tâm của thuyết đó về sự tiết kiệm xuất phát từ mô hình tăng trưởng Harrod-Domar (H-Đ)
Phương trình chính của mô hình H-D là:
Trong đó Y là thu nhập quốc dân, s là tỷ suất tiết kiệm và k là tỷ lệ vốn - sản lượng. Vì thế về bên trái của biểu thức này là tỷ lệ gia tăng của thu nhập quốc dân. Với một k luôn ổn định và vì thế tỷ lệ gia tăng thu nhập quốc dân tương ứng với tỷ suất tiết kiệm của nền kinh tế. Ví dụ, nếu tỷ lệ vốn - sản lượng là 3, khi đó tỷ lệ tăng trưởng là 5%, tỷ suất tiết kiệm sẽ là 15%. Nếu như tỷ suất tiết kiệm chỉ là 5%, khi đó 10% kia có thể vay mượn nước ngoài hay từ viện trợ nước ngoài. Đây là một luận cứ cơ bản đằng sau kế hoạch Marshall và kế hoạch này đã rất thành công.
Tuy nhiên cũng đã xuất hiện một vài chỉ trích về mô hình Các giai đoạn. Quan điểm này cho rằng mô hình các giai đoạn đã quá đề cao tiết kiệm. Tuy tiết kiệm và đầu tư là các điều kiện cần cho sự phát triển nhưng chúng không được coi là điều kiện duy nhất.
2. Các mô hình thay đổi cơ cấu
Các mô hình thay đổi cơ cấu nhấn mạnh đến nhu cầu của một sự thay đổi về cơ cấu trong xã hội. Các mô hình này không mâu thuẫn với ý tưởng của mô hình các giai đoạn nhưng chúng triển khai các mô hình chức năng phức tạp để chỉ ra các thay đổi về cơ cấu trong xã hội có thể đưa nền kinh tế hướng tới con đường phát triển bền vững như thế nào.
3. Cuộc cách mạng Phụ thuộc-Quốc tế:
Khi lý thuyết phát triển hiện thời không mang lại bất cứ thay đổi nào trong cuộc sống của người dân ở các nước đang phát triển, thì sự bất bình gia tăng giữa các nhà kinh tế ở các nước đang phát triển đã dẫn đến sự xuất hiện của các lý thuyết phát triển khác. Các lý thuyết này trở nên phổ biến đối với các nhà kinh tế ở các nước đang phát triển trong những năm 1970, dần được biết đến như lý thuyết Cuộc cách mạng Phụ thuộc-Quốc tế.
ý tưởng cơ bản đằng sau Cuộc cách mạng Phụ thuộc-Quốc tế là các nước thế giới thứ ba bị dàn xếp trong một mối quan hệ phụ thuộc và thống trị với các nước giàu, và các nước giàu vô tình hay cố ý góp phần vào việc duy trì quan hệ này và hiện trạng đó được duy trì.
Các lý thuyết phụ thuộc có hai yếu kém lớn, đó là: Thứ nhất, các lý thuyết này chủ yếu chỉ tập trung tới việc tìm ra tại sao các nước kém phát triển vẫn cứ kém phát triển. Họ không có các ý tưởng cụ thể như một nước nên bắt đầu và duy trì sự phát triển như thế nào. Thứ hai, thất bại lớn của các nước theo đuổi cách tiếp cận cấp tiến/ triệt để này để có được đường lối cách mạng. Các nước này lật đổ giai cấp thống trị hiện thời và thay đổi chiến dịch cách mạng của việc bình thường hoá nhưng cuối cùng đã không đạt được bất cứ sự cải thiện có ý nghĩa nào trong điều kiện của dân chúng.
4. Cách mạng tân cổ điển (Neoclassical Counterrevolution):
Sau khi trấn động ban đầu từ các lý thuyết Phụ thuộc giảm bớt và khi các lý thuyết này không mang lại bất cứ sự cải tiến có ý nghĩa nào trong cuộc sống của người nghèo, các nhà kinh tế tân cổ điển đã quay trở lại với hàng loạt các lý thuyết khác được biết đến là cách mạng tân cổ điển. Lý thuyết Cách mạng tân cổ điển nhấn mạnh đến ba việc, đó là:
- Chính sách kinh tế vi mô theo chiều cung
- Các lý thuyết mong đợi hợp lý
- Tư nhân hoá các Công ty nhà nước.
Không giống với những người đằng sau các lý thuyết phụ thuộc, những người tin rằng tình trạng kém phát triển là một hiện tượng do bên ngoài gây ra, những người đằng sau cách mạng tân cổ điển tin rằng tình trạng kém phát triển là một hiện tượng bắt nguồn từ nguyên nhân bên trong. "Luận cứ trung tâm của cách mạng tân cổ điển là tình trạng kém phát triển có nguyên nhân từ việc phân bổ nguồn tài nguyên nghèo nàn do các chính sách sai lệch về giá cả và việc nhà nước can thiệp quá nhiều của các nước thế giới thứ ba." "Thế giới thứ ba kém phát triển không phải bởi các hoạt động bóc lột của các nước thế giới thứ nhất và các tổ chức quốc tế kiểm soát mà là bởi sự can thiệp của nhà nước và tình trạng tham nhũng, không hiệu qủa và thiếu các động cơ về kinh tế cụ thể." Theo lý thuyết này điều cần thiết là việc thúc đẩy các thị trường tự do và các nền kinh tế có chính sách tự do kinh doanh trong bối cảnh các chính phủ lạc quan , điều đó cho phép "ma lực của thương trường" và "bàn tay vô hình" của giá cả thị trường để chỉ đạo việc phân bổ nguồn lực và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển truyền thống:
Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển cho tới cuối những năm 1980 được biết đến như lý thuyết tăng trưởng truyền thống. là một tóm tắt về lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển cho tới những năm 1980 và cơ bản dựa trên mô hình Tăng trưởng Tân cổ điển của Solow. Mô hình tăng trưởng của Solow là một sự mở rộng của mô hình tăng trưởng Domar và giống mô hình Harrod Domar đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tiết kiệm. Mô hình của Solow được coi là một sự cải tiến so với mô hình Harrod-Domar, bởi vì nó đã chỉ ra cách sự tự do hoá các thị trường quốc gia có thể thu hút nhiều đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và vì thế làm tăng tỷ lệ tích luỹ vốn hay nói cách khác là làm tăng tỷ suất tiết kiệm.
Mô hình tăng trưởng tân cổ điển của Solow: Solow mở rộng mô hình Harrod-Domar theo hai cách. Thứ nhất, ông xem xét lao động như một nhân tố thứ yếu của quá trình sản xuất. Thứ hai, ông đưa ra một nghiên cứu về khoa học ứng dụng, các biến số độc lập thứ ba. Quan trọng nhất là không giống với hệ số cố định, lãi suất cố định đối với quy mô tiêu dùng của mô hình H-D, mô hình của Solow thể hiện việc giảm năng suất đối với lao động và vốn một cách riêng lẻ và năng suất cố định đối với cả hai nhân tố nói chung.
Các tiến bộ về khoa học kỹ thuật trở thành hệ số dư trong mô hình Solow, giải thích cho sự tăng trưởng dài hạn. Mức độ của nó được thừa nhận là được quyết định ngoại sinh và độc lập với tất cả các hệ số khác.
Hàm sản lượng trong mô hình Solow:
y=AemtKaL1-a
Trong đó y là GDP, K là vốn nhân lực và vốn tự nhiên, L là công nhân tay chân , A cố định, là trình độ khoa học công nghệ , em là tỷ lệ ngoại sinh cố định khi khoa học kỹ thuật phát triển, a là tính co giãn của sản lượng tương ứng với vốn.
Thông tin trên đây về mô hình tăng trưởng Solow làm giảm lãi suất đối với vốn và lao động, ví dụ, MPK<APK và MPL<APL
Lý thuyết tăng trưởng truyền thống, trên cơ sở của mô hình tăng trưởng Solow, giải thích rằng vì ở các nước phát triển, vốn tương đối nhiều hơn so với ở các nước đang phát triển, theo luật tiệm giảm, vốn sẽ có một mức lãi suất thấp hơn ở các nước phát triển so với ở các nước đang phát triển. Kết quả là vốn sẽ có một chiều hướng tự nhiên chảy đến các nước đang phát triển nơi mà tỷ lệ lãi suất cao hơn. Vì vậy từ bối cảnh của các nước đang phát triển, chiến lược tốt nhất sẽ là mở rộng cửa để thu hút đầu tư nước ngoài và tháo gỡ tất cả các rào cản đối với luồng vốn nước ngoài.
5. Lý thuyết tăng trưởng mới (Lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh)
Một trong những tranh cãi về lý thuyết tăng trưởng truyền thống là nó không nhận ra được chính xác các nguồn gốc của sự tăng trưởng kinh tế dài hạn. Theo lý thuyết này, sự thiếu vắng của các cú sốc về khoa học công nghệ ở tất cả các nền kinh tế sẽ dẫn tới mức tăng trưởng bằng không. Vì thế thu nhập bình quân đầu người tăng luôn được xem là một hiện tượng tạm thời do các cú sốc về công nghệ. Bất cứ sự gia tăng nào trong GNP mà không thể đóng góp cho các điều chỉnh ngắn hạn về cả lực lượng lao động hay vốn thì được xếp vào danh mục loại thứ ba, thường biết đến như số dư Solow (Solow residual). Số dư này đảm nhận gần 50% tăng trưởng trong lịch sử ở các quốc gia công nghiệp [31]. Cái cách mà lý thuyết tăng trưởng quy cho phần lớn tăng trưởng kinh tế tới một quá trình phát triển của tiến bộ khoa học công nghệ là không thể chấp nhận được đối với nhiều nhà nghiên cứu về lĩnh vực này.
Lý do thứ hai cho sự không hài lòng về lý thuyết tăng trưởng truyền thống là "thậm chí sau khi tự do hoá thương mại theo quy định và các thị trường nội địa, nhiều quốc gia kém phát triển đã tăng trưởng ít hay không tăng trưởng và không thu hút được các nguồn đầu tư nước ngoài hay tạm ngưng được dòng vốn nội địa.
Ba khác biệt căn bản giữa lý thuyết tăng trưởng mới và Lý thuyết tăng trưởng truyền thống.
Thứ nhât, các Lý thuyết tăng trưởng mới loại bỏ giả định tân cổ điển về lợi nhuận biên giảm (diminishing marginal returns) đối với đầu tư vốn và cho phép tăng lãi suất tới quy mô trong tổng sản lượng.
Thứ hai, các lý thuyết tăng trưởng mới đã dùng khái niệm về các yếu tố ngoại biên (externalities) để giải thích cho các mức tăng lợi nhuận.
Thứ ba, mặc dù công nghệ có vai trò quan trọng trong các lý thuyết tăng trưởng mới, nhưng nó vẫn không cần giải thích tăng trưởng dài hạn.
Các lý thuyết tăng trưởng nội sinh có thể được thể hiện bằng một phương trình đơn giản y = AK, trong đó A có thể là bất cứ nhân tố nào tác động đến công nghệ, và K là cả vốn nhân lực và tự nhiên. Không giống với các lý thuyết tăng trưởng truyền thống, mô hình này không trình bày được quy luật lợi nhuận giảm đối với vốn hay lao động khi nó xem xét đến khả năng đầu tư vào vốn nhân lực và tự nhiên, có thể phát sinh ra các nền kinh tế bên ngoài và cải thiện sản xuất.
Mô hình tăng trưởng nội sinh này giúp giải thích tại sao các khả năng lợi nhuận cao đối với việc đầu tư ở các nền kinh tế đang phát triển với tỷ lệ vốn-lao động thấp bị xói mòn chủ yếu bởi giảm thấp đi các mức đầu tư bổ sung vào vốn con người, cơ sở hạ tầng, hay nghiên cứu và phát triển lâu dài. Ngược lại với các lý thuyết tân cổ điển truyền thống, các lý thuyết về tăng trưởng nội sinh mới đưa ra một vai trò tích cực đối với chính sách công trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế thông qua đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào nguồn vốn nhân lực.
2.1.1.4. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển
Tăng trưởng là điều kiện, tiền đề cho phát triển. Bởi vì, nền kinh tế có tăng trưởng thì mới có khả năng tăng ngân sách nhà nước; tăng thu nhập của dân cư. Nhờ có tăng trưởng kinh tế, Nhà nước mới có thể tăng đầu tư cho giáo dục, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, xây dựng kết cấu hạ tầng, giải phóng sức sản xuất và có điều kiện giải quyết các vấn đề xã hội. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội và tác động trực tiếp đến sự hình thành cơ cấu kinh tế. Ngược lại sự tiến bộ về mọi mặt của nền kinh tế sẽ là động lực đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng.
Tóm lại, tăng trưởng có thể là điều kiện cần đối với sự phát triển, nhưng nó chưa phải là điều kiện đủ. Tăng trưởng mà không phát triển sẽ dẫn đến suy thoái cả về kinh tế và xã hội, ngược lại phát triển mà không tăng trưởng là không tồn tại trong thực tế.
2.1.1.5. Phát triển bền vững
Vào nửa cuối của thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, loài người đã phải đương đầu với những thách thức lớn do suy thoái về nguồn lực và giảm cấp môi trường. Trong tình hình đó, quan niệm mới về sự phát triển đã được đặt ra, đó là phát triển bền vững.
Phát triển bền vững là quan niệm mới của sự phát triển. Nó lồng ghép các quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và làm tốt hơn về môi trường: đảm bảo thoả mãn những nhu cầu của hiện tại mà không phương hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của tương lai [18]. Các thế hệ hiện tại khi sử dụng tài nguyên cho sản xuất ra của cải vật chất không thể để cho thế hệ mai sau phải gánh chịu tình trạng ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên và nghèo đói. Cần phải để cho các thế hệ tương lai được thừa hưởng những thành quả lao động của thế hệ hiện tại dưới dạng giáo dục, kỹ thuật, kiến thức và các nguồn lực khác ngày càng được tăng cường. Tăng cường thu nhập kết hợp với các chính sách môi trường và thể chế vững chắc có thể tạo cơ sở cho việc giải quyết cả hai vấn đề môi trường và phát triển.
Điều then chốt đối với phát triển bền vững không phải là sản xuất ít đi mà là sản xuất khác đi, sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường. Các chính sách môi trường có thể tăng cường hiệu suất trong sử dụng tài nguyên và đưa ra những đòn bẩy để tăng cường những công nghệ và phương pháp ít gây nguy hại và không gây giảm cấp môi trường và nguồn lực. Các đầu tư tạo ra nhờ các chính sách môi trường sẽ làm thay đổi cách thức sản xuất các sản phẩm và dịch vụ, có thể có trường hợp đầu ra thấp hơn nhưng lại tạo ra những lợi ích làm tăng phúc lợi lâu dài của con người. Trong thực tế khi thu nhập tăng lên, nhu cầu nâng cao chất lượng môi trường cũng sẽ tăng lên và các nguồn lực có thể sử dụng cho đầu tư sẽ tăng lên.
Nhà nước ta đã đưa ra quan niệm chính thức về phát triển lâu bền là thoả mãn những nhu cầu cơ bản về vật chất, tinh thần và văn hoá cho thế hệ hiện tại và tương lai của Việt Nam thông qua việc quản lý một cách khôn khéo tài nguyên thiên nhiên. Xây dựng và thực hiện các chính sách, kế hoạch hành động, cơ chế tổ chức, nhằm đảm bảo cho khả năng sử dụng lâu bền các tài nguyên thiên nhiên được nhất thể hoá và liên kết chặt chẽ với tất cả các khía cạnh của quá trình phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Như vậy, phát triển bền vững là sự phát triển hài hoà giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa thiên nhiên và con người, giữa tự nhiên và nhân tạo, giữa hiện tại và tương lai. Sự phát triển đó nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện tại nhưng không làm phương hại đến phát triển của xã hội tương lai.
Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc đã đề xuất 5 nội dung của phát triển bền vững gồm:
- Tập trung phát triển ở những vùng nghèo đói, nhất là những vùng rất nghèo mà ở đó con người không có lựa chọn nào khác ngoài làm giảm cấp nguồn lực và môi trường.
- Tạo ra sự phát triển cao về tính tự lập của cộng đồng trong điều kiện có hạn về nguồn lực, nhất là tài nguyên thiên nhiên.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực dựa trên các kỹ thuật và công nghệ thích hợp, kết hợp với khai thác tối đa kỹ thuật truyền thống.
- Thực hiện các chiến lược phát triển nhằm đảm bảo tự lực về lương thực, cung cấp nước sạch và nhà ở, giữ gìn sức khoẻ, chống suy dinh dưỡng thông qua các công nghệ thích hợp.
- Xây dựng và thực hiện các chiến lược có người dân tham gia.
2.1.1.6. Khái niệm về mô hình canh tác
* Khái niệm về mô hình
Thực tiến hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội rất phong phú, đa dạng và phức tạp, người ta có thể sử dụng nhiều công cụ và phương pháp nghiên cứu có những ưu thế riêng được sử dụng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Mô hình là một trong những các phương pháp nghiên cứu được sử dụng rộng rãi, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học theo cách tiếp cận khác nhau thì mô hình có những quan niệm, nội dung và cách hiểu riêng, góc độ tiếp cận về mặt vật lý thì mô hình là vật cùng hình dạng nhưng thu nhỏ lại. Khi tiếp cận sự vật để nghiên cứu thì coi mô hình là sự mô phỏng cấu tạo và hoạt động của một vật thể trình bầy và nghiên cứu (29) khi mô hình hoá đối tượng nghiên cứu thì mô hình sẽ được tình bầy đơn giản về một vấn đề phức tạp, giúp cho ta sẽ nhận biết được đối tượng nghiên cứu (23). Mô hình còn được coi là ảnh quy ước của đối tượng nghiên cứu (6) và còn là kiểu mẫu (23) về một hệ thống các mối quan hệ hay tình trạng kinh tế.
Như vậy, mô hình có thể có các quan niệm khác nhau, sự khác nhau đó tuỳ thuộc vào góc độ tiếp cận và mục đích nghiên cứu, nhưng khi sử dụng mô hình người ta đều có chung một quan điểm là dùng để mô phỏng đối tượng nghiên cứu (15). Mô hình là hình mẫu để mô phỏng hoặc thể hiện đối tượng nghiên cứu, được diễn đạt hết sức ngắn gọn, phản ánh những đặc trưng cơ bản nhất và giữ nguyên được bản chất của đối tượng nghiên cứu.
* Khái niệm về mô hình canh tác
Mô hình canh tác là mẫu canh tác, thể hiện sự kết hợp của các nguồn lực trong điều kiện canh tác cụ thể, nhằm đạt được mục tiêu về sản phẩm và lợi ích kinh tế.
2.1.1.7. Khái niệm về khuyến nông
Khuyến nông “Agricultural extention” là một thuật ngữ khó xác định thống nhất bởi vì để đạt được mục tiêu cơ bản sao cho nông nghiệp phát triển, nông thôn phát triển các nước khác nhau, các nhà khuyến nông khác nhau, nông dân khác nhau hiểu khuyến nông có khác nhau, do bởi khuyến nông: Tổ chức bằng nhiều cách, phục vụ cho nhiều mục đích. Mỗi tầng lớp nông dân khác nhau hiểu nghĩa khuyến nông khác nhau
*Khuyến nông theo nghĩa hẹp:
Nhiều người hiểu khuyến nông chỉ là công việc khi có những tiến bộ kỹ thuật mới do các cơ quan nghiên cứu, cơ quan đào tạo, nhà nghiên cứu… sáng tạo ra làm thể nào để nhiều nông dân biết đến và áp dụng có hiệu quả. Có nghĩa, Khuyến nông là chuyển giao các TBKT vào sản xuất.
* khuyến nông theo nghĩa rộng: Như trên đã nói do bởi khuyến nông hoạt động lĩnh vực rộng, cho nhiều đối tượng khác nhau… nên đến nay trên thế giới có khá nhiều định nghĩa khác nhau
2.1.2. Những vấn đề cơ bản về phát triển mô hình khuyến nông
Các mô hình khuyến nông được hình thnàh và phát triển gắn liền với phát triển sản xuất nhằm mục đích xã hội hoá nền sản xuất nông nghiệp. Vì vậy mọi quốc gia đều có các chương trình, hoạt động khuyến nông. Khuyến nông thực chất là mọi cố gắng của Chính phủ, cộng đồng, nông dân trong việc khuyến khích, mở rộng phát triển nông nghiệp.
Ở nước ta, 80% dân số sống ở các vùng nồng thôn với 70% lao động xã hội để sản xuất ra những nông sản thiết yếu để cung cấp cho toàn xã hội như lương thưc, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và dịch vụ vì thể việc nhân rộng các mô hì._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHKT09079.doc