Tài liệu Nghiên cứu biến động dư lượng và xác định thời gian cách ly của một số thuốc trừ sâu đục quả (Maruca Vitrata Fabricius ) trong sản xuất Đậu đũa an toàn vùng ngoại thành Hà Nội: ... Ebook Nghiên cứu biến động dư lượng và xác định thời gian cách ly của một số thuốc trừ sâu đục quả (Maruca Vitrata Fabricius ) trong sản xuất Đậu đũa an toàn vùng ngoại thành Hà Nội
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1860 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu biến động dư lượng và xác định thời gian cách ly của một số thuốc trừ sâu đục quả (Maruca Vitrata Fabricius ) trong sản xuất Đậu đũa an toàn vùng ngoại thành Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………1
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-----------------*------------------
NGUYỄN THỊ NHƯ HOA
“NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỘNG DƯ LƯỢNG VÀ
XÁC ĐỊNH THỜI GIAN CÁCH LY CỦA
MỘT SỐ THUỐC TRỪ SÂU ĐỤC QUẢ
(MARUCA VITRATA FABRICIUS)
TRONG SẢN XUẤT ĐẬU ĐŨA AN TOÀN
VÙNG NGOẠI THÀNH HÀ NỘI”
LUẬN VĂN THẠC SỸ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Bảo vệ thực vật
Mã số : 60.62.10
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Trường Thành
HÀ NỘI - 2007
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………2
2
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này hoàn thành là niềm vui lớn nhất của bản thân tôi. Nhân
dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn Ts Nguyễn
Trường Thành, Trưởng Bộ môn thuốc cỏ dại và môi trường thuộc Viện bảo vệ
Thực vật, người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình
thục hiện đề tài và hoàn thành Luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các Thầy, Cô giáo đã tận tình dạy bảo tôi
trong suốt quá trình học tập.
Lời cảm ơn chân thành xin được gửi tới tập thể cán bộ Ban Đào tạo sau
đại học-Viện Khoa học nông nghiệp Việt nam đã giúp đỡ tôi trong học tập và
hoàn thành luận văn này.
Tôi rất biết ơn Ban giám đốc, đặc biệt là phòng kiểm định chất lượng và
dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, Tập thể cán bộ công nhân viên của Trung
tâm kiểm định thuốc bảo vệ thực vật phía Bắc nơi tôi đang công tác đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Hà nội, tháng 11 năm 2007
Nguyễn Thị Như Hoa
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………3
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự giúp
đỡ của tập thể cán bộ bộ môn Thuốc, Cỏ dại và Môi trường, Viện Bảo vệ
Thực vật
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những số liệu của bản luận văn
này.
Hà nội, tháng 11 năm 2007
Nguyễn Thị Như Hoa
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………4
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa i
Lời cảm ơn ii
Lời cam đoan iii
Mục lục iv
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt vii
Danh mục các bảng viii
Danh mục các hình ix
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích và yêu cầu của Đề tài 3
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Đề tài 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
4
1.1. Cơ sở khoa học của Đề tài 4
1.2. Một số kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến
đề tài
10
1.2.1. Nghiên cứu ở nước ngoài 10
1.2.1.1. Tình hình gây hại và một số đặc điểm sinh học sinh thái liên
quan đến biện pháp phòng trừ sâu đục quả đậu Maruca vitrata
10
1.2.1.2. Nghiên cứu về mức dư lượng tối đa cho phép, biến động dư
lượng và thời gian cách ly đối với thuốc phòng trừ sâu đục
13
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………5
5
quả đậu Maruca vitrata.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………6
6
Trang
1.2.2. Nghiên cứu ở trong nước 24
1.2.2.1. Nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh thái học liên quan đến
phòng trừ sâu đục quả đậu đũa M.vitrata
24
1.2.2.2. Nghiên cứu biến động dư lượng và thời gian cách ly đối với
thuốc phòng trừ sâu đục quả đậu đũa M. vitrata
26
Chương II. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
30
2.1. Vật liệu nghiên cứu. 30
2.2. Nội dung nghiên cứu 30
2.3. Phương pháp nghiên cứu 31
2.3.1. Thí nghiệm đánh giá hiệu lực của một số thuốc trừ sâu đục
quả đậu
31
2.3.2. Nghiên cứu biến động dư lượng 32
2.3.3. Phương pháp xác định thời gian cách ly 34
2.3.4. Ứng dụng trên đồng ruộng 34
Chương III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
35
3.1. Một số đặc điểm sinh học, biến động số lượng và tập tính của
sâu đục quả đậu M.vitrata ở vùng nghiên cứu liên quan
đến phòng trừ.
35
3.1.1. Một số đặc điểm sinh học của sâu đục quả ở vùng nghiên cứu. 35
3.1.2. Tập tính sống và gây hại của sâu đục quả đậu 36
3.1.3. Biến động số lượng trên đồng ruộng của sâu đục quả
Maruca vitrata.
40
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………7
7
Trang
3.2. Đánh giá hiệu quả của các loại thuốc phòng trừ
sâu đục quả đậu
41
3.2.1. Đánh giá các nhóm thuốc và chọn thuốc đưa vào thí nghiệm. 41
3.2.2. Đánh giá hiệu quả trừ sâu đục quả của các thuốc thí nghiệm. 51
3.3. Xác định biến động dư lượng thuốc hoá học trên quả đậu và
thời gian cách ly của chúng trên đậu đũa ở nước ta.
55
3.3.1. Xác định dư lượng thuốc BVTV sau khi xử lý trên đậu đũa. 55
3.3.2. Hồi quy dư lượng thuốc BVTV theo thời gian sau phun. 57
3.3.3. Xác định thời gian cách ly cho thuốc hoá học trên đậu đũa. 65
3.3.4. Ứng dụng trên đồng ruộng các thuốc đã chọn lọc 66
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
71
1. Kết luận. 71
2. Đề nghị. 72
TÀI LIÊU THAM KHẢO 73
Tiếng Việt 73
Tiếng Anh 75
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………8
8
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADI Mức hấp thu hàng ngày chấp nhận được
MRL Mức dư lượng tối đa cho phép
BVTV Bảo vệ thực vật
IPM Quản lý dịch hại tổng hợp
GAP Thực hành nông nghiệp tốt
GC Máy sắc ký khí
ND Không phát hiện thấy
PHI Thời gian cách ly
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………9
9
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
1.1. ADI của Cyromazine 19
1.2. Khuyến cáo phòng trừ sâu đục quả đậu bằng hoá
chất BVTV
24
3.1. Thời gian phát dục và vòng đời của sâu đục quả
đậu đũa Maruca vitrata
35
3.2. Các thuốc đưa vào thí nghiệm phòng trừ sâu đục quả
đậu
50
3.3. Mật độ sâu đục quả M. vitrata trong thí nghiệm
phòng trừ
52
3.4. Hiệu lực của các thuốc thí nghiệm đối với
sâu đục quả M. vitrata
53
3.5. KhuyÕn c¸o PHI cña Cypermethrin ë ViÖt Nam 54
3.6. Dư lượng của một số thuốc trong quả đậu đũa 57
3.7. Hiệu quả sử dụng các thuốc chọn lọc phòng trừ sâu
đục quả đậu đũa
68
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………10
10
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình Tên hình Trang
1.1. Sâu đục quả đậu đũa Maruca vitrata Fabricius 7
1.2. Sâu đục quả đậu đũa Maruca vitrata và triệu trứng hại
điển hình
9
1.3. Các bước xác định mức dư lượng tối đa cho phép (MRL) 15
1.4. Xác định mức hấp thụ hàng ngày chấp nhận được (ADI) 16
1.5. Các bước phát triển và chấp nhận mức dư lượng tối đa
cho phép (MRLs)
17
1.6. Thiết lập MRL và PHI từ các thí nghiệm về dư lượng thuốc 22
1.7. Đậu đũa, một loài đậu rau được trồng phổ biến ở
ngoại thành Hà Nội
29
2.1. Lược đồ phân tích thuốc Pyrethroids trên đậu đũa 33
2.2. Đường cong biến động dư lượng thuốc sau xử lý và
cách xác định thời gian cách ly (PHI)
34
3.1. Sâu đục quả đậu M. vitrata bắt đầu gây hại khi cây đậu đũa
bắt đầu ra hoa rộ
37
3.2. Sâu đục quả đậu đũa Maruca vitrata Fabricius 38
3.3. Giai đoạn xung yếu của đậu đũa với sâu đục quả M. vitrata 39
3.4. Biến động số lượng M. vitrata trên đậu đũa 40
3.5. Cây Neem bản địa ở Ninh Thuận 43
3.6. Cây Neem nhập nội bản được trồng ở Ninh Thuận 44
3.7. Azadirachtin, hoạt chất chính trong hạt Neem trừ sâu hại 45
3.8. Matrine, hoạt chất chính trừ trong cây khổ sâm sâu hại 45
3.9. Abamectin, một thuốc kháng sinh có nguồn gốc sinh học 46
3.10. Spinosad, một thuốc kháng sinh có thời gian cách ly rất ngắn 47
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………11
11
Hình Tên hình Trang
3.11. Cypermethrin, một thuốc nhóm Pyrethroids 49
3.12. Deltamethrin, một thuốc nhóm Pyrethroids 49
3.13. Thí nghiệm biến động dư lượng thuốc trên đậu đũa 51
3.14. Hệ thống máy sắc ký khí 55
3.15. Lược đồ phân tích dư lượng thuốc trong quả đậu đũa 56
3.16. Đường cong dạng luỹ thừa mô tả biến động dư lượng
Cypermethrin trên đậu đũa
59
3.17. Đường cong dạng hàm mũ mô tả biến động dư lượng
Cypermethrin trên đậu đũa
60
3.18. Đường cong dạng luỹ thừa mô tả biến động dư lượng
Deltamethrin trên đậu đũa
61
3.19. Đường cong dạng hàm mũ mô tả biến động dư lượng
Deltamethrin trên đậu đũa
62
3.20. Đường cong dạng luỹ thừa mô tả biến động dư lượng
Etofenprox trên đậu đũa
63
3.21. Đường cong dạng hàm mũ mô tả biến động dư lượng
Etofenprox trên đậu đũa
64
3.22. Thí nghiệm diện rộng sử dụng các thoại thuốc chọn lọc
trừ sâu đục quả đậu đũa
67
3.23. Đợt đậu đũa ra lứa quả đầu tiên trong thí nghiệm diện rộng
tại Vân Nội, Đông Anh, Hà Nội
69
3.24. Sản phẩm thu hoạch lứa đầu trong thí nghiệm diện rộng 70
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………12
12
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, vấn đề an toàn thực phẩm ở nước ta đã và đang được chú trọng
hơn bao giờ hết. Đặc biệt, cây rau (trong đó có đậu đũa, một loại đậu rau được
sử dụng phổ biến ở nước ta) là đối tượng thực phẩm quan trọng hàng đầu cho
con người và nhạy cảm nhất về an toàn thực phẩm. Khi nền sản xuất rau
chuyển từ chủ yếu là tự túc tự cấp trước đây thành sản xuất hàng hoá là chính
thì hàng loạt vấn đề về an toàn thực phẩm đã được đặt ra một cách cấp thiết.
Sản xuất rau hàng hoá thâm canh ngày càng cao đòi hỏi việc sử dụng hoá chất
bảo vệ thực vật (BVTV) ngày càng nhiều nhằm nâng cao năng suất và lợi
nhuận cho người sản xuất.
Tuy nhiên, việc sử dụng quá mức và không hợp lý thuốc BVTV đã dẫn
đến những hậu quả bất lợi cho con người và môi trường. Đó là "bộ ba" hậu
quả đối với dịch hại (sự chống thuốc, sự tái phát của dịch hại, sự xuất hiện
loài dịch hại mới) và hậu quả trực tiếp nhất là sự ô nhiễm môi trường, đặc biệt
là ô nhiễm thực phẩm đã gây ảnh hưởng lớn đến cả người sản xuất và người
tiêu dùng, cũng có nghĩa là toàn xã hội.
Trong các yếu tố về ô nhiễm nông sản (sinh vật gây bệnh, hàm lượng
Nitrate, kim loại nặng, dư lượng thuốc BVTV) thì yếu tố dư lượng thuốc
BVTV là nổi cộm nhất vì việc sử dụng thuốc BVTV là phức tạp, biến động và
khó khăn hơn cả đối với nông dân.
Đậu đũa (Vigna sinensis spp.) là một trong các loại đậu rau phổ biến nhất
ở nước ta và cho thu hoạch liên tục trong thời gian dài. Nếu chăm sóc tốt có
thể thu hoạch sản phẩm của đậu đũa trong hàng tháng. Đây cũng là loại cây
có rất nhiều đối tượng gây hại song nguy hiểm nhất là sâu đục quả (Maruca
vitrata Fabricius). Cây đậu ra hoa và quả và cùng với nó là sự xuất hiện và
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………13
13
gây hại liên tục của sâu đục quả trong thời gian dài làm cho người nông dân
vừa thu hái thường xuyên, vừa phun thuốc xen kẽ để bảo vệ quả đậu. Điều
này rất khó đảm bảo sản phẩm quả an toàn vì tốc độ phát triển của quả đậu rất
nhanh và nông dân thường thu hái quả 2-3 ngày/ lần. Trong khi đó, nhiều
thuốc BVTV nông dân đang sử dụng không phải nhanh phân huỷ. Do vậy, dư
lượng thuốc bảo vệ thực vật trong sản phẩm đậu ăn quả trong thị trường
thường rất cao, có đợt kiểm tra trên 20% số mẫu có mức dư lượng một số
thuốc vượt mức tối đa cho phép - MRL (Nguyễn Trường Thành, 2003) [10].
Các thuốc được phép sử dụng trên rau nói chung ở nước ta hiện nay được
quy định là yêu cầu không quá 7 ngày. Song trong sản xuất hiện nay, thời
gian cách ly này rất khó đảm bảo. Nông dân thường phải phun thường xuyên
vì sâu hại liên tục trong suốt giai đoạn cây ra hoa và thu hoạch quả. Thời gian
dễ mẫn cảm với thuốc chỉ ở giai đoạn sâu mới nở trước khi đục vào trong quả.
Trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở nước ta (tháng 4/ 2007),
thuốc được đăng ký trừ sâu đục quả đậu hiện nay không nhiều. Nhưng trong
thực tế thì nông dân dùng nhiều loại thuốc kể cả những loại thuốc phân hủy ở
mức chậm hoặc trung bình như Cartap, Fipronil, Fenitrothion…
Trong chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), việc sử dụng thuốc
theo nguyên tắc 4 đúng: chọn đúng loại thuốc, xử lý thuốc đúng lúc, đúng
nồng độ, đúng cách là rất quan trọng. Yêu cầu phun thuốc BVTV đúng lúc
không những giúp người nông dân phòng trừ có hiệu quả cao đối với dịch hại
mà còn làm sao không gây ô nhiễm nông sản. Do vậy, việc nghiên cứu xác
định thời gian cách ly (PHI) cho một số thuốc có hiệu quả trừ dịch hại cây
trồng nói chung và đặc biệt trừ sâu đục quả hại đậu đũa là rất cần thiết nhằm
góp phần sản xuất nông sản an toàn, một mục tiêu phát triển nền nông nghiệp
bền vững ở Việt Nam.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………14
14
2. Mục đích và yêu cầu của Đề tài.
Mục đích: Chọn lọc và xác định được thời gian cách ly của một số thuốc
trừ sâu đục quả đậu đũa (Maruca vitrata Fabricius) góp phần sản xuất đậu rau
an toàn ở nước ta.
Yêu cầu: Trên cơ sở chọn lọc thuốc có hiệu quả tốt với sâu đục quả đậu,
xác định được biến động dư lượng thuốc trừ sâu đục quả đậu sau khi phun; Có
quy trình sử dụng an toàn và hiệu quả các thuốc trừ sâu đục quả đậu đũa đã
chọn lọc phục vụ sản xuất.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Đề tài.
Ý nghĩa khoa học:
Cung cấp những dẫn liệu mới về biến động dư lượng và thời gian cách ly
của một số loại thuốc trừ sâu đục quả đậu đũa trong điều kiện ở Việt nam.
Ý nghĩa thực tiễn:
Góp phần cung cấp cho người sản xuất cách sử dụng thuốc BVTV phòng
trừ sâu đục quả một cách an toàn và hiệu quả.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu:
- Cây đậu đũa vùng ngoại thành Hà Nội.
- Sâu đục qủa đậu Maruca vitrata
- Các thuốc trừ sâu đục quả đậu như các thuốc Sherpa 20 EC
(Cypermethrin), Trebon 10EC (Etofenprox) và Decis 2.5 EC.
Phạm vi nghiên cứu: Vùng sản xuất đậu đũa chủ yếu ở ngoại thành
Hà Nội
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………15
15
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở khoa học của Đề tài.
Đề tài nghiên cứu được dựa trên những nghiên cứu khoa học cũng như
những hiểu biết về cây đậu đũa, sâu đục quả đậu Maruca vitrata, các thuốc
được sử dụng phòng trừ loài sâu hại này.
Rau đậu ăn quả hay còn gọi là đậu rau là một nhóm rau cao cấp chiếm
một vị trí quan trọng và rất được người tiêu dùng ưa thích trong các loại rau
tươi ở nước ta. Các loại đậu rau như đậu đũa, đậu cô ve thì đậu đũa có hàm
lượng Protit 5,6- 6,5%, vitamin B1 0,29 - 0,40 mg %, vitamin B2 0,18-0,19
mg %, vitamin PP 1,8 -2,6 mg %, đều cao hơn so với các loại rau thông
thường khác vài lần đến hàng chục lần [8, 5]. Chính vì vậy rau nói chung và
nhóm đậu ăn quả nói riêng đang được quan tâm phát triển nhằm góp phần cân
bằng dinh dưỡng khi mà lương thực và các thức ăn giàu đạm khác đã được
bảo đảm. Ở nước ta, đậu ăn quả phố biến là đậu đũa, đậu bở, đậu côve, đậu
ván. Các loại đậu rau thường cho hiệu quả kinh tế khá cao so với các loại rau
khác và có thể thu hoạch trong một thời gian dài. Diện tích trồng đậu rau xuân
hè (trồng từ tháng 2 đến tháng 10) ở Hà Nội chiếm khoảng 10% của 4000 ha
diện tích trồng rau các loại [2].
Nhìn chung, năng suất đậu ăn quả còn thấp và chưa ổn định. Ngoài các
yếu tố như kỹ thuật như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thâm canh chưa hợp
lý, sản xuất manh mún thì sâu bệnh hại là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và rõ
rệt tới năng suất cũng như phẩm chất đậu ăn quả.
Trong các loài dịch hại đậu rau, sâu đục quả Maruca vitrata F. là nguy
hiểm nhất. Tỷ lệ quả đậu đũa bị hại bởi sâu đục quả đậu Maruca vitrata
thường rất cao, dao động từ 11,5%-36,7% (có trường hợp tới 90%) (Hoàng
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………16
16
Anh Cung và các CTV,1996) [3]. Để phòng trừ sâu hại nói chung và sâu đục
quả đậu nói riêng người nông dân vẫn phải dùng thuốc hóa học là chủ yếu.
Trong một vụ đậu đũa, nông dân phun thuốc nhiều lần (từ 4-12 lần) với lượng
thuốc dùng rất cao (4-21,6 kg a.i/ha/vụ), gấp đôi so với lượng thuốc dùng trên
rau thập tự (Nguyễn Duy Trang và CTV,1996) [14]. Điều đặc biệt so với
nhiều loài rau và cây trồng khác là nhóm đậu rau có thời gian thu hái liên tục
trong một thời gian dài (thường trên 1 tháng). Vì vậy sâu đục quả có giai
đoạn gây hại kéo dài và rất khó phòng trừ. Một điều nguy hiểm hơn nữa là do
sự phát triển không đồng đều của mỗi lứa quả, nông dân phải phun thuốc
nhiều lần để bảo vệ quả non, trong khi quả sắp thu hoạch cũng bị nhiễm
thuốc. Đây là một nguyên nhân quan trọng làm cho người nông dân phun
thuốc khó đảm bảo thời gian cách ly và làm cho sản phẩm đậu rau dễ mất an
toàn. Trong 20 mẫu đậu ăn quả mà tác giả phân tích thì có tới 12 mẫu có dư
lượng vượt quá mức dư lượng tối đa cho phép (Nguyễn Trường Thành, 2003)
[10]. Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đậu ăn quả thường cao hơn trong
rau ăn lá. Có mẫu phân tích dư lượng thuốc Methamidophos (hiện đã bị cấm
sử dụng) đạt 0,8-1,2mg/kg mà dư lượng cho phép của thuốc này chỉ là
0,2mg/kg [11]. Ngay cả ở các nước phát triển như Mỹ chẳng hạn, một số
thuốc đã không còn được phép sử dụng vì có độ độc qua cao hoặc có tiềm
năng gây ung thư. Song đáng tiếc, chúng vẫn còn có dư lượng trong thực
phẩm do tồn dư của chúng trong môi trường canh tác (đất, nước) (BCEF,
1999) [19]
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội và sự phát triển của nền
kinh tế thị trường thì rau nói chung và đậu rau nói riêng phải đảm bảo an toàn
cho người tiêu dùng. Trong các chỉ tiêu của rau an toàn : dư lượng thuốc bảo
vệ thực vật, hàm lượng NO3
- , kim loại nặng ,vi khuẩn và giun sán ký sinh
đường ruột, các độc tố sinh học phải thấp hơn mức cho phép thì chỉ tiêu về dư
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………17
17
lượng thuốc bảo vệ thực vật là nổi cộm nhất. Điều này bắt nguồn từ việc hiểu
biết về cây trồng, dịch hại, thuốc bảo vệ thực vật và việc sử dụng chúng một
cách khôn ngoan không phải đơn giản với người nông dân. Làm thế nào để sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn và hiệu quả cho nhóm đậu rau thực sự là
một vấn đề nóng hổi và bức thiết hiện nay.
Trước hết, nông dân vùng trồng đậu đang đòi hỏi có được sự đánh giá và
chọn lọc các loại thuốc và cách sử dụng chúng để phòng trừ loài sâu đục quả
đậu có hiệu quả cao.
Cây đậu đũa, một loại đậu rau phổ biến có nguồn gốc từ Tây Nam Trung
Quốc, hiện được trồng phổ biến ở Trung Quốc, Đông Nam Á, Nam Á và châu
Phi. Đậu đũa là loại rau phổ biến ở thị trường châu Á và được xuất khẩu sang
châu Âu. Cây đậu đũa được nghiên cứu từ lâu về sinh học, sinh thái và canh
tác trong điều kiện Việt Nam. Đa số giống đậu đũa phản ứng với nhiệt độ và
yêu cầu bức xạ mặt trời cao. Chúng yêu cầu nhiệt độ tương đối cao, từ 250C -
400C, thích hợp nhất là 300C. Cây đậu rau này được trồng từ tháng 3 đến
tháng 10 hàng năm. Đậu đũa có hai loại: loại quả xanh nhạt và loại quả xanh
thẫm. Thường thời gian từ lúc gieo đến khi ra hoa là 35-40 ngày, đến khi thu
hoạch là 50-60 ngày và có thể trồng chủ yếu ở ngoại thành Hà Nội hai thời
vụ: Vụ xuân hè (trồng tháng 2-tháng 3, thu tháng 4- tháng 7); Vụ Hè thu
(trồng tháng 4- tháng 5, thu tháng 6- tháng 9). Đây là cây ra hoa đậu quả liên
tục kéo dài tuỳ theo điều kiện chăm sóc. Thời gian thu hái thường kéo dài 1,5
- 2 tháng với 12-15 lứa, năng suất 25 - 35 tấn/ ha. Cây đậu đũa thường bị tàn
sau khi trồng 3-4 tháng. (Mai Thị Phương Anh, 1996) [8].
Sâu đục quả là đối tượng hại nguy hiểm nhất của cây đậu đũa do nó gây
hại trong giai đoạn dài, gây hại trực tiếp làm giảm nghiêm trọng năng suất và
chất lượng sản phẩm. Sâu non M. vitrata tuổi nhỏ (tuổi 1 - 2) thường sống ở
trong hoa, tuổi lớn (tuổi 3 trở đi) đa số đục vào quả sinh sống và gây hại. Sau
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………18
18
Hình 1.1. Sâu đục quả đậu đũa Maruca vitrata Fabricius
(Một loại sâu hại nguy hiểm nhất trên đậu đũa và nhiều loại đậu ăn quả)
khi đẫy sức, sâu non tuổi cuối xuống đất hoá nhộng gây hại nguy hiểm gây
hại suốt thời kỳ từ ra hoa đến khi thu họach. Sâu này có tới 13 loài đậu là ký
chủ, trong đó đậu đũa là loại bị gây hại nặng nhất. Đây lại là loại sâu khó
phòng trừ, nhất là khi chúng đã xâm nhập được vào trong quả đậu (Nguyễn
Thị Nhung, 2002) [6].
Các thuốc trừ sâu thuộc nhóm Pyrethroids (cúc tổng hợp) với cấu trúc
hoá học của nó được mô phỏng theo các ester của pyrethrins, một tổ hợp của
6 esters có tên là cinerinI và II, jasmolin I và II, pyrethrin I và II. Tuy các
thuốc pyrethroid có độ độc cấp tính phần lớn thuộc nhóm II song nhanh phân
huỷ trong môi trường, có phổ tác động rộng và nhiều thuốc trong nhóm có
hiệu quả phòng trừ sâu đục quả. Thường thì các thuốc này không gây nên vấn
đề lớn về dư lượng trong nông sản và chúng là đối tượng đầu tiên để chọn
phòng trừ sâu đục quả đậu đũa.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………19
19
Các thuốc nhóm thuốc lân hữu cơ và Carbamate nhìn chung có một số
loại cũng phân huỷ tương đối nhanh song thường có độ độc cấp tính cao với
người và động vật máu nóng. Tuy nhiên, với thời gian cách ly khoảng 7 ngày
trở lên, nhóm thuốc này không được định hướng dùng phòng trừ sâu đục quả
đậu đũa, nhất là trong thời kỳ thu hoạch.
Các thuốc Nereistoxin analoge cũng có tác dụng tốt phòng trừ sâu đục
quả song phân huỷ chậm hơn. Đặc biệt dễ để lại tồn dư độc hại trong nông
sản là các thuốc clo hữu cơ hiện đã bị cấm sử dụng ở nước ta.
Các thuốc sinh học, thảo mộc và các thuốc kháng sinh có nguồn gốc sinh
học, các thuốc hoá sinh điều hoà sinh trưởng côn trùng thường nhanh phân
huỷ trong môi trường và được ưu tiên trong sản xuất nông sản an toàn. Tuy
nhiên chỉ một số thuốc loại này có hiệu quả với sâu đục quả và hiệu lực
thường không cao nên cần nghiên cứu để phối hợp sử dụng với các thuốc hoá
học chọn lọc (Nguyễn Trường Thành, 2003) [10].
Mỗi loại thuốc ngoài việc cần đánh giá hiệu quả sinh học việc xác định
thời gian cách ly (PHI) là hết sức cần thiết đối với sâu đục quả đậu đũa. Các
nhà khoa học đã xác định cơ sở khoa học cho việc xác định PHI cho mỗi loại
thuốc trên từng cây trồng. Trước tiên, cần xác định mức hấp thu hàng ngày
chấp nhận được đối với một hoạt chất nào đó (ADI), được tính theo mg/ kg
thể trọng. Con số này thay đổi không nhiều giữa các nước và được các công
ty sản xuất thuốc và các tổ chức quốc tế xác định. Trên cơ sở đó, với mức
tiêu thụ mỗi loại nông sản hàng ngày, mức dư lượng tối đa cho phép trong
nông sản được xác định. Với các thí nghiệm về diễn biến dư lượng thuốc
BVTV sau khi xử lý, người ta tìm được PHI cần thiết cho mỗi loại thuốc trên
từng loại cây trồng. Trị số này không hoàn toàn giống nhau giữa các nước vì
nó phụ thuộc đáng kể vào điều kiện sinh thái từng vùng, nhất là chế độ nhiệt,
ẩm (Yeoh N. S., 2000; Nguyễn Trường Thành, 2002) [11, 41].
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………20
20
Hình 1.2. Sâu đục quả đậu đũa Maruca vitrata
và triệu trứng hại điển hình
Thời gian cách ly (PHI ) đối với thuốc BVTV được các nhà khoa học
đánh giá như là thành phần quan trong của thực hành nông nghiệp tốt (GAP).
Khi nó được chấp nhận, nó cần phải được ghi rõ vào trong nhãn thuốc
(Haminton, Yeoh,...) [30, 41]. Có thể nói, việc xác định biến động dư lượng
của thuốc BVTV sau khi phun và xác định thời gian cách ly cho chúng là một
trong các khâu thiết yếu nhất trong việc sử dụng an toàn và hợp lý thuốc
BVTV, đảm bảo an toàn nông sản và đáp ứng các tiêu chí của thực hành nông
nghiệp tốt (GAP)
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………21
21
1.2. Một số kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài.
1.2.1. Nghiên cứu ở nước ngoài.
1.2.1.1. Tình hình gây hại và một số đặc điểm sinh học sinh thái liên quan đến
biện pháp phòng trừ sâu đục quả đậu Maruca vitrata
Sâu đục quả đậu Maruca vitrata là một trong những loài gây hại chính
trên đậu ăn quả trong đó có đậu đũa ở nhiều nước khác nhau trên thế giới.
Loài sâu này là một trong các loài sâu hại nguy hiểm trên đậu rau (đậu đũa,
đậu đũa, đậu cô ve,...) như ở Trung Quốc, Campuchia, Brunei, Malaysia.
Theo Singh và Allen (1980) sâu đục quả đậu Maruca vitrata có thể làm giảm
năng suất hạt của các loại đậu từ 20-60% nếu không phòng trừ [18, 33].
Thời gian vòng đời của sâu đục quả đậu Maruca vitrata kéo dài từ 18-28
ngày tùy theo điều kiện môi trường. Pha trứng dài 2-3 ngày, pha sâu non kéo
dài 8-14 ngày, có 2 ngày là tiền nhộng và pha nhộng kéo dài 6-9 ngày. Thời
gian vòng đời ngắn nhất là 20 ngày và dài nhất là 57 ngày.Trưởng thành vũ
hóa và giao phối thường xảy ra vào ban đêm. Trưởng thành cái tiết pheromon
sinh dục để hấp dẫn trưởng thành đực đến giao phối.
Tuối thọ của trưởng thành đực trung bình là 5,9-7,7 ngày, ngắn hơn so
với tuổi thọ của trưởng thành cái (trung bình là 8,5-10 ngày). Một trưởng
thành cái đẻ được từ 6-189 trứng. Trứng thường được đẻ rời rạc từng quả
hoạc từ 2-16 trứng một chỗ. Chúng thường đẻ trứng trên nụ hoa và hoa, lá,
ngọn chồi và quả đậu.Trong đó hoa và nụ hoa là chỗ trưởng thành cái thích đẻ
trứng hơn cả. Sâu non loài M.vitrata tuổi nhỏ ăn hoa và nụ hoa, tuổi lớn đục
vào quả đậu. Tập tính này đặc trưng cho sâu non M.vitrata để bảo vệ chúng
khỏi bị kẻ thù tấn công và tránh những tác động bất lợi khác. Sâu non hoạt
động trên bề mặt tán cây, tán lá mạnh nhất là vào ban đêm. Sâu non đẫy sức
thường xuống đất để hóa nhộng trong một kén gồm hai lớp: lớp ngoài được
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………22
22
làm từ tơ đất vụn và lớp trong tạo thành từ các túm sợi tơ trắng được bện như
lưới cá.
Sâu đục quả có thể xuất hiện trên đậu đũa trước khi đậu ra hoa và sống
trên ngọn thân, chồi. Khi đậu ra hoa, sâu non chủ yếu sống trên hoa và nụ
hoa. Khi đậu có quả thì sâu non sống cả trên hoa, nụ hoa và đục vào quả . Ở
Benin,mật độ sâu đục quả cao nhất trong vụ đậu đũa quan sát được vào thời
gian 40-47 ngày sau trồng và đạt mức 4-17sâu/20hoa. Tỷ lệ hoa bị hại vào
thời điểm này là 20-70%. Đỉnh cao trưởng thành M.vitrata vào bẫy đèn trong
tháng 11 và tháng 2 lại trùng vào các thời kỳ ra hoa của các giống đậu đũa có
thời gian sinh trưởng dài và trung bình. Đỉnh cao trưởng thành vào tháng 9 thì
trùng hợp với thời kỳ ra hoa của các giống đậu đũa có thời gian sinh trưởng
ngắn ngày.
Có khá nhiều công bố về thành phần thiên địch và vai trò của chúng
trong hạn chế số lượng sâu đục quả . Đến nay đã phát hiện được 57 loài thiên
địch trên sâu đục quả đậu. Ở Kenya, ký sinh nhộng Antrocephalus sp., loài
nguyên sinh động vật Nosema sp. và vi khuẩn Bacillus và những thiên đich
rất phổ biến của sâu M.vitrata. Các loài kí sinh gây tỷ lệ chết cho quần thể sâu
đục quả ở mức 35,6-40,7% [18, 33, 20].
Ở Nigeria người ta khuyến cáo có thể làm giảm tác hại của sâu đục quả
đậu M.vitrata bằng cách điều khiển thời vụ gieo trồng đậu đũa .Vụ đậu đũa
gieo trong khoảng từ giữa tháng 7 đến tháng 10 bị sâu đục quả nặng
nhất.Trong một vụ đậu ăn quả thì vụ gieo trà muộn bị sâu đục quả đậu nặng
hơn so với đậu gieo trà sớm. Nhiều nghiên cứu cho thấy đậu ăn quả trồng
thuần bị sâu đục quả đậu gây hại nặng hơn trồng xen với ngô, cao lương, cà
chua. Nghiên cứu ở Nigeria cho thấy ruộng làm sạch cỏ thường có tỷ lệ hại do
sâu M.vitrata gây ra giảm đi 2- 4 lần so với không làm cỏ [33, 18].
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………23
23
Oghiakhe và CTV, (1995) đã đánh giá 18 giống đậu đũa trong điều kiện
đồng ruộng và chọn được 8 giống kháng tương đối đối với sâu đục quả
đậu.Tỷ lệ năng suất giảm do sâu M.vitrata là 3,47% ở giống MR x 2-84F. Ở
giống nhiễm nặng nhất (IT82D-716) tỷ lệ này đạt tới 49,75%. Giống đậu đũa
năng suất cao có mật độ lông tơ cao là rất cần thiết cho hệ thống phòng trừ
tổng hợp M.vitrata [20].
Taylor (1968) đã công bố vi khuẩn Bacillus thuringiensis Berl có triển
vọng dùng để phòng chống sâu đục quả đậu M.vitrata ở Nigeria .Ở Tanzania
đã dùng chế phẩm từ B.thuringiensis [30].
Để trừ sâu hại đậu ăn quả biện pháp dùng thuốc trừ sâu vẫn đóng vai trò
quan trọng. Nhiều loại thuốc trừ sâu khác nhau đã được nghiên cứu sử dụng
để trừ sâu đục quả đậu M.vitrata. Các loại thuốc đã được nghiên cứu sử dụng
trừ sâu M.vitrata thuộc nhiều nhóm thuốc: Clo hữu cơ (Endosulfan), lân hữa
cơ (Dimethoate, Traizophios…), Cacbarmate (Carbaryl, Carbofuran,
Aldicarb..) Pyrethroid (Cyhalothrin, Deltamethrin …). Các thuốc trừ sâu có
thể dùng riêng lẽ hoặc có thể hỗn hợp với nhau để nâng cao hiệu quả diệt sâu
đục quả đậu. Môt số hỗn hợp đã được nghiên cứu để trừ sâu đục quả đậu là
Cypermethrin + Dimethoate, Thiodicarb + Ethofenprox. Ngoài thuốc trừ sâu
truyền thống, một số tác giả cũng tiến hành đánh giá hiệu lực của thuốc thảo
mộc đối với những sâu chính hại đậu ăn quả. Dầu xoan Ấn Độ (Neem oil) với
nồng độ 5; 10; 20 % biểu hiện hoạt tính diệt sâu cao đối với sâu non M.vitrata
ở tuổi 3. Hiệu quả trừ sâu của thuốc còn phụ thuộc vào thời điểm phun thuốc,
số lần phun thuốc trong vụ đậu ăn quả. Để trừ sâu M.vitrata, thuốc
Endosulfan được dùng vào ngày thứ 35 sau gieo, phun 2 lần cách nhau 1 tuần;
Thuốc Cypermethrin hỗn hợp với Dimethoate phun 2 lần (cách nhau 10 ngày)
bắt đầu từ khi hình thành nụ [33, 30, 18].
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………24
24
Sharma và CTV (1999) đã tổng kết các biện pháp cấu thành của chương
trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên đậu ăn quả gồm: lợi dụng thiên
địch tự nhiên, biện pháp canh tác, sử dụng gióng kháng, biện pháp hóa học và
sử dụng chế phẩm sinh học, thảo mộc. Một vấn đề quan trọng là không phun
thuốc theo định kỳ mà phun thuốc theo dự báo thì mới giảm thiểu được việc
dùng thuốc trừ sâu trên đậu ăn quả [32, 33, 18]. Đặc biệt, có tác giả đã nghiên
cứu tìm ra pheromone giới tính để dự báo và xác định thời điểm phòng trừ sâu
đục quả đậu đũa một cách hiệu quả hơn (Dowham et al, 2003) [25].
1.2.1.2. Nghiên cứu về mức dư lượng tối đa cho phép, biến động dư lượng và
thời gian cách ly đối với thuốc phòng trừ sâu đục quả đậu
Maruca vitrata.
Một số thuốc dùng ._.phòng trừ sâu M. vitrata đã được xác định mức dư
lượng tối đa cho phép (MRL) trong đậu đũa như Delthamethrin là 0,02 ppm;
Fenvalerate là 1 ppm, Cypermethrin là 0,5 ppm [22, 26]. Weinzierl (2000) đã
nghiên cứu đưa ra thời gian cách ly cho một số thuốc dùng trên đậu rau (với
một liều dùng nhất định) như 14 ngày đối với acephate, 3 ngày đối với
esfenvalerate, 7 ngày đối với diazinon [38].
Marcus (2002) đã nêu lên các yếu tố ảnh hưởng đến dư lượng mỗi loại
thuốc BVTV bao gồm cách xử lý thuốc, dạng thuốc, môi trường và cây trồng.
Các yếu tố này ảnh hưởng đến việc phân giải, chuyển hoá, hoà loãng hoạt
chất trong cây trồng và nông sản [34].
Theo nhiều tác giả [27, 41, 36] mục đích xác định MRL là nhằm:
• Thiết lập giới hạn về dư lượng trong nông sản như tiêu chuẩn cho
sản xuất nông nghiệp tốt (GAP).
• Sử dụng như tiêu chuẩn cho luật an toàn thực phẩm, đánh giá và
quản lý an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.
• Phục vụ thương mại nông sản trong nước và quốc tế.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………25
25
Trước khi thuốc BVTV có thể được đăng ký và sử dụng trên cây trồng,
mức dư lượng tối đa cho phép (MRL) phải được xác lập. MRL như một chỉ
tiêu gắn liền với GAP (thực hành nông nghiệp tốt) sao cho dịch hại được quản
lý tốt nhằm đảm bảo an toàn cho người sử dụng, cho môi trường và dư lượng
thuốc BVTV trong nông sản ở mức an toàn cho người tiêu dùng.
Các số liệu phục vụ cho việc xác lập MRL gồm:
+ Tính chất hoá lý của sản phẩm
+ Các nghiên cứu về độ độc cấp, mãn tính với động vật máu nóng
+ Chuyển hoá của thuốc trong cơ thể động vật và cây trồng.
+ Phương pháp phân tích
+ Thí nghiệm dư lượng trên đồng ruộng
+ Nghiên cứu về nuôi động vật bằng nông sản chứa dư lượng thuốc.
+ Sự chế biến thực phẩm từ nông sản thô
+ Sự rủi ro
MRL không phải là giới hạn về sự an toàn, mà nó như là tiêu chuẩn
trong thương mại quốc tế. Xác định MRL là một việc làm tốn kém về thời
gian và chi phí, bao gồm các bước trong hình sau:
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………26
26
độ h
Tuy nhiên, giá trị ADI (mức hấp thụ hàng ngày chấp nhận được) được
xác định bằng các thí nghiệm trên động vật trong một thời gian đủ dài và chi
phí lớn. Hiện nay, giá trị này được nhà sản xuất đưa ra và các tổ chức Nông
lương thế giới (FAO) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) xác định và chấp nhận.
Xác định ADI (mg/kg/ngày)
(Mức độ hấp thụ hàng ngày chấp nhận được/ kg thể trọng)
Thí nghiệm về độc lý học (trên một số động vật thử nghiệm)
Tính toán NOEL
(Mức không q.sát thấy về hiệu quả gây độc: mãn tính, ung thư, sinh sản,...)
Xác định MPI
Mức độ hấp thụ tối đa cho phép / người/ ngày
Xác định MRLs
(Mức dư lượng tối đa cho phép)
Hình 1.3. Các bước xác định mức dư lượng tối đa cho phép (MRL)
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………27
27
ADI là mức hấp thụ hàng ngày của một hoá chất (mg/ kg thể trọng) mà
Nhìn chung, nhiều nước trong đó có nước ta vẫn phải dựa vào trị số về
mức hấp thụ hàng ngày chấp nhận được mà các tổ chức quốc tế đưa ra. Trị số
này tỉnh theo thể trọng (mg/kg/ngày). Giá trị này cùng không phải giới hạn về
sự an toàn cho việc hấp thụ dư lượng háo chất. Nó là chỉ tiêu đưa ra để đảm
bảo sản phẩm và sự tiêu dùng nó có độ an toàn cao cho con người. Bởi vì giá
trị này được tính theo thể trọng nên chúng có lý khi được dùng chung cho các
nước khác nhau.
NOEL
100 ppm
10 ppm cho vật nuôi (giảm 10 lần)
1 ppm cho con người (giảm 100 lần)
0,1 ppm cho trẻ em (giảm 1000 lần)
Hình 1.4. Xác định mức hấp thụ hàng ngày chấp nhận được (ADI)
(Oh,, 2000) [36]
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………28
28
Hình 1.5. Các bước phát triển và chấp nhận mức dư lượng tối đa
cho phép (MRLs) [41]
Tuy nhiên, không phải các thuốc được thương mại hoá đã có đầy đủ
các giá trị ADI và MRL của FAO/ WHO. Việc thiết lập nó cũng có những
hạn chế không nhỏ như sau:
- MRLs không phải là các mức an toàn (ít khi là mức tới hạn cho sự an
toàn) mà là chỉ tiêu cho GAP đối với người sản xuất.
- Đòi hỏi khác nhau trong thương mại quốc tế (MRL của các nước nhiều
khi rất khác nhau gây khó khăn cho xuất nhập khẩu nông sản, MRLs quốc tế
thiết lập do FAO/WHO thường chậm,...)
- Xác lập MRL là tốn kém và khó khăn với các nước nhỏ, trong khi đó
MRLs quốc tế (CODEX) chỉ tập trung vào các cây trồng trồng ở hoặc nhập
Cty tiến hành các thí nghiệm dư lượng ở liều lượng khuyến cáo
rồi đề nghị MRL/ GAP/ PHI
Nhà nước chấp nhận MRL trong luật về thực phẩm và
thực hiện luật
Bộ Nông nghiệp chấp thuận GAP và PHI
Bộ Y tế chấp thuận MRL được đề nghị không gây ra bất kỳ một
sự đe doạ nào đến sức khoẻ con người
Các nhà sản xuất và các siêu thị tuân theo luật, có thể phân tích
nông sản khi nhập để cung cấp cho người tiêu dùng.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………29
29
khẩu vào các nước phát triển. Còn rất ít kết quả cho nhiều cây trồng trồng ở
các nước nghèo.
- Các công ty ít tập trung vào các cây trồng thứ yếu trên toàn cầu dù rằng
rất quan trọng với từng nước ( như cây dứa với Thái Land, cây điều với Việt
Nam chẳng hạn)
- Phương pháp phân tích khác nhau (sinh ra MRLs khác nhau)
Phương pháp đánh giá rủi ro khác nhau (tính toán về độc cấp tính và
mãn tính, tỷ lệ tiêu thụ trong bữa ăn, các yếu tố an toàn để xác định ADI,...)
Người ta phải giải quyết những hạn chế trên bằng cách:
- Sản xuất đảm bảo MRLs song phải gắn liền với GAP nhằm tăng thu
nhập và an toàn cho người sản xuất.
- Sử dụng MRLs của CODEX với việc bổ sung MRLs đối với các tổ
hợp cây trồng- hoá chất từ EC, USA, úc, Nhật,....
- Các nước cần có sự hài hoà về MRLs trong thương mại quốc tế (như
các MRLs vùng Asean, EC,...).
- Với các nước nghèo hy vọng có đủ MRLs với ngay cả các cây trồng
chính đã khó khăn -> Cần dựa vào các MRLs vùng và của các nước khác có
điều kiện sinh thái tương tự để bổ sung cho CODEX
- Cần kiểm soát và đào tạo tốt việc đưa ra hướng dẫn sử dụng (Label)
nhất là làm rõ PHI và GAP. Cần cấm sản xuất và sử dụng các chế phẩm có
nguy cơ độc cao.
Chẳng hạn, Đài Loan, Thái Lan và các nước Asean: Dựa hẳn vào
CODEX, bổ sung ADI và MRL những thuốc - cây trồng còn thiếu (các nước
Asean đã có từng bước hài hoà MRLs trên các tổ hợp thuốc-cây trồng song
tiến độ còn rất chậm). Mỹ, Nhật, Úc: Đưa ra hệ thống ADI, MRLs của riêng
nước họ bên cạnh số liệu của CODEX.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………30
30
Bảng 1.1. ADI của Cyromazine
(mg/kg thể trọng/ ngày) [30]
Thuốc WHO
Đài
Loan
Mỹ-
EPA
Úc Nhật
Cyfluthrin 0,02 0,02 0,025 0,02 0,02
Cyromazine 0,02 0,02 0,0075 0,01 0,018
EPA = Environmental Protection Agency
Trước khi một thuốc BVTV được bán ra trên thị trường để sử dụng trong
các trang trại của Mỹ, nó phải được đăng ký cho sử dụng trong nông nghiệp
với Cơ quan Bảo vệ môi trường Mỹ (EPA - US Environmental Protection
Agency). Quá trình đăng ký bao gồm việc xem xét cẩn thận bới EPA về ảnh
hưởng có thể của thuốc đến sức khoẻ con người và vật nuôi. Nhà sản xuất mỗi
thuốc BVTV mới phải gửi số liệu khoa học tới EPA mà nó có thể đánh giá
được nguy cơ đến sức khoẻ do sử dụng loại thuốc này. EPA xem xét số liệu
gửi đến và các nghiên cứu sẵn có khác để xác định loại thuốc mới này có ảnh
hương như thế nào đến sức khoẻ con người và môi trường. EPA cũng là đơn
vị đưa ra MRL đối với mỗi thuốc BVTV (còn gọi là TOLERANCE tại Mỹ).
MRL là giá trị tối đa của hoạt chất thuốc BVTV và các chuyển hoá, phân giải
có tính độc hại của nó được phép còn nằm trong sản phẩm (BCEF, 1999)
[19].
Theo Haminton (2002), tổ chức JMPR (Hội nghị liên tịch FAO và WHO
về dư lượng thuốc BVTV) đã hướng dẫn tiến hành các thí nghiệm để xác định
mức dư lượng tối đa cho phép (MRL): Liều xử lý có thể tăng 25-30% so với
liều tiêu chuẩn, giá trị dư lượng được lấy ở mức cao nhất có được trong thí
nghiệm bởi còn sự biến động có thể trong quá trình thương mại và sử dụng
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………31
31
[29, 30]. Điều này xuất phát từ việc đảm bảo an toàn cho sản phẩm ở mức cao
kể cả khi nông dân dùng liều cao hơn mức khuyến cáo một lượng nhất định
hoặc do người xử lý thuốc không đồng đều trên đồng ruộng.
Tác giả Yeoh (2000) đã nêu lên nguyên tắc hài hoà các giá trị MRL của
các nứơc trong khu vực như dựa chủ yếu vào Codex alimentarious, nếu không
có thì sử dụng MRL được thống nhất trong khu vực. Tác giả này cũng đã đưa
ra phương pháp thí nghiệm và xác định thời gian cách lý cho một loại thuốc
BVTV sau khi đã có MRL. PHI là thời gian cách ly sao cho dư lượng thuốc ở
thời điểm thu hoạch thấp hơn MRL [40]. Có thể nói việc đưa ra mức hấp thụ
tối đa cho phép (ADI), mức dư lượng tối đa cho phép (MRL) đối với một loại
thuốc đòi hỏi chi phí rất lớn về kinh phí và thời gian. MRL còn phụ thuộc
mạnh cả vào từng nước khác nhau do lượng khẩu phần ăn đối với một loại
nông sản (như đậu rau chẳng hạn) thường khác nhau. Do vậy, trong Codex
của FAO & WHO, rất nhiều thuốc thương phẩm có trên thị trường chưa có
mức dư lượng tối đa cho phép (MRL) trên đậu đũa. Nhiều nước, kể cả các
nước Đông Nam Á đã phải tự nghiên cứu để đưa ra MRL cho nước mình như
Đài Loan, Thái Lam, Malaysia... [27, 39, 41].
Theo Haminton [30], MRL phụ thuộc chủ yếu vào cac số liệu có từ các
thí nghiệm về dư lượng được giám sát. Các thí nghiệm này cần phải bao gồm
được các điều kiện có thể như phương pháp áp dụng, mùa vụ, thực hành canh
tác và giống cây trồng.
Đặc biệt, tác giả Timme và Frehse (1986) đã nêu lên phương pháp thí
nghiệm về dư lượng và xác định PHI cho mỗi loại thuốc BVTV. Đó là thí
nghiệm hồi quy và kết quả hồi quy cho phép PHI được tính toán dựa trên biến
động dư lượng và MRL đã được xác định trước [37]. Phương pháp này cũng
đã được Yeoh (2000) nêu lên trong việc xác định PHI của thuốc BVTV tại
Malaysia và các nước Đông Nam Á [40]. Các tác giả đều cho rằng, mỗi số
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………32
32
liệu phân tích dư lượng thường chứa đựng những sai số đáng kể do phương
pháp xử lý thuốc, phương pháp lẫy mẫu, phương pháp phân tích, sai số của
máy (như máy sắc ký, quang phổ hấp thu nguyên tử, ...). Đặc biệt, nghiên cứu
ở mức dư lượng thường phải phân tích mẫu với hàm lượng thuốc rất nhỏ (từ 1
ppm cho tới vài ppm) nên cần phải thực hiện các pháp xử lý thống kê, nhất là
phân tích hồi quy nhằm giảm thiểu các sai số nói trên và xác định được thời
gian cách ly sát với thực tiễn ở mức chấp nhận được.
Theo Haminton [30], trong các thí nghiệm xác định MRL và PHI, JMPR
(Joint FAO/WHO Meeting on Pesticide Residues) đã đưa ra một loạt các
hướng dẫn và về thí nghiệm và đánh giá các MRL và PHI như sau:
- Chỉ một số liệu được lấy cho một điểm thí nghiệm
- Điều kiện thí nghiệm cần phải đáp ứng cho việc sử dụng với tối đa
nguy cơ theo đăng ký. Liều lượng tăng 25-30% so với đăng ký thông thường.
- Ảnh hưởng của số lần áp dụng thuốc BVTV trên dư lượng phụ thuộc
vào các khoảng bền vững về dư lượng giữa các lần áp dụng và bản chất của
cây trồng. Các thí nghiệm về biến động (suy giảm ) của dư lượng sẽ cung cấp
cho số liệu về độ bền này cũng như các quyết định số lần áp dụng
- Phạm vi chấp nhận được giữa lần xử lý sau cùng và lúc thu hoạch cũng
phụ thuốc vào độ bền của dư lượng (có được từ những thí nghiệm về sự suy
giảm của dư lượng theo thời gian). Phạm vi chấp nhận được là xung quanh
giá trị PHI chính thức đưa ra là tương đương với 30% thay đổi trong mức dư
lượng của thí nghiệm.
- Khi trong thí nghiệm về dư lương, dư lượng thuốc không phát hiện
được, cần phải đưa ra thí nghiệm với các liều cao hơn.
- Khi một số giá trị về dư lượng thu được từ các ô nhắc lại từ một thí
nghiệm riêng rẽ, giá trị cao nhất được chọn ra.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………33
33
- Khi một số giá trị dư lượng thu được trong các phân tích lặp lại của
cùng một mẫu trên đồng ruộng, giá trị trung bình về dư lượng được lựa chọn.
Theo Yeoh [41], mức dư lượng tối đa cho phép (MRL) được xác định
như là "hàm lượng tối đa của dư lượng thuốc BVTV gây ra từ việc sử dụng
chúng theo thực hành nông nghiệp tốt (GAP) mà nó không được phép có
trong hoặc trên thực phẩm". Thời gian cách ly (PHI ) được đặt ra sao cho dư
lượng ở lần thu hoạch là đủ thấp hơn MRL. Dư lượng thuốc BVTV hầu như
không bao giờ là số không trừ phi thuốc BVTV là thuốc trừ cỏ khi xử lý
không tiếp xúc với cây trồng hoặc thuốc được xử lý đất hay xử lý hạt giống.
Tác giả cũng đưa ra trên hình sau đây về việc thiết lập MRL và thời gian cách
ly cho thuốc BVTV trên một cây trồng.
Theo CABI (2000) [21] phòng trừ tổ hợp các loài sâu đục quả đậu bằng
hoá chất đang giảm đi. Tuy nhiên, nhiều loại thuốc trừ sâu độc hại đã từng
Dư lượng thuốc
Thiết lập MRL
Thiết lập PHI
Thời gian sau áp dụng lần cuối (ngày)
Hình 1.6. Thiết lập MRL và PHI từ các thí nghiệm về dư lượng thuốc
(Yeoh, 2000) [33]
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………34
34
được sử dụng trong quá khứ. Hiệu quả của các thuốc trừ sâu để phòng trừ sâu
non M. vitrata đã được nghiên cứu ở trên đồng ruộng Tamil Nadu, Ấn Độ.
Endosulfan là thuốc trừ sâu hiệu quả nhất, tiếp theo là monocrotophos. Rất
tiếc là các thuốc này có thời gian tồn dư dài và đã bị cấm sử dụng ở nhiều
nước. Chế phẩm chiết xuất từ hạt và dầu neem (Azadirachta indica) cho hiệu
quả phòng trừ sâu đục quả khá và cao hơn carbaryl (Ramasubramanian and
Babu, 1991). Beta-cyfluthrin cũng cho hiệu quả tốt với Helicoverpa assulta
và M. vitrata trên cây Vigna unguiculata subsp. sesquipedalis và
Conopomorpha cramerella trên cocoa ở Malaysia. Beta-cyfluthrin có hiệu
quả hơn cyfluthrin (Julius et al., 1992).
Dầu neem (neem oil - NO) và các dạng thuốc khác của nó bao gồm
neem oil emulsifiable concentrate (NOEC), neem oil slurry emulsifiable
concentrate (NOSEC) và 5% NOEC đạt được từ hạt neem đã được thử
nghiệm trừ M. vitrata trong phòng thí nghiệm. NOEC có hiệu quả cao đối với
sâu non tuổi 3. Mọi hoa được thử nghiệm đã được bảo vệ khỏi sự gây hại của
sâu non 2 ngày sau khi xử lý. NOSEC và NOEC cũng cho hiệu quả khá với
loài sâu này (Jackai and Oyediran, 1991).
Về chủng loại thuốc và thời gian cách ly dùng cho sâu đục quả đậu đũa
Maruca vitrata cũng được khuyến cao trong hướng dẫn phòng trừ loài sâu
này như trong Bảng 1.2.
Như vậy, có thể nói, với các thuốc và liều lượng dùng như trên, không
thể phun các loại thuốc trên sau khi đậu đã hình thành quả. Một số thuốc có
thời gian cách lý 14 ngày chỉ được phun khi đậu mới hình thành nụ hoa mới
có thể đảm bảo an toàn cho nông sản khi thu hoạch.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………35
35
Bảng 1.2. Khuyến cáo phòng trừ sâu đục quả đậu
bằng hoá chất BVTV [31]
Tên sâu hại Tên hoạt chất
Hoà
loãng
Liều áp
dụng (sản
phẩm/ha)
Thời gian
cách ly
(PHI)
(ngày)
Ghi chú
Nuvacron
10EC
10mg/
10L
500 mL 10
Chlorfluazuron
50g/L EC
10mg/
10L
600-800
mL
10
Thiodicarb
375 g/L EC
20/ 10L 1000 mL 14
Thiodicarb
75 g/L SC
22g/ 10L 1000 mL 14
Các loài sâu
đục quả đậu:
Maruca
vitrata
Helicoverpa
armigera
Lampides
boeticus Chlorpyriphs
400g/L EC
3mg/ 10L 1500 mL 14
Bắt đầu
phun khi
đậu ra
hoa
1.2.2. Nghiên cứu ở trong nước
1.2.2.1. Nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh thái học liên quan đến phòng
trừ sâu đục quả đậu đũa M.vitrata
Sâu đục quả đậu là một loài sâu hại quan trọng trên đậu ăn quả ở nước
ta. Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học cơ bản của loài này có thể tìm
thấy trong công bố của Nguyễn Thị Ánh (1981), Nguyễn Quý Dương (1997) .
Theo các tác giả này thời gian vòng đời của sâu đục quả đậu rất thay đổi (từ
18 đến 50 ngày) phụ thuộc vào điều kiện sinh thái khi nuôi. Về khả năng đẻ
trứng của sâu đục quả đậu đũa các nghiên cứu cho nhiều rất khác nhau. Một
trưởng thành cái của sâu đục quả đậu có thể đẻ được 26 - 116 trứng. Đặc biệt,
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………36
36
tromg luận án tiến sỹ của mình, Nguyễn Thị Nhung đã có những nghiên cứu
khá toàn diện về những đặc điểm sinh học sinh thái của sâu đục quả đậu nói
chung (đậu trạch, đậu đũa). Tác giả cho thấy ở nhiệt độ trung bình 17,00C thì
pha trứng kéo dài trung bình 8,9 ngày; sâu non 19,5 ngày; nhộng 18,4 ngày;
vòng đời kéo dài 50,8 ngày. Khi nhiệt độ phòng nuôi sâu tăng lên 30,20C thì
thời gian phát dục các pha giảm xuống rõ rệt, thời gian pha trứng TB là 2,4
ngày; sâu non 9,0 ngày; nhộng 5,7 ngày; như vậy vòng đời là 19,5 ngày
Mối quan hệ giữa vòng đời sâu đục quả đậu và nhiệt độ được biểu thị
bằng phương trình sau: Y = - 0,0007x2 – 0,3732x + 37,693 (với r = - 0,99)
Trong đó: Y: Nhiệt độ TB trong thời gian nuôi sâu (0C)
x: Thời gian vòng đời (ngày)
Trong khoảng nhiệt độ từ 17,0 đến 30,20C, trưởng thành đực sống
trung bình từ 3,8 đến 6,1 ngày; trưởng thành cái từ 7,9 đến 10,2 ngày. ở nhiệt
độ trung bình 25,80C - 28,40C, một trưởng thành cái đẻ được TB 116,2 đến
120,6 trứng. Khi nhiệt độ giảm xuống 20,70C và 17,00C hoặc tăng lên 30,20C
thì số lượng trứng do một trưởng thành cái đẻ được giảm đi một cách rõ ràng
và chỉ là 45,2 đến 52,26 trứng. Trưởng thành sâu đục quả đậu ưa hoạt động
ban đêm. ở điều kiện đồng ruộng, trưởng thành cái thường đẻ trứng trên nụ và
hoa là chính, khi thuận lợi có thể đẻ cả trên búp non, nhưng không bắt gặp
trứng được đẻ trên quả đậu. Sâu non M. vitrata tuổi 1 - 2 thường sống ở trong
hoa. Sâu non từ tuổi 3 trở đi đại đa số đục vào quả sống đến khi đẫy sức hoá
nhộng. Sau khi đẫy sức, sâu non tuổi cuối chuyển xuống đất hoá nhộng.
Các nghiên cứu về biện pháp phòng trừ sâu đục quả đậu đũa hiện nay
vẫn còn rất hạn chế . Nguyễn Văn Cảm (1996) đã nghiên cứu sử dụng chế
phẩm Bacillus thuringiensis Berliner (Bt) để trừ sâu đục quả đậu M.vitrata.
Tác giả kết luận có thể dùng Bt để trừ sâu đục quả đậu .Tuy vậy, tỷ lệ quả đậu
đũa bị hại ở nơi phun Bt thấp hơn so với đối chứng không nhiều. Nhìn chung
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………37
37
hiệu quả của Bt đối với sâu đục quả đậu kém hơn khi dùng thuốc hóa học
Wofatox 50EC.
Hoàng Anh Cung (1996) đã khảo sát hiệu lực trừ sâu đục quả đậu của 8
loại thuốc hóa học, một loại thuốc sinh học(Bt) và một loại thảo mộc (hạt củ
đậu) thì chỉ có 3 loại thuốc hóa học có tác dụng trừ sâu. Tác giả đã chọn ra 2
loại thuốc Sherpa 25EC và Sumicidin 20EC dùng để trừ sâu. M vitrata [3].
Theo Nguyễn Thị Nhung (2002), thuốc hoá học vẫn là biện pháp chính để trừ
sâu đục quả đậu. Từ năm 1996-1999 tác giả đã tiến hành thí nghiệm đánh giá
hiệu lực của 15 loại thuốc hoá học đối với sâu đục quả đậu. Kết quả cho thấy
các thuốc nhóm Pyrethroit có tác dụng trừ sâu đục quả đậu tốt hơn các nhóm
thuốc khác. Hiệu lực của các thuốc đối với sâu đục quả đậu như Sherpa 25EC,
Sumicidin 20EC và Fastac 5EC tương đương nhau ở 3 ngày sau phun đạt
78,2-79,7%, Baythroid 50EC có hiệu lực cao nhất là 85,3%. Sau đó hiệu lực
của các thuốc giảm dần đạt 69,8-73,8% ở 7 ngày sau phun thuốc. Tác giả kết
luận các thuốc Baythroid 50EC, Sherpa 25EC, Sumicidin 20EC hoặc Fastac
5EC có thể sử dụng để trừ sâu đục quả trên đậu ăn quả ở ngoài đồng ruộng.
Thời điểm bắt đầu phun thuốc tốt nhất là lúc cây đậu có hoa rộ và bắt đầu có
quả (50 - 60 NST) [7].
1.2.2.2. Nghiên cứu biến động dư lượng và thời gian cách ly đối với
thuốc phòng trừ sâu đục quả đậu đũa M. vitrata.
Biện pháp hoá học được đặc biệt nhấn mạnh trong phòng trừ sâu đục quả
đậu ở các nước. Gần đây, Nguyễn Thị Nhung (2002) đã nêu lên các thuốc
chọn lọc trừ sâu đục quả là Sherpa 25EC, Baythroid 50EC, Fastac 5EC với
thời gian cách ly tối thiểu là 3 ngày [6, 7]. Một số tác giả cũng đã đề cập đến
biến động dư lượng của một số thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng trên đậu
rau và đề nghị thời gian cách ly của chúng Fenvalerate, Fenithrothin,
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………38
38
Chlorothalonil, Propagite (Phạm Thị Phong, 1992; Bùi Sĩ Doanh, 2000;
Nguyễn Trường Thành, 2002) [4, 10, 5].
Trong "Tiêu chuẩn ngành", việc phòng trừ sâu đục quả đậu được khuyến
cáo bằng Sherpa 25EC, Marshal 200EC và chỉ phun phòng giai đoạn cây đậu
đũa ra hoa. Còn ở giai đoạn thu hoạch, thuốc được khuyến cáo phòng trừ loại
sâu này chỉ là thuốc sinh học [1].
Như vậy, với các quả nghiên cứu trong và ngoài nước thu thập được,
chúng tôi có thể đánh giá sâu đục quả đậu đũa là một đối tượng rất khó phòng
trừ và còn phải nghiên cứu nhiều với các lý do sau đây:
- Cây đậu đũa có thời gian xung yếu với loại sâu này kéo dài trong suốt
thời gian cây ra hoa, đậu quả (thường kéo dài trên 1 tháng trở lên).
- Cây đậu đũa ra hoa đậu quả rải rắc liên tục, không đồng loạt, nông dân
lại thường thu hái thường chỉ cách nhau 2-3 ngày nhằm sản phẩm có được
thời điểm thu hoạch tốt nhất (không quá non và không quá già). Nông dân
cũng thường phải phun trừ loại sâu này gần như liên tục sau mỗi lần thu hái.
Họ cần bảo vệ nụ hoa và nhất là khi quả mới hình thành. Trong khi đó, nhiều
quả đã tương đối lớn sắp thu hoạch cũng phải hứng chịu lần phun thuốc bảo
vệ các quả non.
- Thuốc sử dụng lại cần đảm bảo nông sản an toàn, đòi hỏi thuốc phòng
trừ phải có thời gian cách ly ngắn vì các kỳ thu hái rất gần nhau. Rất ít thuốc
hoá học có thời gian cách ly ngắn mà lại có hiệu quả cao với loài sâu này. Các
thuốc sinh học và thảo mộc thường có hiệu quả chậm và không cao, khó đáp
ứng yêu cầu của người sản xuất, nhất là sản xuất đậu rau thương mại hiện
nay.
- Thời gian xung yếu của sâu đối với thuốc lại rất ngắn, từ khi sâu non
mới nở đến khi chúng chui được vào trong quả đậu (chủ yếu sâu ở tuổi 1, 2).
Các thuốc phòng trừ muốn trừ sâu được khi sâu đã chui vào trong quả phần
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………39
39
lớn phải có khả năng lưu dẫn. Các thuốc này thường không thể có thời gian
cách lý ngắn và không đảm bảo an toàn cho nông sản khi thu hoạch.
- Người tiêu dùng thường khó chấp nhận quả đậu thương phẩm có nhiều
vết đục của sâu đục quả. Điều này làm cho người sản xuất phải phun thuốc
nhiều khi gần như liên tục (2-3 ngày/ lần) và việc đảm bảo an toàn về dư
lượng thuốc trong sản phẩm là rất khó khăn.
Như vậy, cho đến nay mới có rất ít các tài liệu đề cập đến việc nghiên
cứu biến động dư lượng của một số thuốc trừ sâu đục quả đậu đũa trong điều
kiện sinh thái ở nước ta và trên cơ sở đó xác định thời gian cách ly, một chỉ
tiêu quan trọng hàng đầu cho việc đảm bảo an toàn thực phẩm về dư lượng
thuốc BVTV.
Hơn nữa, các thuốc sinh học, thảo mộc và có nguồn gốc sinh học cần
được khảo nghiệm và chọn lọc bổ sung cho việc phòng trừ loài sâu đục quả
nguy hiểm này. Do vậy, việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu biến động dư
lượng và xác định thời gian cách ly của một số thuốc trừ sâu đục quả (Maruca
vitrata Fabricius) trên đậu đũa vùng ngoại thành Hà Nội” là đáp ứng yêu cầu
cấp thiết của sản xuất đậu đũa an toàn hiện nay.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………40
40
Hình 1.7. Đậu đũa, một loài đậu rau
được trồng phổ biến ở ngoại thành Hà Nội
(Vận Nội, Đông Anh, Hà Nội, xuân 2007)
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………41
41
Chương II. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu.
- Các chất chuẩn của một số thuốc dùng phòng trừ sâu đục quả đậu đũa.
- Các loại thuốc sinh học, thảo mộc và nguồn gốc sinh học trừ sâu như
Abamectin, Azadirachtin, Matrine, Oxymatrine.... và một số thuốc hoá học
trừ sâu như: Cypermethrin, Etofenprox, Deltamethrin …
- Các loại đậu đũa trồng phổ biến ở vùng ngoại thành Hà nội
- Công cụ nghiên cứu:
+ Bình phun thuốc
+ Các dụng cụ nuôi sâu
+ Máy phân tích dư lượng thuốc bảo vệ thực vật:
+ Máy sắc kí khí GC Agilent 6890N với detector µ-ECD
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Một số đặc điểm sinh học, biến động số lượng và tập tính của
sâu đục quả đậu M.vitrata ở vùng nghiên cứu liên quan đến phòng
trừ.
2.2.2. Đánh giá hiệu lực của một số thuốc đối với sâu đục quả đậu
2.2.3. Xác định biến động dư lượng của một số thuốc hoá học có
hiệu quả cao đối với sâu đục quả đậu.
2.2.4. Xác định thời gian cách ly của các thuốc hoá học được
chọn lọc trừ sâu đục quả đậu
2.2.5. Ứng dụng kết quả nghiên cứu trên vào phòng trừ sâu đục quả
đậu đũa vùng ngoại thành Hà Nội.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………42
42
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thí nghiệm đánh giá hiệu lực của một số thuốc trừ sâu đục quả đậu
Thí nghiệm được tiến hành ngoài đồng, bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy
đủ (RCB) với một số loại thuốc bao gồm cả thuốc hóa học, sinh học, thảo
mộc. Trong đó, mỗi loại thuốc là một công thức, và công thức đối chứng phun
nước lã. Mỗi ô rộng 20m2 và được nhắc lại 3 lần. Diện tích toàn bộ thí nghiệm
là 3 x 20 x 11 = 660 (m2)
Liều lượng thuốc sử dụng trong thí nghiệm theo khuyến cáo của từng
loại thuốc, lượng nước phun theo liều lượng là 800 L/ha. Phun bằng bình bơm
tay 2 L.
Thời điểm phun: Khi hoa rộ và khi hình thành quả non. Tiến hành điều
tra trước khi phun và sau khi phun 2, 5 và 7 ngày. Điều tra 5 điểm phân bố
đều trong ô, mỗi điểm 40 quả. Chỉ tiêu điều tra: Số quả bị hại và mật độ sâu
(được tính cho 100quả/ô).
Đánh giá mức độ gây hại dựa vào chỉ tiêu tỷ lệ quả bị hại.
Các kết quả thí nghiệm về hiệu lực thuốc được hiệu đính theo công thức
Henderson-Tilton:
Hiệu lực (%) = (1- Ta.Cb/Tb.Ca) x 100
Trong đó :
Ta: mật độ sâu ở ô xử lý thuốc sau khi phun
Tb: mật sâu ở ô xử lý thuốc trước khi phun
Ca: mật độ sâu ở ô đối chứng sau khi phun
Cb: mật độ sâu ở ô đối chứng trước khi phun
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………43
43
2.3.2. Nghiên cứu biến động dư lượng
- Thí nghiệm phun thuốc trên đậu đũa khi đậu có quả cả nhỏ và lớn. Liều
lượng thuốc bằng liều cao nhất trong khuyến cáo của nhà sản xuất. Lấy mẫu
sau phun: 0, 1, 2, 3, 5, 7 ngày: tại mỗi ô lấy 1kg phân bố đều trong ô, thu
trong túi giấy sạch và đưa về phân tích để xác định dư lượng trong sản phẩm.
- Phân tích dư lượng của các thuốc tại các mẫu trung bình từ 3 lần nhắc
lại theo các phương pháp phân tích dư lượng phù hợp với từng nhóm thuốc
[26, 28, 24] song có cải tiến phù hợp với loại nông sản (đậu rau) và điều kiện
thiết bị trong phòng thí nghiệm dư lượng tại Viện Bảo vệ thực vật [12].
Hiệu suất thu hồi của phương pháp là 85-100% với giới hạn phát hiện là
0,02 ppm.
Còn với thuốc Etofenprox, phương pháp xác định dư lượng được tiến
hành theo tài liệu hướng dẫn của nhà sản xuất " Residue analysis of TRebon
insecticide in crops, Mitsui Toatsu Chemicals Inc. (1985)" và của Hà Lan
[35]. Về cơ bản cũng không khác nhiều phương pháp phân tích dư lượng các
thuốc Pyrethroids nói trên bao gồm:
- Chiết xuất (Extraction) bằng acetone
- Tách lỏng - lỏng và làm sạch (clean-up) bằng cột sắc ký silica-gel và
alumina, dẫn xuất với phản ứng lodo trimethyl silane
- Xác định bằng sắc ký khí với detector µ-ECD (GC/ECD).
Hiệu suất thu hồi của phương pháp là 80-100% với giới hạn phát hiện là
0,01 ppm. Hình 2.1 là toàn bộ lược đồ phân tích đa dư lượng các thuốc
Pyrethroids trong đậu đũa, bao gồm cả hai thuốc Cypermethrin và
Deltamethrin mà đề tài đang nghiên cứu.
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………44
44
300 g quả cắt nhỏ xay với 50-100 ml nước sạch
Lấy 30 g dịch khuấy đều với 80 mL Acetone, lọc qua giấy (Whatman
No2), bổ sung đủ 100 ml Acetone
Lấy ra 25 ml thu được + 10 ml 10% NaCl, lắc đều
Bổ sung 50 ml Perthrum ether, tách 2 lần với 50 ml CH2Cl2
Khử nước với 20 g Anhydrate Na2SO4
Cất quay đến khô rồi hoà tan trong 5 ml Acetone
Lấy 1 ml và đổi dung môi thành n-Hexan/ CH2Cl2=1/5
Rửa cột SPE với 5 ml n-Hexane/CH2Cl2=1/5
Đổ mẫu qua cột SPE
500 mg florisil
Giải hấp với lần 1 với 10 mL Hexane/ CH2Cl2 =1/5
Giải hấp với lần 2 với 10 mL Hexane/ CH2Cl2 / CH3 CN =49,65: 50: 0,35
Làm gần khô bằng khí N2 rồi hoà tan vào 1 ml n-Hexane
GC/ ECD
Hình 2.1. Lược đồ phân tích thuốc Pyrethroids trên đậu đũa
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………45
45
2.3.3. Phương pháp xác định thời gian cách ly
- Xây dựng đường hồi quy biến động dư lượng thuốc sau phun theo
phương pháp bình phương tối thiểu và phương pháp của Timme, Frehse and
Flaska [37]
Đường hồi quy: y = ax + b hay y = m e nx .
Trong đó: y = Dư lượng thuốc có trong mẫu (ppm)
x = Thời gian sau phun (ngày)
- Xác định thời gian cách ly (PHI): căn cứ đường cong biến động trên và
mức dư lượng tối đa cho phép (MRL) trong Codex 2005.
2.3.4. Ứng dụng trên đồng ruộng
- Phun thuốc vào thời điểm hợp lý trừ sâu đục quả đậu đũa trên diện rộng
với một số loại thuốc đã chọn lọc (diện tích ô 300 m2). Đánh giá hiệu quả
phòng trừ theo quy phạm khảo nghiệm thuốc của Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn.
- Phân tích dư lượng trong quả đậu đũa sau thu hoạch và đánh giá
kết quả.
Hình 2.2. Đường cong biến động dư lượng thuốc sau xử lý và cách xác
định thời gian cách ly (PHI)
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………46
46
Chương III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Một số đặc điểm sinh học, biến động số lượng và tập tính của
sâu đục quả đậu M.vitrata._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CH2425.pdf