BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Võ Thị Mỹ Hạnh
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT
LÊ LỰU
Chuyên ngành : Lí luận Văn học
Mã số : 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHÙNG QUÍ NHÂM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Võ Thị Mỹ Hạnh
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT
LÊ LỰU
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
126 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2521 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Đề tài này được hồn thành dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ
tận tình của PGS.TS Phùng Quí Nhâm cùng sự đĩng gĩp ý kiến
của các Giáo sư – Tiến sĩ phản biện, các bạn đồng nghiệp.
Chúng tơi xin chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ quí báu đĩ.
Dù đã hết sức cố gắng, nhưng vì khả năng và thời gian
cĩ hạn nên đề tài khơng tránh khỏi những thiếu sĩt, kính mong
nhận được sự đĩng gĩp ý kiến chân thành của các Giáo sư –
Tiến sĩ và các bạn đồng nghiệp.
Người thực hiện
Võ Thị Mỹ Hạnh
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Văn học Việt Nam từ buổi sơ khai đến nay đã trải qua nhiều thời
kì. Mỗi thời kì đều để lại dấu ấn riêng với những tác giả tác phẩm sống mãi
trong lịng bao thế hệ độc giả. Hịa trong cơng cuộc đổi mới đất nước, văn học
sau 1975 cũng đổi mới tư duy nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật tiểu thuyết.
Nếu như nền văn học cách mạng của ta trong suốt ba mươi năm (1954-1975)
đã khơi dậy và phát triển cao độ ý thức cộng đồng dân tộc mà cốt lõi là tinh
thần yêu nước, tinh thần dân tộc, và ý thức giai cấp thì sau 1975; khi đất nước
hịa bình, cuộc sống đã trở lại với qui luật bình thường, con người lại trở về
với muơn mặt của đời sống thường nhật, phải đối diện với bao nhiêu vấn đề
trong một giai đoạn cĩ nhiều biến động, đổi thay đã thức tỉnh ý thức cá nhân;
địi hỏi phải cĩ sự quan tâm đến từng con người, từng số phận, văn học phải
đáp ứng nhu cầu đĩ. Do vậy, tiểu thuyết thời kì đổi mới cĩ những chuyển biến
phong phú, đa dạng, làm nĩng lại khơng khí cĩ phần lặng lẽ của tiểu thuyết
giai đoạn trước. Con đường đổi mới này dẫu cịn nhiều thử thách, dẫu chưa
thật hồn thiện nhưng chúng ta thấy cũng đã phần nào định hình.Trên con
đường ấy, cĩ thể nĩi, Lê Lựu là một trong những tác giả đặt những bước chân
đầu tiên để lại dấu ấn sau đậm trong lịng người đọc với Thời xa vắng, tiểu
thuyết đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam. Tác phẩm đã gây được
tiếng vang, thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu văn học về việc đổi
mới tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết. Độc giả đã biết đến Lê Lựu từ trước
“Thời xa vắng” với những truyện ngắn làm rung động lịng người như: Trong
làng nhỏ, Người cầm súng, Chuyện kể từ đêm trước, Người về đồng cĩi, Quê
hương người lính… và quyển tiểu thuyết đầu tiên: Mở rừng. Nhưng phải đến
Thời xa vắng thì Lê Lựu mới thật sự trở thành một hiện tượng. Người ta thấy
khắp nơi diễn đàn về “Thời xa vắng”. Anh chàng nhà quê Giang Minh Sài của
nhà văn đi vào tận các ngõ ngách của cuộc sống, hắn vượt cả biên giới, ra
khỏi địa phận nước Việt. Cĩ thể nĩi Lê Lựu đã thành cơng vang dội. Sau
thành cơng ấy, ơng vẫn miệt mài lao động và những đứa con tinh thần của ơng
lại lần lượt ra đời như : Đại tá khơng biết đùa (1989), Chuyện làng Cuội
(1991), Sĩng ở đáy sơng (1995), Chuyện hai nhà (2000). Tất nhiên, khơng
phải những tác phẩm của ơng đều thành cơng, đều là những đỉnh cao của văn
học nhưng khơng thể phủ nhận rằng sáng tác của ơng đều thể hiện tinh thần
miệt mài lao động, sự nghiêm túc của nhà văn trên con đường tìm tịi, sáng
tạo hướng đi mới cho tiểu thuyết. Trong từng tác phẩm ơng đã thể hiện sự đổi
mới của mình ở nhiều gĩc độ. Chính sự đổi mới ấy đã gĩp phần đem đến cho
văn học những hình tượng mới lạ về người lính trong chiến tranh, người lính
trong đời thường và những hiện tượng nĩng bỏng đang được quan tâm trong
xã hội.
Trong quá trình lao động miệt mài, nghiêm túc, Lê Lựu đã khẳng định
mình ở nhiều thể loại như : tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, tạp văn… Thành
quả nghệ thuật của ơng được khẳng định trong một loạt giải thưởng như: giải
nhì hội thi truyện ngắn báo Văn Nghệ 1967-1968 (khơng cĩ giải nhất) với
truyện ngắn Ngươi cầm súng, giải A cuộc thi viết về thương binh của Hội nhà
văn, Bộ thương binh với truyện Người về đồng cĩi. Đặc biệt với giải thưởng
của Hội nhà văn dành cho Thời xa vắng, đã cĩ hàng loạt bài phát biểu về tiểu
thuyết của ơng. Cĩ thể nĩi Lê Lựu đã trở thành cây bút của văn chương
đương đại được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Vậy cái gì đã tạo nên sự
thành cơng cho Lê Lựu? Cĩ rất nhiều yếu tố, trong đĩ theo tơi khơng thể
khơng kể đến nghệ thuật xây dựng tác phẩm của tác giả mà cụ thể là nghệ
thuật trần thuật của ơng. Tuy nhiên, ở gĩc độ thi pháp thì chưa cĩ cơng trình
nghiên cứu một cách hệ thống tác phẩm của ơng mà chỉ khai thác ở vài khía
cạnh trong các bài viết tản mác.
Nhìn chung, sáng tác của Lê Lựu khơng phải tất cả đều là đỉnh cao, là
kiệt tác nhưng nĩ cĩ sức hấp dẫn riêng làm cho người đọc đã chạm vào rồi thì
khĩ mà dứt ra được hay nĩi như Trần Đăng Khoa “Lê Lựu biết cuốn hút
người đời bằng một thứ văn khơng nhạt. Ngay cả những truyện xồng xồng,
người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đấy, cĩ khi là một chi tiết, một đoạn
tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách nhân vật” [51,tr.80]. Lê Lựu cĩ một
vị trí khá quan trọng trong thời kì đổi mới văn học, tác phẩm của ơng xứng
đáng được nghiên cứu riêng biệt trong một cơng trình. Vì vậy, trong luận văn
này, chúng tơi sẽ vận dụng một số kiến thức về Lí luận văn học và văn học
thời kì đổi mới mà bản thân lĩnh hội được trong quá trình học tập để tìm hiểu,
sắp xếp, hệ thống các vấn đề cĩ liên quan đến nghệ thuật xây dựng tiểu
thuyết của Lê Lựu mong chỉ ra được một số nét nổi bật trong phong cách trần
thuật của nhà văn nhằm gĩp phần vào việc nghiên cứu tác phẩm của ơng một
cách sâu sắc hơn, tồn diện hơn. Hy vọng rằng,với luận văn này, chúng tơi cĩ
thể đĩng gĩp một phần nhỏ trong cơng trình nghiên cứu chung về Lê Lựu để
thấy được đĩng gĩp của nhà văn đối với văn học dân tộc trong quá trình đổi
mới tiểu thuyết cũng như gĩp phần nhìn nhận vị trí của nhà văn trong văn học
đương đại.
2. Giới hạn đề tài:
Lê Lựu cĩ vị trí khá vững chắc trong lịng bạn đọc bởi qúa trình
sáng tác tương đối dày với hàng loạt tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau
trong nhiều giai đoạn khác nhau, ở những chủ đề khác nhau. Nhưng do hạn
chế về mặt thời gian cũng như khả năng nghiên cứu nên người viết chỉ tập
trung khảo sát các tiểu thuyết:
- Mở rừng (1975)
- Ranh giới (1979)
- Thời xa vắng (1986)
- Đại tá khơng biết đùa (1989)
- Chuyện làng Cuội (1991)
- Sĩng ở đáy sơng (1995)
- Hai nhà (2000)
3. Lịch sử vấn đề:
3.1 Phần mở đầu:
Cái tên Lê Lựu đã khơng cịn xa lạ với độc giả. Ơng là nhà văn sáng
tác ở nhiều thể loại và khá thành cơng. Là nhà văn mang đặc chất quê nhưng
kì thực vốn sống của ơng vơ cùng phong phú với kho tàng là sự trải đời lọc
lõi. Ơng thuộc lớp nhà văn quân đội, ra đời và trưởng thành trong thời kì
chống Mĩ cứu nước. Người đọc biết đến tên Lê Lựu với tác phẩm trình làng
Tết làng mụa (1964). Sau đĩ là các truyện ngắn: Người cầm súng, Phía mặt
trời, Chuyện kể từ đêm trước… và đến Người về đồng cĩi thì ơng đã thật sự
tạo được dấu ấn trong lịng độc giả. Đây cũng là tác phẩm đoạt giải trong cuộc
thi viết về thương binh của Hội nhà văn và Bộ thương binh. Hơi hướng tiểu
thuyết đã xuất hiện trong những truyện ngắn của ơng như dự báo một thành
cơng xa hơn nữa và mọi người vẫn khắc khoải mong chờ một tiếng vang, một
bước nhảy xa hơn nữa ở Lê Lựu. Khơng phụ lịng độc giả, quyển tiểu thuyết
đầu tiên của ơng ra đời, đĩ là Mở rừng (1975). Đây là quyển tiểu thuyết đề tài
chiến tranh cĩ thể nĩi là khá thành cơng. Tác giả xây dựng hình ảnh một cuộc
chiến oai hùng nhưng cũng khơng kém phần bi thảm của các chiến sĩ Trường
Sơn. Tác phẩm đã phần nào tạo được dấu ấn riêng, mới mẻ. Trong thời điểm
bấy giờ, Mở rừng ra đời thể hiện một cách nhìn nhận hiện thực cĩ phần
mạnh dạn của nhà văn so với xu thế thời đại là sự náo nức của lịng người
trước chiến thắng vang dội 1975. Tuy nhiên để cĩ được Lê Lựu trong lịng
người đọc lúc bấy giờ và cho đến mai sau thì phải nĩi đến Thời xa vắng. Nĩ là
đứa con ngoan của nhà văn. Đứa con này đã đem đến nét mới mẻ thật sự đã
được nhen nhuốm từ Mở rừng. Cái Thời xa vắng rất gần ấy đã làm xơn xao dư
luận. Ở đâu cũng nghe thời xa vắng, ở đâu cũng thấy Giang Minh Sài, thậm
chí Lê Lựu cịn được gọi là cu Sài!
Lê Lựu thuộc kiểu nhà văn viết bền. Sau thành cơng của Thời xa vắng
ơng khơng dừng lại, tự mãn mà vẫn đi tiếp con đường mình đã mở dù cho khá
chơng gai, chơng gai như bước chân của những chiến sĩ mở đường Trường
Sơn. Họ vẫn đi vì ngày mai tươi sáng. Lê Lựu cũng cĩ niền tin ấy, lịng dũng
cảm ấy, ơng cũng là người lính mà! Ơng bền chí ơ cơng việc thay đổi cách
viết tiểu thuyết của mình. Vì vậy, Đại tá khơng biết đùa, Chuyện làng Cuội,
Sĩng ở đáy sơng, Hai nhà tiếp tục ra đời. Tất nhiên khơng phải tất cả đều
thành cơng nhưng mỗi tác phẩm đều cĩ một nét riêng đáng cho ta quan tâm.
Cho đến nay, trong mấy mươi năm sáng tác, Lê Lựu đã cĩ một khối lượng tác
phẩm đáng trân trọng.
3.2 Những ý kiến xung quanh nghệ thuật trần thuật trong tiểu
thuyết Lê Lựu:
Tiểu thuyết Lê Lựu gắn liền với quá trình đổi mới tiểu thuyết của văn
học Việt Nam. Nĩ đem đến cho người đọc những ấn tượng mới mẽ về một
phong cách nghệ thuật riêng biệt của nhà văn quân đội Lê Lựu. Tùy vào cảm
hứng tiếp cận, mục đích và phạm vi khai thác vấn đề, các nhà nghiên cứu đã
đề cập tới một số khía cạnh nổi bật về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết
của ơng với mức độ đậm nhạt, nhiều ít khác nhau. Một trong những nét nổi
trội trong lối tự sự của Lê Lựu được các nhà nghiên cứu quan tâm, đề cập tới
là lối hành văn tự nhiên của ơng và sự cách tân, tìm tịi cái mới trong cách
thức trần thuật. Trong từng tác phẩm khác nhau, ở nhiều gĩc độ khác các nhà
nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng Lê Lựu luơn cĩ cách tân trong trần
thuật, luơn làm mới tiểu thuyết của mình. Ơng khơng bao giờ bằng lịng với
lối mịn cũ. Ở mỗi tiểu thuyết của ơng người đọc đều cĩ thể nhìn thấy sự cách
tân của nhà văn đặc biệt là sự đổi mới hình tượng người trần thuật, kết cấu lời
văn trần thuật. Nĩi như Ngơ Thảo: “Hầu như anh khơng vừa lịng với bất cứ
bề mặt phẳng phiu, một kết cấu quen thuộc nào. Anh dẫn người đọc đi từ xa
tới gần từ gần lại bật ra xa, đang chuyện hơm nay bỗng quay bật về qúa khứ,
đang từ tuyến trước sang chuyện tuyến sau, từ phía trong ra phía ngồi, từ nội
tâm trực tiếp qua lời người kể của người khác…” [102,tr. 215]. Văn của ơng
khơng phải là kiểu văn dễ dãi quen thuộc, đọc qua một lần là cĩ thể hiểu hết
các tầng ý nghĩa. Với mỗi lần tiếp xúc tác phẩm là một lần người đọc tìm
thêm một vấn đề nào đĩ. Những vấn đề đĩ được nhà văn giấu kín trong lời
văn của mình mà nĩi như Trần Đăng Khoa thì đĩ là “thứ văn khơng nhạt”,
ơng nhận xét : “Lê Lựu biết cuốn hút người đời bằng một thứ văn khơng nhạt.
Ngay cả những truyện xồng xồng người đọc vẫn thu lượm được một cái gì
đấy , cĩ khi là một chi tiết, một đoạn tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách
nhân vật.” [51, tr.80]. Cùng suy nghĩ với Trần Đăng Khoa, Đinh Quang Tốn
cũng cho rằng văn của “anh chàng nhà quê” cĩ một sức hút vơ hình bằng lời
văn mang phong cách riêng: “Văn anh khơng rành rẽ, khơng mạch lạc nhưng
cĩ chất nhựa gì đấy ở bên trong. Nhiều khi cả đoạn cả trang cứ thùng thình
mà người đọc vẫn thấy thích, khơng ai chê vì người ta biết đấy là văn tự
nhiên của riêng anh, chứ khơng phải anh làm văn mà chê anh về văn phạm”
[93, tr.17]. Chính chất văn tự nhiên ấy đã đem đến cho chúng ta những trang
viết đặc sắc về những cảnh sinh hoạt của nơng thơn miền Bắc; về hình ảnh
người lính trong chiến tranh, người lính trong thời bình. Nhìn nhận tiểu thuyết
thuyết Lê Lựu ở gĩc độ trần thuật, nhà nghiên cứu Hồng Ngọc Hiến lại chú ý
đến câu văn, ơng đặc biệt hứng thú với kiểu đặt câu của Lê Lựu, thừa nhận sự
thành cơng trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết khơng dừng lại ở lời văn
mạch lạc. Cũng như Đinh Quang Tốn, ơng cho rằng Lê Lựu cĩ văn phong
riêng : “Trong Thời xa vắng câu văn lùa thùa cĩ khi mềm và rối như bún
nhưng lại rất được. Câu văn Lê Lựu là một sự thách đố với cách đặt câu quá
mạch lạc, gẫy gọn do sự thấm nhuần ngữ pháp của một ngơn ngữ phương Tây
tạo ra“ [35, tr.119]. Cũng nhận xét về nghệ thuật trần thuật, La Khắc Hịa
quan tâm đến người trần thuật : “Người trần thuật kể lại câu chuyện về cuộc
đời Giang Minh Sài khơng phải là để người đọc cĩ dịp được suy ngẫm, mà là
để nĩ được nĩi thật to những điều hình như nĩ đã ngẫm nghĩ xong xuơi. Cho
nên chỗ nào nĩ cũng lắm lời, lời kể của nĩ đã lùa thùa, dài dịng mà cái luận
đề thì lộ rất rõ. Đã thế tác phẩm lại cố gị để kết thúc cĩ hậu {…}. Nguyên tắc
trần thuật sử thi cũng để lại dấu ấn ở mối quan hệ giữa người kể chuyện và
người đọc trong Thời xa vắng. Nhưng đặt bên cạnh những tác phẩm cùng
thời, tiểu thuyết của Lê Lựu đúng là bước ngoặt của tiếng trình đổi mới văn
xuơi nghệ thuật” {95, tr.66}. Ngơ Thảo cũng thừa nhận sự tìm tịi sáng tạo lời
văn trần thuật của Lê Lựu là một cơng việc cần được khích lệ: “Cũng sẽ buồn
cười và lố bịch nữa khi khuyên Lê Lựu chọn cách viết chân mộc cổ điển. Chỉ
cĩ thể nghĩ là anh hiểu biết đầy đủ đối tượng khi điều anh muốn nĩi là tâm
đắc, sáng tỏ thì anh sẽ cĩ được cách thể hiện thích hợp, dù hoa mỹ bay bướm
một chút hay mộc mạc thật thà cũng khơng quan trọng gì” {102, tr.217}.
Nhận xét về kiểu kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu, Trần Đăng Khoa
cũng chú ý tới kiểu kết cấu truyện lồng trong truyện trong tiểu thuyết Mở
rừng. Ơng cho rằng: “Đấy là cuốn tiểu thuyết viết trực tiếp về chiến tranh với
cái nhìn khơng đơn giản và ở thời điểm đĩ, đã cĩ thể coi là mạnh dạn. Lê Lựu
đề cập đến số phận của một lớp ngươì trong chiến tranh. Oai hùng và bi
thảm. Giản đơn và phức tạp. Mỗi người là một cách rừng âm u rậm rịt, phải tự
mở lấy lối mà đi. Chẳng ai giống ai, bằng những con đường riêng, những số
phận riêng, họ đã đến với cuộc chiến tranh bi tráng“{51,tr.83}. Nhiều nhà
nghiên cứu thống nhất ý kiến rằng Thời xa vắng là câu chuyện về cuộc đời
Giang Minh Sài nhưng mở ra rất nhiều vấn đề, tạo nên tính nhiều tầng bậc
cho câu chuyện. Người đọc cĩ thể tìm thấy ở đĩ từ những vấn đề lớn lao đến
những vấn đề vụn vặt trong đời sống. Nguyễn Bích Thu viết : “Cĩ lẽ to
chuyện qúa chăng? Nhưng Thời xa vắng là những trang bi kịch về sự hơn
phối đĩ, sự xen cài vào nhau đĩ: chiến tranh rồi hịa bình, nơng thơn ra thành
phố, “nhà quê” và “kẻ chợ”… Khơng phải người viết đưa hai mảng ngẫu
nhiên bập vào nhau, cho tồn tại bên nhau, mà gắn nối cài xen với nhau như là
sự tiếp tục và phát triển tự nhiên của lịch sử” [96].
Một đặc điểm nổi bật khác cũng được chú ý trong tiểu thuyết Lê Lựu
là chất giọng giễu nhại. Các nhà nghiên cứu đều nhìn nhận sự thành cơng của
nhà văn khi sử dụng chất giọng trầm tĩnh và chất giọng giễu nhại để phản ánh
hiện thực. Nhận xét về một trong những yếu tố đem đến thành cơng cho Lê
Lựu trong Thời xa vắng, nhà nghiên cứu Thiếu Mai cho rằng : “Cách nhìn
thấu đáo của anh, tấm lịng thiết tha của anh đã thể hiện đầy đủ ở giọng văn,
một giọng văn trầm tĩnh vừa giữ được vẻ đầm ấm chân tình, vừa khách quan
khơng thêm bớt tơ vẻ, đặc biệt khơng cay cú, chính giọng văn như vậy đã gĩp
phần đáng kể vào sức thuyết phục hấp dẫn của tác phẩm” [65]. La Khắc Hịa
thì cho rằng: “Thời xa vắng của Lê Lựu là một tiểu thuyết giễu nhại độc đáo.
Nĩ khơng cần sử dụng những thủ pháp lạ hĩa quen thuộc như phĩng đại hay
vật hĩa hình ảnh con người để làm nổ ra tiếng cười. Nĩ chỉ đơn giản thuật lại
những chuyện “thật như đùa” mà đã cĩ thể tạo ra được một hình tượng giễu
nhại. Nhờ thế lời văn của Thời xa vắng khi thì như bơng đùa, lúc lại xĩt xa,
chì chiết nhưng giễu nhại bao giờ cũng là giọng chủ đạo của nĩ”. {96, tr.66-
67}. Cũng đề cập tới giọng trần thuật, Đỗ Tất Thắng nhận xét về thái độ của
nhà văn trong Thời xa vắng: “Lê Lựu phê phán một thời đã qua, mổ xẻ nĩ
nhưng khơng hề ốn trách, khơng cay nghiệt, khơng nổi khùng. Anh phê phán
những dư luận, hồn cảnh làng xã những năm sáu mươi đã tạo nên tính cách
Giang Minh Sài, đã làm khổ cuộc đời Sài mấy chục năm trời, nhưng anh
khơng hề bơi bác, chê bai những người nơng dân. Trong Thời xa vắng anh đã
viết những trang nồng ấm tình người về người nơng dân chân lắm tay bùn,
một nắng hai sương. Ngịi bút Lê Lựu viết về nơng thơn thật là nhân hậu”
{102}.
Nhìn nhận đĩng gĩp của Lê Lựu về mảng tiểu thuyết lẫn truyện ngắn,
Đinh Quang Tốn cho là “Lê Lựu viết đều cả truyện ngắn và tiểu thuyết và cả
hai thể loại anh đều thành cơng, nhưng thành cơng hơn vẫn là tiểu thuyết. Đê
tài hậu phương nơng thơn miền Bắc trong chiến tranh chống Mỹ cĩ nhiều
người viết, nhưng Lê Lựu là người viết thành cơng hơn cả. Hình ảnh anh nơng
dân mặc áo lính trở thành viên chức ở thành thị cũng cĩ nhuững nhà văn đề
cập đến, nhưng Lê Lựu đã thành cơng hơn. Cĩ lẽ đĩ là hai thành cơng tiêu
biểu nhất của Lê Lựu” [93, tr.22].
Tiểu thuyết của Lê Lựu cịn được nhìn nhận ở những gĩc độ khác
Nguyễn Bích Thu nhận xét về việc khai thác đề tài trong tiểu thuyết Lê Lựu
và khẳng định tính tích cực trong việc đề cập đến hạnh phúc con người: “Tiểu
thuyết đã khơng ngần ngại miêu tả sắc dục, tình yêu nhục thể là một lĩnh vực
rất riêng của mỗi cá nhân. Miêu tả những con người tự nhiên, khai thác yếu tố
tích cực của con người tự nhiên cũng là một khía cạnh nhân bản của văn học
( {…} Hai nhà của Lê Lựu)” [96, tr.231]. Nguyễn Trường Lịch khẳng định
thành cơng của Lê Lựu trong tiểu thuyết Thời xa vắng ở việc khai thác những
xung đột của trái tim con người: “ Cĩ thể khẳng định nét đổi mới ở Thời xa
vắng là tác giả khơng hướng ngịi bút mình mơ tả các sự kiện lịch sử xã hội
bên ngồi theo thời gian tự sự chốn chiến trường máu lửa như một số tác
phẩm cùng thời và cả trước đĩ mà đi sâu khai thác những xung đột đầy kịch
tính của trái tim con người trong bối cảnh giã từ chiến tranh về hậu phương
thời hịa bình”.
Từ những bài nghiên cứu về tiểu thuyết Lê Lựu đã mở ra cho người
viết hứng thú tìm hiểu vấn đề này. Học tập, kế thừa những bài viết cĩ liên
quan đến sáng tác của Lê Lựu, chúng tơi muốn đi sâu vào tìm hiểu nghệ thuật
trần thuật trong tiểu thuyết của ơng và phát triển nĩ thành bài nghiên cứu khoa
học trong luận văn này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1 Phương pháp hệ thống:
Một trong những phương pháp bao trùm mà thi pháp học rất quan tâm là
phương pháp hệ thống. Vì vậy trong luận văn, chúng tơi sử dụng phương pháp
nghiên cứu này. Khi áp dụng phương pháp này vào nghiên cứu nghệ thuật trần thuật
trong tiểu thuyết Lê Lựu yêu cầu phải đặt từng yếu tố của nghệ thuật trần thuật trong
tiểu thuyết của ơng vào hệ thống nghệ thuật trần thuật nĩi chung, trong tiến trình
chung của văn học dân tộc; phân tích những mối quan hệ giữa các yếu tố với nhau
đồng thời đặt nĩ vào trong giai đoạn đổi mới văn học và trên tiến tình phát triển của
thể loại tự sự của văn học dân tộc.
4.2 Phương pháp phân tích :
Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tơi cĩ sử dụng một số
dẫn chứng để minh họa cho lập luận của mình. Do đĩ, phương pháp phân tích
được vận dụng để trình bày cặn kẽ vấn đề hoặc bình giá các vấn đề cụ thể
trong luận văn.
4.3 Phương pháp thống kê:
Trong chừng mực nhất định của quá trình nghiên cứu, chúng tơi
sử dụng phương pháp thống kê xem trong mỗi yếu tố nghệ thuật tầng số xuất
hiện của những hiện tượng nào là cao, hiện tượng nào là thấp và nĩ cĩ báo
hiệu điều gì khơng.
5. Đĩng gĩp của luận văn:
Khi nghiên cứu văn xuơi nghệ thuật, vấn đđề đđược người nghiên cứu
quan tâm nhiều chính là nghệ thuật trần thuật. Đĩ chính là một trong các yếu
tố đđem đđến sự thành cơng cho nhà văn trong quá trình chuyển tải tư tưởng,
quan đđểm của mình. Vì vậy, khi nghiên cứu sáng tác của Lê Lựu chúng tơi
đặc biệt quan tâm đến nghệ thuật trần thuật của ơng đđặc biệt ở mảng tiểu
thuyết vì theo chúng tơi tiểu thuyết là “vùng đất” thể hiện rõ nhất phong cách
của nhà văn. Tiểu thuyết là thể loại “sinh sau đđẻ muộn” trong qúa trình sáng
tạo nghệ thuật của ơng nhưng nĩ lại cĩ ý nghĩa nhất định trên con đđường
đđổi mới tiểu thuyết của dân tộc. Khảo sát tiểu thuyết của ơng ở gĩc độ thi
pháp, cụ thể là ở nghệ thuật trần thuật chúng tơi khơng cĩ tham vọng chỉ ra
đđược tất cả đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn, chỉ mong cĩ thể
gĩp phần khẳng định sự thành cơng nhất định của nhà văn trong quá trình
miệt mài lao động sáng tạo nghệ thuật, thấy được diện mạo riêng của Lê Lựu
trong tiến trình sáng tác nĩi chung và trong quá trình đổi mới tiểu thuyết nĩi
riêng của văn học nước nhà.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngồi phần dẫn nhập và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Người trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu
Chương2: Kết cấu lời văn trần thuật
Chương3: Giọng điệu trần thuật
CHƯƠNG I:
NGƯỜI TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
1.1 Khái niệm người trần thuật trong loại hình tự sự:
Văn học vốn là thực thể tinh thần, tái hiện cuộc sống bằng nghệ
thuật ngơn từ. Hiện thực cuộc sống cĩ thể được tái hiện qua những cảm xúc
tâm trạng, ý nghĩ của con người một cách trực tiếp bằng những lời lẽ, bộc
bạch tâm tình trong tác phẩm trữ tình. Cũng là phản ánh hiện thực cuộc sống
nhưng tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nĩ. Hiện
thực được phản ánh sẽ do một người nào đĩ kể lại. Người kể lại đĩ được gọi
với nhiều tên gọi khác nhau như: người trần thuật, người kể chuyện, người
thuật chuyện, chủ thể kể chuyện … Dù được gọi bằng cách nào thì cũng đều
chỉ chung một chủ thể của người kể chuyện, người đứng ra kể trong tác phẩm
văn học, là người kể lại, dẫn lại, trần thuật lại câu chuyện… Trong luận văn
này người viết chọn cách gọi “người trần thuật”.
Người trần thuật là một yếu tố khơng thể thiếu trong loại hình tự sự.
Trong quá trình tiếp nhận tác phẩm tự sự, ta giao tiếp với người trần thuật
thơng qua những điều người trần thuật trình bày. Vì vậy, trong tác phẩm tự
sự, người trần thuật cĩ ý nghĩa quan trọng. Người trần thuật cĩ mặt ở mọi lúc,
mọi nơi trong câu chuyện, cĩ thể xuất hiện ở nhiều gĩc độ khác nhau trong
tác phẩm để kể lại diễn biến câu chuyện, phản ánh hành động, việc làm, tâm
trạng của nhân vật. Người trần thuật xuất hiện với nhiều dạng khác nhau. Cĩ
khi xuất hiện theo chiều hướng ngoại tức là đứng bên ngồi câu chuyện để
thuật lại câu chuyện cũng cĩ khi người trần thuật xuất hiện theo chiều hướng
nội, tức là thâm nhập vào nội tâm nhân vật. Dù xuất hiện dưới dạng nào thì
cũng luơn in đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, thể hiện tài năng nghệ thuật,
phong cách của tác giả và cũng là cầu nối để người đọc tiếp nhận tác phẩm
một cách trọn vẹn, nắm bắt tác phẩm một cách sâu sắc, quan sát nhân vật ở
mọi gĩc độ… Người kể chuyện xuất hiện trong tác phẩm cĩ nhiều dạng, với
mỗi dạng xuất hiện khác nhau, người trần thuật dẫn dắt người đọc theo từng
cách khác nhau hoặc vơ hình hoặc lộ diện với nhiệm vụ dẫn dắt, miêu tả và
kể lại diễn biến đầu đuơi câu chuyện. Tác giả cĩ thể mở rộng điểm nhìn
bằng cách cho nhiều chủ thể kể chuyện xuất hiện đan xen. Người trần thuật
như là chiếc cầu nối tạo mối quan hệ trung gian giữa nhân vật- người kể
chuyện- độc giả. Người trần thuật cĩ thể dừng mạch kể để phân tích, bình
luận những thay đổi của hồn cảnh, diễn biến tâm lí của nhân vật. Gorki nĩi:
“ Trong tiểu thuyết, trong truyện những người được tác giả thể hiện đều hành
động dưới sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luơn ở bên cạnh họ, tác giả mách
cho người đọc biết cần phải hiểu nhân vật như thế nào, giải thích cho người
đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn ở phía sau những hành
động của các nhân vật được miêu tả, tơ đậm thêm tâm trạng của họ bằng
những đoạn miêu tả thiên nhiên, trình bày hồn cảnh và nĩi chung là luơn
giật dây cho họ thực hiện những mục đích của mình, điều khiển một cách tự
do và nhiều khi rất khéo léo nhưng lại rất võ đốn mặc dù người đọc khơng
nhận thấy những những hành động, những lời lẽ, những việc làm, những mối
tương quan của họ, luơn tìm cách để làm cho các nhân vật trong truyện được
rõ nét và cĩ sức thuyết phục đến mức độ tối đa về phương diện nghệ thuật”
{31, tr.133}.
Người trần thuật trong tác phẩm tự sự là yếu tố thể hiện rõ nhất, trực
tiếp nhất quan điểm, tư tưởng, phong cách của nhà văn. Do vậy, phổ biến nhất
là sự nhầm lẫn về tác giả và người trần thuật hay nhân vật người kể xưng tơi,
nhân vật hành động nĩi năng. Việc đánh đồng người trần thuật với tác giả là
một sai lầm cần khắc phục. Theo R.Bakhtin : “ Tác giả nằm ngồi thế giới
nhân vật, cĩ thể nhập vào rồi thốt ra khỏi khơng gian- thời gian của nhân
vật. Tác giả ở trên ranh giới của thế giới do anh ta tạo ra. Lập trường của tác
giả cĩ thể xác định qua cách mà anh ta miêu tả bề ngồi thế giới đĩ” [6,
tr.126]. Khơng thể đồng nhất tác giả ngồi đời với người trần thuật. Người
trần thuật chỉ là một trong những hình thức thể hiện quan điểm của tác giả.
Tác giả sáng tạo ra những người trần thuật để phát ngơn cho mình nhưng
khơng thể đồng nhất tác giả và người trần thuật trong tác phẩm. Nghiên cứu
tác giả trong mối quan hệ với người trần thuật phải thâm nhập vào thế giới
nghệ thuật do nhà văn sáng tạo ra rồi từ đĩ nhìn ra lập trường, tư tưởng quan
điểm thẩm mĩ của nhà văn. Tác giả thường được nhận diện qua chính văn bản
nghệ thuật của mình. Tác giả và người trần thuật cùng hiện diện trong tác
phẩm nghệ thuật nhưng sự xuất hiện của tác giả thường là ẩn kín. Theo Trần
Đình Sử: “Tác giả khơng bao giờ hiện diện trong tiểu thuyết như là một người
kể, một người phát ngơn mà chỉ xuất hiện như là một tác giả hàm ẩn, một cái
tơi thứ hai của nhà văn với tư cách là người mang hệ thống quan niệm và giá
trị trong tác phẩm hoặc là người nghe trộm kể. Người trần thuật là kẻ được
sáng tạo ra để mang lời kể. Và hành vi trần thuật là hành vi của người kể đĩ
mà sản phẩm là văn bản tự sự. Người trần thuật trong văn bản văn học là một
hình tượng phức tạp nhất mà ngơi kể chỉ là hình thức biểu hiện ước lệ” {89,
tr.156}. Tìm hiểu người trần thuật cũng là cách chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật
của tác phẩm, làm cho thế giới đĩ sống dậy cụ thể và gợi cảm với những sự
vật, hiện tượng đời sống, những tính cách, số phận.
1.2 Trần thuật khách quan hĩa trong tiểu thuyết Lê Lựu:
Cũng như truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết thường xuất hiện người
trần thuật như một nhân vật trung gian, cĩ nhiệm vụ miêu tả, kể lại đầu đuơi,
diễn biến câu chuyện để người đọc nắm bắt ý đồ của tác giả. Trong tiểu
thuyết người trần thuật đĩng vai trị quan trọng: là cầu nối để tạo nên mối
quan hệ khắng khít giữa người trần thuật với nhân vật và người đọc. Tuy
nhiên khơng phải người trần thuật chỉ đứng ở vị trí trung gian mà đơi lúc tác
giả chuyển giao điểm nhìn trần thuật cho một nhân vật trong truyện để câu
chuyện thêm hấp dẫn. Trong xu hướng đổi mới tiểu thuyết thì tác phẩm khơng
chỉ cĩ một điểm nhìn mà cĩ thể cĩ nhiều điểm nhìn. Người trần thuật chuyển
điểm nhìn cho nhiều nhân vật trong truyện, xây dựng nhiều nhân vật kể
chuyện, nhiều điểm nhìn từ nhiều khoảng, gĩc thời gian khác nhau. Trần
thuật khách quan là một dạng trần thuật trong loại hình tự sự ra đời từ rất
sớm, với hình thức kể ở ngơi thứ 3, chủ thể hồn tồn ở ngồi cốt truyện,
khơng thuộc vào thế giới của các nhân vật truyện, mà chỉ thực hiện nhiệm vụ
theo dõi nhân vật, dẫn dắt, đứng sau hành đơng để quan sát và kể lại, khơng
trực tiếp tham gia vào sự kiện, biến cố truyện. Do tính chất hướng ngoại của
nhân vật nên điểm nhìn của chủ thể kể chuyện hầu hết là từ bên ngồi. Chủ
thể kể chuyện xuất hiện ở ngơi thứ ba luơn cĩ một vị trí tốt nhất để theo dõi
dẫn dắt nhân vật. Nhân vật ít cĩ những cơ hội để phát biểu, suy ngẫm hoặc
hồi tưởng. Chủ thể kể chuyện chi phối tồn bộ tác phẩm từ lời dẫn chuyện,
cách kể, cách tả đến cả lời trữ tình ngoại đề. Ở kiểu trần thuật này, điểm nhìn
của nhà văn là ở bên ngồi, người trần thuật khơng trực tiếp tham gia câu
chuyện nhưng lại cĩ vai trị tồn năng, người trần thuật luơn ẩn mình nhưng
lại luơn biết chuyện, người trần thuật khơng xuất hiện trong câu chuyện
nhưng lại cĩ mặt ở mọi nơi và biết hết mọi chuyện, mọi vấn đề kể cả tâm tư,
tình cảm của nhân vật. Trong truyện kể ngơi thứ ba tác giả vẫn cố giấu mình,
mặc dù câu chuyện là sản phẩm của chính mình. Tuy nhiên thơng qua chủ thể
kể, người đọc vẫn nhận thấy được thái độ, tư tưởng tình cảm của tác giả thể
hiện ở các mức độ đậm nhạt khác nhau. Theo Đinh Trọng Lạc, ở dạng này,
“Người tường thuật khơng được biểu thị trong văn bản, dẫn dắt câu chuyện từ
ngơi thứ ba.Người trần thuật khơng thuộc vào các nhân vật của tác phẩm
nghệ thuật, khơng tham gia vào hành động nghệ thuật mà chỉ đứng sau hành
động đĩ để quan sát”{59, tr.165}. Khi kể theo dạng này, tính khách quan của
hiện thực được phản ánh rất cao. Tuy nhiên, ở dạng này, người trần thuật ít để
lại những nét riêng biệt trong tác phẩm. Hình tượng người trần thuật rất mờ
nhạt đồng thời dễ dẫn đến sự đơn điệu trong cách kể. Do vậy, theo thời gian,
trong tiến trình phát triển của loại hình tự sự, kiểu trần thuật này được các nhà
văn vận dụng tài tình, khéo léo với nhiều mức độ khác nhau tạo nên sự phong
phú, đa dạng cho lối trần thuật khách quan hĩa.
1.2.1 Trần thuật hịa mình với nhân vật:
Đây là một trong những kiểu trần thuật khách quan hĩa. Theo Đinh
Trọng Lạc, người đọc một mặt cố tách mình ra khỏi diễn biến của câu chuyện
nhưng mặt khác, khi cần thiết thì lại hịa mình vào với những nhân vật để phơ
bày tồn bộ cái thế giới nội tâm của con người. Trong trường hợp này, người
trần thuật càng chứng tỏ mình là người “uyên bác”, cĩ thể biết được mọi
chuyện trên đời, dù là trong ngõ ngách tâm hồn của nhân vật. Do khơng tham
gia trực tiếp vào biến cố truyện nên khi trần thuật theo kiểu khách quan hĩa
điểm nhìn của người kể hết sức linh hoạt, khơng bị hạn chế bởi thời gian,
khơng gian nghiêm ngặt nào. Người trần thuật cũng dễ dàng di chuyển điểm
nhìn từ nhân vật này đến nhân vật khác. Lúc bấy giờ, khoảng cách giữa người
kể và nhân vật luơn được rút ngắn tối đa.
Trong kiểu trần thuật này, người trần thuật thường hịa mình vào
những suy nghĩ._., cảm xúc, hoạt động của nhân vật để tìm hiểu, khám phá thế
giới nội tâm phong phú, đa dạng. Những suy nghĩ thầm kín, những tình cảm
tinh tế nhất của nhân vật được biểu hiện trong hình thức sử dụng lời nĩi nửa
trực tiếp. Lời nĩi nửa trực tiếp là lời tác giả phát biểu dựa trên tâm trạng và
suy nghĩ của một nhân vật nhất định. Đến một lúc nào đĩ, gần như là lời của
nhân vật; lời của tác giả và lời của nhân vật hịa quyện vào nhau khĩ phân
biệt rạch rịi được, thậm chí từ ngữ, cách nĩi cũng đặc trưng cho nhân vật đĩ.
Kiểu trần thuật hịa mình với nhân vật cũng làm cho người đọc cùng hịa
mình với những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật, cảm nhận được tài nghệ của
tác giả khi mơ tả những diễn biến tâm lí phức tạp trong tâm hồn con người.
Thủ pháp nghệ thuật này làm cho điểm nhìn của tác giả và nhân vật hịa lẫn,
tạo sự sinh động và hấp dẫn. Đây cũng là cách kể làm hạn chế sự đơn điệu,
buồn tẻ dễ thấy trong trần thuật khách quan hĩa. Do đĩ, nhiều tác giả chọn
kiểu trần thuật này. Khi người trần thuật hịa mình vào thế giới riêng của mỗi
nhân vật, chuyển lời trần thuật thành ngơn ngữ của chính nhân vật thì lời văn
uyển chuyển hơn, sinh động hơn. Với kiểu trần thuật này, người trần thuật
khơng chỉ là người chứng kiến mà cịn là người trong cuộc. Vì vậy người trần
thuật vừa cĩ thể miêu tả khách quan hiện thực vừa cĩ thể đi sâu vào thế giới
nội tâm phong phú của nhân vật, cĩ thể nĩi giọng nĩi, cảm xúc của nhân vật
tạo sự rung động sâu sắc trong lịng người đọc khi khoảng cách giữa người
trần thuật và nhân vật đã được thu hẹp tối đa. Người đọc cũng khơng cĩ cảm
giác tẻ nhạt vì điểm nhìn được luân chuyển liên tục, người đọc cĩ thể đi từ
câu chuyện này sang câu chuyện khác, từ thế giới tâm hồn của nhân vật này
sang thế giới tâm hồn của nhân vật khác, thậm chí cĩ thể tìm hiểu những cung
bậc tình cảm khác nhau của cùng một nhân vật mà khơng bị hạn chế bởi
khơng gian thời gian nào.
Tìm hiểu tiểu thuyết của Lê Lựu, ta thấy kiểu trần thuật này được ơng
sử dụng khá nhiều trong “Thời xa vắng”, “Mở rừng”, “ Đại tá khơng biết
đùa”, “Chuyện làng Cuội”. Như trên đã trình bày, khi trần thuật theo hướng
khách quan hĩa, lời kể của chủ thể chiếm địa vị đơc lập nên dễ làm cho lời
văn trở nên đơn điệu, buồn tẻ, làm hạn chế sức cuốn hút đối với người đọc.
Để tránh được điều này, tác giả Thời xa vắng chọn cách hịa mình vào nhân
vật. Thấy rõ nhất trong kiểu trần thuật hịa mình với nhân vật trong tiểu thuyết
Lê Lựu là điểm nhìn rất linh hoạt, khơng bị hạn chế bởi khơng gian, thời gian
nào. Câu chuyện của Thời xa vắng được kể lại với điểm nhìn hướng ngoại
bằng lời kể khách quan nhưng câu chuyện vẫn khơng tẻ nhạt bởi rất nhiều lần
người trần thuật hịa mình vào các nhân vật của mình để tiếng nĩi từ đáy lịng
nhân vật được cất lên. Câu chuyện mở đầu bằng những đoạn kể khách quan
về việc vợ con của cu Sài. Nhưng trong lời kể đĩ tác giả đã khéo léo hịa mình
vào những tâm tư tình cảm của nhân vật, chuyển điểm nhìn vào tâm trạng
nhân vật. Vì vậy, nhiều cung bậc tình cảm của nhân vật đến với người đọc
một cách tự nhiên. Người đọc thấy đồng cảm với tâm trạng của anh Tính, anh
của Sài một cách sâu sắc, khi mạch truyện được kéo ra theo dịng tâm tư của
nhân vật: “ Thật lịng, mỗi lần về qua nhà thấy thằng em vốn ham mê học
hành mà cứ mếu máo, nước mắt ngắn dài về cái tội “cùng ăn, cùng làm” và
trị chuyện với “vợ”, anh thấy tội nĩ quá…”. Lời là của người trần thuật,
nhưng suy nghĩ, tâm trạng là của nhân vật Tính. Người đọc cĩ thể cảm nhận
sâu sắc sự ray rức trong lịng anh. Cảm thơng cho cảnh ngộ của Sài nhưng
khơng thể ra mặt bênh vực nĩ vì khơng thể để tổ chức đánh giá ý thức anh cịn
non kém. Anh khơng làm chủ được bản thân mình, Sài cũng vậy. Để dựng lên
một anh Sài suốt đời chỉ biết sống hộ cho ý định của người khác mà vẫn tránh
được sự đơn điệu buồn tẻ của kiểu trần thuật khách quan, một chiều, Lê Lựu
đã chuyển hĩa lời văn để đạt tính khách quan cao độ và làm cho người đọc
thích thú khi chính người trần thuật và nhân vật đã hịa nhập vào nhau: “ Từ
đêm ấy, Sài nằm nghĩ bao nhiêu chuyện thật và giả, những khả năng cĩ thể
xảy ra và ước ao cĩ một ơng trời nào ấy xuống đây cho hai người li hơn […].
Cịn Sài và Hương cùng nhau đi Nam đánh giặc[…] Chỉ cĩ điều khác khi cịn
ở đại đội 12 là Sài khơng dám ghi nhật kí, một chữ cũng khơng ghi dù biết
rằng khơng ai xâm phạm đến. Khơng ghi nhưng khơng đêm nào khơng nghĩ.
Nghĩ những cái đĩ nĩ đỡ khổ hơn”. Lời của người trần thuật hịa vào tâm
trạng, cảm xúc của Sài; ước mơ được thốt ra từ trong đáy lịng của Sài chứ
khơng phải ai khác. Chính sự hịa mình đĩ đã dựng lên một anh Sài nhút nhát,
khơng đủ khả năng phản kháng lại sự sắp đặt của người thân, của đơn vị để
rồi một đời đau khổ vì cuộc chạy tìm hạnh phúc, chỉ dám sống thật với chính
mình trong mơ, trong ảo tưởng và rồi niềm tự do duy nhất của anh là ghi nhật
kí cũng bị phá vỡ nên chỉ cĩ thể nghĩ trong đầu những điều mình ước ao,
mong đợi. Sài thốt khỏi áp bức bĩc lột của giai cấp phong kiến nhưng khơng
thể thốt được sự ràng buộc của hệ tư tưởng gia trưởng- một hệ tư tưởng đã
cắm rễ khá sâu trong đời sống tinh thần xã hội với bản chất là khơng thừa
nhận con người cá nhân. Người trần thuật đã lặng lẽ rút lui về phía sau, tỏ ý
tơn trọng người đọc, khơng khuyên can, dạy bảo hay phán xét mà đưa hiện
thực lên hàng đầu để người đọc suy nghĩ, đối thoại với nhân vật. Người trần
thuật lúc bấy giờ khơng chỉ là người chứng kiến mà cịn là người trong cuộc,
lời trần thuật đã trở thành lời của nhân vật, mang tâm tư, cảm xúc rất thật của
nhân vật làm cho người đọc tiếp nhận nĩ một cách thuyết phục. Xuyên suốt
tiểu thuyết Thời xa vắng, người đọc nhận thấy được sự chuyển cực liên tục từ
điểm nhìn ở nhân vật này sang nhân vật khác. Lúc được đặt ở Sài, lúc ở chính
ủy, lúc ở Tuyết lúc ở Hương… Do vậy, vấn đề được phản ánh xuất hiện ở
nhiều chiều tư tưởng khác nhau, ở những gĩc độ khác nhau tùy thuộc vào
điểm nhìn được đặt ở nhân vật nào. Ở những tiểu thuyết Mở rừng, Hai nhà,
Sĩng ở đáy sơng, Chuyện làng Cuội cũng vậy. Nhà văn ít khi sử dụng lời trần
thuật vơ can liên tục mà thường xuyên dịch chuyển điểm nhìn, hịa mình với
nhân vật, mở rộng biên độ khơng gian, thời gian cho câu chuyện.
Khi trần thuật hịa mình với nhân vật, Lê Lựu thường sử dụng lời văn
nửa trực tiếp, tức là lời kể thì vẫn là gián tiếp nhưng ngữ điệu, ý thức là của
nhân vật. Chẳng hạn, trong Hai nhà, người trần thuật sử dụng lời văn nửa
trực tiếp để hịa mình với nhân vật Tâm, nhập vào thế giới nội tâm của nhân
vật để thể hiện nỗi ấm ức của nhân vật: “Tại sao cơ ấy đẻ mà cơ ấy khơng
sợ? Chỉ cĩ một mình mình phải sợ, chính là thế yếu để cơ ấy lấn tới hành hạ
mình khơng bao giờ biết cái chỗ cần phải dừng lại. Biết cả đấy. Nhìn rõ ruột
gan, tâm tính cơ ấy cả đấy , nhưng bất cứ việt gì đem ra cải nhau mình cũng
thua nên ức đến tận cổ mình vẫn cứ phải làm thinh”. Với lời văn nửa trực tiếp
này, người đọc cảm nhận được nỗi ấm ức của anh chàng nhu nhược; thiếu lập
trường; khơng cĩ định hướng giải quyết những mâu thuẫn trong hơn nhân bởi
đã quen sống theo kiểu nghe theo lời người khác; chỉ biết giải quyết mọi việc
bằng sự im lặng chịu đựng. Tác giả hịa mình vào những suy nghĩ, tâm trạng
của nhân vật làm cho thế giới ấy hiện lên rất thật, rất sống động bằng những
ý nghĩ thầm kín mà nhân vật tự nĩi to lên với chính mình. Đây là dạng lời văn
mới mẻ cho thấy được mối quan hệ mật thiết, gắn bĩ giữa người trần thuật và
nhân vật, một mối quan hệ khĩ tìm thấy trong những sáng tác của những thời
kì trước. Nĩ làm cho lời kể thêm mượt mà, sâu lắng, gây ấn tượng sâu sắc
trong lịng người đọc bởi câu chuyện được kể bằng ý thức nhân vật. Do vậy,
cách kể này được các nhà văn thời kì đổi mới chú ý khai thác để gĩp phần tạo
nên sự mới mẻ trong sáng tác tiểu thuyết. Ta cĩ thể tìm thấy cách viết này ở
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Bến khơng chồng, Mùa lá rụng trong vườn,…
Khi trần thuật ở dạng này, người trần thuật từ bỏ vai trị người dẫn
chuyện để cùng đối thoại, trị chuyện với nhân vật làm cho khoảng cách giữa
tác giả với nhân vật được thu hẹp tối đa. Ở Mở rừng, người trần thuật đối
thoại với những dịng hồi ức thấm đẫm kỉ niệm của Trường và cảm thơng sâu
sắc với nỗi lịng của nhân vật: “Anh nhớ những buổi chiều khốc áo tơi, dắt
con bị sứt mũi gặm sừn sựt những vạt cỏ lĩng lánh như thủy ngân ở ria
đường[…]. Mẹ ơi, con vẫn đi, đi bao nhiêu vùng rừng núi, xa mẹ mà vẫn nhớ
mùi khĩi ấm của mẹ. Chiều nay ở nhà ta mưa hay nắng? Lí ơi, nay là ngày
thứ mấy rồi? Em vẫn về với mẹ trong những ngày nghỉ như ngày xưa em nĩi
với anh phải khơng?”. Tác giả rất thành cơng khi vừa cĩ thể miêu tả hiện thực
khách quan vừa đi sâu vào thế giới tâm hồn của nhân vật. Lời văn là của
người trần thuật ẩn mình nhưng tâm trạng là của Trường. Lời kể mang ý thức
của nhân vật, là nỗi niềm của một chiến sĩ Trường Sơn khi nhớ về những kỉ
niệm êm đềm nơi quê nhà. Nếu như ở Hai nhà, nhân vật Tâm tự nĩi to lên
với chính mình thì ở đây ta lại bắt gặp những lời tự nhủ rất dịu nhẹ mà sâu
lắng của Trường, một chiến sĩ hơn mười năm trời bám lấy núi rừng để chiến
đấu, khơng một lời ốn than, khơng một lá thư về nhà nhưng nỗi nhớ nhà luơn
canh cánh bên lịng. Nhớ từng kỉ niệm thời thơ ấu, nhớ bĩng dáng người yêu,
nhớ mẹ già sớm hơm tần tảo… Tất cả trở thành kỉ niệm êm đềm nuơi dưỡng
tâm hồn người chiến sĩ, là điểm tựa để vượt qua bao gian lao thử thách của
cuộc chiến. Ở trường hợp này ta lại thấy cĩ đối thoại trong độc thoại, Trường
đang độc thoại nhưng cũng là đối thoại với mẹ, với người yêu đối thoại với
chính mình. Lời văn sẽ trở nên khơ khan, khĩ để lại ấn tượng nếu người trần
thuật nĩi hộ cho nhân vật những tâm trạng này. Do vậy điểm nhìn đã được
dịch chuyển sang nhân vật một cách khéo léo. Tác giả đã khám phá thế giới
tâm hồn người chiến sĩ qua độc thoại nội tâm, dùng tiếng nĩi bên trong tâm
hồn nhân vật để bộc lộ đời sống tinh thần của nhân vật, khám phá “ con người
bên trong của nhân vật”. Chính sự hịa mình ấy tạo được sự thích thú cho
người đọc khi họ cĩ thể cùng trải lịng với nhân vật.
Những sáng tác theo kiểu trần thuật khách quan hĩa trước đây người
trần thuật thuờng ở ngồi câu chuyện với điểm nhìn hướng ngoại và cố định.
Người trần thuật đứng từ điểm nhìn bên ngồi với vai trị tồn năng cĩ thể
biết hết tất cả mọi việc liên quan đến diễn biến của câu chuyện từ những mối
quan hệ của các nhân vật đến tâm tư tình cảm của nhân vật mặc dù người trần
thuật vẫn luơn ẩn mình, hồn tồn khơng lộ diện. Đặc biệt ở những truyện kể
dân gian ta cĩ thể thấy người trần thuật hồn tồn khơng để lại một dấu ấn
riêng biệt nào, tỏ ra khơng can dự vào câu chuyện mặc dù anh ta chính là
người điều khiển bên trong. Gần gũi hơn, trong loại hình tự sự của văn học
hiện đại, khơng phải là tất cả nhưng phần lớn sáng tác theo hướng trần thuật
khách quan điểm nhìn vẫn chưa linh hoạt, chủ thể kể chuyện vẫn chưa mạnh
dạn lộ diện và khoảng cách thời gian- khơng gian vẫn cịn tồn tại trong vùng ý
thức của người trần thuật mặc dù khoảng cách giữa người trần thuật và câu
chuyện đã được cơng phá, hình tượng người kể chuyện đã thấp thống xuất
hiện. Cĩ thể thấy điều này trong sáng tác của Nguyễn Quang Sáng,Nam Cao,
Nguyễn Khải,… Các tác giả đã chú ý thể hiện quan điểm, tư tưởng tình cảm,
cảm xúc của mình qua những đoạn trữ tình ngoại đề, những nhận định, ý
kiến… xuất hiện đâu đĩ trong tác phẩm nhưng vẫn chưa thật ấn tượng. Ở thời
kì đổi mới, sự chuyển biến này đã được định hình. Bĩng dáng người trần
thuật xuất hiện rõ nét hơn, khoảng cách giữa người trần thuật và câu chuyện
được rút ngắn hơn với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật của người trần
thuật bằng cách hịa mình vào nhân vật như cách mà Lê Lựu đã sử dụng.
Những sáng tác trong thời kì đổi mới sử dụng thủ pháp này khá nhiều. Ta cĩ
thể thấy trong sáng tác của Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Ma Văn
Kháng,... Đây là lời trần thuật gián tiếp hai giọng trong Bến khơng chồng:
“Giờ đây người làng Đơng ngỡ ngàng về tính nết Hạnh thay đổi hẳn. Trước
chỗ đơng người Hạnh khơng cịn dịu dàng như xưa, hơi một tí là xưng xỉa lên,
ăn nĩi văng mạng để rồi đêm về Hạnh lại ơm gối khĩc sut sụt. Hạnh muốn
mọi ngưịi ghét mình hơn là cần sự thương hại. Tuy đã cơng bố li hơn với
Nghĩa nhưng trong thâm tâm Hạnh vẫn cịn thương Nghĩa hơn bao giờ hết.
Đêm đến Hạnh cố gạt những tình cảm yếu mềm bằng cách gán ghép cho
Nghĩa những điều xấu xa tội lỗi, nhưng càng nghĩ xấu về anh hình bĩng anh
vẫn cứ lung linh rực rỡ, mọi kỉ niệm xưa lại bùng lên thiêu đốt trái tim khơ
héo của Hạnh”. Tác giả đã hịa mình vào tâm trạng cơ đơn, lạc lõng, khổ đau
của Hạnh. Người đọc đối thoại với những cảm xúc sâu kín trong tâm hồn
Hạnh, cảm thơng, chia sẻ cùng cơ.
Khi trần thuật dưới dạng này, người trần thuật thường tỏ ra “uyên bác”,
cĩ thể biết rõ mọi chuyện, mọi việc ở mọi nơi, mọi lúc kể cả những nỗi lịng
sâu kín của nhân vật. Tác giả đã cố gắng thâm nhập vào trong ý thức lẫn tiềm
thức của nhân vật. Sự hịa mình của tác giả- người kể vào nhân vật đã khai
thác được tâm tư, tình cảm sâu kín của nhân vật. Đây là những dịng trần thuật
soi thấu tâm trạng nhân vật trong Mở rừng: “ Khuơn măt Ngà bỗng ngây dại
đi […]. Cịn khuơn mặt non trẻ của Bình Nguyên cứ áp sát vào hai mắt chị
[…] Hai chị em cùng lặng im. Chỉ nghe tiếng suối chảy ầm ầm xung quanh
như luồn dưới lớp mây mù mà chảy, chảy mãi […]. Khơng biết từ lúc nào, hai
hàng nước mắt Bình Nguyên trào ra, và mặt cho nĩ chảy ùa vào mồm, mặn
chát. Rồi thốt nhiên cơ gục lên kêu hốt hoảng: -Ối mẹ ơi! Mẹ ơi, giời ơi!..”.
Người trần thuật tỏ ra “uyên bác”, cĩ thể thấu được nỗi lịng hai cơ gái
Trường Sơn giữa phút bình yên của núi rừng những ngày rực lửa ấy. Khơng
bom đạn, khơng chết chĩc nhưng lại là lúc lịng người đang dậy sĩng. Giữa u
tịch vốn cĩ của đại ngàn, hai cơ gái Trường Sơn trở nên bé nhỏ, cơ đơn và
lạnh lẽo, khác hẳn với hình ảnh hào hùng, khơng sợ bom đạn của kẻ thù khi
cùng đồng đội mở đường. Lời trần thuật là lời của người trần thuật, rất khách
quan nhưng rất “ uyên bác”. Vì vậy, nỗi lịng của hai cơ gái được soi thấu đến
tận đáy tâm hồn. Người trần thuật như biết rõ mọi suy tư trăn trở của họ, thấu
hiểu những cảm xúc vơ cùng tinh tế của nhân vật.
Ở Chuyện làng Cuội, ta cũng bắt gặp kiểu người trần thuật “uyên bác”
như vậy. Truyện cũng được kể ở ngơi thứ ba, người trần thuật ẩn mình nhưng
câu chuyện hồn tồn khơng tẻ nhạt bởi người trần thuật để cho cảm xúc của
nhân vật bộc lộ rất tự nhiên. Chẳng hạn, nỗi lịng của nhân vật Đất được thể
hiện trong lời văn gián tiếp hai giọng: “Đêm ấy là đêm đầu tiên kể từ ngày
đưa con về làng, Đất khơng thể ngủ được. Một câu đùa rất hồn nhiên của cơ
bạn lúc chiều cũng làm chị nhĩi đau và nĩ vị xé lịng chị suốt đêm. Chị đã
đánh đổi những ngày ê chề khốn đốn để được sum vầy đầm ấm bằng cách hạ
nhục người khác? Một người Việt Minh bỏ nhà lại cho chị, và đã chết. Một
người sống đã từng cứu con, cứu mẹ khỏi cơn hoạn nạn, kể cả giặt những bộ
quần áo bẩn thiểu của chị khi chị mắc bệnh hậu sản. Đem tên tuổi linh thiêng
của người đã khuất cộng với ân nghĩa của người cịn sống để lấp đầy tội tình
của tổng Lỡi xuống người mình?”. Nỗi đau đớn trong lịng cơ Đất đã được
bộc lộ trọn vẹn. Cơ khơng muốn chà đạp ân nhân của mình nhưng cơ khơng
cịn sự lựa chọn nào khác. Bởi nỗi đau đớn ốn thù tổng Lỡi, người đã cướp đi
sự trong trắng của cơ, khiến cơ mười năm trời sống trong đau khổ nơi núi
rừng cũng khơng đáng sợ bằng nỗi lo sợ về các lề thĩi gia đình họ tộc. Sự đả
phá vào những lề thĩi cổ hủ trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết, cĩ tác dụng hơn
bao giờ hết khi nĩ được thể hiện qua lăng kính của người sống trong hồn
cảnh ấy! Ta cũng thấy được cách đả phá vào những lề thĩi sau lũy tre làng
này ở Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyện Khắc Trường. Nhà văn ưa
viết về nơng thơn này cũng đã chỉ ra được những lề thĩi cần được loại bỏ khi
con người tiến tới đời sống hiện đại. Bằng cách hịa mình vào nhân vật, nhà
văn cho thấy nơng thơn dù đã trải qua cuộc cải cách ruộng đất, đánh đổ địa
chủ rồi hợp tác xã nơng nghiệp nhưng thực tế tư tưởng phong kiến vẫn nặng
nề đeo bám những người nơng dân, khơng chỉ người già mà nĩ ngự trị ngay
trong những người đang nắm quyền lực như Phúc, Hàm. Họ mượn danh nghĩa
đồn thể để giải quyết xung đột giữa các gia đình, họ tộc theo lề thĩi phong
kiến cũ. Mỗi nhà văn cĩ một cách tiếp cận vấn đề khác nhau nhưng cĩ thể nĩi
Lê Lựu cũng như Nguyễn Khắc Trường đã rất thành cơng khi phơi bày
những thĩi xấu này.
Cũng sử dụng lời văn nửa trực tiếp, ở Đại tá khơng biết đùa,tác giả đã
khéo léo rút lui, khơng trực tiếp nĩi lên suy nghĩ của mình mà cố gắng thâm
nhập vào suy nghĩ của nhân vật, thơng qua lời của nhân vật để nhân vật nĩi
lên những suy nghĩ bị dồn nén trong một thời gian dài. Người trần thuật lúc
bấy giờ khơng chỉ là người chứng kiến mà cịn là người trong cuộc do vậy
khơng chỉ khách quan kể lại những điều mình nghe, mình thấy mà cịn thâm
nhập vào những suy nghĩ, tâm tư của nhân vật. Đĩ là nỗi bất bình trước những
suy nghĩ, lối sống của một tầng lớp trong một thời kì, là thực tế được nhìn từ
sự thật bên trong của con người mà bấy lâu bị giấu giếm hay được bọc bằng
một ánh hào quang, là nỗi đắng cay trước những thực tế phủ phàng trong thời
chiến mà đơi khi người ta khơng dám đối diện với nĩ hay cố tình khơng đối
diện với nĩ. Ở đây người trần thuật đã rút lui để nhân vật, người trong cuộc
tự thể hiện quan điểm, suy nghĩ của mình. Lời trần thuật lúc bấy giờ là lời
trực tiếp của nhân vật nhưng mang quan điểm của tác giả. Chính sự hịa mình
của người trần thuật vào thế giới tâm hồn của nhân vật giúp khai thác mọi tâm
lí, tình cảm sâu kín của nhân vật làm cho hiện thực được phản ánh trở nên sâu
sắc hơn, trọn vẹn hơn. Lời văn hai giọng bao giờ cũng làm cho thế giới tâm
hồn nhân vật hiện lên rõ nét, tạo được sự đối thoại của người đọc với nhân
vật, cho người đọc cái nhìn trọn vẹn, tồn diện về nhân vật.
Với kiểu trần thuật hịa mình vào thế giới riêng của nhân vật, kể bằng
chính ngơn ngữ của nhân vật nhà văn đã tạo được ấn tượng sâu sắc cho người
đọc về chất giọng riêng của từng nhân vật, làm cho lời kể trở nên uyển
chuyển, linh hoạt đem đến cho người đọc những trang viết sống động về hiện
thực muơn màu của cuộc sống, của cá nhân con người- một hiện thực khơng
được tỉa gọt, sửa sang theo ý đồ tác giả, một hiện thực phức tạp mà đáng yêu
như nĩ vẫn thế. Chính sự hịa mình của người trần thuật làm cho thế giới nhân
vật hiện lên phong phú với nhiều cung bậc, tạo được sự hấp dẫn đối với người
đọc bởi cảm giác thoải mái khi được giao tiếp cùng nhân vật.
1.2.2 Trần thuật “ủy thác” cho nhân vật:
Để kiểu trần thuật khách quan hĩa được sinh động, người trần
thuật trao quyền trần thuật cho nhân vật trong câu chuyện. Theo Đinh Trọng
Lạc, ở kiểu trần thuật này “người trần thuật tách mình ra khỏi diễn biến của
câu chuyện, dẫn dắt câu chuyện từ ngơi thứ ba, nhưng đến lúc nào đĩ, để cho
sự tường thuật được sinh động lại ủy thác câu chuyện cho một nhân vật, để
cho nhân vật nĩi năng y nguyên như cuộc sống thật. Trường hợp này người
trần thuật vẫn chứng tỏ mình là “người uyên bác”, cĩ thể biết hết mọi chuyện
trên đời dù là cách nĩi riêng biệt của mỗi loại người, mỗi con người cụ thể”
{59, tr.170}. Xen kẽ với lời của người trần thuật, câu chuyện được tiếp diễn
trong lời kể của nhân vật trong truyện, tức là lời trực tiếp của nhân vật xen kẽ
lời gián tiếp của người trần thuật. Lúc bấy giờ người đọc cĩ điều kiện giao
tiếp trực tiếp với nhân vật trong lời kể của họ, làm cho câu chuyện khách quan
hơn,hiện thực được đưa vào lịng người đọc sâu sắc hơn, đáng tin cậy hơn.
Khi điểm nhìn trần thuật được trao cho nhân vật, lời kể sẽ khơng cịn đơn điệu
bởi điểm nhìn lúc bấy giờ cĩ thể được đặt vào nội tâm nhân vật. Người trần
thuật ở ngồi nhân vật nhưng cũng cĩ khi nhập hẳn vào nhân vật. Điểm nhìn
cũng cĩ thể được luân chuyển từ nhân vật này sang nhân vật khác làm cho câu
chuyện thêm uyển chuyển, sinh động. Cĩ thể thấy ở tiểu thuyết Lê Lựu kiểu
“ủy thác” mạch truyện cho nhân vật rất nhiều. Ở Đại tá khơng biết đùa, câu
chuyện được bắt đầu với ngơi kể thứ ba, người trần thuật đang dựng lại tâm
trạng hãy cịn ngỡ ngàng, ray rức của anh nhà báo khi vừa thốt khỏi sự phục
kích của địch và trở về an tồn trong khi vẫn cịn các chiến sĩ chưa rõ sống
chết ra sao. Đột ngột, lời trần thuật được chuyển giao cho nhân vật nhà báo
xen kẽ lời trần thuật của người kể chuyện. Khi điểm nhìn được chuyển cho
người trong cuộc thì hiện thực được phản ánh trở nên rất chân thật, tự nhiên
và sống động: “Nĩ ngồi ở chịm cây thốt nốt, tựa lưng vào một gốc cây, tay nĩ
cịng vào tay một người lính khác trẻ như nĩ hoặc trẻ hơn, khơng thể đốn
được tuổi người chết. Cậu ấy nắm ngửa, hai tay ríu vào tay con anh, giơ lên
cho vừa tầm tay con anh. Cả hai ngã ngồi như kiểu người ngồi nghỉ để thở. Vì
thằng sống cịng tay với thằng chết, tơi khơng làm sao mở nổi cái cịng số tám
dù cháu cứ ríu rít van lạy tơi.Tơi vác ngưịi chết lên vai để cho cháu chạy
theo”. Với kiểu nhường lời như thế, tâm trạng nhân vật được khắc họa một
cách tự nhiên. Người đọc như đang đối thoại trực tiếp với nhân vật, ấn tượng
về câu chuyên được kể là chân thật và sâu sắc. Trước mắt người đọc, hiện
thực cuộc chiến khơng chỉ cĩ chiến cơng, khơng chỉ cĩ sự cao cả mà cịn cĩ
thất bại, cĩ cái thấp hèn và đĩ chính là cái thật nhất của cuộc sống. Sự thật ấy
được nhà văn phơi bày ở nhiều gĩc độ với nhiều chất giọng của chính những
người trong cuộc vì vậy nĩ càng thấm thía hơn.
Nếu trong văn học sử thi, người trần thuật là người đại diện cho quan
điểm cộng đồng, phải làm sao cho chân lí được truyền đến người đọc cĩ sự
hưởng ứng và làm theo thì trong thời kì đổi mới văn học, xu hướng tạo sự
ngang bằng giữa nhà văn và nhân vật phát triển. Nhà văn khơng áp đặt quan
điểm của mình cho nhân vật mà để cho nhân vật tự do phát biểu. Vì vậy, trong
cùng một tác phẩm cĩ nhiều quan điểm, nhiều chính kiến khác nhau được
phát ngơn từ nhiều tuyến nhân vật. Người đọc cĩ thể cùng đối thoại với nhân
vật, tiếp cận với nhân vật trong nhiều vị thế, nhiều tư cách khác nhau khi
mạch truyện được trao cho nhân vật. Khi nhường quyền trần thuật cho nhân
vật, nhà văn cĩ thể tách mình khỏi câu bằng nhiều cách. Một trong những
cách đĩ là xen những đoạn miêu tả ngoại cảnh dưới cái nhìn của nhân vật.
Chẳng hạn, để diễn tả tâm trạng vui vẻ của nhân vật Thú, trong Mở rừng cĩ
đoạn: “Nắng bỗng bừng lên lấp lĩ ở ngọn cây. Vịm trời như chiếc ơ chật hẹp,
rách rưới, nắng rơi lổ đổ và xanh chấp chới ở thân cây, ở sườn đồi và lớp lá
mục. Nắng trong rừng trơng đâu cũng xanh. Cả khu rừng già chỉ cĩ vịm trời
chỗ suối chảy là rộng. Từng dịng nắng vàng rĩt chéo xuống lớp lá non nớt
ĩng ả ở hai bên bờ vàđọng lại thành vũng sĩng sánh ở mặt nước. Suối long
lanh thành con mắt của rừng”. Người trần thuật đã nhường lời trần thuật bằng
cách để cho nhân vật của mình cảm nhận về vẻ đẹp của núi rừng Trường Sơn.
Với cảnh thiên nhiên được nhân vật Thú vẻ nên, người đọc cảm nhận được
tâm trạng vui vẻ, phấn khởi của chàng chiến sĩ này, sẻ chia cùng anh những
phút giây thanh bình của người lính. Với cách xen những đoạn miêu tả như
thế, người trần thuật tạo cho mạch truyện những điểm dừng để người đọc
cùng lắng lịng, cảm nhận, sẻ chia cùng nhân vật.
Với xu hướng xĩa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và nội
dung trần thuật để miêu tả hiện thực như cái hiện thực đương thời mà nĩ vẫn
diễn ra, tác giả thường khéo léo chọn người kể phù hợp. Do vậy, sứ mệnh kể
chuyện khơng cịn là của riêng tác giả mà nĩ được chuyển giao cho nhiều
nhân vật kể. Cĩ lúc lời trần thuật ở gĩc độ này cĩ lúc ở gĩc độ khác, cũng cĩ
khi là lời gián tiếp của tác giả. Nghĩa là câu chuyện sẽ được trần thuật với
nhiều điểm nhìn, nhiều quan điểm khác nhau. Thời xa vắng, Mở rừng, Đại tá
khơng biết đùa hay Chuyện làng Cuội là những cuốn tiểu thuyết trần thuật
khách quan hĩa, nếu người trần thuật cứ đứng ở điểm nhìn của mình để trần
thuật tịan bộ câu chuyện thì chắc chắn sẽ rất tẻ nhạt. Vì vậy, ở nhiều đoạn khi
trần thuật, câu chuyện được ủy thác cho nhân vật. Hàng loạt vấn đề được
người trần thuật chuyển giao cho nhân vật một cách uyển chuyển. Khi câu
chuyện được tiếp diễn với nhiều điểm nhìn, tính cách nhân vật được khắc họa
đậm nét đồng thời cũng cho thấy khả năng biến thể của viễn cảnh trần thuật
trong tác phẩm. Trong trường hợp này viễn cảnh trân thuật khơng bị hạn chế,
nhân vật xuất hiện trong vai người trần thuật và cĩ thái độ, tình cảm nhất
định. Đây là điều chúng ta khơng tìm thấy trong kiểu trần thuật khách quan
hĩa truyền thống. Kiểu trần thuật khách quan hĩa khi mới xuất hiện, người kể
ở ngơi thứ ba, đứng từ điểm nhìn bên ngồi cĩ vai trị tồn năng, cĩ quyền
phán xét, quyết định mọi vấn đề của câu chuyện nhưng người trần thuật
khơng lộ diện và điểm nhìn trần thuật là nhất quán, do một người kể giấu
mình thực hiện. Cĩ thể thấy rõ điều này trong những truyện dân gian, truyện
thời kì trung đại. Chính điều này đã làm hạn chế sức lơi cuốn đối với người
đọc. Do vậy, hình thức trần thuật khách quan hĩa trong đĩ người trần thuật
trao điểm nhìn cho nhân vật được các tác giả thời kì đổi mới sử dụng nhiều,
đặc biệt là trong sáng tác của Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Ma Văn
Kháng… So với lối kể khách quan trước đây, kiểu trần thuật trao quyền cho
nhân vật làm cho khoảng cách của nhân vật và người trần thuật ngày càng thu
hẹp. Ở một số trường hợp, lời người trần thuật và lời của nhân vật trộn lẫn
vào nhau, người trần thuật cĩ điều kiện thâm nhập vào thế giới tâm hồn sâu
kín của nhân vật, vào những tầng sâu kín nhất trong ý thức con người kể cả
người trần thuật. Một câu chuyện mà điểm nhìn trần thuật được trao cho nhân
vật, lúc là nhân vật này, lúc là nhân vật khác, khi thì một nhân vật kể khi thì
nhiều nhân vật kể làm cho hiện thực được khám phá thêm sâu sắc, tình tiết,
nhân vật lồng ghép vào nhau tạo nên tính đa thanh, phức điệu, “ đa tầng bậc”
bởi tính nhiều chiều, nhiều điểm nhìn trong câu chuyện… Ở Mở rừng, người
trần thuật nhiều lần nhường lời cho nhân vật tạo cho câu chuyện tính đa
thanh, nhiều tầng bậc. Câu chuyện về những chiến sĩ mở đường Trường Sơn
được kể qua nhiều nhân vật. Với mỗi mảnh đời, mỗi sự kiện, người trần thuật
lại trao quyền trần thuật cho một nhân vật đáng tin cậy. Nhân vật kể ấy khi thì
kể chuyện mình khi thì kể chuyện người tùy thuộc vào câu chuyện được kể.
Đây là đoạn văn mà mạch truyện được trao cho nhân vật tự kể về cuộc đời
mình, điểm nhìn được đặt vào nội tâm nhân vật: “Trong số những người hiểu
và trân trọng cách sống của chị cĩ một anh. Anh ấy mê tiếng ơ-boa ghê
lắm.[…] Tình yêu đến từ lúc nào và vì sao chị khơng biết nữa. Rồi hai người
cùng về một đồn và cưới nhau. Một năm sau chị cĩ cháu. Trong lúc chị nghỉ
sinh cháu, anh ấy đi cơng tác và bí mật yêu một cơ diễn viên cùng đi trong tổ
xung kích đợt ấy… Đau khổ và tởm hơn là: ở trước mặt mọi người bao giờ
anh ấy cũng tỏ ra rất chiều, âu yếm va chăm sĩc chị, nên khi bỏ nhau, dư
luận cho rằng “ tại anh tại ả, tại cả đơi bên”. Tác giả đã lặng lẽ rút lui để cho
Ngà tự kể về cuộc hơn nhân éo le của mình mà khơng hề can thiệp hay nĩi hộ
lời nào. Sự trái ngang trong tình duyên của cơ hiện lên như một thước phim
quay chậm. Những cảm giác êm đềm, những cay đắng, khổ đau được chính
người trong cuộc bộc bạch hướng tới sự đồng cảm của người đọc. Hình ảnh
cơ gái kiên cường trước bom đạn như tan biến, chỉ cịn trước mắt người đọc
một cơ gái bé bỏng đáng yêu, đáng thương. Thời gian, khơng gian như ngưng
động để cùng cơ trở về với quá khứ vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Từ câu
chuyện về Ngà, Trường, Thú, Vũ,… cuộc chiến đấu chống Mỹ oanh liệt của
dân tộc được nhà văn phản chiếu ở nhiều gĩc độ khác nhau trong nhiều lời kể
khác nhau. Hình ảnh người chiến sĩ Trường Sơn vì vậy cũng được dựng lên
với nhiều bình diện khác nhau. Đĩ là người chiến sĩ hào hùng trước bom đạn
của kẻ thù nhưng cũng vơ cùng yếu đuối, bất hạnh và yếu mềm trong cuộc
sống thường nhật được chuyển tải đến người đọc bằng chính lời trần thuật của
những người trong cuộc nên rất thuyết phục.
Trần thuật theo kiểu ủy thác cho nhân vật cĩ khi tác giả đứng ở ngồi
để miêu tả, cĩ khi nhập thân vào nhân vật. Lúc ở ngồi thì người trần thuật
dùng lời gián tiếp, khi nhập thân thì dùng lời nửa trực tiếp. Khi giọng của
nhân vật nổi lên thì câu chuyện đi theo dịng độc thoại nội tâm. Nhân vật nhớ
lại, kể về chuyện của chính mình bằng lời nĩi trực tiếp. Lúc này, yếu tố đời tư
của nhân vật hiện lên rất rõ nét nhưng khi giọng người kể đĩng vai trị chủ
đạo thì câu chuyện được tiếp diễn bởi sự phân tích lí giải theo quan điểm của
tác giả. Khi trao điểm nhìn trần thuật cho nhân vật, cĩ đơi lúc, điểm nhìn của
người kể và nhân vật trùng nhau nhưng cĩ khi cũng khơng trùng khớp. Các
nhân vật trần thuật từ ngơi thứ ba cĩ thể cĩ những lập trường và quan điểm
khác nhau về thời gian, khơng gian, tâm lí… Lời trần thuật cũng ở những gĩc
độ khác nhau, cĩ khi đĩ là lời gián tiếp của tác giả, cĩ khi là lời trực tiếp của
nhân vật, chứng tỏ tác giả đã phân bố lại các chức năng trần thuật giữa một
vài quan điểm kể, vài gĩc độ nhìn làm cho tác phẩm cĩ ý nghĩa sâu sắc, gợi sự
cảm nhận tinh tế nơi người đọc. Khi tác giả trao cho nhân vật chức năng trần
thuật gián tiếp thì câu chuyện vẫn mang quan điểm của tác giả, lúc bấy giờ
quan điểm của người trần thuật và nhân vật song trùng. Nhận xét về điều này,
Phương Lựu viết: “Lời của một nhân vật thì phải là lời trực tiếp, nhưng tác
giả lại trao cho nĩ chức năng trần thuật nên lại gián tiếp. Là lời của nhân
chứng hoặc người trong cuộc, là lời kể cĩ sức thuyết phục riêng, cĩ màu sắc
cá tính và cảm xúc đậm đà, nhưng mang sứ mệnh trần thuật, nĩ phải thể hiện
quan điểm của tác giả” [99, t._. mà khơng cĩ sự đánh dấu về
mặt hình thức. Người đọc nhận ra được những cung bậc tình cảm khác nhau,
những tiếng nĩi khác nhau cùng xuất hiện, cĩ khi ở những nhân vật khác nhau
nhưng cũng cĩ khi ở trong cùng một nhân vật.: “Đêm nào ơng cũng che kín
chiếc phên bằng cỏ ở trước cửa, ngồi phục vào “bàn” nhưng khơng viết gì,
cũng khơng nghĩ gì […]. Tại sao? Tại sao như thế. Bởi dễ hiểu lắm. Nĩ vẫn
chỉ là một vật chất thơi. Khơng ở dạng này thì ở dạng khác cĩ gì là lạ…Làm
xong nghĩa vụ với tổ quốc mà phải hi sinh mình là chuyện bình thưởng chứ.
Ơi con ơi, con ơi, Tùy ơi? Tại sao chỉ một mình tơi ở đây! Tại sao nĩ khơng
thể là đồng đội của tơi?[…]. Ai bảo nĩ chết ? Ai, ai? Căn cứ vào cái gì để cĩ
thể kết luận như thế? Khơng, nĩ cịn sống cịn sống. Cịn sống như một anh
hùng đấy con ơi”. Sự đau đớn khơng gì sánh bằng cuả đại tá Thủy đối với sự
mất tích của đứa con trai duy nhất được cất lên bằng tiếng kêu than, bằng
những câu ngắn gọn, ngắt quãng, hịa cùng lời dẫn truyện của người trần
thuật. Người trần thuật như khơng thể ngăn được dịng cảm xúc tuơn trào ấy.
Và, nguồn cảm xúc ấy cũng khơng ai cĩ diễn tả được trọn vẹn, trừ người
trong cuộc. Đĩ chính là nỗi đau tận đáy lịng của một người cha khi đối diện
với những tổn thương mất mát của con được che giấu trong lớp vỏ nghiêm
khắc cứng nhắc của một đại tá. Cĩ thể làm cho nhân vật này cất lên tiếng kêu
than khơng đơn giản tí nào thế mà nhà văn đã làm được khi chuyển giao lời
văn đột ngột.
Lại cĩ lúc xen vào lời thoại của nhân vật là lời nhận xét của người trần
thuật, cắt ngang mạch cảm xúc của nhân vật. Lúc này vấn đề được bỏ ngỏ.
Quyền phán xét tùy thuộc vào người đọc, mở ra cho người đọc nhiều chân
trời suy tưởng thậm chí người đọc cĩ thể tự sáng tạo ra kết thúc, giúp cho sự
sống của tiểu thuyết kéo dài trong lịng người đọc. Với kiểu xen ngang lời
trần thuật làm cho vấn đề được phản ánh thêm phong phú bởi nhiều chất
giọng. Cĩ chất giọng của người trong cuộc, chất giọng của người ngồi cuộc,
cĩ giọng chính, giọng bè, giọng đồng tình giọng phản bác. Các giọng hịa lẫn
vào nhau.
Tính đa giọng điệu cịn được nhà văn thể hiện bằng cách khi điểm nhìn
đang thuộc về người trần thuật thì đột ngột chuyển sang nội tâm nhân vật
bằng những dịng nhật kí. Khi ấy tât cả những gì sâu kín nhất trong tâm hồn
con người được thổ lộ ra trang giấy. Từ những dịng nhật kí của nhân vật
người đọc phát hiện ra nhiều giọng điệu, cĩ giọng của nhân vật đối thoại với
người đọc tìm sự chia sẻ, cĩ giọng đối thoại với người trần thuật, đối thoại với
chính mình. Trong lời của nhân vật lúc này lại cĩ lời của người khác xâm
nhập. Chẳng hạn, ở Thời xa vắng, cắt ngang mạch trần thuật của nhà văn là
những dịng nhật kí của Sài. Ở đĩ người ta phát hiện ra một anh Sài khác hẳn
với anh Sài hằng ngày. Trong những dịng nhật kí của anh cĩ sự đối thoại của
nhân vật với cả tổ chức, với cả một guồng máy chính quyền đang hoạt động,
cĩ sự đối thoại của nhân vật với chính mình, với những nhân vật khác. Những
khát khao tận đấy tâm hồn được thổ lộ trong những dịng nhật kí. Từ sự phức
hợp giọng trong cùng một nhân vật ta phát hiện ra một anh Sài với những ước
mơ rất đời thường, những khao khát rất đời thường nhưng vẫn khơng với tới
được mặc dù ngày ngày trong mắt mọi người anh vẫn là con người thành đạt
trên mọi lĩnh vực. Từ bi kịch đời Sài, chúng ta nhận thấy, vấn đề trung tâm
được đặt ra trong tác phẩm là số phận con người và cụ thể hơn chính là hạnh
phúc của con người trong cái “Thời xa vắng”. Hạnh phúc con người mà tác
phẩm đặt ra là hạnh phúc cá nhân, là tiếng kêu cho chỗ đứng của con người
cá nhân, một chỗ đứng mà người ta đã quên đi trong “thời xa vắng” làm bao
bi kịch xuất hiện trong đĩ Sài là một điển hình. Ở Hai nhà, nhà văn dành cả
một chương cho những trang nhật kí của nhân vật. Từ những trang nhật kí ấy,
người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật Linh Anh. Những suy nghĩ, toan tính, lỗi
lầm của nhân vật được bộc lộ trọn vẹn. Cĩ thể nĩi nhà văn đã thành cơng khi
để cho nhân vật của mình sống trong những trang nhật kí. Ở đĩ nhân vật bộc
lộ mình trong đối thoại với nhiều người kể cả đối thoại với chính mình. Vì
vậy, những gì sâu kín nhất trong tâm hồn sẽ được phát ra rất tự nhiên.
Như nhận xét của một số nhà phê bình thì lời văn của Lê Lựu cĩ vẻ
luộm thuộm. Ý kiến đĩ khơng sai. Nhưng theo chúng tơi đĩ cũng là một điều
tất yếu khi nhà văn liên tục chuyển giao điểm nhìn, trộn lẫn lời thoại và lời
trần thuật và đĩ cũng là kiểu lời văn phù hợp để Lê Lựu chuyển tải quan điểm
tư tưởng của mình. Cuộc sống vốn vẫn luộm thuộm thế đấy thơi! Cĩ vẻ như
nhà văn đã tham, làm cho lời văn dong dài nhưng nĩ thể hiện được độ trầm
tỉnh của người trần thuật khi nhà văn đi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã
hội, đối thoại với cuộc đời để nắm bắt được “Cái hơm nay bề bộn ngổn
ngang”, lặn sâu vào trong hồn người để lắng nghe những âm vang bí ẩn trong
tiếng lịng con người với những yêu thương, hờn giận, những tính tốn nhỏ
nhen. Cĩ thể nĩi tiểu thuyết Lê Lựu đã phơi bày đời sống xã hội một cách
chân thật, sống động đến nhức nhối. Nhà văn khai thác đến “tầng vỉa” của
hiện thực đời sống qua số phận con người. Sự luộm thuộm của lời văn chính
là cách để nhà văn chuyển tải tư tưởng quan niệm của mình. Thế giới nhânvật
được phản ánh trong tiểu thuyết Lê Lựu đầy những ngổn ngang bề bộn. Ở đĩ
cĩ những rối ren trong cuộc đời, cĩ sự hỗn tạp phá vỡ mọi nề nếp bởi nĩ
được nhìn từ sự thật bên trong con người, những sự thật bấy lâu được giấu
giếm bao bọc kĩ lưỡng trong lớp vỏ đạo đức văn hĩa. Tất cả chúng được lột
trần một cách cơng khai, minh bạch từ trong phát ngơn của các nhân vật. Lời
văn luộm thuộm của Lê Lựu với các lời chồng chéo lên nhau nhằm đẩy hiện
thực lên trang viết. Đĩ là một hiện thực khơng được sửa sang gọt tỉa cho vừa
với ý đồ giáo huấn đã định sẵn mà là một cuộc đời đầy những phức tạp đang
diễn ra từng ngay quanh ta. Phải nĩi rằng Lê Lựu rất thẳng tay khi phơi bày
chúng. Ở Chuyện làng cuội nhân vật chính được chọn là nhân vật tiêu cực với
những giả dối thấp kém về đạo đức. Kiểu nhânvật này khơng lạ trong văn học
nhưng cĩ thể nĩi là dạng hiếm khi đĩ chính là con người đại diện cho diện
mạo của người cán bộ. Trước đây những nhân vật xấu thường là những con
người phản dân hại nước, là kẻ thù của cách mạng cịn những người trong bộ
máy nhà nước thường chỉ được miêu tả với những thiếu sĩt, những khuyết
điểm cĩ thể sửa chữa được, cịn về cơ bản họ vẫn là những người tốt, xứng
đáng đứng trong hàng ngũ của Đảng. Nhưng nhân vật Hiếu của Lê Lựu lại
khác, anh ta là một cán bộ gương mẫu. Nhưng ẩn đằng sau đĩ lại là một con
người mượn danh, lợi dụng danh nghĩa để trục lợi, sẵn sàng đem mạng sống
của người thân của ân nhân để lĩt đường cho bản thân một cách lạnh lùng tàn
nhẫn. Ta lại thấy trong Sĩng ở đáy sơng hình ảnh một người cha với lớp vỏ
đạo đức bao bọc sự nhỏ nhen, tầm thường, hà khắc với những đứa con do
chính mình sinh ra. Hay là sự toan tính, ích kỉ của những con người trong Hai
nhà; những mưu mơ, xảo quyệt khơng cĩ tình người trong Chuyện làng
Cuội... Người đọc cĩ thể thấy cĩ gì đĩ quá chua chát khi tất cả những mặt xấu
cĩ thể cĩ của con người đều bị nhà văn đưa lên trang giấy. Lê Lựu cĩ vẻ quá
mạnh tay với nhân vật của mình nhưng đĩ cũng là sự can đảm của nhà văn
trên tiến trình đổi mới tiểu thuyết. Đĩ là sự dũng cảm của nhà văn trong quá
trình phản ánh hiện thực, dấn thân vào hiện tại chưa hình thành, ổn định. Tiểu
thuyết của Lê Lựu cĩ tính nhiều tầng bậc trong giọng điệu. Nĩi như nhà
nghiên cứu Phùng Quí Nhâm thì : “Nĩ ngân vang nhiều sắc điệu, nhiều tầng
bậc về giọng điệu” {74, tr.59}. Sự thể hiện giọng điệu trong tác phẩm của ơng
rất phong phú với nhiều sắc thái khác nhau tùy vào đối tượng, hồn cảnh,
cảm hứng chủ đạo của nhà văn… gĩp phần tạo nên phong cách nhà văn .
KẾT LUẬN
Trong phạm vi nghiên cứu của mình chắc chắn chúng tơi chưa khai
thác hết mọi vấn đề liên quan đến nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Lê
Lựu. Trong chừng mực nhất định chúng tơi xin đưa ra một số kết luận như
sau:
1. Lê Lựu đã cĩ những đĩng gĩp khơng nhỏ trong quá trình
vận động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam. Ơng là một trong những nhà
văn đặt viên gạch đầu tiên cho cơng trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam.
2. Sự sáng tạo nghệ thuật miệt mài của Lê Lựu thể hiện rõ
nhất ở các mặt:
- Về người trần thuật: Nghiên cứu về người trần thuật trong
tiểu thuyết của Lê Lựu, trước khi đi vào phần chính của vấn đề, chúng tơi
trình bày khái niệm về người trần thuật trong loại hình tự sự thơng qua các ý
kiến cĩ cơ sở khoa học của các nhà nghiên từ đĩ xác định tầm quan trọng của
việc nghiên cứu người trần thuật trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm nghệ
thuật. Tiếp cận tiểu thuyết Lê Lựu từ điểm nhìn của người trần thuật chúng tơi
thấy cĩ sáu tiểu thuyết trần thuật theo hướng khách quan hố, một tiểu thuyết
trần thuật theo hướng chủ quan hố. Trần thuật theo hướng khách quan hố,
tiểu thuyết của ơng xuất hiện các dạng: Trần thuật hồ mình với nhân vật, trần
thuật uỷ thác cho nhân vật và trần thuật cĩ giọng điệu riêng. Các kiểu trần
thuật theo hướng này cĩ đặc điểm chung là ngưịi kể luơn tách mình ra khỏi
các` biến cố, các sự kiện trong truyện, dẫn dắt câu chuyện từ ngơi thứ ba. Với
kiểu trần thuật hịa mình với nhân vật, người trần thuật nhập thân vào nhân
vật, đối thoại với nhân vật nên lời văn nửa trực tiếp được sử dụng khá nhiều.
Khi sử dụng lời văn nửa trực tiếp lời của người trần thuật và lời của nhân vật
hịa vào nhau, khắc phục được tính đơn điệu buồn tẻ thường thấy của lời văn
khách quan hĩa. Người trần thuật hào mình vào những suy nghĩ, tình cảm của
nhân vật; khám phá thế giới nội tâm của nhân vật bằng chi chính ngơn ngữ
của nhân vật nhưng cũng đồng thời thể hiện được sự đồng cảm của người
trần thuật làm cho lời văn thêm mượt mà sâu lắng. Để câu chuyện thêm sinh
động hiện thực đươc phản ánh đảm bảo được tính chân thật, người trần thuật
“ủy thác“ lời kể cho nhân vật. Lúc bấy giờ, điểm nhìn trần thuật được chuyển
vào nội tâm nhân vật. Lúc này lời văn nửa trực tiếp được sử dụng nhiều nhất.
Chính sự phân bố điểm nhìn trần thuật như vậy đã tạo được sự phong phú cho
lời văn, làm cho người đọc cĩ thể đối thoại trực tiếp cùng với nhân vật; hiện
thực được phản ánh ở nhiều gĩc độ khác nhau bởi nhiều quan điểm khác
nhau tạo nên cái nhìn nhiều chiều và tạo khả năng biến thể của viễn cảnh trần
thuật. Người đọc khơng cĩ cảm giác bị gị ép bởi một tư tưởng nào vì vậy quá
trình tiếp nhận tác phẩm cũng thoải mái hơn.
Nhìn từ gĩc độ người trần thuật, tiểu thuyết Lê Lựu đem đến cho
người đọc những nét riêng bởi nhà văn luơn cĩ sự trộn lẫn, hốn chyển ngơi
kể, tạo được sự bình đẳng của nhân vật với người trần thuật. Nhân vật khơng
lệ thuộc vào chính kiến của người trần thuật và người trần thuật vẫn cĩ được
chất giọng riêng của mình. Chất giọng riêng của nhà văn được thể hiện phong
phú và khéo léo bởi người trần thuật giấu mình nhưng hồn tồn khơng biến
mất trong lời trần thuật. Giọng điệu ấy cĩ khi là một đoạn trữ tình ngoại đề,
cĩ khi được gởi gắm trong lời của nhân vật này. cĩ khi được gởi gắm trong
lời của nhân vật kia, khi trực tiếp, khi gián tiếp. Chính chất giọng riêng đĩ đã
đem đến cho người đọc những ấn tượng đặc biệt về Lê Lựu.
Nhìn chung, khi chọn kiểu trần thuật khách quan hĩa theo hướng hiện
đại, Lê Lựu đã thành cơng đáng kể trong quá trình làm phong phú lời văn
trần thuật và tạo được dấu ấn cá nhân trong sáng tác của mình.
Khảo sát tiểu thuyết Lê Lựu, chúng tơi thấy chỉ cĩ một tiểu thuyết
được trần thuật theo hướng chủ quan hĩa. Tuy nhiên nĩ cũng đem đến cho
người thưởng thức những ấn tượng thú vị. Ở tác phẩm này, người trần thuật
xuất hiện theo kiểu vừa là người dẫn chuyện vừa là một nhân vật trong câu
chuyện. Với kiểu trần thuật này, người trần thuật cĩ thể dùng lời văn gián
tiếp hai giọng và lời nửa trực tiếp. Người trần thuật cĩ nhiều cơ hội để cùng
một lúc vừa miêu tả hiện thực vừa thể hiện trực tiếp thái độ tình cảm của
mình về các hiện tượng ấy và khám phá thế giới nội tâm phong phú của con
người.
Nhìn chung, các dạng lời văn kể trên được sử dụng rất linh hoạt, tùy
thuộc vào việc di chuyển điểm nhìn của người trần thuật. Trong cùng một tác
phẩm, ta cũng cĩ thể tìm thấy tất cả các lời văn kể trên do diểm nhìn của
người trần thuật khơng cố định và vị trí của nhân vật được đặt ngang hàng với
người trần thuật.
- Kết cấu lời văn nghệ thuật : Theo chúng tơi, đây cũng là yếu
tố quan trọng gĩp phần hình thành phong cách của nhà văn. Tiểu thuyết Lê
Lựu được chúng tơi khảo sát chủ yếu thuộc hai dạng cấu trúc. Đĩ là: cách
viết trộn lẫn trình tự kể, đan xen các khơng – thời gian và cấu trúc nhiều tầng
bậc. Sự kết hợp linh hoạt của hai dạng cấu trúc này đã đem đến thành cơng
đáng kể cho nhà văn trong quá trình rút ngắn khoảng cách giữa người đọc và
câu chuyện được kể. Cĩ thể nĩi, sự thâm nhập, khám phá thế giới hình
tượng nhân vật từ nhiều gĩc độ với nhiều quan điểm khác nhau đã tạo nên sức
hấp dẫn riêng cho lời văn trần thuật của Lê Lựu.
- Giọng điệu nghệ thuật: Giọng điệu là một trong những yếu tố
tạo nên nét riêng trong phong cách nhà văn. Tìm hiểu giọng điệu nghệ thuật
trong tiểu thuyết Lê Lựu, chúng tơi thấy nĩ thật sự gĩp phần khẳng định vị trí
của nhà văn trong tiến trình đổi mới tiểu thuyết. Tiểu thuyết của ơng đã đem
đến cho người đọc ấn tượng sâu đậm với chất giọng giễu nhại. Chính chất
giọng này giúp nhà văn dễ dàng tấn cơng vào những mặt trái của xã hội, phơi
bày những khuất tất được che giấu trong cuộc sống tạo nên giá trị hiện thực
cho tiểu thuyết của ơng, gĩp phần làm cho nĩ gần với cuộc đời hơn. Ngồi ra,
khi tìm hiểu tiểu thuyết Lê Lựu từ gĩc độ trần thuật chúng tơi đặc biệt quan
tâm đến tính đa thanh trong lời văn cĩ nhiều tiếng nĩi đối thoại nhau. Nhân
vật của Lê Lựu thường được nhà văn đặt vào mơi trường đối thoại sinh động
để bộc lộ tính cách. Nhân vật được xếp ngang hàng với người trần thuật, đối
thoại tự do với người trần thuật, người đọc và với chính mình. Tạo được mơi
trường đối thoại cho các nhân vật, nhà văn cũng đồng thời tạo cho người đọc
mơi trường tự do, thoải mái khi tiếp nhận tác phẩm vì khơng lệ thuộc vào
quan điểm của nhà văn, khơng bị gị bĩ bởi một tư tưởng nào. Các vấn đề đều
được nhìn từ nhiều gĩc độ khác nhau, nhiều quan điểm khác nhau tạo nên tính
phức điệu cho lời văn.
Giọng điệu trong tiểu thuyết của ơng được thể hiện với nhiều sắc thái
khác nhau. Khi thì giọng triết lí được thể hiện một cách tự nhiên trong lời của
nhân vật khi lại là lời trực tiếp của người trần thuật. Chính vì được gởi gắm
một cách tự nhiên trong cuộc đối thoại mà những vấn đề triết lí ấy đi vào lịng
người nhẹ nhàng, sâu sắc. Tùy vào hồn cảnh cụ thể, giọng văn ơng được thể
hiện từ chất giọng lạnh lùng, mỉa mai đến xĩt thương, ngậm ngùi; từ đồng
tình đến phẫn nộ. Dù được thể hiện như thế nào thì tiềm ẩn trong nĩ cũng là
nỗi trăn trở, suy tư của nhà văn trước hiện thực cuộc sống, mong làm đẹp
cuộc đời.
Trên đây là một số kết quả mà chúng tơi nhận thấy trong qúa trình tiếp
cận nghệ thuật trần thuật thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu. Từ những nghiên
cứu trên chúng tơi nhận ra rằng Lê Lựu là một nhà văn tài năng. Tiểu thuyết
của ơng quả thật đã đem đến cho Văn học Việt Nam nhiều điều mới mẻ, gĩp
phần khơng nhỏ vào quá trình mới tiểu thuyết. Tuy nhiên, nhìn từ gĩc độ
nghệ thuật trần thuật, chúng tơi nhận thấy tiểu thuyết của ơng cũng cĩ những
hạn chế nhất định. Chẳng hạn khi thể hiện quan điểm riêng của mình,tuy
khơng nhiều nhưng đơi chỗ nhà văn cịn gượng ép. Ở một số đoạn kể, lời trần
thuật cĩ vẻ luộm thuộm. Tuy nhiên, những hạn chế này theo chúng tơi là
khơng đáng kể so với những thành cơng mà nhà văn đã đem đến cho chúng ta.
Dù đã rất cố gắng nhưng do sự hạn chế về khả năng chuyên sâu và
điều kiện nghiên cứu, chắc chắn luận văn tiếp cận và giải quyết một số vấn
đề khơng tránh khỏi chủ quan, chưa cĩ tính thuyết phục. Vì vậy, chúng tơi
mong nhận được sự gĩp ý chân thành của quí thầy cơ để cĩ thể khắc phục
được các nhược điểm trong luận văn này, và cho ra đời những bài nghiên cứu
cĩ tính chất chuyên sâu hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (2006), “Đổi mới văn học và tinh thần nhân văn trong
sự hội nhập ý thức nhân văn tồn cầu”, Tạp chí Nghiên cứu
Văn học, (số 8).
2. Lại Nguyên Ân (1982), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, H.
3. Lại Nguyên Ân (1996), “Hệ thống thể loại ở văn học Việt Nam từ
sau 1945”, bài in chung trong: Một thời đại mới trong văn học,
nhiều tác giả, Nxb Văn học, H.
4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, H.
5. Từ điển Văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, Nxb
ĐHQG, H.
6. M.Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư
tuyển chọn, dịch và giới thiệu, Bộ Văn hố thơng tin và thể
thao, Trường Viết văn Nguyễn Du, H.
7. M.Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp Đơxtơixepki, Nxb GD, H.
8. Lê Huy Bắc (?), “Đồng hiện trong văn xuơi”, Tạp chí Văn học (số 6).
9. Nguyễn Thị Bình (1996), “Mấy nhận xét về nhân vật của văn xuơi
Việt Nam sau 1975”, in chung trong Năm mươi năm văn học
Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Nxb ĐHQG, H.
10. Nguyễn Thị Bình (2007), “Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - một cái
nhìn khái quát”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (số 2 ).
11. Lê Nguyên Cẩn (2006), “Thế giới kì ảo trong Mảnh đất lắm người
nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường từ điểm nhìn văn hĩa”,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (số 8)
12. Vũ Khắc Chương(2000), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm
Nam Cao, Nxb Văn học, H.
13. Trần Cương (1945), “Văn xuơi viết về nơng thơn từ nửa sau những
năm 1980”, Tạp chí Văn học,(số 4)
14. Trần Cương (1995), “Đánh giá văn xuơi viết về nơng thơn trước
thời kì đổi mới (1986)”, Tạp chí Văn học, (số 12).
15. Nguyễn Văn Dân (1986), Nghiên cứu sự tiếp nhận văn chương trên
quan điểm liên ngành, Tạp chí Văn học, (số 4)
16. A.V.Dranov(2002), “Mỹ học tiếp nhận”, Lại Nguyên An dịch, Tạp
chí văn học, (số 3)
17. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb
KHXH,H.
18. Hà Huy Dũng (2007), Người kể chuyện trong truyện ngắn và tiểu
thuyết Nguyễn Khải, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSP Tp
HCM.
19. Đặng Anh Đào (1993), “Sự tự do của tiểu thuyết một khía cạnh thi
pháp”, Tạp chí Văn học, (số 3).
20. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây
hiện đại, Nxb GD, H.
21. Đặng Anh Đào (2002), “Sự phát triển nghệ thuật tự sự ở Việt Nam:
một vài hiện tượng đáng lưu ý”, Tạp chí Văn học,(số 2).
22. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb GD, H.
23. Phan Cự Đệ (2001), “Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kì
đổi mới”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (số 3).
24. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn
học, H.
25. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn
học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học
26. Anh Đức (2000), Đơi diều suy ngẫm về tiểu thuyết, Tạp chí Nhà
văn, (số 8).
27. Hà Minh Đức (chủ biên), (2001), Lí luận văn học, Nxb GD, H.
28.Hà Minh Đức (2006), “Suy nghĩ về một vài hướng tìm tịi đổi mới
trong văn học”, Tạp chí văn học, (số 4).
29. Nguyễn Trung Đức (1993), “Tự sự nhiều người kể trong “ Kí sự về
một cái chết được báo trước” của G.G.Mackét”, Tạp chí Văn
học, (số 2).
30. Văn Giá (1994), “Quan niệm về tiểu thuyết trong khoa nghiên cứu
văn học giai đoạn 1932- 1945”, Tạp chí Văn học,(số 8).
31. Gorki (1965), Bàn về văn học,tập 2, Nxb Văn học, H.
32. Nguyễn Hải Hà- Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật
về con người trong văn xuơi Việt Nam sau Cách mạng tháng
Tám, Cơng trình khoa học cấp nhà nước, KX-07, đề tài KX-
07-01, H.
33. Hồ Thế Hà (1998), Tìm trong trang viết, Nxb Thuận Hố, Huế.
34. Nguyễn Văn Hạnh (1998), Về đặc trưng của Văn học( trích Lí
Luận văn học vấn đề và suy nghĩ, Nguyễn Văn Hạnh- Huỳnh
Như Phương), Nxb GD, H.
35. Hêghen (1999), Mỹ học, tập 1, Phan Ngọc giới thiệu và dịch, Nxb
Văn học, H.
36. Hồng Ngọc Hiến (1987), “Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu”, Tạp chí
Văn nghệ Quân đội, ( số 4 ).
37. Hồng Ngọc Hiến (1997), Tập bài giảng nghiên cứu văn học, Nxb
GD, H.
38. Hồng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, H.
39. Hồng Ngọc Hiến (2003), Nhập mơn Văn học và phân tích thể loại,
Nxb Đà Nẵng.
40. Phùng Minh Hiến (2002), Tác phẩnm văn chương một sinh thể
nghệ thuật, Nxb Hội Nhà văn, H.
41. Bùi Hiển (1996), Hướng về đâu văn học?, Nxb Hội nhà văn, H.
42. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, H.
43. Nguyên Hữu Hiệu (2002), Con đường sáng tạo, Nxb Trẻ
44. Nguyễn Kim Hoa (1995), Văn học sáng tạo và cảm thụ, Nxb Văn
nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
45. Võ Đình Hố (2001), Lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn trước
1945 của Nam Cao, luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn
chuyên ngành văn học Việt Nam, Trường ĐHSP Thành phố
Hồ Chí Minh.
46. Nguyễn Hồ (2000), “Một cách lí giải về thực trạng tiểu thuyết Việt
Nam đương đại”, Tạp chí Nhà văn, H (số8 ).
47. Nguyễn Thái Hồ (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb
GD, H.
48. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế
kỉ XX, Nxb ĐHQG, H.
49. Lê Thị Hường (1995), “Các kiểu kết thúc củaa truyện ngắn hơm
nay”, Tạp chí Văn học, (số 4 ).
50. Nguyễn Văn Kha (2000), Đổi mới quan niệm về con người trong
văn học hiện đai Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1991 (Luận
án Tiến sĩ Ngữ văn),Trường ĐH KHXH và NV, Thành phố Hồ
Chí Minh.
51. Ma Văn Kháng (2000), “Sự đủng đỉnh cuả tiểu thuyết”, Tạp chí
nhà văn, (số 8).
52. Trần Đăng Khoa (1998),Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên,
H.
53. M.B.Khrapchenko (1978),Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát
triển văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, H.
54. M.B.Khrachenko (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp
luận nghiên cứu văn học, nhiều người dịch, Trần Đình Sử
tuyển chọn và giới thiệu, Nxb ĐHQG, H.
55. Nguyễn Kiên (2000), “Văn xuơi khơng tự bằng lịng” Tạp chí Nhà
văn, ( số 1)
56. M.Kundera (2001), Nghệ thuật tiểu thuyết- Những di chúc bị phản
bội, Nxb Văn hố thơng tin- Trung tâm văn hố ngơn ngữ
Đơng Tây.
57. Lê Đình Kị (2000), Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb GD, H.
58. Nguyễn Lai (1998), Ngơn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học,
Nxb GD, H.
59. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb GD, H
60. Tơn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh
Châu, Nxb KHXH.
61. Phong Lê (1980), Văn xuơi Việt Nam trên con đường hiện thực xã
hội chủ nghĩa, Nxb KHXH, H.
62. Phong Lê (1985), “Trên hành trình của 40 năm văn xuơi: ngơn ngữ
và giọng điệu”, Tạp chí Văn học, ( số 5,6 )
63. Phong Lê (1994), Văn học và cơng cuộc đổi mới ( Tiểu luận – Phê
bình ), Nxb Hội nhà văn, H.
64. Nguyễn Văn Long (2001), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam
sau Cách mạng tháng Tám, Nxb GD, H.
65.Nguyễn Trường Lịch (2006), “Đơi điều về đổi mới tiểu thuyết trong
bối cảnh giao lưu văn hĩa”, Tạp chí nghiên cứu Văn học tháng
12.
66. Lê Lựu (2005), “Tơi chỉ cĩ khiếu ăn mài”, báo Pháp luật Tp HCM
(số ngày 13/2 )
67. Lê Lựu (2007), “Tơi thấy mình là đứa con bạc bẽo”, bài phỏng vấn
do Dương Thục Anh thực hiện, báo An ninh thế giới cuối
tháng 11.
68. Thiếu Mai (1987), “Nghĩ về một “ Thời xa vắng” chưa xa”, Văn
nghệ quân đội, (số 4).
69. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), (1985), các nhà văn nĩi về văn),tập
1, Nxb Tácphẩm mới ,Hội nhà văn Việt Nam ,H.
70 .Nguyễn Đăng Mạnh (1996), “Nền văn học mới từ sau Cách mạng
tháng Tám”, in chung trong Một thời đại mới trong văn học ,
nhiều tác giả , Nxb Văn học, H.
71. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn , Nxb GD , H.
72. Hà Mật (2000), “Tiểu thuyết đặc trưng và khuynh hướng” , Tạp chí
nhà văn,(số 4).
73. Nguyên Ngọc (1990)“Đơi nét về một tư duy văn học mới đang hình
thành”, Tạp chí văn học, ( số 4).
74. Mai Ngữ (1988 “Cái tâm và cái tài của người viết”, Báo Quân đội
nhân dân, ngày 27/8
75. Vương Trí Nhàn (1996), “Bốn mười năm phát triển văn học”, bài
in chung trong : Một thời đại mới trong văn học , nhiều tác giả,
Nxb Văn học , H
76. Vương Trí Nhàn (2002), “Vài nét về tư duy tự sự của người Việt”,
Tạp chí văn học , ( số 2 ).
77. Phùng Quý Nhâm (1991) , Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ,
Tp.HCM
78. Phùng Quý Nhâm (1994), Tiếp cận văn học, Phùng Quý Nhâm –
Lâm Vinh , Trường ĐH SP Thành phố Hồ Chí Minh
79.Đỗ Hải Ninh (2006), “Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới”, Tạp chí
nghiên cứu văn học, số 7.
80. Phan Diễm Phương (2000), Lối văn kể chuyện của Nam Cao, sách
lời giải bài của văn chương, Nxb KHXH, H
81. Huỳnh Như Phương (1993), “Văn học hơm nay đang nhìn lại chính
mình”, Tạp chí văn học, (số 1).
82. Huỳnh Như Phương (2002), “Trường phái hình thức Nga và văn
xuơi tự sự”, Tạp chí văn học .
83. Pospelov (chủ biên ), (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 2
(Trần Đình Sử , Lại Nguyên An , Nguyễn Nghĩa Trọng dịch),
Nxb GD , H.
84. Văn Tuệ Quang (tuyển chọn và giới thiệu), (2000), Về một cách
tiếp cận tác phẩm văn học , Nxb ĐHQG Hà Nội.
85. J.P.Sartre (1999), Văn học là gì?, Nguyên Ngọc dịch , Nxb Hội nhà
văn, H.
86. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Giáo trình ĐHSP
Thành phố Hồ Chí Minh.
87. Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn ,
H .
88. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb Văn học, H.
89. Trần Đình Sử (2002), Tự sự học – Một bộ mơn nghiên cứu liên
ngành giàu tiềm năng, Tạp chí văn học, (số 2).
90. Trần Đình Sử (2003), Văn học Việt Nam – Cuộc đồng hành sáng
tạo, Tạp chí nhà văn , (số 2).
91. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, một số vấn đề lý luận và lịch sử,
Nxb ĐHSP, Tp HCM.
92. Trần Đình Sử, (1998), “Cấu trúc đối thoại trong truyện truyện ngắn
Chí Phèo của Nam Cao”, Tạp chí Văn học, (số 12).
93. Trần Đình Sử (1999), “Giọng điệu nghệ thuật và chủ nghĩa cảm
thương trong truyện Kiều”, Tạp chí Văn học (số 2).
94. Đinh Quang Tốn (1995), “Lê Lựu- Thời xa vắng”, bài in chung
trong Tản mạn và chính kiến văn chương, Nxb Văn học , H.
95. Đinh Quang Tốn (1996), “Ma Văn Kháng với Đám cưới khơng cĩ
giấy giá thú”, bài in chung trong Tản mạn và chính kiến văn
chương, Nxb Văn học, H.
96. Nhiều tác giả (1983), Số phận của tiểu thuyết (tác phẩm dịch), Nxb
Tác phẩm mới, H.
97.Nhiều tác giả (2008), Văn học Việt Nam sau 1975 : những vấn đề
nghiên cứu và giảng dạy, Nxb GD, H.
98. Nhiều tác giả (1984), Từ điển văn học , tập 2 , Nxb KHXH , H
99. Nhiều tác giả (1980), Cơ sở lý luận văn học, (chủ biên : Nguyên
Lương Ngọc), Nxb ĐH và THCN, H.
100. Nhiều tác giả (1997), Lý luận văn học (chủ biên : Phương Lựu).
101. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ văn học (chủ biên:
Nguyễn Khắc Phi ), Nxb GD , H.
102. Đào Thản (1994), “ Đặc trưng của ngơn ngữ nghệ thuật thể hiện
trong văn xuơi”, Tạp chí văn học, (số 2).
103. Ngơ Thảo (1973), “Về truyện ngắn Lê Lựu”, Bài in chung trong
Văn học về người lính, Nxb GD, H.
104. Ngơ Thảo (1984), “Viết cho hơm nay”, Tạp chí VNQĐ, (số 11).
105. Ngơ Thảo (1996), “Sự hình thành của đội ngũ nhà văn kiểu mới”,
bài in chung trong Một thời đại mới trong văn học, Nxb Văn
học.
106. Ngơ Thảo (2000 , Đời người đời văn (phê bình tiểu luận), Nxb Hội
nhà văn, H.
107. Đỗ Tất Thắng (1986), “Mỗi người phải chịu trách nhiệm về nhân
cách của mình”, Báo Văn nghệ ngày 6.12.
108. Nguyễn Thành Thi (1999), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam,
Nxb GD, H.
109. Bích Thu (2006), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kì
đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu văn học ( số 11).
110. Nguyễn Văn Trung (1965), Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, Nxb
Nam Sơn, Sài Gịn.
111. Tiền Trung Văn (2006), Những vấn đề lí thuyết của M.Bakhtin về
tính phức điệu, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (số 6).
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................1
2. Giới hạn đề tài ..........................................................................................4
3. Lịch sử vấn đề...........................................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................11
5. Đĩng gĩp của luận văn ...........................................................................12
6. Kết cấu của luận văn ..............................................................................12
Chương 1: NGƯỜI TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
1.1. Khái niệm người trần thuật trong loại hình tự sự ................................13
1.2. Trần thuật khách quan hĩa trong tiểu thuyết Lê Lựu ..........................16
1.3. Trần thuật chủ quan hĩa trong tiểu thuyết Lê Lựu..............................44
Chương 2: KẾT CẤU LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
LÊ LỰU
2.1. Vấn đề kết cấu lời văn nghệ thuật .......................................................52
2.2. Các kiểu kết cấu lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu ............54
Chương 3: GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT TROGN TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
3.1. Giọng trần thuật ...................................................................................78
3.2. Giọng trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu...........................................80
3.3. Sắc thái biểu hiện của giọng trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu .....107
KẾT LUẬN ...................................................................................................................129
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 134
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Võ Thị Mỹ Hạnh
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT
LÊ LỰU
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7603.pdf