NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
48 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
Nghiên cứu ảnh hưởng của một số thành phần hỗn hợp
sơn khuôn hệ Manhezit đến chất lượng khuôn đúc
Studying the effects of some components of the mixture of Manhezit
paints on the molding quality
Nguyễn Thị Hồng Nhung
Email: hongnhungsaodo@gmail.com
Trường Đại Học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 14/4/2020
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 26/6/2020
Ngày chấp nhận đĕng: 30/6/2020
Tóm tắt
B
7 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 371 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của một số thành phần hỗn hợp sơn khuôn hệ Manhezit đến chất lượng khuôn đúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài báo này nghiên cứu ảnh hưởng của một số thành phần hỗn hợp sơn khuôn hệ Manhezit đến chất
lượng khuôn đúc. Chất lượng của hỗn hợp sơn khuôn Manhezit phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng chủ
yếu vẫn là thành phần MgO, chất độn, chất kết dính và dung môi. Kết quả nghiên cứu cho thấy hỗn hợp
sơn khuôn có thành phần gồm 200 g MgO -5 g CaO -10 g nhựa thông với dung môi pha là 200 g toluen
có cấu trúc hạt thô, xốp và hổng khí, độ bền nhiệt thấp, dính bám cát, cấu trúc nền thép sát lớp hỗn hợp
sơn khuôn thô, ráp, hổng khí, không đều và không có trật tự; hỗn hợp sơn khuôn có thành phần gồm 200
g MgO -10 g Al2O3-15 g bentonit -10g nhựa thông với dung môi pha là 200 g cồn có cấu trúc hạt mịn, lớp bề mặt tạo spinen bền chắc, độ bền nhiệt cao ổn định, cấu trúc lớp thép sát lớp hỗn hợp sơn khuôn có
tinh thể mịn, đều sắp xếp trật tự.
Từ khóa: Hỗn hợp sơn khuôn; chất lượng bề mặt khi sử dụng hỗn hợp sơn; cấu trúc của lớp bề mặt
khi sơn.
Abstract:
The quality of casting magnesite coating mixture depends on the factors, mainly are MgO composition,
padding, agglutinative substances and diluting solvent. This work has been studied casting magnesite
coating mixtures, focussing on the influence of MgO composition, padding, agglutinative substances and
diluting solvent. The coating mixtures of 200 g MgO - 5 g CaO - 10 g pine resin and 200 g toluene or MgO
- bentoníte - pine resin and benzene or alcohol, forming coarse & rough grain microstructures,gas holes.
Heat resistance of mixtures is low. The agglutinations of sand are formed. Microstructure of steel matrix
below mixture is coarse and irregular. The coating mixtures of 200 g MgO -10 g Al2O3 - 15 g bentonite - 10 g pine resin and 200 g benzene or alcohol, forming fine grain microstructures, without gas holes. Surface
layer of mixture is formed durable spinel. Heat resistance of mixtures is high and stable. Microstructure of
steel matrix below mixture is smooth and regular.
Keywords: Paint mixture; the structure of the surface layer when painting; the surface quality when using
the paint mixture.
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Chất lượng và bề mặt của sản phẩm đúc phụ thuộc
nhiều ở vật liệu và chất luợng làm khuôn như cát
và chất sơn khuôn đúc [1-3]. Để có được sản phẩm
đúc chất lượng người ta đã sử dụng công nghệ
và vật liệu đúc tiên tiến như đúc mẫu tự thiêu, cát
furan, mẫu hóa hơi... [4-6], nhưng vẫn không thể
thiếu được chất sơn khuôn để bảo vệ bề mặt khuôn
và nâng cao chất lượng đúc [4-8]. Với những loại
khuôn cát nhựa furan, khuôn cát trắng nước thuỷ
tinh - CO2... đang phổ biến ở Việt Nam người ta
thường sử dụng loại hỗn hợp sơn khuôn khô nhanh
với dung môi pha là cồn công nghiệp, toluen, xĕng
hoặc dầu hỏa... [3]. Chất lượng bề mặt của chi tiết
gang, thép đúc; đặc biệt là thép hợp kim crôm,
Người phản biện: 1. GS.TS. Trần Vĕn Địch
2. TS. Trần Hải Đĕng
LIÊN NGÀNH CƠ KHÍ - ĐỘNG LỰC
49Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
mangan bền nhiệt, chịu mài mòn phụ thuộc nhiều ở
lớp màng sơn phủ ngĕn cách giữa khuôn cát và chi
tiết đúc. Một số kết quả nghiên cứu trong thời gian
qua đã đạt được về thành phần hỗn hợp, chất kết
dính, dung môi ảnh hưởng đến chất lượng sơn và
bề mặt chi tiết thép hợp kim đúc [1-3,9].
Kết quả nghiên cứu của bài báo sẽ làm rõ thêm
ảnh hưởng của thành phần hỗn hợp và dung môi
pha đến cấu trúc và các tính chất cơ lý của lớp sơn
khuôn từ hỗn hợp manhezit.
2. XÁC ĐỊNH HỖN HỢP SƠN KHUÔN
Mục đích của đề tài là nghiên cứu ảnh hưởng của
một số hỗn hợp sơn khuôn, nên vấn đề đặt ra có
thể lựa chọn hỗn hợp (MgO) - Al2O3 - bentonit - nhựa thông - cồn (hoặc xĕng).
Sự cháy dính bám cát khuôn vào vật đúc là do
phản ứng hoá lý giữa các oxit kim loại với cát làm
khuôn. Khi rót gang, thép lỏng vào khuôn cát, trên
bề mặt kim loại lỏng tạo thành một lớp oxit sắt FeO
có nhiệt độ nóng chảy thấp, lớp oxit này dễ dàng
thấm ướt bề mặt các hạt cát và dướI tác dụng của
áp suất mao dẫn có thể thấm sâu vào trong các
lỗ của thành khuôn tác dụng với các hạt cát SiO2 tạo ra những chất lỏng dễ chảy và di động, có thể
thấm sâu vào trong khuôn cát như các silicat sắt,
mangan theo các phản ứng sau [2, 3,9 ]:
/ Fe / + 1/2 O2(g) = (FeO) (1)
(FeO) + ( SiO2)cát = (FeO.SiO2) (2)
/ Mn / + 1/2O2(g) = (MnO) (3)
Lượng oxit kim loại trong lớp cháy dính bám cát
nhiều thì lớp này có cấu tạo vô định hình dạng kính
và dễ tách ra khỏi vật đúc. Lớp cháy dính cát nào
có lượng oxit kim loại không nhiều lắm thì có cấu
tạo tinh thể và khó tách khỏi bề mặt vật đúc.
Độ chịu nhiệt của hỗn hợp sơn khuôn phụ thuộc
nhiều vào các hạt phân tán trong hỗn hợp sơn
khuôn, độ chịu nhiệt của vật liệu phải cao hơn nhiệt
độ chảy (T
c
) của thép rót vào khuôn. Hỗn hợp sơn
khuôn thường dùng là các vật liệu chịu lửa cao như:
silicat zeconit (ZrO2.SiO2,Tc= 1900oC), manhezit (MgO, T
c
= 1900oC). Thành phần hạt của các hỗn
hợp sơn khuôn là những phần tử vật liệu không
nóng chảy và khuếch tán, thường là các chất vô
cơ bền hoá ở nhiệt độ cao và có hoạt tính yếu với
kim loại rót vào khuôn; thường là crôm manhezit,
manhezit, zeconit
Các thép CrNi, CrMn ở nhiệt độ đúc thường tạo ra
các oxit phức kim loại với nhiệt độ chảy cao gần
1723oC, nên cần nghiên cứu tìm ra được hỗn hợp
sơn khuôn có nhiệt độ nóng chảy cao hơn 1750oC,
ảnh hưởng tốt đến cấu trúc và cơ lý tính lớp sơn
khuôn. Trong nghiên cứu này tập trung phân tích
hỗn hợp (MgO) - Al2O3- bentonit - nhựa thông - cồn (hoặc xĕng).
3. NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM LỰA CHỌN
HỖN HỢP SƠN KHUÔN MANHEZIT
Để nghiên cứu thử nghiệm lựa chọn hỗn hợp sơn
khuôn đúc manhezit hệ (MgO) - Al2O3- bentonit - nhựa thông - cồn (hoặc xĕng), đề tài đã tiến hành
thực nghiệm sơn các mẫu hỗn hợp trên khuôn cát
trắng - nước thuỷ tinh - CO2 để đúc các mẫu thép (hình 1).
Hình 1. Các mẫu sơn khuôn thực nghiệm manhezit
có so sánh với ZrO2.SiO2
Thành phần hỗn hợp sơn đưa ra trong bảng 2.
- Bột manhezit, thành phần MgO > 65%, ngoài ra
còn có tạp oxit của nhôm, sắt, canxi
- Nhựa thông: Thành phần hóa học của nhựa thông
gồm: 87÷90% là hỗn hợp của axit diterpene hay
còn gọi là axit nhựa, 10% là các chất trung tính và
3÷5% là các axit béo. Công thức phân tử của nhựa
thông có dạng C19H29COOH.
- Cồn công nghiệp 96o.
Quá trình nghiên cứu thực nghiệm đã sử dụng 4
loại dung môi pha (xem bảng 2) với thay đổi thành
phần hỗn hợp sơn khuôn theo tỷ lệ chất chịu nhiệt
và kết dính.
Hình 2. Các chi tiết đúc thép 28% Cr,
sử dụng hỗn hợp sơn khuôn M4, M6, M10
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
50 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
Bảng 1. Thành phần hóa học của chất sơn khuôn
Mẫu
Thành phần hóa học %
MgO SiO
2
Al
2
O
3
Fe
2
O
3
TiO
2
CaO P S Khác
M1 67,21 4,4 0,45 0,86 0,02 1,7 0,02 0,008
M2 68,22 4,7 0,47 0,91 0,02 1,25 0,01 0,006
M3 68,05 4,35 1,67 0,92 0,01 2,5 0,02 0,005
M4 69,15 4,44 0,48 0,90 0,01 1,85 0,04 0,002
M5 67,80 4,55 0,41 0,89 0,02 1,64 0,02 0,001
M6 67,25 9,5 4,51 3,2 0,01 3,15 0,03 0,002
M7 67,57 10,20 4,03 2,81 0,01 3,55 0,01 0,001
M8 66,85 11,25 3,73 2,38 0,01 3,84 0,02 0,002
M9 66,76 9,83 4,56 3,25 0,01 3,89 0,02 0,001
M10 66,80 10,02 4,35 3,67 0,02 3,56 0,02 0,002
Bảng 2. Thành phần hỗn hợp sơn khuôn đúc
Mẫu
Thành phần hỗn hợp sơn khuôn manhezit (g)
Chất kết dính Dung môi pha
MgO Al
2
O
3
Bentonit CaO Nhựa thông Cồn Xăng Dầu hỏa Xylen Toluen
M0 200 - - - 10 - 200 - - -
M1 200 5 10 - 10 - - 200 - -
M2 200 5 10 - 10 - - - 200 -
M3 200 - - 5 10 - - - - 200
M4 200 - - 5 10 200 - - - -
M5 200 - 10 - 10 200 - - - -
M6 200 - 10 - 10 - 200 - - -
M7 200 5 15 15 10 - 200 - - -
M8 200 10 - - 15 - - - 200 -
M9 200 10 15 - 10 200 - - - -
M10 200 - 15 - 15 - - - - 200
Bảng 3. Độ chịu nhiệt của các hỗn hợp sơn khuôn
Mẫu Môi trường Hình thái chịu nhiệt Độ co thắt (mm)
Bắt lửa không
bắt lửaoC Lò Đèn xì Biến mềm Phồng rộp Nứt Bong Cháy
M1 1550 x - x x x - x 3.0 bắt lửa
M2 1550 x x x x - x 3.5 bắt lửa
M3 1600 - x x x x - - 3.0 bắt lửa
M4 1550 x x x - - x 1.5 không bắt lửa
M5 1600 - x - - - - - 1.0 không bắt lửa
M6 1550 x - - - - - 0.0 bắt lửa
M7 1550 x - - - - - 0.0 bắt lửa
M8 1600 - x - - - - - 0.0 bắt lửa
M9 1600 - x - - - - - 0.0 không bắt lửa
M10 1600 - x - - - - - 0.2 bắt lửa
Ký hiệu
Ký hiệu
LIÊN NGÀNH CƠ KHÍ - ĐỘNG LỰC
51Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VÀ
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
4.1. Độ chịu nhiệt
Độ chịu nhiệt của hỗn hợp sơn khuôn cát được
tiến hành đo bằng phương pháp xác định độ biến
dạng nhiệt theo hình thái biến dạng bề mặt lớp hỗn
hợp sơn khuôn của mẫu 50×50 mm dưới ngọn lửa
của đèn xì axetyle và trong thép lỏng ở lò tần số
xem hình 3.
Từ bảng 2 và hình 4 cho thấy độ biến dạng nhiệt
của các mẫu hỗn hợp sơn khuôn cát biến đổi phụ
thuộc vào nhiều yếu tố. Lượng bentonit, nhựa thông
như thành phần độn, kết dính xê dịch trong khoảng
từ 10 đến 15 g/200 g MgO. Lượng CaO đưa vào từ
5 đến 15 g/200 g MgO. Lượng Al2O3 là thành phần độn với lượng xê dịch từ 5-10 g/200 g MgO.
Hỗn hợp sơn khuôn manhezit với độ mịn 15mm
được pha trong dung môi cồn, xĕng, dầu hoả, xylen
và toluen với lượng 200 g/200 g MgO.
Độ biến dạng nhiệt của các hỗn hợp sơn khuôn
được xác định, cho thấy trên hình 4.
Kết quả đo kiểm, xác định độ biến dạng nhiệt;
Các hỗn hợp sơn khuôn M1 hệ (MgO - Al2O3 - bentonit - nhựa thông) sử dụng dung môi pha là
(dầu hỏa) thì bề mặt sau khi sơn có hiện tượng biến
mềm, phồng rộp, cháy bề mặt làm cho bề mặt trở
nên sần sùi, độ chịu nhiệt thấp và không ổn định.
Các hỗn hợp sơn khuôn M2 hệ MgO - Al2O3 - bentonit - nhựa thông, sử dụng dung môi pha là
(xylen) đã có độ chịu nhiệt thấp và không ổn định
(xem hình 3, M1, 2).
Kết luận của M1 và M2 do sử dụng 2 dung môi (dầu
hỏa, xylen) này khó hoà tan nhựa thông.
Các mẫu hỗn hợp sơn khuôn M3 hỗn hợp sơn
khuôn hệ (MgO - CaO - nhựa thông), sử dụng
dung môi pha là (toluen). Có độ chịu nhiệt thấp,
không ổn định, các hiện tượng biến mềm, phồng
rộp, rạn nứt và cháy co bề mặt xảy ra ngay cả khi
ở nhiệt độ 1550oC (hình 3).
Hỗn hợp sơn khuôn M4 hệ (MgO - CaO - nhựa
thông), sử dụng dung môi pha là (cồn) thì bề mặt
chi tiết sau khi sơn có hiện tượng biến mềm,
phồng rộp và cháy đã hạn chế được hiện tượng
nứt và bong tróc, độ co thắt trên bề mặt giảm.
Hỗn hợp sơn khuôn M5 hệ (MgO - bentonit - nhựa
thông), sử dụng dung môi pha là (cồn) có độ chịu
nhiệt thấp, có các khuyết tật phồng rộp, nứt, cháy
nhỏ xảy ra (hình 3).
Hỗn hợp sơn khuôn M6 hệ (MgO - bentonit - nhựa
thông), sử dụng dung môi pha là (xĕng) hệ không
xuất hiện bong vẩy, cháy nứt và phồng rộp, độ co
thắt bề mặt bằng không ngay cả khi tiến hành sơn
ở nhiệt độ cao đến 1550oC.
Hỗn hợp sơn khuôn M7 hệ (MgO - Al2O3 - Bentonit - CaO - nhựa thông), sử dụng dung môi pha là
(xĕng) hệ không xuất hiện bong vẩy, cháy nứt và
phồng rộp, độ co thắt bề mặt bằng không ngay cả
khi tiến hành sơn ở nhiệt độ cao đến 1550oC và độ
ổn định tốt.
Hỗn hợp sơn khuôn M8 hệ (MgO - Al2O3 - nhựa thông) sử dụng dung môi pha là (xylen) bề mặt
không có hiện tượng cháy, phồng rộp và biến
mềm,có độ chịu nhiệt cao và ổn định, tuy nhiên
bề mặt sau khi sơn rất dễ bị ảnh hưởng của
môi trường tác động vào làm thay đổi trạng thái
(xem hình 3).
Hình 3. Kết quả đo độ biến dạng nhiệt
Hỗn hợp sơn khuôn M9 hệ (MgO - Al2O3 - Bentonit
- nhựa thông) sử dụng dung môi pha là (cồn) hầu
như không biến dạng ở các nhiệt độ, không bắt lửa
(hình 3).
Hỗn hợp sơn khuôn M10 hệ (MgO - bentonit - nhựa
thông) sử dụng dung môi pha là (toluen) hầu như
không biến dạng, tuy nhiên bề mặt vẫn xảy ra hiện
tượng co với mức độ nhỏ, và chi tiết khá dễ bắt lửa.
Độ chịu nhiệt cao được thể hiện ở bảng 3 của hỗn
hợp còn phụ thuộc vào dung môi pha (được thể
hiện bảng 2). Cồn và xĕng là những dung môi pha
đạt độ chịu nhiệt ổn định. Cồn tạo cho nhựa thông
tan nhanh, còn xĕng dễ dàng tạo huyền phù cho
hỗn hợp sơn khuôn và dễ dàng cả phun lẫn quét.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
52 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
Hỗn hợp sơn khuôn M9 (MgO - Al2O3 - bentonit -
nhựa thông) sử dụng dung môi pha là (cồn) là hỗn
hợp tốt nhất.
Từ hình 4 cho thấy hỗn hợp sơn khuôn silicat sử
dụng ở nhiệt có độ biến dạng nhiệt như các hỗn
hợp sơn khuôn manhezit, nhưng ở nhiệt độ cao thì
biến dạng tĕng nhanh liên tục, còn hỗn hợp sơn
khuôn manhezit thì tĕng chậm và sau đó gần như
không thay đổi ở độ biến dạng khoảng 1%. Kết quả
nghiên cứu này có thể so sánh với các kết quả đã
công bố [5, 6].
Xác định bằng tính toán thì hỗn hợp sơn khuôn
manhezit có độ bền nhiệt cao hơn hỗn hợp sơn
khuôn silicat tới hơn 2 lần.
Từ kết quả thực nghiệm cho thấy, từ mẫu M6 trở đi
đạt yêu cầu về độ chịu nhiệt của chất sơn khuôn.
Các hỗn hợp sơn khuôn của hệ MgO với bentonit
và nhựa thông (một số mẫu có thêm Al2O3) trong
dung môi pha là xĕng, cồn, dầu hỏa đều đạt tiêu
chuẩn [2].
So sánh độ co ngót khi sử dụng hỗn hợp sơn
khuôn, sơn hệ silicat có độ co lớn trên 2 lần so với
sơn khuôn MgO, bentonit, nhựa thông mà đề tài
đang tập trung nghiên cứu.
Hình 4. Độ biến dạng nhiệt của các hỗn hợp sơn
khuôn cát
Với hỗn hợp sơn khuôn mẫu M6, M7 không xuất
hiện bong vẩy, không tạo gợn và hổng khí, có độ co
ngót không đáng kể. Kết quả cho thấy độ co màng
sơn phủ ít, độ bền nhiệt ổn định cao.
Từ các kết quả thực nghiệm và nhận xét trên tác
giả đã mạnh dạn thử nghiệm nghiên cứu tập trung
vào bốn mẫu M2; M3; M7; M9. Để quan sát tổ chức
tế vi của bề mặt chi tiết sau khi sơn.
4.2. Hình thái của lớp hỗn hợp sơn khuôn
Hình thái của lớp hỗn hợp sơn khuôn được cho
thấy trên hình 5.
Hình 5 là ảnh SEM-EDS của mẫu hỗn hợp M3
gồm (200 g MgO - 5 g CaO - 10 g nhựa thông -
200 g toluen) cho thấy cấu trúc mặt gãy của lớp
hỗn hợp sơn khuôn.
Hình 5. Ảnh SEM-EDS mặt gãy của mẫu hỗn hợp
sơn khuôn
Hình 6. Ảnh cấu trúc hiển vi quang học của mẫu sử
dụng hỗn hợp sơn khuôn M2 tẩm thực hệ glyceregia
độ phóng đại 500x
Từ hình 5 cho thấy cấu trúc mặt gãy của lớp hỗn
hợp sơn khuôn không kín khít có những mảng
hổng lớn tích khí. Các hạt kết tinh không đều, thô
sắp xếp không có trật tự, dễ tách dời và bong tróc,
có thể các phần tử kết dính không tan lẫn, không
liên kết các hạt hỗn hợp, trong nền cấu trúc hình
thành như các sợi không nối các hạt lại với nhau.
Hình 6 là ảnh cấu trúc trên máy hiển vi quang học
của hỗn hợp sơn khuôn M2 hệ 200 g MgO - 5 g
Al2O3-10 g bentonit - 10 g nhựa thông - 200 g xylen. Cho thấy lớp hỗn hợp sơn khuôn rất xốp và có
nhiều lỗ hổng ảnh hưởng đến tác dụng che chắn
bề mặt, khống chế hiện tượng thâm nhập của kim
loại vào sâu trong khuôn cát qua những kẽ hở và lỗ
hổng và cát sẽ trôi ra từ khuôn tạo xỉ dính bám vào
bề mặt kim loại như trên hình 3.
Hình 7 là ảnh SEM-EDS của mẫu hỗn hợp M9
gồm 200 g MgO -10 g Al2O3- 15 g bentonit - 10 g nhựa thông - 200 g cồn. Cho thấy cấu trúc mặt gãy
của hỗn hợp sơn khuôn M9 kín khít, bền chắc tạo
spinen ổn định có tác dụng không cho kim loại lỏng
và xỉ thâm nhập vào khuôn cát và ngược lại không
cho cát trôi ra từ khuôn tạo dính bám cát vào bề
mặt kim loại. Kết quả nghiên cứu cấu trúc của lớp
LIÊN NGÀNH CƠ KHÍ - ĐỘNG LỰC
53Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
spinen hỗn hợp sơn khuôn M9 được cho thấy trên
hình 8. Từ hình 8 cho thấy lớp sơn phủ có cấu trúc
với những hạt mịn khít, xếp đều trên bề mặt kim
loại khác với mẫu M3.
Từ kết quả nghiên cứu này tác giả đã sử dụng hỗn
hợp sơn khuôn M7 và M9 với dung môi pha là cồn
hoặc xĕng để sơn khuôn cho đúc các xyclon từ
thép chịu nhiệt crôm (xem hình 2: M7, M9).
Hình 7. Ảnh SEM-EDS của mẫu hỗn hợp
sơn khuôn M9
Hình 8. Ảnh cấu trúc hiển vi quang học của mẫu sử
dụng hỗn hợp sơn khuôn M9, tẩm thực hệ glyceregia,
độ phóng đại 100x
Từ hình 5 cho thấy các lớp hỗn hợp sơn khuôn
đã thể hiện rõ vai trò chịu nhiệt, che chắn bề mặt
để không gây phản ứng cháy cát dẫn đến dính
bám vào sản phẩm thép đúc. Những hỗn hợp
sơn khuôn chất lượng M7, M8, M9 của hệ MgO
- Al2O3 - bentonit - nhựa thông - cồn (hoặc xĕng)
đã tạo được lớp bền chắc phủ trên bề mặt khuôn
không thấm khí tạo hổng, tạo sức cĕng bề mặt
co màng sơn. Lớp hỗn hợp sơn khuôn tạo spinen
bền chắc, kín khít khống chế các phản ứng cháy,
tạo xỉ, khống chế dò dỉ thép và cát chộn lẫn làm
hỏng sản phẩm đúc.
Từ hình 8 cho thấy các lớp hỗn hợp sơn khuôn
đã thể hiện rõ vai trò chịu nhiệt, che chắn bề mặt
để không gây phản ứng cháy cát dẫn đến dính
bám vào sản phẩm thép đúc. Những hỗn hợp sơn
khuôn chất lượng M7, M8, M9 của hệ MgO - Al2O3 -
bentonit - nhựa thông - cồn (hoặc xĕng) đã tạo được
lớp bền chắc phủ trên bề mặt khuôn không thấm khí
tạo hổng, tạo sức cĕng bề mặt co màng sơn. Lớp
hỗn hợp sơn khuôn tạo spinen bền chắc, kín khít
khống chế các phản ứng cháy, tạo xỉ, khống chế rò rỉ
thép và cát trộn lẫn làm hỏng sản phẩm đúc.
Lớp hỗn hợp sơn khuôn kiểu M3, hệ MgO - CaO
- nhựa thông (dung môi dầu, xylen, toluen) xốp,
hổng, không mịn, không kín khít trên bề mặt đã ảnh
hưởng đến cấu trúc lớp thép sát với lớp hỗn hợp
sơn khuôn cũng thô, ráp, không đều và không có
trật tự.
Lớp hỗn hợp sơn khuôn M7, M9, hệ MgO - Al2O3 -
bentonit - nhựa thông (dung môi pha là cồn, xĕng)
tạo ra được spinen bền chắc, mịn, khít che kín bề
mặt khuôn đã làm cho nền thép sát với lớp hỗn hợp
sơn khuôn có cấu trúc tinh thể mịn, đều và trật tự,
đây là bề mặt chất lượng và hoàn chỉnh.
Kết quả nghiên cứu về hình thái, cấu trúc của lớp
hỗn hợp sơn khuôn đã bổ sung thêm cho kết quả
và đánh giá kết quả về độ chịu nhiệt của hỗn hợp
sơn khuôn ở bảng 3 và đã làm sáng tỏ những yếu
tố ảnh hưởng đến chất lượng của hỗn hợp sơn
khuôn manhezit cho đúc thép hợp kim.
5. KẾT LUẬN
- Độ chịu nhiệt của hỗn hợp sơn khuôn manhezit
phụ thuộc vào thành phần MgO, chất độn, chất kết
dính và dung môi pha.
- Hỗn hợp sơn khuôn có thành phần gồm 200 g
MgO - 5 g CaO - 10 g nhựa thông với dung môi pha
là 200 g toluen có cấu trúc hạt thô, xốp và hổng
khí, độ bền nhiệt thấp, dính bám cát, cấu trúc nền
thép sát lớp hỗn hợp sơn khuôn thô, ráp, hổng khí,
không đều và không có trật tự.
- Hỗn hợp sơn khuôn hệ (MgO - Al2O3- bentonit -
nhựa thông) có độ chịu nhiệt thấp không ổn định.
- Hỗn hợp sơn khuôn có thành phần gồm 200 g
MgO - 10 g Al2O3 - 15 g bentonit - 10 g nhựa thông
với dung môi pha là 200 g cồn có cấu trúc hạt mịn,
lớp bề mặt tạo spinen bền chắc, độ bền nhiệt cao
ổn định, cấu trúc lớp thép sát lớp hỗn hợp sơn
khuôn có tinh thể mịn, đều sắp xếp trật tự
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
54 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tô Duy Phương (2005), Tuyển tập báo cáo
khoa học tổng kết đề tài cấp Viện Khoa học
vật liệu.
[2] Tô Duy Phương (2006), Tuyển tập báo cáo
khoa học tổng kết đề tài cấp T.P. Hà Nội.
[3] Tô Duy Phương (2007), Tuyển tập báo
cáo khoa học tổng kết đề tài cấp Bộ
Công Thương.
[4] Ulrich J, (1987), Vysokoteplotni vlastnosti
naterovych hmot pro liti ocelovychs odlitku,
Slevarenstvi XXXV, Vol.10, pp. 422-424.
[5] Hruby K, (1986), Zdokonaleni natery na
formy... litiny, SVUM Brno,Vol. 1.
[6] Hruby K, (1985), Natery na formy... tezke
odlitky, SVUM Brno.
[7] Ulrich J, (1987), Ochranny ucinek naterovych
hmot forem a jader litiny, Slevarenstvi
XXXV, Vol.10, pp. 235-240.
[8] Hodgkinson N. A, (1999), Proc. of 40th Indian
Foundry Congress, Calcutta Jan, Vol.6, pp.
23-26.
[9] Abasev V. K. (1979), Reakce plynu
s povrchem smesi, Slevarenstvi
XXVII,Vol.11,pp. 480-481.
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Hồng Nhung
- Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo,
nghiên cứu):
+ Năm 2007: Tốt nghiệp Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, chuyên ngành Luyện kim màu
và luyện kim bột, khoa Khoa học & Kỹ thuật vật liệu.
+ Năm 2012: Tốt nghiệp Thạc sĩ khoa học, chuyên ngành Khoa học & Kỹ thuật vật liệu,
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
- Tóm tắt công việc hiện tại: Giảng viên khoa Cơ khí, Trường Đại học Sao Đỏ.
- Lĩnh vực quan tâm: Vật liệu.
- Email: hongnhungsaodo@gmail.com.
- Điện thoại: 0944183794.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_anh_huong_cua_mot_so_thanh_phan_hon_hop_son_khuon.pdf