Tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố thú y đến bệnh viêm tử cung và giải pháp phòng, trị bệnh viêm nội mạc tử cung ở lợn nái ngoại sinh sản: ... Ebook Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố thú y đến bệnh viêm tử cung và giải pháp phòng, trị bệnh viêm nội mạc tử cung ở lợn nái ngoại sinh sản
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3669 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố thú y đến bệnh viêm tử cung và giải pháp phòng, trị bệnh viêm nội mạc tử cung ở lợn nái ngoại sinh sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
------------------
NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ THÚ Y ĐẾN
BỆNH VIÊM TỬ CUNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, TRỊ BỆNH VIÊM
NỘI MẠC TỬ CUNG Ở LỢN NÁI NGOẠI SINH SẢN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành : THÚ Y
Mã số : 60.62.50
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN TIẾN DŨNG
HÀ NỘI - 2008
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều
đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Bích Hồng
ii
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội,
khoa Sau đại học, khoa Thú y đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho
chúng tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn khoa
học PGS.TS. Trần Tiến Dũng và các thầy trong bộ môn Ngoại - sản đã
tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và xây dựng
luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn bộ môn vi trùng-Trung tâm Chẩn đoán
thú y Trung ương, Công ty Cổ phần phát triển Công nghệ Nông thôn và
tập thể cán bộ công nhân làm việc tại trại lợn Thế Thuyết và trại lợn Huy
Hiền đã hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho chúng tôi thực
hiện đề tài.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, người
thân, bạn bè, những người luôn tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập, nghiên cứu cũng như hoàn thành luận văn này.
iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cám ơn ii
Mục lục iii
Danh mục chữ viết tắt v
Danh mục các bảng vi
Danh mục các hình vii
1. ĐẶT VẤN ĐỀ i
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 2
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. GIỚI THIỆU MỘT SỐ GIỐNG LỢN NÁI NGOẠI ĐƯỢC NUÔI
TẠI VIỆT NAM: YORKSHIRE, LANDRACE, DUROC,
HAMPSHIRE 3
2.2. ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ SINH SẢN CỦA LỢN NÁI 7
2.3. BỆNH VIÊM TỬ CUNG Ở LỢN NÁI 16
2.4. MỘT SỐ VI KHUẨN THƯỜNG GẶP Ở TỬ CUNG CỦA LỢN 24
2.5. NHỮNG HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ THUỐC KHÁNG SINH
TRONG PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH SINH SẢN 27
2.6. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BỆNH VIÊM TỬ CUNG LỢN TRÊN
THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 32
3. NỘI DUNG, ĐỐI TƯỢNG, NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU 36
3.1. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 36
3.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ NGUYÊN LIỆU NGHIÊN CỨU 36
3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 37
iv
3.4. THỬ NGHIỆM PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH VIÊM TỬ CUNG 42
3.5. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU 43
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 45
4.1. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG BỆNH VIÊM TỬ CUNG Ở LỢN
NÁI NGOẠI THEO CÁC YẾU TỐ THÚ Y TẠI TRẠI LỢN THẾ
THUYẾT VÀ TRẠI LỢN HUY HIỀN 45
4.1.1. THỰC TRẠNG BỆNH VIÊM TỬ CUNG Ở LỢN NÁI NGOẠI
TẠI TRẠI LỢN THẾ THUYẾT VÀ TRẠI LỢN HUY HIỀN 45
4.1.2. KHẢO SÁT MỘT SỐ YẾU TỐ THÚ Y TRÊN ĐÀN LỢN NÁI
NGOẠI TẠI TRẠI LỢN THẾ THUYẾT VÀ TRẠI LỢN HUY
HIỀN 46
4.2. XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN VÀ SỐ LƯỢNG CÁC LOẠI VI
KHUẨN TRONG DỊCH TIẾT TỬ CUNG LỢN NÁI NGOẠI TẠI
TRẠI THẾ THUYẾT VÀ TRẠI HUY HIỀN 55
4.2.1. XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN CÁC LOẠI VI KHUẨN TRONG
DỊCH TIẾT TỬ CUNG LỢN NÁI NGOẠI TẠI TRẠI THẾ
THUYẾT VÀ TRẠI HUY HIỀN 55
4.2.2. XÁC ĐỊNH SỐ LƯỢNG CÁC LOẠI VI KHUẨN TRONG
DỊCH TIẾT TỬ CUNG LỢN NÁI NGOẠI TẠI TRẠI THẾ
THUYẾT VÀ TRẠI HUY HIỀN. 57
4.3. XÁC ĐỊNH ĐỘ MẪN CẢM CỦA CÁC LOẠI VI KHUẨN PHÂN
LẬP ĐƯỢC TỪ DỊCH VIÊM TỬ CUNG CỦA LỢN NÁI VỚI
THUỐC KHÁNG SINH 59
4.4. XÁC ĐỊNH ĐỘ MẪN CẢM CỦA TẬP ĐOÀN VI KHUẨN
PHÂN LẬP ĐƯỢC TỪ DỊCH VIÊM TỬ CUNG CỦA LỢN VỚI
THUỐC KHÁNG SINH 62
v
4.5. THỬ NGHIỆM PHÒNG BỆNH VIÊM TỬ CUNG CHO LỢN NÁI
NGOẠI SINH SẢN 64
4.6. THỬ NGHIỆM ĐIỀU TRỊ BỆNH VIÊM NỘI MẠC TỬ CUNG
TRÊN LỢN NÁI NGOẠI 66
5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 72
5.1. KẾT LUẬN 72
5.2. ĐỀ NGHỊ 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
PHỤ LỤC 79
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
Dạng S Dạng Smouth
Dạng R Dạng Rough
DNA Deoxyribonucleic acid
E. coli Escherichia coli
FSH Folliculo Stimuling Hormone
GnRH Gonadotropin-Releasing Hormone
Gr- Gram âm
Gr+ Gram dương
LH Lutein Hormone
PGF2α Prostglandin F 2 alpha
TB Trung b×nh
TC Tö cung
TK§V ThÇn kinh ®éng vËt
TKTV ThÇn kinh thùc vËt
VK Vi khuÈn
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Tên bảng Trang
2.1. Chẩn đoán phân biệt các thể Viêm tử cung 21
3.1. Đánh giá đường kính vòng vô khuẩn theo tiêu chuẩn của Hội
đồng Quốc gia Hoa Kỳ (1999) 41
4.1. Kết quả khảo sát thực trạng bệnh Viêm tử cung ở đàn lợn nái
ngoại tại trại Thế Thuyết và trại Huy Hiền 45
4.2. Kết quả khảo sát một số yếu tố thú y trên đàn lợn nái ngoại tại 47
trại Thế Thuyết và trại Huy Hiền 47
4.3. Kết quả theo dõi tỷ lệ mắc bệnh Viêm tử cung ở lợn nái ngoại với
điều kiện phối giống khác nhau 49
4.4. Kết quả theo dõi tỷ lệ mắc bệnh Viêm tử cung ở lợn nái ngoại 51
với điều kiện đẻ khác nhau 51
4.5. Kết quả theo dõi tỷ lệ mắc bệnh Viêm tử cung ở lợn nái ngoại ở
mức độ vệ sinh thú y khác nhau 53
4.6. Kết quả xác định thành phần các loại vi khuẩn trong dịch tiết tử
cung lợn nái ngoại sau khi đẻ và nái bị viêm tử cung 56
4.7. Sự biến động về số lượng các vi khuẩn phân lập được trong 1ml
dịch viêm tử cung so với nái khoẻ mạnh sau đẻ 57
4.8. Kết quả xác định tính mẫn cảm của các vi khuẩn phân lập được từ
dịch viêm tử cung của lợn nái với một số thuốc kháng sinh 59
4.9. Kết quả xác định tính mẫn cảm của tập đoàn vi khuẩn có trong 62
dịch viêm tử cung của lợn nái với một số thuốc kháng sinh 62
4.10. Kết quả thử nghiệm phòng bệnh Viêm tử cung cho lợn nái ngoại
sinh sản 64
viii
4.11. Kết quả điều trị bệnh Viêm nội mạc tử cung và khả năng sinh sản
của lợn nái sau khi khỏi bệnh 69
DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
STT Tên hình, biểu đồ Trang
Hình 2.1. Giống lợn Yorkshire 4
Hình 2.2. Giống lợn Landrace 5
Hình 2.3. Giống lợn Duroc 6
Hình 2.4. Giống lợn Hampshire 6
Hình 2.5. Cấu tạo cơ quan sinh dục của lợn cái 12
Hình 4.1. Can thiệp bằng tay khi lợn đẻ 52
Hình 4.2. Lợn đẻ trên nền chuồng bẩn 52
Hình 4.3. Lợn nái bị viêm tử cung trong điều kiện vệ sinh kém 54
Biểu đồ 4.1. Kết quả theo dõi tỷ lệ mắc bệnh Viêm tử cung ở lợn nái
ngoại theo các yếu tố thú y khác nhau 55
1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi lợn là một nghề truyền thống có từ lâu đời ở Việt Nam. Đến
nay phong trào nuôi lợn thịt hướng nạc đã và đang phát triển mạnh mẽ theo
hình thức trang trại ở nhiều địa phương, đã đem lại nguồn thu đáng kể cho
người chăn nuôi và trở thành một ngành chăn nuôi chính chiếm tỷ trọng cao
trong cơ cấu chăn nuôi hiện nay. Để cung cấp lợn giống cho nhu cầu chăn
nuôi của các trang trại và các nông hộ thì việc phát triển đàn lợn nái sinh sản
là việc làm cần thiết.
Chúng ta đã chủ động nhập một số giống lợn cao sản từ nước ngoài để
đầu tư cho những cơ sở chăn nuôi tập trung của Nhà nước nhằm nuôi thích
nghi, chọn lọc để nhân giống, lai cải tạo giống phục vụ cho sản xuất, đó là các
giống lợn: Yorkshire, Landrace, Duroc, Hampshire... Tuy nhiên các giống
lợn này chủ yếu được nhập từ Châu Âu nên khi về Việt Nam với điều kiện
thời tiết khác biệt chúng đòi hỏi một chế độ chăm sóc, quản lý rất cao so
với các giống lợn nội, đặc biệt là đàn lợn nái. Do đó, mặc dù có nhiều ưu
điểm hơn so với các giống lợn nội, lợn nái ngoại chủ yếu vẫn được nuôi
trong các trang trại mà chưa được phổ biến, nhân rộng. Mặt khác, trong
chăn nuôi lợn còn gặp rất nhiều khó khăn nhất là các bệnh sinh sản, trong đó
bệnh Viêm đường sinh dục chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50% (Trần Tiến Dũng,
2004)[6]. Bệnh có ảnh hưởng lớn đến năng suất sinh sản và sức khoẻ của lợn
nái. Nó có thể làm lợn nái chậm động dục lại sau khi cai sữa, thậm chí mất
khả năng sinh sản ở những lần sau, do đó làm giảm số lượng lợn nái sinh sản
và số lượng lợn con sinh ra, gây thiệt hại lớn về kinh tế cho người chăn nuôi.
2
Những vấn đề nêu trên cho thấy để góp phần làm giảm thiệt hại do
bệnh Viêm tử cung gây ra thì việc nghiên cứu tìm ra nguyên nhân và các giải
pháp phòng trị bệnh viêm tử cung ở lợn nái ngoại sinh sản là việc làm cần
thiết, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của
một số yếu tố thú y đến bệnh Viêm tử cung và giải pháp phòng, trị bệnh
Viêm nội mạc tử cung ở lợn nái ngoại sinh sản”
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.2.1. Đánh giá thực trạng bệnh Viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại sinh sản
nuôi tại cơ sở nghiên cứu.
1.2.2. Đánh giá sự ảnh hưởng của một số yếu tố thú y đến bệnh Viêm tử cung ở
lợn nái ngoại.
1.2.3. Thử nghiệm các giải pháp phòng và trị bệnh Viêm nội mạc tử cung ở
lợn nái ngoại, góp phần xây dựng quy trình kỹ thuật trong chăn nuôi lợn nái
sinh sản.
3
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Giới thiệu một số giống lợn nái ngoại được nuôi tại Việt Nam:
Yorkshire, Landrace, Duroc, Hampshire
2.l.1. Lợn Yorkshire
Lợn Yorkshire có nguồn gốc từ Vương Quốc Anh, là một sản phẩm
của quá trình lai tạo giữa giống lợn châu Á và giống lợn châu Âu từ đầu thế
kỷ XIX.
Giống lợn Yorkshire được nhập vào nước ta năm 1964 từ Liên Xô với
tên là Đại Bạch, đây là một giống cho thịt tốt, mông, vai nở nang, hướng kiêm
dụng thiên về nạc. Nhìn chung, chúng có vai trò rất lớn trong việc cải tạo đàn
lợn địa phương của nước ta trong những năm 1970 - 1980.
Năm 1978, nước ta đã nhập giống lợn Yorkshire từ Cu Ba, dòng lợn
này có chiều dài thân hơn hẳn vòng ngực. Đàn lợn nhập từ Cu Ba ngoài tác
dụng cải tiến đàn lợn nội còn góp phần làm tươi máu đàn lợn Yorkshire của
Liên Xô nhập vào nước ta đã lâu mà không có điều kiện thay đổi đực giống.
Đặc điểm ngoại hình
của giống lợn Yorkshire là
toàn thân màu trắng, lông dày,
mềm, thân hình dài, mặt hơi
gãy, tai đứng hơi nghiêng về
phía trước, lưng cong, phần
mông và phần đùi sau rộng,
4
bốn chân tương đối cao và
chắc chắn, có 12-14 vú (Lê
Hồng Mận, 2007)[13].
Hình 2.1. Giống lợn Yorkshire
Yorkshire là giống lợn thành thục sớm, sinh trưởng nhanh. Nuôi 6-7
tháng tuổi đạt 95-100kg, đực trưởng thành nặng 350-380kg, nái trưởng
thành 250-280kg, có tỷ lệ nạc đạt trên 51%, tiêu tốn 3,5 - 4,0kg thức ăn
cho 1 kg tăng trọng.
Khả năng sinh sản của lợn Yorkshire là mỗi năm cho 1,8-2,0
lứa/nái, số con sơ sinh trung bình/ lứa là 11 - 12 con, khối lượng sơ sinh
trung bình là 1,3-1,4kg/con.
Giống lợn Yorkshire có khả năng thích nghi cao trong những điều
kiện khí hậu và nuôi dưỡng khác nhau, nái mắn đẻ, nuôi con khéo và có
chất lượng thịt tốt. Do đó Yorkshire đang được nuôi phổ biến ở nước ta và
được dùng trong lai kinh tế với lợn nội để tạo con lai nuôi thịt đạt khối
lượng giết thịt lớn, chọn lọc một số con nái lai F1 đạt các chỉ tiêu kinh tế
cao để tiếp tục cho lai theo hướng nạc cao (Chu Thị Thơm và cộng sự,
2005)[27].
2.1.2. Giống lợn Landrace
Giống lợn Landrace có thành tích sản xuất như hiện nay là giống
lợn Landrace có nguồn gốc từ Đan Mạch. Đây là một phẩm giống đã
được cải tiến từ hơn 40 năm nay theo hướng sớm thành thục, tăng trọng
nhanh và tỷ lệ nạc cao. Giống lợn Landrace được hình thành từ sự lai
tạo giữa các giống lợn Youtland có nguồn gốc Đức và lợn Yorkshire có
nguồn gốc Anh.
Lợn Landrace được nhập vào Việt Nam năm 1970 từ Cu Ba. Năm
1985-1986 nhập lợn Landrace từ Bỉ và Nhật Bản. Trong điều kiện chăn
5
nuôi của ta nó có khả năng phát triển tốt.
Đặc điểm ngoại hình
của lợn Landrace có màu
lông trắng tuyền, tai to dài
che phủ xuống mặt, mồm
hơi cong, thân dài, lưng
thẳng, sườn tròn, bụng gọn,
phần sau rất phát triển,
mông xuôi thể hiện rõ giống
nạc, bốn chân hơi cao.
Hình 2.2. Giống lợn Landrace
Theo Chu Thị Thơm và cộng sự (2005)[27] lợn Landrace có khả năng
sinh trưởng tốt, nuôi 6 - 7 tháng đạt 100kg, lợn 12 tháng tuổi đạt 145kg, lợn
nái trưởng thành đạt 250 - 300kg. Tỷ lệ nạc cao hơn những giống hiện có, đạt
từ 56-57%. Chi phí 3,0 - 3,5kg thức ăn cho 1kg tăng trọng.
Lợn nái đẻ 10-11 con/lứa, khối lượng sơ sinh trung bình 1,3-1,4 kg/con,
mỗi năm cho 2 lứa/nái. Lợn Landrace được dùng trong lai kinh tế theo hướng lai
ngoại x ngoại, ngoại x nội để nâng cao khối lượng và tỷ lệ thịt nạc cho lợn nuôi
thịt. Trong thực tế sản xuất công thức lai ngoại nội 1/2 Landrace, 1/4 Đại Bạch,
1/4 Móng Cái cho con lai 6 tháng tuổi đạt 100kg với tỷ lệ nạc 18%.
Theo tác giả Lê Hồng Mận (2007)[13] các chỉ tiêu sinh trưởng, sinh sản
của lợn nuôi ở nước ta đều thấp hơn giống gốc từ 10-15%.
2.1.3. Giống lợn Duroc
Là giống lợn hướng nạc- mỡ, xuất xứ từ Mỹ Duroc- Jersey. Là loại lợn dễ
nuôi, sức chịu đựng cao ngay trong điều kiện khí hậu xấu và chăn thả đồng cỏ.
Màu sắc lông da màu vàng nhạt và sẫm. Ngoại hình cân đối, thể chất
vững chắc, mõm thẳng, tai to ngắn cụp che mắt, bốn mũi chân và mõm đen,
6
tầm vóc vừa phải.
Khả năng sinh trưởng
và phẩm chất thịt ở mức trung
bình. Đực giống trưởng thành
250-280kg, nái đạt 200-230kg.
Thích ứng chịu đựng cao với
điều kiện khí hậu khắc nghiệt,
ít nhạy cảm với stress.
Theo Lê Hồng Mận
(2007)[13] năng suất sinh sản
Hình 2.3. Giống lợn Duroc
của giống lợn Duroc vừa phải trên 9 con/ổ, tiết sữa kém. Lợn Duroc được
dùng trong trong lai kinh tế để tạo con lai nuôi thịt đạt tỷ lệ nạc cao, tăng
trọng nhanh.
2.1.4. Giống lợn Hampshire
Là giống hướng nạc, xuất xứ từ Anh
Có tầm vóc trung bình,
lanh lợi, lông da đen, có
khoang trắng quanh vai và
phần trước thân. Thân mình to
dài, tai nhỏ dựng đứng hướng
về hai bên, mặt thẳng và dài,
mông nở và xuôi, chân to khoẻ
và thấp (Chu Thị Thơm và
cộng sự, 2005)[27]. Hình 2.4. Giống lợn Hampshire
Nuôi thịt 143 - 172 ngày đạt 100kg. Thịt tốt, tỷ lệ nạc còn đáp ứng nhu
cầu làm đồ hộp. Chịu kham khổ, thích chăn thả.
7
Theo Lê Hồng Mận (2007)[13] lợn Hampshire nuôi ở Việt Nam sinh
sản không cao, bình quân 8 - 10 con/lứa, mắn đẻ. Trong lai kinh tế lợn
Hampshire chọn làm dòng bố chủ yếu ở các cơ sở giống để cung cấp con đực
cho lai kinh tế nuôi thịt hướng nhiều nạc.
2.2. Đặc điểm sinh lý sinh sản của lợn nái
2.2.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục của lợn nái
Cơ quan sinh dục của lợn cái được chia thành: bộ phận sinh dục bên
ngoài và bộ phận sinh dục bên trong.
Bộ phận sinh dục bên ngoài là bộ phận sinh dục có thể nhìn thấy, sờ
thấy và quan sát được. Bao gồm: âm hộ, âm vật, tiền đình.
Âm hộ (Vulva) hay còn gọi là âm môn, nằm dưới hậu môn và ngăn
cách với nó bởi vùng hồi âm. Bên ngoài có 2 môi đính với nhau ở mép trên và
mép dưới. Trên hai môi của âm hộ có sắc tố đen và nhiều tuyến tiết: tuyến
mồ hôi, tuyến bã.
Nối tiếp với âm hộ là âm vật (Clitoris). Âm vật có cấu tạo như dương
vật nhưng thu nhỏ lại và là tạng cương của đường sinh dục cái, được dính vào
phần trên khớp bán động ngồi, bị bao xung quanh bởi cơ ngồi hổng.
Âm vật được phủ bởi lớp niêm mạc có chứa các đầu mút thần kinh
cảm giác, lớp thể hổng và tổ chức liên kết bao bọc gọi là mạc âm vật.
Giới hạn giữa âm hộ và âm đạo là tiền đình (Vestibulum vaginae sinus
progenitalis). Tiền đình bao gồm:
- Màng trinh là một nếp gấp gồm 2 lá, phía trước thông với âm hộ, phía
sau thông với âm đạo. Màng trinh gồm các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do 2 lá
niêm mạc gấp lại thành một nếp.
8
- Lỗ niệu đạo ở sau và dưới màng trinh.
- Hành tiền đình là 2 tạng cương ở 2 bên lỗ niệu đạo. Cấu tạo giống thể
hổng ở bao dương vật của con đực.
Tiền đình có một số tuyến, các tuyến này xếp theo hàng chéo, hướng
quay về âm vật.
Bộ phận sinh dục bên trong là những bộ phận chỉ quan sát hoặc sờ thấy
được bằng các phương pháp gián tiếp. Bao gồm: âm đạo, tử cung, ống dẫn
trứng và buồng trứng.
Nối tiếp âm hộ là âm đạo (Vagina). Âm đạo là một ống tròn để chứa cơ
quan sinh dục đực khi giao phối, là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá
trình sinh đẻ và là ống thải các chất dịch từ tử cung. Phía trước âm đạo là cổ
tử cung, phía sau là tiền đình, giữa âm đạo và tiền đình có nếp gấp niêm mạc
gọi là màng trinh.
Âm đạo có cấu tạo gồm 3 lớp:
- Lớp liên kết ở ngoài.
- Lớp cơ trơn có cơ dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong. Các lớp cơ âm
đạo liên kết với các lớp cơ ở cổ tử cung.
- Lớp niêm mạc: niêm mạc âm đạo có nhiều tế bào thượng bì, niêm mạc
gấp nếp dọc. Theo Đặng Đình Tín (1986)[31] kích thước âm đạo lợn là 10 - 12cm.
Nối tiếp với âm đạo là tử cung (Uterus). Tử cung nằm trong xoang
chậu, phía trên là trực tràng, phía dưới là bàng quang và niệu đạo trong xoang
chậu, 2 sừng tử cung ở phần trước xoang chậu.
Tử cung có cấu tạo rất phù hợp với chức năng phát triển và dinh dưỡng
của bào thai. Trứng được thụ tinh ở ống dẫn trứng rồi trở về tử cung làm tổ, ở
đây hợp tử lấy chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ thông qua lớp niêm mạc tử cung.
9
Niêm mạc tử cung và dịch tử cung giữ vai trò quan trọng trong quá trình vận
chuyển tinh trùng và trứng, tham gia điều hòa chức năng thể vàng, đảm nhận
sự làm tổ, mang thai và đẻ.
Tử cung lợn thuộc loại tử cung sừng kép gồm: một cổ tử cung, một
thân và hai sừng tử cung.
- Cổ tử cung là phần ngoài cùng của tử cung, nó luôn luôn đóng, chỉ
mở khi nào lợn cái hưng phấn cao độ, lúc sinh đẻ hay khi bị bệnh lý. Cổ tử
cung lợn dài 10 - 18cm, hình trụ, thông với âm đạo. Niêm mạc cổ tử cung có
những u thịt xen kẽ khép lại với nhau theo lối cài răng lược.
- Thân tử cung của lợn dài 3 - 5cm nối giữa cổ tử cung với hai sừng tử
cung.
- Sừng tử cung dài 50 - 1000cm, hình ruột non và là nơi làm tổ của thai.
Vách tử cung gồm 3 lớp từ ngoài vào trong: lớp tương mạc, lớp cơ
trơn, lớp nội mạc.
- Lớp tương mạc: là lớp màng sợi, dai, chắc phủ mặt ngoài tử cung và
nối tiếp vào hệ thống các dây chằng.
- Lớp cơ trơn: gồm cơ vòng rất dày ở trong, cơ dọc mỏng hơn ở ngoài.
Giữa 2 tầng cơ chứa tổ chức liên kết sợi đàn hồi và mạch quản, đặc biệt là
nhiều tĩnh mạch lớn. Ngoài ra, các bó sợi cơ trơn đan vào nhau theo mọi
hướng làm thành mạng vừa dày vừa chắc. Cơ trơn là lớp cơ dày và khoẻ nhất
trong cơ thể. Do vậy, nó có đặc tính co thắt (Đặng Đình Tín, 1986)[31].
Theo Trần Thị Dân (2004)[3] trương lực co càng cao khi có nhiều
Oestrogene trong máu và trương lực co giảm khi có nhiều Progesterone trong
máu. Vai trò của cơ tử cung là góp phần cho sự di chuyển của tinh trùng và
chất nhày trong tử cung, đồng thời đẩy thai ra ngoài khi sinh đẻ. Khi mang
thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ
vậy phôi thai có thể bám chắc vào tử cung.
- Lớp nội mạc tử cung: là lớp niêm mạc màu hồng được phủ bởi một
10
lớp tế bào biểu mô hình trụ, xen kẽ có các ống đổ của các tuyến nhày tử cung.
Nhiều tế bào biểu mô kéo dài thành lông rung, khi lông rung chuyển động thì
gạt những chất nhày tiết ra về phía cổ tử cung. Trên niêm mạc có các nếp gấp.
Lớp nội mạc tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp
phôi thai phát triển và duy trì sự sống của tinh trùng trong thời gian di chuyển
đến ống dẫn trứng. Dưới ảnh hưởng của Oestrogene, các tuyến tử cung phát
triển từ lớp màng nhày, xâm nhập vào lớp dưới màng nhày và cuộn lại. Tuy
nhiên, các tuyến chỉ đạt được khả năng phân tiết tối đa khi có tác dụng của
Progesterone. Sự phân tiết của tuyến tử cung thay đổi tuỳ theo giai đoạn của
chu kỳ lên giống.
Thông với sừng tử cung là ống dẫn trứng (Oviductus) hay còn gọi là vòi
Fallop. Chức năng của ống dẫn trứng là vận chuyển trứng và tinh trùng đến nơi
thụ tinh (1/3 phía trên ống dẫn trứng), tiết các chất để nuôi dưỡng tế bào trứng
và phôi trong vài ngày trước khi đi vào tử cung, duy trì sự sống và gia tăng khả
năng thụ tinh của tinh trùng. Thời gian di chuyển của tế bào trứng trong ống
dẫn trứng từ 3-10 ngày. Trên đường di hành trong ống dẫn trứng, tế bào trứng
có thể đứng lại ở các đoạn khác nhau do những chỗ hẹp của ống dẫn trứng.
Cấu tạo của ống dẫn trứng gồm có phễu, phần rộng và phần eo. Phễu
mở, có những sợi lông rung để tiếp nhận tế bào trứng và gia tăng diện tích
tiếp xúc với buồng trứng khi xuất noãn. Nối tiếp với phễu là phần rộng,
phần rộng chiếm khoảng 1/2 chiều dài của ống dẫn trứng, đường kính
tương đối lớn và mặt trong có nhiều nếp gấp với tế bào biểu mô có lông
nhỏ. Phần eo nối tiếp sừng tử cung, nó có thành dày hơn phần rộng và ít
nếp gấp hơn. Ở lợn, sự co thắt của nơi tiếp giáp eo - tử cung tạo thành cái
cản đối với tinh trùng để không có quá nhiều tinh trùng đi đến phần rộng,
nhờ đó tránh được hiện tượng nhiều tinh trùng xâm nhập vào noãn.
Vách của ống dẫn trứng gồm ba lớp: lớp liên kết sợi ở ngoài, lớp cơ
11
trơn ở giữa, lớp niêm mạc với những tế bào thượng bì có lông thịt bên trong.
Tế bào trứng rơi vào phễu của ống dẫn trứng được di chuyển gần về tử cung
nhờ những nhu động của lớp cơ trơn và sự vận động nhịp nhàng của lông thịt
trên tầng thượng bì.
Sát với đầu trước của ống dẫn trứng là buồng trứng (Ovarium). Buồng
trứng của lợn gồm một đôi treo ở cạnh trước dây chằng rộng, nằm trong
xoang chậu. Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần lớn có hình
bầu dục hoặc hình ovan dẹt, không có lõm rụng trứng.
Buồng trứng được bọc ngoài bởi một lớp màng liên kết sợi chắc. Bên
trong có hai phần: phần vỏ và phần tủy. Ở trong cả hai phần đều phát triển
một thứ mô liên kết sợi xốp tạo nên một loại chất đệm (stoma ovarii). Ở phần
tủy thì mô xốp hơn vì giàu mạch máu và mạch bạch huyết. Phần vỏ đặc biệt
quan trọng đối với chức năng sinh dục. Quá trình tế bào trứng chín xảy ra tại
phần này (Phạm Thị Xuân Vân, 1982)[33].
Trên buồng trứng có từ 70.000 - 100.000 noãn bào ở các giai đoạn khác
nhau, tầng ngoài cùng là những noãn bào sơ cấp phân bố tương đối đều, tầng
trong là những noãn bào thứ cấp đang sinh trưởng. Khi noãn bào chín là quá trình
sinh trưởng đã hoàn thành, noãn bào sẽ nổi lên bề mặt buồng trứng, đến một giai
đoạn nhất định sẽ vỡ ra, tế bào trứng theo dịch noãn bào đi vào loa kèn rồi đi vào
ống dẫn trứng. Nơi noãn bào vỡ sẽ hình thành thể vàng (Khuất Văn Dũng,
2005)[7].
12
1- KÕt trµng xuèng
2- Buång trøng
3- Sõng tö cung
4- D©y ch»ng réng
5- Bãng ®¸i
5’- NiÖu qu¶n
6- Tói mï d−íi niÖu
qu¶n
7- ¢m hé;
8- Trùc trµng
9- Cæ tö cung.
Hình 2.5. Cấu tạo cơ quan sinh dục của lợn cái
2.2.2. Sinh lý quá trình thụ tinh
Thụ tinh là một quá trình sinh lý kết hợp giữa tế bào trứng và tinh
trùng, kết quả tạo nên một cơ thể mới mang đặc điểm di truyền của cả bố và
mẹ.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5] thụ tinh trực tiếp là quá trình
giao phối giữa gia súc đực và gia súc cái, tinh dịch của con đực đi vào đường sinh
dục con cái. Thụ tinh nhân tạo là trường hợp dùng tinh dịch của con đực đã pha
loãng bơm vào đường sinh dục con cái để tinh trùng kết hợp với trứng tạo thành
hợp tử.
Khi gia súc cái động dục cao độ, được gặp gia súc đực thì quá trình thụ
tinh không đơn giản là sự kết hợp giữa tinh trùng và trứng mà là sự phối hợp,
chọn lọc các chất trong tế bào đó, xảy ra quá trình đồng hoá và dị hoá, ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau để kết quả tạo ra một hợp tử, khác cả hai tế bào trước
cả về số lượng và chất lượng. Sự phối hợp này có tính chất chọn lọc cao độ
13
theo loài và theo giống, mà vai trò cấu tạo và tính chất của các gen có ảnh
hưởng quyết định trong việc cấu tạo và phát triển của thai, việc di truyền đặc
tính của bố mẹ và giống loài đó. Do đó, trong giao phối tự nhiên sẽ xảy ra
những điều kiện bất lợi cho sự phát triển của thai hoặc gây ra những bệnh tật
cho gia súc cái. Giao phối tự nhiên có một ưu điểm là đúng được thời điểm
động dục cao độ của con cái, quá trình thụ thai được đảm bảo chắc chắn.
Ngoài phương pháp giao phối tự nhiên của loài gia súc, người ta còn áp
dụng phương pháp thụ tinh nhân tạo để giải quyết một số nhược điểm của gia
súc trong khi giao phối tự nhiên.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5] trong chăn nuôi, phương
pháp thụ tinh nhân tạo đã cải tạo được giống gia súc, giảm số đầu giống vật
nuôi, nâng cao hiệu suất sử dụng đực giống, có thể thương mại hoá tinh
dịch, bảo tồn quỹ gen, phòng các bệnh truyền lây qua tiếp xúc. Đây là biện
pháp kỹ thuật hữu hiệu để thúc đẩy nghành chăn nuôi phát triển, nó có
những lợi ích kinh tế kỹ thuật to lớn, tuy nhiên nó là con dao hai lưỡi nếu
công tác thú y kém.
2.2.3. Sinh lý quá trình mang thai
Mang thai là một hiện tượng sinh lý đặc biệt của cơ thể cái, nó được bắt
đầu từ khi thụ tinh cho đến khi sinh đẻ xong.
Sau khi thụ tinh, hợp tử làm tổ ở 2 sừng tử cung và phát triển thành
thai. Thời gian mang thai của lợn khoảng 110-118 ngày, trung bình là 114
ngày [5]. Cùng với quá trình phát triển của bào thai, nhau thai, thể vàng, cơ
quan sinh dục nói riêng và toàn bộ cơ thể mẹ nói chung xuất hiện nhiều biến
đổi sinh lý khác nhau.
Cùng với quá trình phát triển của bào thai, nhau thai, thể vàng, cơ quan
sinh dục nói riêng và toàn bộ cơ thể mẹ nói chung xuất hiện nhiều biến đổi
sinh lý khác nhau. Những biến đổi đó là điều kiện cần thiết để bào thai được
14
hình thành phát triển trong tử cung và quá trình sinh đẻ được bình thường.
Khi gia súc có thai, kích tố của thể vàng và nhau thai làm thay đổi cơ
năng hoạt động của một số tuyến nội tiết khác. Trong quá trình bào thai phát
triển, nhất là giai đoạn sau, nếu khẩu phần ăn của mẹ không đảm bảo đầy đủ
đạm, khoáng, nguyên tố vi lượng, vitamin thì không những bào thai phát triển
không bình thường mà sức khoẻ con mẹ nói chung cũng giảm sút nhiều (Trần
Tiến Dũng và cộng sự, 2002)[5].
Khi gia súc có thai, toàn bộ tử cung xuất hiện những thay đổi về cấu
tạo, tính chất, vị trí, khối lượng, thể tích... Dây chằng tử cung được dài ra nên
đầu mút sừng tử cung và buồng trứng được đưa về phía trước và phía dưới.
Hệ tuần hoàn ở cơ quan sinh dục được tăng cường, lượng máu đến cung cấp
cho niêm mạc tử cung rất nhiều nên niêm mạc được phát triển và dày lên. Các
tuyến tử cung cũng được phát triển mạnh và tăng cường tiết niêm dịch. Niêm
mạc tử cung hình thành nhau mẹ. Khối lượng tử cung khi có thai gấp 5 - 20
lần so với khi không có thai, kích thước và thể tích tăng gấp hàng trăm lần.
Mỗi một tế bào được phát triển dài thêm 7 - 11 lần và dày hơn 3 - 5 lần so với
khi không có thai. Ở lợn mức độ phát triển và tăng sinh của tử cung phụ thuộc
vào số lượng của bào thai và thường là phát triển ở cả hai sừng (Trần Tiến
Dũng và cộng sự 2002)[5].
Cổ tử cung có vai trò quan trọng trong bảo vệ bào thai phát triển bình
thường. Cổ tử cung được khép kín hoàn toàn, niêm mạc và các nếp nhăn phát
triển dày lên. Những tế bào thượng bì đơn tiết tăng cường tiết dịch đặc, có tác
dụng đóng nút cổ tử cung. Niêm dịch này lúc đầu có màu trắng trong, về sau
chuyển thành màu vàng nâu, số lượng và độ dính cũng được tăng dần. Nó có
phản ứng toan yếu. Ngoài ra, trong thời gian có thai, ống dẫn trứng hầu như
không được phát triển to lên, nó có tính chất đặc biệt là thay đổi về mặt cấu
tạo tổ chức học, các nếp nhăn niêm mạc được co nhỏ lại, niêm mạc xung
huyết và lòng ống được mở rộng.
15
2.2.4. Sinh lý quá trình đẻ
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5] gia súc cái mang thai trong
một thời gian nhất định tùy từng loài gia súc, khi bào thai phát triển đầy đủ,
dưới tác động của hệ thống thần kinh - thể dịch, con mẹ sẽ xuất hiện những cơn
rặn để đẩy bào thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài, quá trình
này gọi là quá trình sinh đẻ.
Quá trình sinh đẻ của gia súc cái do co bóp của tử cung, cơ thành bụng,
sức rặn toàn thân đẩy thai, màng nhau thai cùng với nước thai ra ngoài. Qúa
trình sinh đẻ được chia ra 3 thời kỳ:
Thời kỳ mở cổ tử cung: thời kỳ này bắt đầu từ khi tử cung có cơn co bóp
đầu tiên đến khi cổ tử cung mở ra hoàn toàn. Ở lợn nái, thời kỳ mở cổ tử cung kéo
dài từ 3-4 giờ, đối với lợn nái đẻ lứa đầu thì thời kỳ mở cổ tử cung ngắn hơn.
Thời kỳ đẻ: bắt đầu từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn và kết thúc khi thai
lọt ra ngoài. Thời gian đẻ của lợn phụ thuộc vào khoảng cách các thai ra và số
lượng thai trong tử cung gia súc mẹ.
Thời kỳ sổ nhau: sau khi thai lọt ra khỏi đường sinh dục gia súc mẹ một
thời gian, con mẹ trở nên yên tĩnh, nhưng tử cung vẫn co bóp và tiếp tục những
cơn rặn, mỗi lần co bóp từ 1,5 - 2,0 phút, thời gian giữa 2 lần co bóp là 2 phút,
nhưng cường độ yếu hơn. Sau khi sổ thai khoảng 2 - 3 giờ tử cung co nhỏ lại,
thành tử cung dày, trên bề mặt có nhiều nếp nhăn, bên trong tử cung có nhiều
núm nhau. Trong thời gian này tử cung tiếp tục co bóp và thu nhỏ lại dần về thể
tích, nhưng màng niệu và màng nhung mao thì không co lại được nên tử cung
đẩy ra ngoài. Trong quá trình đẩy màng nhau thai ra, do đặc tính của tử cung co
bóp từ mút sừng tử cung cho đến thân tử cung, nên màng nhau thai bong ra sẽ
được lộn trái, phần ở mút sừng tử cung ra trước sau đó bong dần xuống sừng tử
cung, thân tử cung và ra ngoài. Sau khi thai ra hết toàn bộ khoảng 10-15 phút
16
nhau thai mới ra.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5] sau khi đẻ một thời gian
niêm mạc tử cung có hiện tượng tái sinh. Trong quá trình tái sinh đó núm nhau
mẹ biến đổi và tróc ra. Những mạch máu của núm nhau mẹ bị vỡ, cùng với
bạch cầu và một lượng lớn nước của thai còn đọng lại trong tử cung. Tất cả các
thứ đó được tống ra ngoài và được gọi là sản dịch.
Trong vòng vài ngày đầu sau khi đẻ, sản dịch chảy ra có màu hồng rồi
chuyển sang vàng nhạt sau cùng là trong suốt, sản dịch hết sau khi đẻ 2-3 ngày.
Lúc đầu sản dịch chảy ra không có vi khuẩn, về sau sản dịch chảy ra có vi
khuẩn xâm nhập nhưng cơ thể mẹ không có biến đổi, nhưng nếu sản dịch chảy
ra kéo dài thì tử cung sẽ bị bệnh.
Sau khi đẻ thể tích tử cung nhỏ lại, thành tử cung dày lên, sự biến đổi
này là do các sợi cơ co lại, các tổ chức liên kết biến đổi.
Hai sừng tử cung buông thõng vào xoang bụng, độ cong của tử cung
cũng không rõ như gia súc đẻ ít lần hoặc chưa đẻ lần nào. Do đó những gia súc
già yếu, đẻ nhiều lần thì tử cung co lại rất kém.
2.3. Bệnh Viêm tử cung ở lợn nái (Metritis)
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5] Viêm tử cung là một quá
trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sau khi đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế
bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung, gây rối loạn sinh sản và làm ảnh
hưởng lớn đến khả năng sinh sản của lợn nái.
Theo Đào Trọng Đạt và cộng sự (2000)[8] bệnh Viêm tử cung ở lợn nái
thường do các nguyên nhân sau:
- Công tác phối giống không đúng kỹ thu._.ật, nhất là phối giống bằng
phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây sát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh
không được vô trùng khi phối giống có thể đưa vi khuẩn từ ngoài vào tử cung lợn
17
nái gây viêm.
- Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh Viêm bao dương vật hoặc
mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền
sang cho lợn khoẻ.
- Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử
cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.
- Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử
cung.
- Do kế phát từ một số bệnh Truyền nhiễm như: Sẩy thai truyền nhiễm, Phó
thương hàn, Lao...
- Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ
không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở ra, tạo điều kiện cho vi sinh vật
xâm nhập vào gây viêm.
Ngoài các nguyên nhân kể trên viêm tử cung còn có thể là biến chứng
nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động dục
(vì lúc đó cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo đường máu và
viêm tử cung là một trong những triệu chứng lâm sàng chung (Lê Văn Năm và
cộng sự, 1997)[15].
Nhiễm khuẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một
cơ quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa
phối nhưng đã bị viêm tử cung.
Theo Đặng Đình Tín (1985)[30] bệnh Viêm tử cung được chia làm 3
thể: Viêm nội mạc tử cung (Endometritis), Viêm cơ tử cung (Myometritis
puerperalis), Viêm tương mạc tử cung (Perimetritis puerperalis).
Theo Nguyễn Văn Thanh (1999)[20] viêm nội mạc tử cung là viêm lớp
niêm mạc của tử cung, đây là một trong các nguyên nhân làm giảm khả năng
18
sinh sản của gia súc cái, nó cũng là thể bệnh phổ biến và chiếm tỷ lệ cao trong
các thể bệnh của Viêm tử cung.
Viêm nội mạc tử cung thường xảy ra sau khi gia súc sinh đẻ, nhất là
trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp, làm niêm mạc tử cung bị tổn thương,
tiếp đó các vi khuẩn: Streptococcus, Staphylococcus, E. coli, Salmonella, C.
pyogenes, Bruccella, roi trùng Trichomonas foetus... xâm nhập và tác động
lên lớp niêm mạc gây viêm (Settergreen I., 1986)[38-a].
Theo Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000)[16] bệnh Viêm nội
mạc tử cung có thể chia 2 loại:
- Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ (Endomestritis
puerperalis catarrhalis purulenta acuta): chỉ gây tổn thương ở niêm mạc
tử cung.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5] lợn bị bệnh này thân nhiệt
hơi cao, ăn kém. Con vật có trạng thái đau đớn nhẹ, có khi con vật cong lưng
rặn, tỏ vẻ không yên tĩnh. Từ âm hộ chảy ra hỗn dịch, niêm dịch lẫn với dịch
viêm, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức chết. Khi con vật nằm xuống, dịch
viêm thải ra ngày càng nhiều hơn Xung quanh âm môn, gốc đuôi, hai bên
mông dính nhiều dịch viêm, có khi nó khô lại thành từng đám vảy màu trắng
xám. Kiểm tra qua âm đạo, niêm dịch và dịch rỉ viêm thải ra nhiều. Cổ tử
cung hơi mở và có mủ chảy qua cổ tử cung. Niêm mạc âm đạo bình thường.
Kiểm tra qua trực tràng có thể phát hiện một hoặc cả hai sừng tử cung
sưng to và không cân xứng nhau. Thành tử cung dày và mềm hơn bình
thường. Khi kích thích nhẹ lên sừng tử cung thì mức độ phản ứng co nhỏ lại
của chúng yếu ớt. Trường hợp trong tử cung tích lại nhiều dịch viêm và mủ
19
thì có thể phát hiện được trạng thái chuyển động sóng.
Nếu điều trị kịp thời và tích cực, sau hai tuần bệnh có thể khỏi hẳn.
- Viêm nội mạc tử cung thể màng giả: tổ chức niêm mạc đã bị hoại tử, tổn
thương lan sâu xuống dưới tầng cơ của tử cung và chuyển thành viêm hoại tử.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5] ở thể viêm này, niêm mạc tử
cung thường bị hoại tử. Những vết thương đã ăn sâu vào tầng cơ của tử cung và
chuyển thành hoại tử. Lợn nái mắc bệnh này thường xuất hiện triệu chứng toàn
thân rõ: thân nhiệt tăng cao, ăn uống giảm, kế phát viêm vú, con vật đau đớn,
luôn rặn, lưng và đuôi cong lên. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra ngoài hỗn
dịch: dịch viêm, máu, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức hoại tử, niêm dịch…
Theo Settergreen I. (1986-b)[39] viêm cơ tử cung thường kế phát từ
viêm nội mạc tử cung thể màng giả. Niêm mạc tử cung bị thấm dịch thẩm
xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tổ chức làm niêm mạc bị phân
giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba quản, từ đó làm lớp cơ
và một ít lớp tương mạc của tử cung bị hoại tử. Nếu bệnh nặng, can thiệp
chậm có thể dẫn tới nhiễm trùng toàn thân, huyết nhiễm trùng hoặc huyết
nhiễm mủ. Có khi do lớp cơ và lớp tương mạc của tử cung bị phân giải mà tử
cung bị thủng hoặc tử cung bị hoại tử từng đám to.
Lợn nái bị bệnh này thường biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân
nhiệt tăng cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn uống giảm, lượng sữa giảm hoặc mất hẳn.
Mép âm đạo tím thẫm, niêm mạc âm đạo khô, nóng, màu đỏ thẫm. Gia súc
biểu hiện trạng thái đau đớn, rặn liên tục. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra
ngoài hỗn dịch màu đỏ nâu, lợn cợn mủ và những mảnh tổ chức thối rữa nên có
mùi tanh, thối. Con vật thường kế phát viêm vú, có khi viêm phúc mạc.
20
Kiểm tra qua âm đạo bằng mỏ vịt thấy cổ tử cung mở, hỗn dịch càng chảy ra
ngoài âm đạo nhiều hơn, phản xạ đau của con vật càng rõ hơn. Khám qua trực tràng thì
tử cung to hơn bình thường, hai sừng tử cung to nhỏ không đều nhau, thành tử cung
dày và cứng. Khi kích thích lên tử cung, con vật rất mẫn cảm, đau nên càng rặn mạnh
hơn, từ tử cung thải ra nhiều hỗn dịch bẩn.
Thể viêm này thường ảnh hưởng đến quá trình thụ thai và sinh đẻ lần sau. Có
trường hợp điều trị khỏi nhưng gia súc vô sinh.
Theo Arthur G.H. (1964)[34], Đặng Đình Tín (1985)[30] viêm tương mạc tử
cung thường kế phát từ viêm cơ tử cung. Thể viêm này thường cấp tính cục bộ, toàn
thân xuất hiện những triệu chứng điển hình và nặng. Lúc đầu lớp tương mạc tử cung có
màu hồng, sau chuyển sang đỏ sẫm, sần sùi mất tính trơn bóng. Sau đó các tế bào bị
hoại tử và bong ra, dịch thẩm xuất tăng tiết. Nếu điều trị không kịp thời thì bệnh thường
trở thành thể mãn tính, thành ngoài tử cung thường dính với các tổ chức xung quanh, vị
trí các bộ phận của cơ quan sinh dục bị thay đổi, quá trình thụ tinh và sinh đẻ lần sau
gặp nhiều khó khăn, có thể dẫn đến tình trạng vô sinh (Trần Tiến Dũng và cộng sự,
2002)[5].
Xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì bệnh Viêm tử cung thường biểu hiện vào
lúc đẻ và thời kì tiền động đực, vì đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể
chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định, từ vài ml cho tới 200 ml hoặc hơn nữa.
Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám
hoặc vàng, đặc như kem, có thể có màu máu cá. Người ta thấy rằng thời kì sau sinh đẻ
hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính, viêm tử cung mãn tính thường gặp trong thời kì
cho sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc tử
cung.
21
Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có
những mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất
kết tinh của nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm
hộ lợn nái còn có thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra.
Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt, vì vậy nếu có
mủ chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ở thời kỳ động
đực thì có thể bị nhầm lẫn.(Đặng Công Trung, 2007)[32]
Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương
đối. Với một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm
tra mủ nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu
sinh dục. Mặt khác, nên kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái
để chẩn đoán cho chính xác.
Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức
độ ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối
thiểu hậu quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi
thể viêm từ đó đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều
trị cao nhất, thời gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất.
Để chẩn đoán, người ta dựa vào những triệu chứng điển hình ở cục
bộ cơ quan sinh dục và triệu chứng toàn thân. Có thể dựa vào các chỉ tiêu
ở bảng sau:
Bảng 2.1. Chẩn đoán phân biệt các thể Viêm tử cung
22
Các thể viêm
Triệu chứng
Viêm nội mạc
tử cung
Viêm cơ
tử cung
Viêm tương
mạc
tử cung
Sốt Sốt nhẹ Sốt cao Sốt rất cao
Màu Trắng xám, trắng sữa Hồng, nâu đỏ Nâu rỉ sắt
Dịch viêm
Mùi Tanh Tanh thối Thối khắm
Phản ứng đau Đau nhẹ Đau rõ Đau rất rõ
Phản ứng co cơ tử cung Giảm Rất yếu Mất hẳn
Phản xạ ăn
Bỏ ăn một phần hoặc
hoàn toàn
Bỏ ăn hoàn
toàn
Bỏ ăn hoàn toàn
Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục
của lợn nái, nếu ở tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng rất
lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của lợn con.
Theo các tác giả Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5], Trần Thị Dân
(2004)[3] khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau:
- Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sẩy thai:
Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt
của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám
chặt vào tử cung.
Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết
nhiều Prostaglandin F2α (PGF2α ), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng
bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc
thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể
vàng bị phá huỷ, không tiết Progesterone nữa, do đó hàm lượng Progesterone trong
máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái có chửa
23
dễ bị sẩy thai.
- Lợn mẹ bị viêm tử cung, bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu:
Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung
để giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng
Progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử
cung giảm, do đó bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh
dưỡng từ mẹ nên phát triển kém hoặc chết lưu.
- Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn nên lợn con trong giai đoạn
theo mẹ thường bị tiêu chảy.
Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt vi
khuẩn E. coli, nội độc tố của vi khuẩn này làm ức chế sự phân tiết kích tố tạo sữa
Prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm, thành
phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc.
- Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại:
Nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể vàng
vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết Progesterone.
Progesterone ức chế thuỳ trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát
triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại và
không thải trứng được.
Ảnh hưởng rõ nhất trên lâm sàng mà người chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận
thấy ở lợn bị viêm tử cung lúc sinh đẻ là: chảy mủ ở âm hộ, sốt, bỏ ăn. Mặt khác,
các quá trình bệnh lý xảy ra lúc sinh đẻ ảnh hưởng rất lớn tới năng suất sinh sản của
lợn nái sau này. Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau
khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là
nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên
24
nhân dẫn đến hội chứng M.M.A, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc
biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động
của buồng trứng.
Qua đó cho thấy, hậu quả của viêm tử cung là rất lớn, để giảm tỷ lệ mắc
bệnh, người chăn nuôi phải có những hiểu biết nhất định về bệnh từ đó tìm ra biện
pháp để phòng và điều trị hiệu quả.
2.4. Một số vi khuẩn thường gặp ở tử cung của lợn
Bình thường cổ tử cung luôn đóng và ngăn chặn các quá trình nhiễm trùng từ
bên ngoài vào cổ tử cung. Khi gia súc đẻ hoặc bị viêm đường sinh dục thì cổ tử
cung thường mở. Như vậy, các vi khuẩn từ ngoài sẽ xâm nhập vào đường sinh dục
và trong tử cung lợn lúc đó thường có mặt của các loại vi khuẩn: Staphylococcus,
Streptococcus, E. coli, Salmonella,...
2.4.1. Staphylococcus
Là loại cầu khuẩn Gram(+), đường kính từ 0,7 -1,0µ, không sinh nha bào và
thường không có vỏ, không có lông, không di động. Trong bệnh phẩm, tụ cầu
thường xếp thành từng đôi, chụm lại từng đám nhỏ hình chùm nho. Môi trường
lỏng các vi khuẩn đứng riêng lẻ thành từng đám nhỏ hoặc từng chuỗi ngắn (Nguyễn
Như Thanh và cộng sự, 1997 )[19].
Staphylococcus là loại hiếu khí tuỳ tiện, nhiệt độ thích hợp 32-37oC, pH thích
hợp từ 7,2 - 7,6.
- Trong môi trường nước thịt: Sau khi nuôi cấy 5-6 giờ vi khuẩn đã làm đục
môi trường, sau 24giờ môi trường đục rõ hơn, lắng cặn nhiều, không có màng.
- Trong môi trường thạch thường: sau khi cấy 24 giờ, vi khuẩn hình thành
khuẩn lạc tương đối to dạng S (Smouth) mặt khuẩn lạc hơi ướt, bờ đều nhẵn, mặt
lồi đường kính từ 2 - 4 mm. Tuỳ vào màu sắc khuẩn lạc mà người ta chia ra các
loại sau:
25
+ Tụ cầu có khuẩn lạc màu vàng thẫm (Staphylococcus aureus) có khả
năng gây bệnh cho động vật. Màu vàng thẫm là do sự biến màu của chất
Caroten. Màu vàng thẫm thấy rõ nhất trong môi trường có chứa tinh bột hoặc
acid béo bay hơi (Nguyễn Như Thanh và cộng sự, 1997 )[19].
+ Tụ cầu trắng (Staphylococcus albus) và tụ cầu vàng chanh
(Staphylococcus citreus) không có độc lực và không có khả năng gây bệnh.
- Trong môi trường thạch máu: Staphyloccus aureus gây dung huyết
mạnh do có men Haemolysin, với vòng dung huyết kép gồm phần dung huyết
hoàn toàn ở trong và vòng dung huyết một phần ở phía ngoài trên thạch máu.
- Trong môi trường thạch Sapman: là môi trường dùng để phân lập, xác
định độc lực của tụ cầu. Nếu tụ cầu có khả năng lên men đường Mannit sinh
ra acid làm pH thay đổi (pH = 6,8) môi trường chuyển từ màu hồng sang mầu
vàng. Tụ cầu không gây bệnh, không lên men đường mannit, môi trường giữ
nguyên màu hồng.
- Trong môi trường Gelatin: vi khuẩn có men gelatilaza làm tan chảy
gelatin
Tụ cầu có sức đề kháng kém với nhiệt độ và hoá chất, ở 700C tụ cầu chết
trong 1 giờ, ở 800C chết trong 10 phút, với 1000C chết trong vòng vài phút, acid
phênic 3% - 5% diệt vi khuẩn trong 3 - 5 phút, Focmol 1% diệt vi khuẩn trong 1
giờ.
2.4.2. Streptococcus
Streptococcus là những vi khuẩn hình cầu hoặc hình bầu dục, đường kính
khoảng 1µ, đôi khi có vỏ bọc, bắt màu Gram (+), không di động.
Vi khuẩn đứng thành chuỗi dài, chiều dài của mỗi chuỗi từ 2 - 12 đơn
vị hoặc hơn tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường (Nguyễn Như Thanh và cộng
sự, 1997 )[19].
26
Vi khuẩn thích hợp ở môi trường có nhiệt độ 370C và pH = 7,2 - 7,6,
sống hiếu khí tuỳ tiện.
- Trong môi trường nước thịt: vi khuẩn hình thành hạt hoặc sợi bông rồi
lắng xuống đáy ống. Sau 24 giờ nuôi cấy, môi trường trong, đáy ống có cặn.
- Trong môi trường thạch thường: khuẩn lạc dạng S, tròn, lồi, bóng, hơi
xám. Khi làm tiêu bản liên cầu xếp thành chuỗi ngắn.
- Trong môi trường thạch máu: khuẩn lạc có đường kính khoảng 1mm,
gây dung huyết bởi các yếu tố:
+ Dung huyết dạng (α): độc lực không cao.
+ Dung huyết dạng (β): độc lực cao.
+ Dung huyết dạng (γ): không có khả năng gây bệnh.
Vi khuẩn Streptococcus đề kháng thấp với nhiệt độ và hoá chất: ở 700C vi
khuẩn bị diệt trong 30 - 40 phút, ở 1000C bị diệt trong 1 phút, các chất sát trùng
cũng dễ tiêu diệt vi khuẩn.
2.4.3. Salmonella
Vi khuẩn có kích thước 0,4 - 0,6 x 1 - 3µ không có nha bào và giáp mô,
bắt màu Gram (-). Đa số các loài Salmonella đều có khả năng di động mạnh.
Khi nhuộm vi khuẩn bắt màu toàn thân hoặc hơi đậm ở hai đầu (Nguyễn Như
Thanh và cộng sự, 1997 )[19].
Là vi khuẩn hiếu khí hay yếm khí tuỳ tiện, nhiệt độ thích hợp 370C, pH
= 7,2 - 7,6.
- Trong môi trường nước thịt: ở 370C sau 24 giờ, vi khuẩn làm đục môi
truờng, nuôi lâu có lắng cặn, bề mặt có màng mỏng, lắc có vẩn mây, mùi tanh.
- Trong môi trường thạch thường: ở 370C sau 24 giờ, mọc thành khuẩn lạc
tròn, trong, màu sáng hoặc xám, nhẵn bóng, hơi lồi ở giữa, đường kính 1,0 -
1,5mm.
- Trong môi trường Brilliant green agar: khuẩn lạc dạng S màu đỏ.
27
Bị diệt ở 600C sau 1 giờ, ở 700C sau 20 phút, dung dịch NaOH 4%,
HgCl2 1%, Formon 2% tiêu diệt sau 20 phút.
2.4.4. Eschirichia coli (E. coli)
E. coli là trực khuẩn hình gậy kích thước 2 - 3 x 0,6µ. Trong cơ thể có
hình cầu trực khuẩn đứng riêng lẻ, đôi khi xếp thành chuỗi ngắn. Phần lớn các
E. coli đều có lông, có khả năng di động, vi khuẩn E. coli không sinh nha bào,
có thể có giáp mô, bắt màu Gram (-) (Nguyễn Như Thanh và cộng sự,
1997)[19].
E. coli là trực khuẩn yếm khí hoặc hiếu khí tuỳ tiện, nhiệt độ thích hợp
370C, pH = 7,2 - 7,4.
- Trong môi trường nước thịt: làm đục môi truờng, có cặn màu tro, đôi
khi có màng màu xám nhạt, mùi phân thối.
- Trong môi trường thạch thường: nuôi cấy sau 24 giờ khuẩn lạc tròn,
uớt không trong suốt, màu tro, hơi lồi, đường kính 2 - 3mm.
- Trong môi trường Macconkey: khuẩn lạc dạng S màu đỏ.
- Trong môi trường Brilliant green agar: khuẩn lạc dạng S có màu
vàng chanh.
Bị diệt ở 600C trong vòng 15 - 30 phút, HgCl2 1%, Formon 2%, acid
Phenic diệt vi khuẩn sau 5 phút, ngoài môi trường các chủng độc có thể tồn tại tới
4 tháng.
2.5. Những hiểu biết cơ bản về thuốc kháng sinh trong phòng và điều trị
bệnh Sinh sản
Kháng sinh là thuật ngữ Việt Nam, danh pháp quốc tế là Antibiotic. Năm
1942, Waksman, người tìm ra Streptomycine đã định nghĩa: “Một chất kháng sinh
hay một hợp chất có tính kháng sinh là do các vi sinh vật sản xuất ra có khả năng
ức chế sự phát triển hoặc tiêu diệt vi khuẩn khác”.
28
Năm 1957, Turpin Velu định nghĩa: “Hợp chất do một cơ thể sống tạo ra
hoặc chất tổng hợp có hệ số hoá học trị liệu cao, có tác dụng điều trị đặc hiệu với
liều rất thấp do ức chế một số quá trình sống của virus, vi sinh vật và ngay cả một
số tế bào của các cơ thể đa bào”.
Ngày nay kháng sinh được định nghĩa rộng hơn: “Kháng sinh là chất do vi
nấm hoặc do vi khuẩn tạo ra, hoặc bán tổng hợp, có khi là chất tổng hợp có tác
dụng điều trị đặc hiệu với liều rất thấp do ức chế một số quá trình sống của vi sinh
vật”. (Lê Thị Ngọc Diệp, 1999)[4], (Hoàng Tích Huyền và cộng sự, 2001)[11].
Để giúp cho việc định hướng lựa chọn kháng sinh có hiệu quả trong
điều trị, các nhà khoa học đã phân loại kháng sinh trên cơ sở: phân loại theo
nguồn gốc, theo hoạt phổ kháng khuẩn, theo mức độ tác dụng, theo cấu trúc
hoá học. Trong đó cách phân loại theo cấu trúc hoá học được sử dụng rộng rãi
nhất vì hoạt phổ, mức độ, cơ chế tác dụng và cấu trúc hoá học gắn bó chặt chẽ
với nhau. (Hoàng Tích Huyền, 1997)[10], (Lê Thị Ngọc Diệp, 1999)[4]. Với
cơ sở này, kháng sinh được phân làm các nhóm sau:
- Nhóm β-lactamin: trong cấu trúc hoá học của nhóm này có một liên kết
β-lactamin. Liên kết này rất yếu, dễ bị đứt bởi men penicillinaza và từ đó hoạt tính
kháng sinh cũng giảm theo. Cơ chế tác động của các kháng sinh thuộc nhóm này
là ức chế tổng hợp vách tế bào vi khuẩn. Nhóm này được chia nhỏ thành 2 phân
nhóm chính là: Penicilline và Cephalosporin (Hoàng Tích Huyền, 1997)[10],
(Hoàng Thị Kim Huyền và cộng sự, 2001)[12].
- Nhóm Aminoglycozis (Aminozid): trong cấu trúc phân tử của kháng
sinh thuộc nhóm này có đường đính theo nhóm amin. Kích thước phân tử của
nhóm này khá lớn do đó khó hấp thu qua niêm mạc ruột vào máu. Bởi vậy khi
cho uống có tác dụng điều trị bệnh nhiễm trùng đường ruột rất tốt nhưng
nhiễm trùng máu hoặc các bộ phận khác trong cơ thể thì phải tiêm. Tác động
29
của các kháng sinh thuộc nhóm này là ức chế quá trình tổng hợp Protein của
vi sinh vật do chúng gắn chặt với tiểu phần 30s của Riboxom.
- Nhóm Chloramphenicol: là loại kháng sinh có hoạt phổ rộng, tác động
trên cả vi khuẩn Gram (-) và Gram (+), Ricketsia, Mycoplasma. Cơ chế tác
dụng của kháng sinh thuộc nhóm này là ức chế quá trình tổng hợp Protein của
cơ thể thông qua việc gắn chặt với tiểu phần 50s của Riboxom ở tế bào vi
khuẩn. Hiện nay các kháng sinh thuộc nhóm này đã bị hạn chế sử dụng, một số
bị cấm sử dụng do có khả năng gắn cả vào tiểu phần 70s của Riboxom ở trẻ sơ
sinh gây còi cọc chậm lớn, suy tuỷ không hồi phục ở gia súc non.
- Nhóm Tetracycline: là những chất có cấu tạo 4 vòng benzen chỉ khác
nhau ở các gốc gắn vào vòng. Cơ chế tác dụng của chúng là ức chế quá trình
tổng hợp Protein của vi sinh vật thông qua việc gắn vào tiểu phần 30s của
Riboxom. Thuốc có hoạt phổ kháng khuẩn rộng nhưng khá độc với gan, thận và
thần kinh do có ái lực cao với các kim loại có hoá trị II, III gây còi cọc, chậm
lớn ở gia súc non.(Lê Trần Tiến, 2006)[29].
- Nhóm polipeptide: trong phân tử của chúng có nhiều liên kết peptid. Cơ chế
tác dụng của kháng sinh thuộc nhóm này là tác động lên màng tế bào vi khuẩn, làm
thay đổi tính thấm của màng, từ đó phá huỷ chức năng hàng rào bảo vệ của màng tế
bào vi khuẩn. Hoạt phổ kháng khuẩn rộng, tuy nhiên khi sử dụng cần đề phòng độc
với thận và suy hô hấp (Hoàng Tích Huyền và cộng sự, 2001)[11].
- Nhóm Macrolide: là những chất đại phân tử, trong cấu trúc có một
vòng lacton lớn, được tổng hợp từ các chủng Streptomyces khác nhau. Cơ chế
tác dụng của nhóm này tương tự như cơ chế tác dụng của kháng sinh thuộc
nhóm Chloramphenicol. Nhóm này đối kháng với nhóm β – lactamin nhưng
lại hiệp đồng với nhóm Tetracycine.
- Nhóm Sulfamid: là những hợp chất tổng hợp có tính kháng khuẩn
30
cao, là dẫn xuất của Sulphonamide. Cơ chế tác động của nhóm này là cạnh
tranh hoá học do cấu trúc hoá học và kích thước phân tử của chúng gần giống
với PABA, do đó cạnh tranh với PABA ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp acid
forlic (chất cần thiết cho quá trình phát triển của vi khuẩn). Nhóm này đối
kháng với Novocain, tham gia vào phản ứng Axetyl hoá khi cho uống cho nên
dễ gây sỏi thận.
- Nhóm Quinolon: là những kháng sinh có hoạt phổ rất rộng, tác động
trên tất cả các loại vi khuẩn, Ricketsia, Mycoplasma, ít bị kháng thuốc. Cơ
chế tác động của nhóm này bao gồm:
+ Ức chế enzim DNA - gyase: Enzim DNA-gyase là enzim tham gia
vào quá trình tổng hợp nên các acit nhân DNA của vi khuẩn. Do đó đích tác
dụng của thuốc là DNA-gyase. Nhiễm sắc thể của vi khuẩn là hình vòng tròn
gồm 2 chuỗi DNA xoắn kép. Tuỳ theo điều kiện phát triển của vi khuẩn mà
DNA có thể tồn tại ở hai dạng: dạng xoắn kép hoặc dạng thả lỏng.
Trong quá trình sinh sản và phát triển của vi khuẩn có sự sao chép và nhân
lên của nhiễm sắc thể kèm theo sự sao chép có sửa chữa của DNA được thực hiện
bởi các enzim toprosomerase (các enzim này làm nhiệm vụ cắt tạm thời các chuỗi
DNA rồi sau đó tự đóng lại). Tuỳ theo vị trí cắt của 1 hay 2 mảnh DNA mà người
ta chia các toprosomerase thành toprosomerase I và toprosomerase II. Enzim
DNA-gyrase là một toprosomerase II. Cấu trúc của DNA - gyrase gồm Gyr - A và
phần Gyr-B). Các phần đơn vị A làm nhiệm vụ cắt tạm thời các mảnh DNA trong
giai đoạn đầu và nối chúng lại ở giai đoạn cuối sau khi nhiễm sắc thể đã được
nhân đôi. Các phần đơn vị B làm nhiệm vụ tách riêng các mảnh và xoắn vòng lại.
Gyrase là mục tiêu hấp dẫn của các quinolon hay nói chính xác hơn đích tác dụng
của quinolon là gyrase. Chúng gắn vào các phòng đơn vị A của các gyrase làm
cho các enzim không thực hiện được nhiệm vụ của mình. Tức là hai mảnh DNA
khi đã bị cắt ra thì không gắn lại được. Do vậy mà DNA ở trong tế bào dưới dạng
31
những đoạn riêng lẻ. Như vậy dưới tác dụng của thuốc sự sao chép và nhân lên
của các DNA bị ức chế.
+ Cơ chế tạo Chelat: trong công thức phân tử của thuốc có chứa β -
Cetomic nên các Quinolon có thể tạo Chelat với các cation hoá trị II (Mg++,
Cu
++
và đặc biệt là Fe++). Do đó các liên kết kim loại (metal-protein) sẽ là
mục tiêu tiềm tàng thu hút các Quinolon. Các thuốc có Chelat tương ứng với
phức hợp đẳng phân tử tích điện dương (những phức hợp 1/1, tức một phân tử
thuốc kết hợp với một kim loại hoá trị II) sẽ có tác dụng diệt khuẩn. Còn
thuốc có Chelat tương ứng với phức hợp trung hoà (phức hợp 2/1, tức là 2
phân tử thuốc kết hợp với một phân tử kim loại hoá trị II) thì không có tác
dụng diệt khuẩn (Huỳnh Thị Kim Thoa, 1996)[26].
Cũng như các sinh vật khác, vi khuẩn cũng có khả năng thích nghi với
điều kiện sống. Chính vì thế, việc sử dụng kháng sinh kéo dài và không đúng
cách đã tạo cho vi khuẩn có khả năng kháng thuốc. Theo Nguyễn Vĩnh Phước
(1974)[17] một cá thể hoặc một nòi vi khuẩn nhất định nào đó được gọi là đề
kháng với thuốc nếu nó có thể sống và phát triển được trong một môi trường
có nồng độ kháng sinh cao hơn nồng độ ức chế sinh sản và phát triển của
phần lớn những cá thể khác hoặc những nòi khác trong cùng một canh khuẩn.
Theo Lê Thị Ngọc Diệp (1999)[4] để phát huy hết tác dụng của kháng
sinh trong điều trị, hạn chế các tác hại của thuốc, ngăn cản hiện tượng kháng
thuốc cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc sau:
- Chỉ sử dụng kháng sinh khi có kết luận chắc chắn là nhiễm khuẩn
hoặc khi có kết quả làm kháng sinh đồ. Đối với mầm bệnh đã biết thì nên
dùng các kháng sinh có hiệu lực nhất, ít độc và có phổ tác dụng hợp lý.
- Lựa chọn đúng thuốc, đúng bệnh, dùng liều cao ngay từ đầu, tránh
32
dùng liều thấp hay tăng dần vì dễ gây lên hiện tượng quen thuốc, kháng thuốc.
- Dùng thuốc kháng sinh càng sớm càng tốt lúc vi khuẩn đang ở giai
đoạn phát triển và chịu tác dụng của thuốc nhiều nhất.
- Chọn đường đưa thuốc thích hợp, đúng liều lượng, liệu trình để luôn
giữ nồng độ thuốc ổn định trong cơ thể. Nếu cần thiết phải thay thuốc khác.
- Nên phối hợp thuốc khi điều trị để làm tăng khả năng diệt khuẩn, hạn
chế hiện tượng kháng thuốc.
- Trong thời gian dùng thuốc nên kết hợp điều trị bổ sung các loại
vitamin, thuốc bổ và điều chỉnh khẩu phần ăn hợp lý nhằm nâng cao sức đề
kháng cho cơ thể.
2.6. Tình hình nghiên cứu bệnh Viêm tử cung lợn trên thế giới và Việt Nam
Hiện nay, vấn đề bệnh Sinh sản ở gia súc đã và đang được nghiên cứu
một cách toàn diện. Hàng năm các chương trình đào tạo của Quốc tế về sinh
sản gia súc thường xuyên được tổ chức tại Trường Đại học Khoa học Nông
nghiệp Uppsala (Thuỵ Điển), trung tâm khoa học Quốc tế về Nông nghiệp
Cairo (Ai Cập). Trong nội dung của những khoá học đào tạo này, vấn đề
phương pháp chẩn đoán, phát hiện và điều trị các bệnh Sinh sản luôn là một
nội dung chính. Tuy nhiên, cho đến nay những tư liệu nghiên cứu về bệnh Sản
khoa ở lợn còn rất ít. Và trong những tư liệu nghiên cứu đó, cũng chỉ chủ yếu
tập trung vào nghiên cứu bệnh Viêm tử cung.
2.6.1. Thế giới
33
Hiện nay, trên thế giới, ngành chăn nuôi đang rất phát triển, đặc biệt là
chăn nuôi lợn, các nước không ngừng đầu tư cải tạo chất lượng đàn giống và
áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất
chăn nuôi. Để cải tạo chất lượng đàn giống thì vấn đề hạn chế bệnh Sinh sản
là một vấn đề tất yếu cần phải giải quyết, đặc biệt là bệnh Viêm tử cung. Do
đó, đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về bệnh Viêm tử cung và đã đưa
ra các kết luận giúp cho người chăn nuôi lợn nái sinh sản hạn chế được bệnh
này. Tuy vậy, tỷ lệ mắc bệnh Viêm tử cung trên đàn lợn nái sinh sản vẫn rất
cao.
Theo nhiều tác giả nguyên nhân của bệnh Viêm tử cung là do tử cung
bị tổn thương, do hiện tượng sát nhau. Bệnh phát triển là do nuôi dưỡng
không đủ chất, do đưa vào đường sinh dục những chất kích thích đẻ, chúng
phá hủy hoặc làm kết tủa chất nhày ở bộ máy sinh dục. Hiện tượng Viêm tử
cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lần động dục tiếp theo có thể giải thích
nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ, từ đó làm giảm năng suất sinh sản. Ông
cũng cho biết, khi tiến hành nghiên cứu trên đàn lợn nái ở xứ Brơ-ta-nhơ
(Pháp) năm 1991 thì phát hiện thấy 15% số lợn nái bị viêm tử cung. Viêm tử
cung thường bắt đầu bằng sốt ở một vài giờ sau khi đẻ, chảy mủ vào ngày
hôm sau và bệnh thường kéo dài 48 đến 72 giờ.
Ở Cuba, các bác sỹ thú y sử dụng dung dịch Lugol 0,1% điều trị đạt kết
quả cao và dùng thuốc Neometrina đặt trong tử cung đạt kết quả điều trị cao.
2.6.2. Việt Nam
Ở Việt Nam một số nhà khoa học thú y cũng đã có những nghiên cứu
tổng kết về bệnh Viêm tử cung. Song những tư liệu nghiên cứu về bệnh Viêm
tử cung ở lợn nái cũng còn rất ít.
34
Theo Nguyễn Văn Thanh (2003)[21] tỷ lệ lợn nái mắc bệnh Viêm tử
cung là tương đối cao, bệnh thường tập trung ở đàn lợn nái đẻ lứa đầu hoặc đã
đẻ nhiều lứa, khi thử nghiệm điều trị tác giả nhận thấy dùng PGF2α liều 25mg
tiêm dưới da kết hợp với dung dịch Lugol 0,1% thụt cho kết quả điều trị cao.
Theo Lê Xuân Cương (1986)[2] lợn nái chậm sinh sản do nhiều nguyên
nhân, trong đó tổn thương bệnh lý sinh dục chiếm tỷ lệ đáng kể. Đặc biệt các
lợn nái đẻ khó cần áp dụng các thủ thuật ngoại khoa thì niêm mạc đường sinh
dục rất dễ bị tổn thương và dẫn tới viêm tử cung.
Theo Phạm Chí Thành và cộng sự (1997)[22] sử dụng Rivanol 1%,
dung dịch Lugol 0,1%, kháng sinh để điều trị Viêm tử cung cho kết quả cao.
Theo Hồ Văn Nam, Nguyễn Văn Thanh (1999)[14] bệnh Viêm tử cung ở
gia súc nói chung là một quá trình bệnh lý phức tạp được thể hiện dưới nhiều thể
khác nhau. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới hiện tượng rối
loạn sinh sản, ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh sản của gia súc cái.
Theo Nguyễn Xuân Bình (2005)[1] bệnh Viêm tử cung xảy ra ở những thời
gian khác nhau. Nhưng thường bệnh xảy ra nhiều nhất vào thời gian sau khi đẻ 1 - 10
ngày.
Theo Nguyễn Văn Thanh (2003)[21] Viêm tử cung là một trong nhiều
tổn thương đường sinh dục ở lợn nái sau khi sinh. Khi có dịch tiết và dịch lẫn
mủ mùi tanh thối, con vật sốt, bỏ ăn hay ăn ít, có phản xạ đau chính là biểu
hiện của bệnh Viê._.i vi khuẩn
như Staphylococcus, Streptococcus, E. coli, Salmonella đã xâm nhập từ ngoài
môi trường vào trong tử cung, đặc biệt là khi bị viêm tử cung, cổ tử cung mở,
niêm mạc tử cung bị tổn thương, dịch tử cung tăng tiết càng tạo cơ hội cho vi
khuẩn xâm nhập và phát triển.
4.2.2. Xác định số lượng các loại vi khuẩn trong dịch tiết tử cung lợn nái
ngoại tại trại Thế Thuyết và trại Huy Hiền.
Sau khi nuôi cấy trên các môi trường thông thường và môi trường
chuyên dụng, chúng tôi đã xác định được số lượng vi khuẩn trung bình có trong
1ml dịch tử cung lợn nái sau đẻ và lợn nái bị viêm tử cung. Kết quả được trình
bày ở bảng 4.7.
Bảng 4.7. Sự biến động về số lượng các vi khuẩn phân lập được trong
1ml dịch viêm tử cung so với nái khoẻ mạnh sau đẻ
Dịch tử cung nái sau đẻ Dịch tử cung nái bị viêm TC
Loại dịch
Chỉ tiêu
Loại vi khuẩn
Số mẫu
kiểm
tra
Số lượng VK
(triệu/ml)
Số mẫu
kiểm
tra
Số lượng VK
(triệu/ml)
Số VK tăng
so với nái
sau đẻ (lần)
Staphylococcus 10 38,67 ± 0,28 15 867,72 ± 0,36 22,44
58
Streptococcus 10 29,63 ±0,74 15 745,21 ± 0,51 25,15
E. coli 6 17,52 ± 0,25 15 129,56 ± 0,37 7,39
Salmonella 7 15,68 ± 0,49 15 197,34 ± 0,54 12,58
Thực tế là khi xác định số lượng vi khuẩn bằng phương pháp đếm số lượng
khuẩn lạc, nuôi cấy nhiều loại vi khuẩn trên cùng một môi trường thì nhất định sẽ
có sự cạnh tranh, có loại phát triển tốt, có loại bị ức chế. Ngoài ra, việc nuôi cấy chỉ
ở một nồng độ pha loãng nhất định (mặc dù là nồng độ phù hợp cho phép đếm và
phân loại khuẩn lạc) sẽ không phản ánh được đầy đủ số lượng và sự có mặt của vi
khuẩn trong dịch tử cung. Tất cả các thao tác kỹ thuật từ việc trộn đều và pha loãng
mẫu đến ria cấy và đếm số lượng khuẩn lạc cũng không thể không có sai số được.
Chính vì vậy việc xác định chính xác số lượng vi khuẩn trong 1ml dịch tử cung là
rất khó, nên chúng tôi tiến hành xác định sự biến động của vi khuẩn trong dịch tử
cung ở 2 trạng thái: khoẻ mạnh sau đẻ và bị viêm tử cung.
Kết quả xét nghiệm bảng 4.7 cho thấy số lượng 4 loại vi khuẩn có trong 1 ml
mẫu dịch xét nghiệm có sự biến động rất lớn khi nái bị viêm tử cung. Sau khi nái
đẻ, số lượng vi khuẩn có trong 1 ml mẫu dịch xét nghiệm của: Staphylococcus,
Streptococcus, E. coli, Salmonella lần lượt là: 38,67 ; 29,63 ; 17,52 và 15,68
triệu/ml, nhưng khi tử cung bị viêm số lượng các loại vi khuẩn này đều tăng lên gấp
nhiều lần so với sau khi nái đẻ, cụ thể tăng 22,44 lần đối với vi khuẩn
Staphylococcus; 25,15 lần đối với vi khuẩn Streptococcus; 7,39 lần đối với vi khuẩn
E. coli và 12,58 lần đối với vi khuẩn Salmonella.
Qua kết quả xét nghiệm vi khuẩn ở dịch tử cung lợn nái có thể nhận
xét: số lượng các vi khuẩn hiếu khí trong dịch tử cung lợn ở hai trạng thái:
khoẻ mạnh và bệnh lý có sự biến động rất lớn, rõ nhất thể hiện ở vi khuẩn
Staphylococcus và Streptococcus. Ở trạng thái khoẻ mạnh sau khi đẻ, số
lượng 4 loại vi khuẩn có mặt trong dịch tử cung là lớn nhưng chúng ở thế cân
59
bằng nên chưa gây bệnh cho lợn. Chỉ khi có sự thay đổi và biến động lớn về
chất lượng và số lượng (đột biến, tăng cường độc lực và bội nhiễm) của các
nhóm vi khuẩn thì mới gây viêm.
4.3. Xác định độ mẫn cảm của các loại vi khuẩn phân lập được từ dịch viêm
tử cung của lợn nái với thuốc kháng sinh
Qua số liệu chúng tôi thu thập được thì tất cả các trại đều sử dụng
kháng sinh trong phòng và trị bệnh cho lợn với nhiều chủng loại và liều lượng
khác nhau. Hầu hết các trại chăn nuôi lợn khi có lợn bị bệnh, họ sử dụng kết
hợp nhiều loại kháng sinh để điều trị, có khi sử dụng loại này lợn không hết
bệnh thì họ đổi sang loại khác. Chính vì sử dụng kháng sinh một cách bừa bãi
như vậy dẫn đến hiện tượng kháng thuốc của vi khuẩn.
Để kiểm tra tính mẫn cảm của các vi khuẩn hiếu khí phân lập từ dịch
viêm tử cung của lợn với một số thuốc kháng sinh thông thường, chúng tôi đã
tiến hành làm kháng sinh đồ theo phương pháp Kirby - Bauer. Sau khi làm
kháng sinh đồ để kiểm tra tính mẫn cảm với 10 loại thuốc kháng sinh, chúng
tôi đã đo được đường kính vòng vô khuẩn của từng loại vi khuẩn với các loại
thuốc. Từ kết quả đo được so sánh với bảng đánh giá ý nghĩa đường kính
vòng vô khuẩn của Hội đồng Quốc gia Hoa Kỳ (1999) chúng tôi đã đánh giá
tính mẫn cảm của 4 loại vi khuẩn qua bảng 4.8.
Bảng 4.8. Kết quả xác định tính mẫn cảm của các vi khuẩn phân lập
được từ dịch viêm tử cung của lợn nái với một số thuốc kháng sinh
Staphylococcus
(n =15)
Streptococcus
(n =15)
E. coli
(n =15)
Salmonella
(n =15)
Loại vi khuẩn
Kết quả
Kháng sinh
Mẫn
cảm
Tỷ lệ
(%)
Mẫn
cảm
Tỷ lệ
(%)
Mẫn
cảm
Tỷ lệ
(%)
Mẫn
cảm
Tỷ lệ
(%)
Enrofloxacin 15 100 13 86,67 15 100 14 93,33
60
Norfloxacin 15 100 11 73,33 14 93,33 12 80,00
Ciprofloxacin 8 53,33 7 46,67 6 40,00 13 86,67
Amoxycillin 11 73,33 12 80,00 15 100 15 100
Ampicillin 12 80,00 10 66,67 7 46,67 6 40,00
Gentamicin 11 73,33 0 - 4 26,67 7 46,67
Polymycin B 7 46,67 11 73,33 8 53,33 9 60,00
Ofloxacin 10 66,67 8 53,33 7 46,67 13 86,67
Streptomycin 1 6,67 3 20,00 0 - 6 40,00
Penicillin 0 - 2 13,33 0 - 0 -
Đối với vi khuẩn Staphylococcus: tỷ lệ mẫn cảm cao nhất là với
Enrofloxacin và Norfloxacin đạt 100%, tiếp đó là Ampicillin đạt 80,00%,
Amoxycillin và Gentamicin đạt 73,33%, thấp nhất là Streptomycin đạt 6,67%
và hoàn toàn kháng lại Penicillin.
Đối với vi khuẩn Streptococcus: mẫn cảm nhất với Enrofloxacin đạt
86,67%; tiếp đó Amoxycillin đạt 80,00%; Norfloxacin và Polymycin B đạt
73,33%; thấp nhất là Penicillin 13,33% và hoàn toàn kháng lại Gentamicin.
Penicillin là thuốc kháng sinh đã được dùng từ lâu nên đã bị vi khuẩn kháng
lại, theo chúng tôi trong trường hợp này không dùng Penicillin để diệt vi
khuẩn Staphylococcus và Streptococcus.
Đối với vi khuẩn E. coli: tỷ lệ mẫn cảm cao nhất với Enrofloxacin và
Amoxycillin đạt 100,00%; tiếp đó là Norfloxacin 93,33%, còn lại một số
thuốc cũng mẫn cảm với E. coli nhưng tỷ lệ mẫn cảm thấp như: Polymycin B,
Ampicillin, Ofloxacin, Ciprofloxacin, Gentamicin và hoàn toàn không mẫn
cảm với Streptomycin và Penicillin.
61
Theo Bùi Thị Tho (1996) [24] E. coli là trực khuẩn ruột già, chúng có
mặt ở khắp nơi trong môi trường sống và là vi khuẩn trung tâm trong sơ đồ
truyền ngang tính kháng thuốc của vi khuẩn. Nên khi E. coli xuất hiện gen
kháng thuốc thì lập tức được lan truyền rất nhanh trong quần thể vi khuẩn.
Đối với vi khuẩn Salmonella: tỷ lệ mẫn cảm cao nhất với
Amoxycillin đạt 100%, tiếp đó là Enrofloxacin đạt 93,33%, Ciprofloxacin và
Ofloxacin 86,67%; thấp nhất là với Streptomycin và hoàn toàn không mẫn
cảm với Penicillin.
So sánh với kết quả nghiên cứu của Bùi Thị Tho, Phạm Khắc Hiếu
(1995) [23], Đinh Bích Thuỷ, Nguyễn Thị Thạo (1995)[28] tỷ lệ Salmonella
phân lập từ dịch tử cung lợn nái bị viêm mẫn cảm với thuốc cao hơn
Salmonella phân lập từ bệnh Tiêu chảy ở lợn. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cũng phù hợp với công trình nghiên cứu của các tác giả trên.
Sau khi làm kháng sinh đồ với các kết quả tổng hợp chúng tôi thấy
thuốc có tác dụng tốt nhất đến vi khuẩn Staphylococcus và Streptococcus là
Enrofloxacin, Norfloxacin và Amoxycillin. Thuốc có tác dụng tốt nhất với E.
coli, Salmonella vẫn là Enrofloxacin, Norfloxacin và Ofloxacin. Các thuốc
Streptomycin, Penicillin và Gentamicin thì hầu như không có tác dụng hoặc
tác dụng rất yếu đối với bốn loại vi khuẩn mà chúng tôi phân lập được từ
dịch viêm tử cung lợn. Điều này được giải thích như sau, các thuốc:
Enrofloxacin, Norfloxacin và Ofloxacin là những kháng sinh thế hệ mới nên
thời gian sử dụng chưa dài, vi khuẩn vẫn còn mẫn cảm với thuốc. Còn các
thuốc: Streptomycin, Penicillin và Gentamicin là những kháng sinh đã được
các trại sử dụng trong thời gian dài với nhiều mục đích khác nhau nên độ mẫn
cảm với thuốc sẽ giảm dần và cuối cùng là mất đi khả năng kháng khuẩn của
thuốc. Bản thân các vi khuẩn có các yếu tố gây bệnh và khả năng kháng
kháng sinh làm tăng tính gây bệnh cho vật chủ. Do chứa các yếu tố kháng
62
kháng sinh nên sự mẫn cảm với các thuốc kháng sinh và hoá dược thay đổi
theo thời gian, không gian, từng cá thể và từng loài vật nuôi.
Theo tác giả Đinh Bích Thuỷ, Nguyễn Thị Thạo (1995)[28] tính
kháng thuốc của vi khuẩn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố: các týp vi khuẩn,
các loại kháng sinh, nguồn gốc mẫu (địa phương và nơi bệnh súc sống), vị
trí lấy mẫu (nơi vi khuẩn cư trú trong cơ thể bệnh). Còn theo Mekay W. M.
(1975)[37] ở Anh tính kháng thuốc của vi khuẩn phụ thuộc rất nhiều vào
mức độ sử dụng kháng sinh với mục đích kích thích tăng trọng cho gia súc,
gia cầm bằng cách bổ sung vào thức ăn.
4.4. Xác định độ mẫn cảm của tập đoàn vi khuẩn phân lập được từ dịch
viêm tử cung của lợn với thuốc kháng sinh
Để giúp cơ sở chăn nuôi lợn nái chọn thuốc điều trị bệnh Viêm tử cung
có hiệu quả, chúng tôi đã làm kháng sinh đồ trực tiếp với cả tập đoàn vi khuẩn
có trong dịch viêm tử cung. Kết quả kiểm tra được trình bày ở bảng 4.9.
Bảng 4.9. Kết quả xác định tính mẫn cảm của tập đoàn vi khuẩn có trong
dịch viêm tử cung của lợn nái với một số thuốc kháng sinh
Tên thuốc
Số mẫu
kiểm tra
Số mẫu
mẫn cảm
Tỷ lệ mẫn cảm
(%)
Đường kính vòng vô
khuẩn (mm) xmX ±
Enrofloxacin 15 13 86,67 25,95± 0,88
Norfloxacin 15 11 73,33 26,12 ± 0,56
Ciprofloxacin 15 7 46,67 19,64 ± 0,86
Amoxycillin 15 10 66,67 21,52 ± 0,74
Ampicillin 15 6 40,00 11,32 ± 0,45
Gentamicin 15 5 33,33 12,62 ± 0,58
Polymycin B 15 8 53,33 11,75 ± 0,96
Ofloxacin 15 4 26,67 12,97 ± 0,71
Streptomycin 15 2 13,33 10,18 ± 0,00
63
Penicillin 15 2 13,33 11,13 ± 0,008
Kết quả kiểm tra cho thấy 86,67% số mẫu kiểm tra mẫn cảm với
Enrofloxacin, có đường kính vòng vô khuẩn trung bình là 25,95mm, ở
mức rất mẫn cảm.
Tiếp theo là Norfloxacin và Amoxycillin với tỷ lệ mẫn cảm lần
lượt là 73,33%; 66,67% có đường kính vòng vô khuẩn trung bình
tương ứng là 26,12 mm; 21,52mm; ở mức rất mẫn cảm.
Các thuốc Ciprofloxacin, Gentamicin, Polymycin B, Ofloxacin
có tỷ lệ mẫn cảm thấp hơn, và ở mức độ mẫn cảm trung bình.
Các thuốc Ampicillin, Streptomycin, Penicillin có tỷ lệ mẫn cảm
thấp và đường kính vòng vô khuẩn trung bình lần lượt là: 11,32mm;
10,18mm và 11,13mm; các chỉ số này đều nằm ở mức mẫn cảm yếu
với thuốc.
Từ kết quả kiểm tra tính mẫn cảm và tính kháng thuốc của 4 loại
vi khuẩn cơ bản phân lập được ở dịch viêm tử cung lợn nái và kết quả
làm kháng sinh đồ với tập đoàn vi khuẩn có trong dịch tử cung lợn bị
viêm tử cung, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
Để điều trị bệnh Viêm tử cung cho lợn nái ngoại tại hai trại: Thế
Thuyết và Huy Hiền, tốt nhất nên dùng một trong các loại kháng sinh:
Enrofloxacin, Norfloxacin, Amoxycillin. Tuy nhiên, khi sử dụng phải
tuân thủ nguyên tắc dùng kháng sinh để đảm bảo hiệu quả điều trị
cũng như ngăn chặn và hạn chế tính chất nhờn thuốc và kháng thuốc
của vi khuẩn sau này.
Các thuốc Ciprofloxacin, Gentamicin, Polymycin B, Ofloxacin
khi sử dụng nên làm kháng sinh đồ hoặc phải sử dụng phối hợp với
các thuốc khác để nâng cao hiệu quả điều trị bệnh.
64
Chúng ta không nên sử dụng Ampicillin, Streptomycin,
Penicillin trong điều trị bệnh Viêm tử cung cho đàn nái tại trại Thế
Thuyết và trại Huy Hiền.
Tuy nhiên, khả năng kháng kháng sinh của vi khuẩn luôn luôn thay đổi,
phụ thuộc vào từng địa phương, từng trang trại chăn nuôi, thời điểm làm
kháng sinh đồ mà cho kết quả khác nhau. Vì vậy các kết quả làm kháng sinh
đồ chỉ được ứng dụng trong phạm vi nhỏ và phải được tiến hành thường
xuyên mới lựa chọn được thuốc điều trị có hiệu quả.
4.5. Thử nghiệm phòng bệnh Viêm tử cung cho lợn nái ngoại sinh sản
Viêm tử cung là bệnh xảy ra phổ biến đối với lợn nái sinh sản.
Nó không những ảnh hưởng tới đàn lợn con mà còn ảnh hưởng đến kế
hoạch sử dụng con nái sau này. Vì vậy đề ra biện pháp phòng bệnh là
một yêu cầu cấp thiết. Phòng bệnh Viêm tử cung không thể làm từng
biện pháp nhỏ lẻ, tác động vào từng yếu tố mà phải thực hiện biện
pháp tổng hợp. Qua thời gian thực tập ở trại lợn, chúng tôi đã tìm hiểu
rất kỹ phương thức chăn nuôi ở đây cũng như các điều kiện cơ sở vật
chất, đồng thời kết hợp với những hiểu biết về bệnh Viêm tử cung để đưa ra
một quy trình phòng bệnh thử nghiệm tổng hợp. Các bước phòng bệnh chúng
tôi đã trình bày ở phần nội dung và phương pháp. Chúng tôi tiến hành chia
thành hai lô: lô thí nghiệm và lô đối chứng. Tại lô thí nghiệm được áp dụng
các biện pháp phòng bệnh theo các bước mà chúng tôi đã xây dựng còn lô đối
chứng được nuôi theo quy trình chăn nuôi của trại. Sau khi thí nghiệm, kết
quả được trình bày ở bảng 4.10.
Bảng 4.10. Kết quả thử nghiệm phòng bệnh Viêm tử cung
cho lợn nái ngoại sinh sản
65
Viêm tử
cung
Động dục trở lại
Có thai khi
phối lần đầu
Chỉ tiêu
Lô
Số nái
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số nái
(con)
Tỷ lệ
(%)
Thời gian
(ngày)
Số nái
(con)
Tỷ lệ
(%)
Lô thí nghiệm
(n = 10)
0 - 10 100 3,50 ± 0,64 8 80,00
Lô đối chứng
(n = 10)
4 40,00 8 80,00 7,20 ± 0,28 4 50,00
Kết quả cho thấy, lô thí nghiệm không có con nào bị viêm tử cung, tỷ lệ
bảo hộ đạt 100%, trong khi đó lô đối chứng có 4/10 con mắc bệnh, tỷ lệ mắc
bệnh chiếm 40,00%. Điều này cho thấy quy trình phòng bệnh mà chúng tôi
đưa ra đã hạn chế được đáng kể tỷ lệ mắc bệnh Viêm tử cung trên đàn lợn nái.
Theo Trần Tiến Dũngvà cộng sự, (2002)[5] sau khi đẻ, cơ thể lợn nái
nhất là bộ máy sinh dục có sự thay đổi lớn về sinh lý, sức đề kháng bị giảm
sút, đường sinh dục bị tổn thương nặng nề, nếu mật độ vi khuẩn gây bệnh
trong chuồng nuôi lớn thì lợn nái có nguy cơ bị mắc bệnh cao.
Do vậy chúng tôi đã thực hiện định kỳ sát trùng chuồng trại 10 ngày 1
lần và 5 ngày trước khi nái đẻ để loại bỏ vi khuẩn gây bệnh ra khỏi chuồng
nuôi. Trước và sau khi nái đẻ, bộ phận sinh dục lợn nái được lau rửa bằng
dung dịch sát trùng RTD-iodin. Bên cạnh đó chúng tôi còn thực hiện vệ sinh
nguồn thức ăn và nước uống để nâng cao sức đề kháng cho lợn. Cùng với việc
thực hiện công tác vệ sinh thú y, chúng tôi còn thực hiện đỡ đẻ và phối giống
đúng kỹ thuật nhằm hạn chế đưa vi khuẩn vào trong đường sinh dục và tránh
làm tổn thương niêm mạc tử cung. Sau khi đẻ lợn nái được tiêm ngay một liều
kháng sinh để phòng ngừa nhiễm trùng và 1 mũi Hanprost (chế phẩm của
PGF2α) để tạo ra các cơn co bóp nhẹ nhàng giống cơn co bóp sinh lý nhằm
đẩy các chất bẩn ra ngoài, kích thích cơ tử cung nhanh chóng hồi phục và phá
huỷ thể vàng. Vì vậy, hạn chế được viêm tử cung và thúc đẩy gia súc nhanh
chóng động dục trở lại sau cai sữa.
66
Tỷ lệ nái động dục trở lại ở lô thí nghiệm là 100%, thời gian động dục trở
lại sau cai sữa trung bình là 3,5 ngày, tỷ lệ phối giống lần đầu có chửa là 80,00%
trong khi đó ở lô đối chứng chỉ có 80,00% động dục lại và thời gian động dục kéo
dài hơn, tỷ lệ phối giống lần đầu có chửa là 50,00%. Điều này được giải thích như
sau: ở lô thí nghiệm do áp dụng các biện pháp phòng bệnh tốt nên không có con
nào bị mắc bệnh Viêm tử cung, còn ở lô đối chứng do có 4 con mắc bệnh Viêm tử
cung, để lại hậu quả là làm cho tỷ động dục trở lại thấp, thời gian động dục lại kéo
dài hơn và tỷ lệ có thai khi phối lần đầu thấp hơn.
Theo các tác giả Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5], Trần Thị Dân
(2004)[3] nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể
vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết Progesterone. Progesterone ức chế thuỳ
trước tuyến yên tiết ra LH, LH ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng
trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại và không thải trứng được.
Như vậy, việc phòng bệnh Viêm tử cung cho lợn nái đặc biệt là nái sau khi
đẻ đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Lợn nái không bị viêm tử cung, thời gian
động dục trở lại ngắn, tỷ lệ phối lần đầu có chửa cao, năng suất sinh sản được tăng
lên. Mặt khác, nếu bị viêm tử cung chi phí điều trị cao, gây tổn hại cho niêm mạc
tử cung, nhiều khả năng gây rối loạn sinh sản, khi đó sẽ phải loại thải con nái.
4.6. Thử nghiệm điều trị bệnh Viêm nội mạc tử cung trên lợn nái ngoại
Trước tình hình bệnh Viêm tử cung diễn ra với tỷ lệ lớn, các trại chăn
nuôi đã cố gắng tìm các biện pháp để hạn chế bệnh xảy ra và điều trị tích cực
cho những con bị bệnh. Song việc tìm ra các phác đồ hợp lý nhất, hiệu quả
nhất và kinh tế nhất đối với bệnh vẫn chưa thực hiện được.
Căn cứ vào kết quả làm kháng sinh đồ, chúng tôi chọn ra 3 loại thuốc
kháng sinh mà tập đoàn vi khuẩn trong dịch viêm tử cung mẫm cảm nhất và
dựa theo các kết quả nghiên cứu của các tác giả chúng tôi đưa ra được 3 phác
đồ điều trị thử nghiệm bệnh Viêm nội mạc tử cung trên lợn nái như sau:
67
Ngoài việc tăng cường công tác nuôi dưỡng, chăm sóc và quản lý lợn bị
bệnh, chúng tôi sử dụng thử nghiệm các phác đồ điều trị sau:
Phác đồ 1:
Rtd-Entril 5% (Enrofloxacin): 1ml/10kgTT/lần, tiêm bắp ngày 1 lần.
Han-Prost: 2ml/con, tiêm dưới da, dùng 1 liều duy nhất trong quá trình
điều trị.
Lugol 0,1%: thụt rửa tử cung 200ml/con/lần, ngày 1 lần.
Rtd- rotosal: 10ml/con/lần, tiêm bắp ngày 1 lần.
Liệu trình điều trị 3-5 ngày liên tục.
Phác đồ 2:
Norflox- 150 (Norfloxacin): 1ml/10kgTT/lần, tiêm bắp ngày 1 lần.
Han-Prost: 2ml/con, tiêm dưới da, dùng 1 liều duy nhất trong quá trình
điều trị.
Lugol 0,1%: thụt rửa tử cung 200ml/con/lần, ngày 1 lần.
Rtd- rotosal: 10ml/con/lần, tiêm bắp ngày 1 lần.
Liệu trình điều trị 3-5 ngày liên tục.
Phác đồ 3:
Rtd-amoxy-LA (Amoxycillin):1ml/10kgTT/lần, tiêm bắp 2 ngày 1 lần.
Han-Prost: 2ml/con, tiêm dưới da, dùng 1 liều duy nhất trong quá trình
điều trị.
Lugol 0,1%: thụt rửa tử cung 200ml/con/lần, ngày 1 lần.
Rtd- rotosal: 10ml/con/lần, tiêm bắp ngày 1 lần.
Liệu trình điều trị 3 -5 ngày liên tục.
Mỗi phác đồ chúng tôi áp dụng điều trị cho 15 nái bị viêm nội mạc tử
cung và theo dõi khả năng sinh sản của lợn nái sau khi khỏi bệnh, kết hợp với
tính toán giá thành điều trị của mỗi phác đồ cho một lần điều trị khỏi, để từ đó
khuyến cáo cho người chăn nuôi nên sử dụng phác đồ nào trong điều trị bệnh
viêm tử cung đạt hiệu quả cao nhất.
68
Các chỉ tiêu để đánh giá khỏi bệnh là: thân nhiệt, tần số mạch và tần số
hô hấp trở lại bình thường, hết chảy dịch từ tử cung ra ngoài.
Kết quả sinh sản sau khi điều trị lành bệnh, được đánh giá qua các
chỉ tiêu: tỷ lệ động dục lại, thời gian động dục trở lại và tỷ lệ thụ thai khi
phối lần đầu.
Kết quả được thể hiện trên bảng 4.11.
69
Bảng 4.11. Kết quả điều trị bệnh Viêm nội mạc tử cung và khả năng sinh sản của lợn nái sau khi khỏi bệnh
Khỏi bệnh Động dục lại Có thai khi phối lần đầu
Phác đồ
điều trị
Số nái
điều trị
(con)
Số nái
(con)
Tỷ lệ
(%)
Thời gian
điều trị TB
(ngày)
Số nái
(con)
Tû lÖ
(%)
Thêi gian
(ngµy)
Số nái
(con)
Tỷ lệ
(%)
Giá thành
điều trị
(vnđ)
Phác đồ 1 15 14 93,33 4,20 ± 0,60 12 85,71 7,1 ± 0,23 10 83,33 98.800
Phác đồ 2 15 14 93,33 4,80 ± 0,38 11 78,57 6,5± 0,42 10 90,91 80.400
Phác đồ 3 15 14 93,33 3,0 ± 0,03 14 100 6,8 ± 0,37 14 100 70.400
70
Cả ba phác đồ điều trị trên đều cho kết quả điều trị khỏi là rất cao. Cụ
thể, tỷ lệ khỏi bệnh của các phác đồ 1; 2; 3 đều là 93,33%. Số ngày điều trị
của 3 phác đồ dao động từ 3,0 đến 4,8 ngày. Theo chúng tôi kết quả điều trị
cao như vậy là do chúng tôi đã đưa vào ba phác đồ điều trị ba loại kháng sinh
có mức mẫn cảm cao nhất với tập đoàn vi khuẩn trong dịch viêm tử cung của
lợn nái nuôi tại cơ sở nghiên cứu .
Về khả năng sinh sản sau khi khỏi bệnh của lợn nái đạt tương đối cao,
tỷ lệ nái động dục lại của phác đồ 1, 2, 3 lần lượt là 85,71%; 78,57%; 100%
và thời gian động dục tương ứng là 4,2 ngày; 4,8 ngày; 3,0 ngày. Tỷ lệ nái có
thai khi phối lần đầu của ba phác đồ đạt từ 83,% đến 100% theo chúng tôi có
được kết quả cao như vậy là do trong các phác đồ điều trị chúng tôi dùng
dung dịch Lugol 0,1% (thành phần chính là Iode vô cơ) để thụt rửa đường
sinh dục. Iode có tác dụng sát trùng, làm săn se niêm mạc tử cung, giúp cho
quá trình viêm chóng hồi phục, kích thích cơ tử cung hồi phục, kích thích
buồng trứng hoạt động trở lại, noãn bao sớm phát triển nên lợn nái nhanh
động dục trở lại sau cai sữa. Hanprost (chế phẩm PGF2α) có tác dụng kích
thích tử cung co bóp, tống hết dịch viêm và các sản phẩm trung gian ra ngoài,
tăng cường sự hồi phục của cơ tử cung, đồng thời PGF2α còn có tác dụng phá
vỡ thể vàng trên buồng trứng tạo điều kiện cho các noãn bào phát triển và
chín gây hiện tượng động dục sớm ở lợn.
Chúng tôi nhận thấy hiệu quả điều trị giữa ba phác đồ có sự sai khác
nhau ở mức ý nghĩa p = 95%, trong đó phác đồ 3 có hiệu quả cao hơn cả.
Phác đồ 3 có số ngày điều trị trung bình là ngắn nhất: 3,0 ngày, trong khi đó
nếu điều trị bằng phác đồ 1 và phác đồ 2 thì số ngày điều trị là: 4,2 ngày và
4,8 ngày, số nái động dục lại và tỷ lệ có thai khi phối lần đầu là cao nhất đạt
71
100%, giá thành điều trị của phác đồ 3 là thấp nhất 70.400đồng/liệu trình điều
trị. Theo chúng tôi sở dĩ dùng phác đồ điều trị thứ 3 có kết quả như vậy là do
trong phác đồ 3 có dùng chế phẩm Rtd-amoxy-LA là chế phẩm kháng sinh
được bào chế theo công nghệ mới, thành phần chính của thuốc là
Amoxycillin, Amoxycillin có đặc tính khuyếch tán tốt trong các tổ chức liên
kết mềm và các cơ trơn do vậy nồng độ thuốc đến tử cung cao, thời gian duy
trì thuốc kéo dài trong 3 ngày nên số lần tiêm trong một liệu trình điều trị ít,
điều này góp phần làm hạ giá thành điều trị. Do vậy, chúng tôi khuyến cáo
trại Thế Thuyết và trại Huy Hiền nên dùng phác đồ 3 để điều trị bệnh Viêm tử
cung cho lợn.
72
5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. Kết luận
Dựa vào những kết quả thu được, chúng tôi có thể rút ra được những
kết luận sau:
1. Đàn lợn nái ngoại tại trại Thế Thuyết và trại Huy Hiền có tỷ lệ mắc
bệnh Viêm tử cung là khá cao.
2. Các yếu tố thú y: phơng pháp thụ tinh, can thiệp khi lợn đẻ và điều
kiện vệ sinh thú y có ảnh hởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc bệnh Viêm tử cung ở lợn
nái
3. Khi tử cung bị viêm thì có 100% số mẫu bệnh phẩm xuất hiện các vi
khuẩn Staphylococcus, Streptococus, E. coli và Salmonella và số lợng các loại
vi khuẩn kể trên có sự biến động rất lớn so với nái khoẻ mạnh sau đẻ.
4. Các vi khuẩn và tập đoàn vi khuẩn trong dịch viêm tử cung lợn nái
có tỷ lệ mẫn cảm cao với Enrofloxacin, Norfloxacin, Amoxycillin, và hầu nh
không mẫn cảm hoặc mẫn cảm rất ít với Streptomycin và Penicillin.
5. Việc phòng bệnh Viêm tử cung cho lợn nái đặc biệt là nái sau khi đẻ
đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Lợn nái không bị viêm tử cung, thời gian
động dục trở lại ngắn, tỷ lệ phối lần đầu có chửa cao, năng suất sinh sản đợc
tăng lên.
6. Các phác đồ điều trị thử nghiệm của chúng tôi cho thấy hiệu quả điều
trị của ba phác đồ là rất cao nhng tốt nhất và hiệu quả nhất là phác đồ 3 (có sử
dụng kháng sinh là Rtd-amoxy-LA).
5.2. Đề nghị
1. Tiếp tục nghiên cứu đề tài về bệnh Viêm tử cung ở lợn với các nội
73
dung: sự ảnh hưởng của các yếu tố chăn nuôi đến tỷ lệ mắc bệnh Viêm tử
cung, các biện pháp phòng bệnh Viêm tử cung ở lợn nái.
2. Cần có các biện pháp đào tạo đội ngũ dẫn tinh viên có tay nghề giỏi
để phát huy tính ưu việt của phương pháp thụ tinh nhân tạo mà vẫn không ảnh
hưởng tới tỷ lệ mắc bệnh Viêm tử cung.
3. Áp dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tế sản xuất để nâng cao
năng suất sinh sản của lợn nái ngoại.
74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Nguyễn Xuân Bình (2005), Phòng trị bệnh lợn nái, lợn con, lợn thịt,
NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
2. Lê Xuân Cương (1986), Năng suất sinh sản của lợn nái, NXB Khoa học
Kỹ thuật.
3. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, NXB Nông
nghiệp Thành phố HCM.
4. Lê Thị Ngọc Diệp (1999), ”Thuốc chống vi khuẩn – phân loại – cơ chế
- tác dụng - sự kháng thuốc và ứng dụng trong chăn nuôi thú y”.
Chuyên đề giảng dạy sau đại học, chuyên nghành thú y, Trường Đại
học Nông nghiệp.
5. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Giáo
trình sinh sản gia súc, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
6. Trần Tiến Dũng (2004), “Kết quả ứng dụng Hormone sinh sản điều trị
hiện tượng chậm động dục lại sau đẻ ở lợn nái”. Tạp chí KHKT Nông
nghiệp, tập 2 số 1.
7. Khuất Văn Dũng (2005), Thực trạng khả năng sinh sản và hiện tượng rối
loạn sinh sản, ứng dụng hormone và chế phẩm hormone điều trị một vài
hiện tượng rối loạn sinh sản trên đàn bò cái Redsindhy nuôi tại nông
trường Hữu Nghị Việt Nam - Mông Cổ, Ba Vì Hà Tây, Luận văn thạc sĩ
Nông nghiệp, Trường ĐHNNI, Hà Nội.
8. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ, Huỳnh Văn Kháng
(2000), Bệnh ở lợn nái và lợn con, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
9. Mai Lâm Hạc (2006), Nghiên cứu đánh giá số lượng, chất lượng tinh dịch
và một vài giải pháp kỹ thuật chăn nuôi thú y góp phần nâng cao năng
75
suất sinh sản của lợn đực giống ngoại dùng trong kỹ thuật thụ tinh nhân
tạo, Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội
10. Hoàng Tích Huyền (1997), Hướng dẫn sử dụng thuốc kháng sinh, NXB Y
học, Hà Nội.
11. Hoàng Tích Huyền, Đào Văn Phan, Nguyễn Trọng Thông (2001), Giáo
trình dược lý học, NXB Y học, Hà Nội.
12. Hoàng Thị Kim Huyền, Hoàng Thị Minh Châu (2001), Dược lâm sàng và
điều trị, NXB Y học, Hà Nội.
13. Lê Hồng Mận (2007), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
14. Hồ Văn Nam, Nguyễn Văn Thanh (1999), “Kết quả nghiên cứu sự thay đổi
một số chỉ tiêu sinh lý lâm sàng của trâu mắc các thể Viêm tử cung”, Kết
quả nghiên cứu KHKT Khoa CNTY 1996 – 1998, NXB Nông nghiệp, Hà
Nội.
15. Lê Văn Năm, Trần Văn Bình, Nguyễn Thị Hương (1997), Kinh nghiệm
phòng và trị bệnh lợn cao sản, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
16. Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000), Bệnh sinh sản gia súc, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
17. Nguyễn Vĩnh Phước (1974), Giáo trình vi sinh vật thú y, tập I, tập II, NXB
Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
18. Lê Văn Tạo, Khương Bích Thuỷ, Nguyễn Thị Vui, Đào Thị Băng Tâm (1993),
“Xác định yếu tố di truyền bằng Plasmid của vi khuẩn E. coli để chọn giống
sản xuất vacxin phòng bệnh lợn con phân trắng”, Kết quả nghiên cứu khoa học
kỹ thuật thú y, 1990 – 1991, Viện thú y, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
19. Nguyễn Như Thanh, Nguyễn Bá Hiên, Trần Thị Lan Hương (1997), Vi sinh vật
thú y, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
76
20. Nguyễn Văn Thanh (1999), Một số chỉ tiêu sinh sản và bệnh đường sinh dục cái
thường gặp ở đàn trâu các tỉnh phía bắc Việt Nam, Luận án tiến sỹ Nông
nghiệp, Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Thanh (2003), "Khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung trên đàn lợn
nái ngoại nuôi tại ĐBSH và thử nghiệm điều trị", Tạp chí KHKT thú y, tâp 10.
22. Bùi Thị Tho, Trần Công Hoà, Nguyễn Khắc Tích (1995), “Một số bệnh thường
gặp trên đàn lợn nái giống Yorkshire, Landrace nuôi tai xí nghiệp giống vật
nuôi Mỹ Văn - Tỉnh Hải Hưng” Kỷ yếu kết quả nghiên cứu khoa học Khoa
CNTY 1991 - 1995. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
23. Bùi Thị Tho, Phạm Khắc Hiếu (1995), “Kiểm tra một số yếu tố ảnh hưởng tới
tính mẫn cảm và kháng thuốc của E. coli phân lập từ bệnh lợn con phân trắng”,
Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Tập II số 4.
24. Bùi Thị Tho (1996), Nghiên cứu tác dụng của một số thuốc hoá học trị
liệu và phytoncid đối với E. coli phân lập từ bệnh lợn con phân trắng,
Luận án PTS KHNN, Hà Nội.
25. Bùi Thị Tho (2003), Thuốc kháng sinh và nguyên tắc sử dụng trong chăn
nuôi, NXB Hà Nội.
26. Huỳnh Thị Kim Thoa (1996), “Kháng sinh nhóm Quinolon”, Chuyên đề
sau đại học, Trường Đại học Dược Hà Nội.
27. Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, NguyễnVăn Tó (2005), Hướng dẫn chăn
nuôi lợn trong gia đình, NXB Lao động, Hà Nội
28. Đinh Bích Thuỷ, Nguyễn Thị Thạo (1995), “Nghiên cứu độ nhạy cảm với
kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy ở lợn”, Tạp chí KHKT thú y,
Tập II số 3
29. Lê Trần Tiến (2006), Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu phi lâm sàng,
vi khuẩn học và thử nghiệm điều trị bệnh viêm tử cung ở bò sữa, Luận văn
thạc sĩ nông nghiệp, Trường ĐHNNI, Hà Nội.
77
30. Đặng Đình Tín (1985), Giáo trình sản khoa và bệnh sản khoa thú y, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
31. Đặng Đình Tín (1986), Sản khoa và bệnh sản khoa thú y, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
32. Đặng Công Trung (2007), Thực trạng bệnh viêm tử cung của đàn lợn nái
ngoại nuôi theo hình thức trang trại ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh và
thử nghiệm điều trị, Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông
nghiệp I, Hà Nội
33. Phạm Thị Xuân Vân (1982), Giáo trình giải phẫu gia súc, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
34. Athur G.H (1964), Wrights Veterinary obsterics, The Williams and
Wilkins Company.
35. Bonadonna. T, Roychudhury. N; Nelli. A, Pedron. G, (1972), Proceedings
7
th
Congress on Anim, Reprod. and A.I. Munich, 1561 – 1567.
36. Chuffaux S.Y., Recorbet Y., Baht P., Crespean F. and Thibier M. (1987),
“Biopsies de l’endometre au cours dupost – partum pathologique
chezlavache”, Rec. Med. Vet, 163, pp. 199 – 209.
37. Mekay. W.M. (1975), “The use of antibiotices in animal feeds in the United
Kingdom, The impact and importance of legislative controls. Worlds pautry”,
Sciences jounal 31. 116 – 28. (A rejoinder to the orevieww of Smith. Sebelow,
Arguing Strongly that there is no Cause for concern).
38. Settergreen. I (1986-a), “Some infertility problems in dairy cattle”,
Technical Management A.I. Programmes. Swedish University of
Agricutural Sciences. Uppsala Sweden.
39. Settergreen. I (1986-b), “Investigation on infetious infertility diseases in
bovine, especcialy vibriosis and trichomoniasis in Indian”. Technical
78
Management A.I. Programmes, Swedish University of Agricutural
Sciences. Uppsala Sweden.
79
PHỤ LỤC
Lợn nái bị viêm tử cung
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp ………………………i
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CH2244.pdf