Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
---------- ∞*∞ ----------
PHẠM THỊ HỒNG XIÊM
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT LAM TIỂU SỬ CỦA LÊ HOAN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
---------- ∞*∞ ----------
PHẠM THỊ HỒNG XIÊM
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT LAM
122 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nghệ thuật thể hiện nhận vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU SỬ CỦA LÊ HOAN
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS - TS. NGUYỄN HỮU SƠN
THÁI NGUYÊN - 2009
.
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành và sâu sắc đối với PGS. TS
Nguyễn Hữu Sơn ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, dìu dắt và động viên tơi trong
quá trình nghiên cứu và hồn thành luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy cơ giáo trong khoa Sau Đại học và
khoa Ngữ văn trƣờng Đại học Thái Nguyên đã nhiệt tình giảng dạy và chỉ bảo
cho tơi trong suốt khố cao học vừa qua.
Cuối cùng tơi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
đã luơn động viên tơi trong quá trình học tập và hồn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2009
Học viên:
Phạm Thị Hồng Xiêm
.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.......................................................................... 2
3. Phạm vi đề tài............................................................................................ 12
4. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................ 13
5. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................... 13
6. Những đĩng gĩp của luận văn................................................................... 14
7. Cấu trúc của luận văn................................................................................ 14
NỘI DUNG
Chƣơng 1: Tác giả, tác phẩm và vấn đề thể loại trong tiểu thuyết
Việt Lam tiểu sử
1. Tác giả Lê Hoan......................................................................................... 15
2. Tác phẩm Việt Lam tiểu sử........................................................................ 23
2.1. Tên gọi.................................................................................................... 23
2.2. Vấn đề xác định tác giả Việt Lam tiểu sử............................................... 25
3. Vấn đề thể loại trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử................................... 30
3.1. Khái niệm tiểu thuyết chƣơng hồi.......................................................... 30
3.2. Hồn cảnh ra đời..................................................................................... 30
3.3. Đặc điểm thể loại................................................................................... 34
3.4. Tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử - tiểu thuyết lịch sử đƣợc viết theo lối
kết cấu chƣơng hồi........................................................................................ 36
3.4.1. Thể loại tiểu thuyết lịch sử................................................................. 36
3.4.2. Tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử - tiểu thuyết lịch sử viết theo lối kết
cấu chƣơng hồi............................................................................................. 36
Tiểu kết......................................................................................................... 39
.
Chƣơng 2: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử - từ nguyên
mẫu đến hình tƣợng văn học
2.1. Con đƣờng từ hiện thực đến các hình tƣợng văn học............................. 40
2.2. Các nhân vật nguyên mẫu trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử................ 43
2.2.1. Lê Lợi từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tƣợng văn học....................... 44
2.2.2. Hồ Quý Ly từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tƣợng văn học............... 47
2.2.3. Nguyễn Trãi từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tƣợng văn học............. 51
2.3. Những nét tƣơng đồng và khác biệt giữa nhân vật trong tiểu thuyết Việt
Lam tiểu sử với các nhân vật trong lịch sử.................................................... 55
2.3.1. Những nét tƣơng đồng giữa nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu
sử với các nhân vật trong lịch sử và nguyên nhân của sự tƣơng đồng......... 56
2.3.2. Những nét khác biệt giữa nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu
sử với các nhân vật trong lịch sử và nguyên nhân của sự khác biệt............. 60
Tiểu kết.......................................................................................................... 68
Chƣơng 3: Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam
tiểu sử
3.1. Khái niệm nhân vật và vai trị của nhân vật trong tiểu thuyết
chƣơng hồi.................................................................................................... 70
3.1.1. Khái niệm nhân vật.............................................................................. 70
3.1.2. Vai trị của nhân vật trong tiểu thuyết chƣơng hồi.............................. 71
3.2. Giới thuyết chung về nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết
chƣơng hồi................................................................................................... 72
3.2.1. Vai trị của nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết
chƣơng hồi..................................................................................................... 72
3.2.2. Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết chƣơng hồi............... 73
3.2.3. Một số thủ pháp thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết chƣơng hồi....... 74
3.3. Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử của
Lê Hoan........................................................................................................ 74
3.3.1. Nghệ thuật thể hiện hành động nhân vật và sự kiện.......................... 75
3.3.2. Nghệ thuật thể hiện tính cách nhân vật.............................................. 90
.
3.3.3. Nghệ thuật thể hiện ngơn ngữ nhân vật............................................. 98
Tiểu kết....................................................................................................... 108
KẾT LUẬN................................................................................................. 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 111
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Việt Lam tiểu sử (hay cịn gọi Việt Lam xuân thu) là cách đặt tên của
Lê Hoan. Đây là một cuốn tiểu thuyết chữ Hán đƣợc viết theo kiểu chƣơng
hồi, cĩ quy mơ rộng lớn, phản ánh những biến cố lịch sử quan trọng trong
những thời điểm lịch sử đặc biệt ở thế kỷ XV. Đĩ là sự nghiệp của đức Lê
Thái Tổ gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, ngƣời lãnh đạo nhân dân ta
trƣờng kỳ kháng chiến chống giặc Minh xâm lƣợc. Tƣ tƣởng chủ đạo của
cuốn tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử vừa thể hiện đƣợc khát vọng độc lập, tơn
phị chính thống, đề cao chính nghĩa, vừa khẳng định sức mạnh đồn kết chiến
đấu chống giặc ngoại xâm.
1.2. Sự ra đời của cuốn tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử cùng với những đĩng
gĩp về giá trị nội dung và nghệ thuật đã gĩp phần làm nên giá trị của văn học
trung đại nĩi riêng, thúc đẩy quá trình phát triển của văn xuơi Việt Nam nĩi
chung. Xuất hiện trong vai trị là đại biểu cuối cùng của tiểu thuyết chƣơng
hồi Việt Nam, Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan đã đánh dấu những bƣớc phát
triển về mặt thể loại của tiểu thuyết chƣơng hồi, để chuẩn bị cho sự ra đời của
tiểu thuyết hiện đại cĩ nguồn gốc từ phƣơng Tây.
1.3. Đọc Việt Lam tiểu sử, ấn tƣợng lớn nhất của tác phẩm chính là ở chỗ
tác giả đã rất thành cơng trong việc đƣa các nhân vật lịch sử vào tác phẩm văn
học thành những hình tƣợng nghệ thuật. Các nhân vật trong tác phẩm vừa bảo
lƣu những đặc điểm vốn cĩ thật trong lịch sử vừa đƣợc hƣ cấu, sáng tạo thành
những nhân vật văn học chứ khơng đơn thuần là những nhân vật lịch sử.
Trong con mắt của các nhà nghiên cứu lịch sử thì những nhân vật này là con
ngƣời của lịch sử, cịn đối với các nhà nghiên cứu văn học thì đĩ lại là những
nhân vật văn học thực sự. Điều gì làm nên những ấn tƣợng ấy nếu nhƣ khơng
phải là tài năng và tâm huyết, vốn sống của nhà văn Lê Hoan. Xét một cách
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
tồn diện, Việt Lam tiểu sử là một tác phẩm văn học đặc sắc. Trên thực tế, các
tài liệu nghiên cứu, các bài viết về thiên tiểu thuyết này vẫn chƣa nhiều. Vì
thế, tìm hiểu nghiên cứu tác phẩm trên phƣơng diện nghệ thuật thể hiện nhân
vật là một việc làm cần thiết, nhằm cĩ cái nhìn sâu sắc, thấu đáo và đúng đắn
hơn những thành tựu, những đĩng gĩp của tác giả, tác phẩm Việt Lam tiểu sử.
Đĩ là những lý do thơi thúc ngƣời viết tìm hiểu về nghệ thuật thể hiện
nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan.
2. Lịch sử vấn đề
Tác phẩm Việt Lam tiểu sử cịn cĩ nhiều ý kiến chƣa thống nhất xung
quanh vấn đề tác giả, văn bản. Căn cứ vào lời tựa của Việt Lam tiểu sử, những
ý kiến đĩng gĩp khoa học của các nhà nghiên cứu, chúng tơi cho rằng đây là
tác phẩm của nhà văn Lê Hoan. Nhƣ đã nĩi ở trên, mặc dù Việt Lam tiểu sử là
tác phẩm cĩ nhiều giá trị nhƣng do nhiều yếu tố khách quan nên chƣa đƣợc
quan tâm một cách đúng mức. Gần đây, Việt Lam tiểu sử đã thu hút đƣợc sự
chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Qua khảo sát một số các bài viết, các cơng
trình nghiên cứu, chúng tơi thấy các tác giả đã bắt đầu đi sâu nghiên cứu tìm
hiểu về tác giả, tác phẩm Việt Lam tiểu sử, nhƣng tài liệu nghiên cứu và
những bài viết về tác phẩm ở phƣơng diện là một tác phẩm văn học thì vẫn
cịn hạn chế. Cĩ thể dẫn ra một số bài nghiên cứu sau.
Trong Tạp chí Hán Nơm số 3 - 1997, nhà nghiên cứu Trần Nghĩa khi
lập danh mục và phân loại tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam đã xác định Việt
Lam tiểu sử là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối kết cấu chƣơng hồi do Vũ
Xuân Mai biên soạn, Lê Hoan nhuận sắc. Khơng chỉ khẳng định về mặt thể
loại, tác giả Trần Nghĩa cịn tập trung dịch cuốn sách này trên cơ sở tham
khảo nhiều ý kiến và các bản dịch khác nhau, để giúp bạn đọc cĩ dịp tiếp cận
với tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử dƣới dạng hồn chỉnh và đầy đủ nhất của nĩ
đồng thời mong muốn cho nhiều bạn đọc đƣợc thƣởng thức một cuốn tiểu
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
thuyết viết về giai đoạn lịch sử oai hùng của dân tộc mà trung tâm là cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn.
Trên Tạp chí Văn học số 8 - 1999, nhà nghiên cứu Chƣơng Thâu cĩ bài
viết “Đọc Việt Lam xuân thu bản duy tân nghĩ về người khắc in, cơng bố và
một vài nhân vật thời đại”. Trong bài nghiên cứu, tác giả Chƣơng Thâu khơng
cĩ chủ định phân tích cuốn Việt Lam tiểu sử xem giá trị sử học của nĩ nhƣ thế
nào. Bởi vì, vấn đề này từ lâu giới nghiên cứu đã từng đề cập và xác định tác
phẩm là một cuốn tiểu thuyết cĩ nhiều phần hƣ cấu. Mục đích chính của nhà
nghiên cứu cũng khơng phải đi tìm xem ai là tác giả của cuốn sách vì muốn
xác định một cách chính xác thì cần phải cĩ nhiều chứng cứ và nhiều thời
gian, vấn đề ở chỗ ngƣời viết cịn băn khoăn về ngƣời cho khắc in và cơng bố
cuốn Việt Lam tiểu sử. Dƣ luận mấy chục năm gần đây vẫn cho Lê Hoan là
một ngƣời phản bội, đứng trong hàng ngũ xâm lƣợc để chống lại tổ quốc. Nĩi
đến Lê Hoan, ngƣời ta nhớ đến việc đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Đã cĩ
câu thơ “Giặc nhờ Đề Thám nổi cơng lao”. Câu thơ này ở trong một bài thơ
trào phúng của Nguyễn Thiện Kế Vịnh Tổng đốc Hải Dương đã đƣợc triều
đình phong đến chức Khâm sai, và hạ thêm lời kết luận rất gay gắt:
Khâm sai mà vẫn hùa theo Pháp
Nhục ấy cịn vinh ở chỗ nào?
Đĩ là những định kiến đã ăn sâu vào nếp nghĩ của nhân dân và đƣợc lƣu
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ngƣời ta cũng khơng phải dè dặt gì để
xếp Lê Hoan vào hàng ngũ con ngƣời đứng về phía chống lại tổ quốc Việt
Nam. Tác giả bài viết cũng cho biết rằng hiện nay chƣa thấy một tài liệu lịch
sử và sử gia nào đánh giá nhân vật này một cách chính thức, nhƣng dƣ luận
nhƣ vậy cứ thế truyền đi và cho đến bây giờ thì gần nhƣ đối với Lê Hoan vấn
đề đã đƣợc an bài. Theo PGS. Chƣơng Thâu, chúng ta khơng cĩ điều kiện và
khơng thể đi ngƣợc lại những định kiến hầu nhƣ khĩ lay động, nhƣng khi đã
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
gặp một tác phẩm nhƣ Việt Lam tiểu sử, phải chăng chúng ta nên đặt ra một
câu hỏi khác hơn? Từ đĩ, nhà nghiên cứu đã khơng đánh giá tác phẩm Việt
Lam tiểu sử nhƣ một tác phẩm sử học mà chỉ xem nĩ đơn thuần là một cuốn
“tiểu thuyết lịch sử”. Theo tác giả, bút pháp chủ yếu của Việt Lam tiểu sử là:
“Theo kiểu chương hồi, cách diễn thuật miêu tả khơng hợp với nghệ thuật tiểu
thuyết hiện đại, nhưng chủ đề, chủ ý của tác giả thì rõ ràng là rất được chân
trọng. Tác giả muốn tơ đậm cho những cử chỉ nghĩa khí, những sự tích anh
hùng. Tư tưởng dân tộc, lịng tự hào, chí bất khuất, niềm tha thiết với vận
mệnh tổ quốc là điều rõ ràng khơng thể nào phủ nhận được” [63,38]. Quan
điểm này của Chƣơng Thâu gĩp phần nhấn mạnh, Việt Lam tiểu sử là một tác
phẩm văn chƣơng thực sự. Dù nghệ thuật chƣa đạt đến đỉnh cao của tiểu
thuyết hiện đại nhƣng nội dung rất cĩ giá trị và đáng đƣợc chân trọng vơ cùng.
Tác giả của bài viết cũng bày tỏ những suy nghĩ của mình khi nghĩ đến những
ngƣời hoạt động quốc sự ở nƣớc ta vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tình
hình đất nƣớc lúc đĩ khiến cho các tờng lớp sĩ phu trở nên phân hĩa sâu sắc.
Một lớp đơng đảo đã đứng hẳn vào hàng ngũ đối lập với kẻ thù, cũng cĩ một
số vì hồn cảnh vì nhiều điều kiện này nọ phải hợp tác với kẻ địch. Trong số
những con ngƣời phải ra hợp tác với chính quyền thực dân và đƣợc “mẫu
quốc” dành cho khá nhiều sự ƣu đãi đến mức gây nhiều điều tiếng cho nhân
dân nổi lên hai nhân vật là Hồng Cao Khải và Lê Hoan. Thế nhƣng theo
Chƣơng Thâu, Hồng Cao Khải lại là tác giả của một số bài thơ hay và tƣ
tƣởng, nhất là tƣ tƣởng yêu nƣớc thì lại rất rõ ràng, rất đáng đƣợc ghi nhận.
Với Lê Hoan cũng vậy, nhà nghiên cứu cho rằng khi xem tác phẩm Việt Lam
tiểu sử, chúng ta cũng nên chú ý lời tựa của Lê Hoan khi cho khắc in và cơng
bố tác phẩm này. Đây là lời tác giả Việt Lam tiểu sử ca ngợi Lê Lợi “... Cần
phải tường tận bản sắc anh hùng của Lê Thái Tổ. Khi thời cơ chưa đến thì
thuận theo đạo trời yên tâm với mệnh, thương kẻ sĩ, yêu dân lành, giả cách
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
nhún nhường để khỏi nhận chức tước của triều ngụy. Lúc thời cơ đến thì dùng
người hiền tài, dựa vào kẻ cĩ năng lực, điều binh khiển tướng, tiêu diệt giặc
Minh, khơi phục nước nhà. Trong 10 năm trù hoạch kinh dinh, khơng cĩ một
việc làm nào của ngài chứng tỏ ngài khơng phải là một vị quốc vương cĩ trí,
cĩ nhân, cĩ dũng. Nếu khơng phải ơng vua độ lượng cĩ thể như thế được
chăng? Cuốn sách qua 60 hồi đã khái quát được quá trình Lê Thái Tổ dành
lại đất nước. Tơi say sưa đọc đi đọc lại mấy lần, tưởng chừng như thấy hình
bĩng ngài hiện ra trên trang sách. Bất giác tơi cảm thấy phục lăn phục lĩc”
[63,66]. Thơng qua lời tựa này, tác giả bài viết cho rằng chắc chắn Lê Hoan
phải là một ngƣời cĩ tâm huyết thì mới cĩ thể nĩi lời kính phục thành thật và
chất phát đến nhƣ vậy. Cũng trong bài viết, nhà nghiên cứu cịn bày tỏ thái độ
ngạc nhiên về trình độ và tƣ tƣởng của Lê Hoan khi theo dõi quá trình cơng bố
cuốn sách này. Theo Chƣơng Thâu, chúng ta khơng thể nĩi Lê Hoan là ngƣời
ít học bởi khi cơng bố Việt Lam tiểu sử Lê Hoan cĩ nĩi rõ là ơng tìm thấy
đƣợc bản Việt Lam tiểu sử đầu tiên ở một gia đình (khơng nĩi rõ gia đình
nào). Nhƣng ơng cho rằng tác phẩm “chưa thật tinh xảo diệu kỳ” nên ơng đã
gia cơng “sửa sang trau chuốt”, phần sửa sang của ơng cũng đƣợc nêu rõ ở
một số điểm chú thích, xét ra phần lớn là hợp lý hợp tình, và chúng ta cũng
phải thừa nhận Lê Hoan cĩ một trình độ văn học nhất định. Thêm vào đĩ,
chúng ta cĩ thể chú ý câu cuối cùng của bài tựa. Lê Hoan viết rõ là ơng “đặt
tên sách là Việt Lam tiểu sử để phân biệt với chính sử”. Nhƣ vậy, ta lại thấy
ơng cĩ cái nhìn đúng đắn với cuốn sách, với việc mình làm. Ơng khơng cho
đây là việc chép sử. Rõ ràng, Lê Hoan biết phân biệt lịch sử với tiểu thuyết,
với sáng tác văn học. Ngồi ra, chúng ta cịn cĩ thể kết hợp quan tâm cả đến
quá trình chỉnh lý cuốn sách này, bởi khi sửa chữa Việt Lam tiểu sử, Lê Hoan
đã tìm ra cách đƣa thêm một số tác phẩm của ngƣời đƣơng thời (lúc nhà Trần,
Hồ mất,... Lê Lợi khởi nghĩa). Ơng chọn những bài thật là tiêu biểu nhƣ bài
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Thuật hồi của Đặng Dung, hoặc bổ sung một số câu thơ từ Bình Ngơ đại cáo
của Nguyễn Trãi ở hồi thứ 39, để thêm phần hấp dẫn cho bản nguyên tác. Rõ
ràng là ngƣời chỉnh lý, biên soạn, thực sự đồng cảm với tác giả. Con ngƣời
nếu mang bản chất vơ cảm, vơ tình, hoặc quá nữa là “vơ tổ quốc” thì khơng
thể cĩ cách thẩm văn và xử lý nhƣ vậy đƣợc. Kết thúc bài viết, tác giả Chƣơng
Thâu bày tỏ suy nghĩ của mình. Ơng cho rằng vấn đề cĩ liên quan đến Lê
Hoan chƣa thể kết luận một cách chính xác nhƣng phải chăng cĩ thể đƣa ra
một suy nghĩ để giúp cho sự nghiên cứu, sự bình luận đƣợc “văn hành cơng
khí hơn”. Ý kiến của Chƣơng Thâu đã lƣu ý ngƣời đọc rằng việc đánh giá
nhân vật lịch sử của chúng ta khơng thể cứ theo một định kiến, một thĩi quen,
mà điều trƣớc nhất là phải cĩ thật nhiều thật dồi dào tƣ liệu lịch sử. Cơng
bằng hay bất cơng, chỉ cĩ tƣ liệu mới là cơ sở vững chắc cho chúng ta đốn
định. Và nhân vật Lê Hoan chính là một nhân vật lịch sử ở trong trƣờng hợp
ấy.
Trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 58 (1 - 1964), nhà sử học Phan
Huy Lê cĩ bài viết “Tác phẩm Việt Lam xuân thu cĩ giá trị về mặt sử liệu hay
khơng?”. Vấn đề chính mà tác giả bài viết đề cập đến là bàn về giá trị sử liệu
của tác phẩm Việt Lam tiểu sử. Nhà nghiên cứu sau khi đọc tác phẩm Việt
Lam tiểu sử đã bày tỏ ấn tƣợng của mình: “Tơi cĩ ấn tượng rằng tác giả là
người đọc rộng biết nhiều. Để viết tác phẩm này, tác giả khơng những đã
tham khảo nhiều sử sách trong nước, nhiều tập truyện trong dân gian, mà cịn
tham khảo cả một số sử sách Trung Quốc nữa” [31,34]. Sở dĩ tác giả bài viết
cĩ đƣợc những ấn tƣợng này là do trong quá trình theo dõi tác phẩm Việt Lam
tiểu sử ơng đã phát hiện ra một số nhân vật nhƣ Lê Thiện, Lê Trãi hồn tồn
khơng cĩ trong chính sử của nƣớc ta mà chỉ thấy trong Minh sử, Minh sử kỷ
sự bản mạt, Việt kiệu thư,... hay những định danh nhƣ Nghĩa An, Sinh
Quyết,... cũng thƣờng ít dùng trong chính sử của ta, nhƣng lại đƣợc sử dụng
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
phổ biến trong các bộ sử nhà Minh,... Ngồi ra một vài đoạn mơ tả về vài vị
trí, thành lũy nào đĩ, tuy thấy khơng ghi chép trong thƣ tịch xƣa của ta hay
của nhà Minh, nhƣng lại phù hợp với địa thế và di tích ngày nay. Điều đĩ
chứng tỏ tác giả Việt Lam tiểu sử cịn sử dụng một số kiến thức về địa lý của
mình để xây dựng tác phẩm. Tuy nhiên theo nhà sử học Phan Huy Lê, tác giả
Lê Hoan cĩ lẽ khơng phải là một nhà sử học và nhất là khơng nhằm viết một
tác phẩm nghiên cứu về lịch sử, nên tác giả chỉ vay mƣợn một số cứ liệu lịch
sử nào đĩ cho tác phẩm cĩ cốt cách, màu sắc lịch sử mà thơi. Những cứ liệu
lịch sử đĩ đã bị cắt xén, sắp xếp tuỳ ý theo một bố cục và cách trình bày xây
dựng theo sự hƣ cấu của nhà văn. Rõ ràng trong Việt Lam tiểu sử, chỉ cĩ một
số tình tiết lịch sử nào đĩ nhƣ một số tên ngƣời, tên đất, một số năm tháng và
số liệu là đƣợc tơn trọng nhƣng lại bị sắp xếp trong những tƣơng quan và diễn
biến hồn tồn do tác giả sáng tạo ra. Chính bởi vậy mà những tình tiết lịch sử
cũng mất hết giá trị sử liệu của nĩ. Từ đĩ, tác giả bài viết cĩ nhận định: “Đây
là một bộ tiểu thuyết lịch sử về căn bản xây dựng theo sự hư cấu, theo trí
tưởng tượng của tác giả, trong đĩ những tình tiết lịch sử chỉ được tơn trọng về
mặt chi tiết mà thơi” [31,34]. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu và so sánh những
sự việc trong Việt Lam tiểu sử với những tác phẩm lịch sử cĩ giá trị, tác giả
bài viết đã đi đến kết luận phủ định giá trị sử liệu của tác phẩm. Theo nhà sử
học, Việt Lam tiểu sử là một cuốn tiểu thuyết lịch sử cĩ thể cĩ những giá trị về
mặt văn học nhƣng về mặt sử học thì tác phẩm khơng cĩ giá trị về mặt sử liệu,
khơng thể dùng làm căn cứ cho những cơng trình nghiên cứu sử học. Ý kiến
của ơng cũng nhắc nhở ngƣời đọc, khi tiếp cận tiểu thuyết này khơng nên quá
chú trọng đến giá trị về mặt sử liệu mà phải xét nĩ đúng nhƣ một tác phẩm
văn chƣơng đích thực, đầy sáng tạo. Những lời nhận xét của Phan Huy Lê cĩ
ý nghĩa rất lớn trong việc giúp cho độc giả cĩ cái nhìn khách quan, thấu đáo
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
hơn về quá trình hình thành cơng phu cũng nhƣ chất “tiểu thuyết” ở Việt Lam
tiểu sử.
Trong phần phụ lục của tác phẩm Việt Lam tiểu sử, tác giả Trần Nghĩa cĩ
trích dẫn bài viết của PGS. Tạ Ngọc Liễn với nhan đề “Việt Lam xuân thu qua
các bản dịch”. Tác giả bài viết sau khi đọc ba bản dịch Việt Lam tiểu sử với
các tên gọi khác nhau, khơng cĩ ý định đem đối chiếu các bản dịch với
nguyên văn chữ Hán để xem các bản dịch cĩ chính xác khơng bởi lẽ tác giả
khơng biết các dịch giả đã dựa vào bản chữ Hán nào để dịch. Vấn đề cơ bản
gợi sự chú ý của tác giả là vấn đề văn bản học trong sách Việt Lam tiểu sử -
một vấn đề mà các dịch giả khơng thể khơng sử lý khi tiến hành dịch nghĩa,
giới thiệu cơng bố tác phẩm này. Chẳng hạn, vấn đề ai là tác giả Việt Lam tiểu
sử và quá trình biến động của văn bản từ văn bản đầu chép tay (cựu bản) đến
văn bản đã đƣợc Lê Hoan sửa chữa, khắc in mang tên là Việt Lam tiểu sử (tân
bản). Để làm sáng tỏ hơn về vấn đề này, nhà nghiên cứu đã thẩm định lại ba
bản dịch. Bản dịch thứ nhất của Phƣơng phủ Nguyễn Hữu Quỳ. Trong bản
dịch của mình, Nguyễn Hữu Quỳ cĩ ghi tác giả Hồng Việt xuân thu là “vơ
danh thị tức” là tác phẩm khuyết danh. Đọc ý kiến của dịch giả sách Hồng
Việt xuân thu, tác giả Tạ Ngọc Liễn cĩ nhận xét: “Chúng ta thấy dường như
Nguyễn Hữu Quỳ khơng hề biết cĩ cuốn Hồng Việt xuân thu, tức Việt Lam
xuân thu được Lê Hoan khắc in vào năm 1908” [26,400]. Bản dịch thứ hai là
của Đơng Châu Nguyễn Hữu Tiến. Trong bản dịch này, Đơng Châu viết trong
nhời của ngƣời dịch sách rằng, nguyên bản chữ Nho trong Việt Lam tiểu sử đã
cĩ từ lâu lắm, nhiều ngƣời tƣơng truyền là của ơng Nguyễn Trãi làm ra và đến
năm Duy Tân Mậu Thân đƣợc Phú Hồn tử Lê tƣớng cơng đề thêm một bài
tựa và khắc bản in ra. Nhƣ vậy với bản dịch của Đơng Châu ngƣời đọc đƣợc
biết tác giả của Việt Lam tiểu sử cĩ thể là Nguyễn Trãi và Lê Hoan nhƣng cĩ
một điều đáng nĩi là trong bản của Đơng Châu dịch lại khơng cĩ bài tựa của
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Lê Hoan. Từ đĩ tác giả bài viết cho rằng: “Nếu chỉ đọc nhời của người dịch
sách của Nguyễn Đơng Châu thơi, thì độc giả hẳn sẽ hiểu rằng tác phẩm Việt
Lam xuân thu hiện hành, ngay khi mới được viết ra đã hồn thiện và hay như
vậy, chứ khơng biết đĩ là văn bản đã được Lê Hoan gia cơng sửa chữa khá
nhiều” [26,401]. Bản dịch thứ ba là của Trần Nghĩa. Trong bản dịch này, Trần
Nghĩa đã chính thức ghi tên đầu sách là Việt Lam xuân thu do Vũ Xuân Mai
soạn Lê Hoan nhuận sắc. Đƣợc biết tác giả Trần Nghĩa đã dựa theo ý kiến của
cụ Trần Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách Hán Nơm tập 2, nĩi rằng Việt Lam
tiểu sử “tương truyền là của Vũ Xuân Mai” để đi tới kết luận Vũ Xuân Mai là
ngƣời soạn Việt Lam tiểu sử nhƣ đã đề trên đầu sách nhƣng tác giả Tạ Ngọc
Liễn vẫn phân vân cho rằng Vũ Xuân Mai cĩ lẽ khơng phải là ngƣời khởi thảo
bộ tiểu thuyết chƣơng hồi này. Sau khi đã thẩm định qua một số bản dịch, Tạ
Ngọc Liễn đƣa ra ý kiến riêng cho rằng Việt Lam tiểu sử vẫn là tác phẩm
khuyết danh, chính Lê Hoan là ngƣời phát hiện rồi bỏ nhiều cơng sức, sửa
chữa khắc in cũng khơng nĩi ai là tác giả. Cĩ thể nĩi, trong bài viết này, nhà
nghiên cứu Tạ Ngọc Liễn đã rất cố gắng phân tích và lý giải để giúp cho
ngƣời đọc thấy đƣợc vai trị to lớn của Lê Hoan trong việc bỏ ra khơng ít tâm
lực “sửa sang trau chuốt” để hồn chỉnh, nâng cao tác phẩm Việt Lam tiểu sử
và khắc in cơng bố. Theo Tạ Ngọc Liễn nếu chỉ đọc truyện Việt Lam xuân thu
mà khơng đọc lời tựa của phú Hồn nam Lê Hoan thì độc giả sẽ khơng biết
đƣợc phần cơng lao và vai trị đáng kể của Lê Hoan đối với số phận cuốn tiểu
thuyết lịch sử khá hấp dẫn này. Kết thúc bài viết, nhà nghiên cứu Tạ Ngọc
Liễn đánh giá cao bản dịch của Trần Nghĩa. Bởi vì, Trần Nghĩa đã coi trọng
việc giải quyết vấn đề văn bản học khi tiến hành dịch Việt Lam tiểu sử. Ơng
đã cung cấp cho độc giả những dữ kiện chính yếu về tình hình văn bản sách
Việt Lam tiểu sử, về các phần mà Lê Hoan tham gia sửa chữa, bổ sung vào,
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
cũng nhƣ cung cấp một bản dịch đƣợc dịch từ văn bản chữ Hán hồn chỉnh,
đầy đủ nhất trong số mƣời mấy dị bản Việt Lam tiểu sử hiện cĩ.
Với bài viết “Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại - quá
trình hình thành, phát triển và đặc trưng nghệ thuật” in trong Con đường giải
mã văn học trung đại Việt Nam, (Nxb Giáo dục, Hà Nội - 2006), Tác giả
Nguyễn Đăng Na đã phân tích khá kỹ về con đƣờng hình thành, nội dung,
nghệ thuật, những mặt tích cực và hạn chế của thiên tiểu thuyết Việt Lam tiểu
sử. Theo Nguyễn Đăng Na: “Việt Lam tiểu sử lấy bối cảnh nước ta ba chục
năm đầu thế kỷ XV làm nền. Vào thời điểm ấy hàng loạt biến cố trọng đại của
dân tộc đã diễn ra: “Nhà Trần mất vai trị lãnh đạo và bị nhà Hồ thay thế;
cuộc xâm lược của người Trung Hoa vào quốc gia Đại Việt với quy mơ lớn
chưa từng cĩ và mang tính chất khốc liệt; Cuộc chiến tranh tồn dân vơ cùng
gian khổ hy sinh dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Lê Lợi, đã dành thắng
lợi vẻ vang, giải phĩng nước nhà, lập nên triều Lê - một triều đại đánh dấu
bước ngoặt lịch sử vĩ đại của dân tộc. Ba chục năm ấy chứa đầy chất sử thi,
cuộc đời mỗi nhân vật lịch sử của thời đại là một bản hùng ca” [43,543]. Từ
đĩ tác giả bài viết thừa nhận rằng, tác giả Việt Lam tiểu sử là một nhà văn cĩ
con mắt tinh đời, khi chọn thời gian và khơng gian nhƣ vậy làm bối cảnh cho
tác phẩm. Hơn nữa cho tới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chƣa cĩ một bộ
tiểu thuyết chƣơng hồi nào phản ánh giai đoạn lịch sử này. Cho nên sự ra đời
của Việt Lam tiểu sử đã đáp ứng kịp thời nhu cầu thời đại và lấp một mảng
trống trong văn học. Cũng trong bài viết này, nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về
quá trình hình thành Việt Lam tiểu sử đã phát hiện ra điểm mới. Đĩ là, lần đầu
tiên cĩ một tiểu thuyết gia - Lê Hoan vận dụng phƣơng pháp thực địa nghiên
cứu di tích lịch sử để dựng lại khơng gian chiến trận thời quá khứ. Đồng thời,
tác giả bài viết cũng chỉ ra trong ba nguyên nhân dùng để sáng tác Việt Lam
tiểu sử thì, sử liệu Trung Hoa là cái cớ “nĩi cĩ sách” để chốt lại nội dung, dã
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
sử là hƣơng men quyến rũ ngƣời đọc và thực địa là tang chứng củng cố nội
dung. Chính bằng con đƣờng đĩ, tác giả Việt Lam tiểu sử đã tạo ra chất thực
thực hƣ hƣ cho tác phẩm. Nĩi về nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, tác
giả bài viết đánh giá cao sự cố gắng của tác giả Việt Lam tiểu sử. Theo
Nguyễn Đăng Na, nếu Ngơ Giáp Đậu “lơ là” trong việc xây dựng tính cách
nhân vật, thì ngƣợc lại tác giả Việt Lam tiểu sử lại rất quan tâm. Các nhân vật
chẳng hạn: Lê Lợi, Lê Thiện, Nguyễn Trãi, Đồn Phát, Trần Hiến, Hồng
Phúc, Hồ Quý Ly, Bùi Bá Kỳ, Phạm Đán, Đặng Tất, Lê Nhị, Lê Khâm,... mỗi
ngƣời cĩ một tính cách khơng ai giống ai. Từ đĩ, tác giả bài viết cho rằng lẽ ra
nhờ những ƣu thế đĩ Việt Lam tiểu sử phải trở thành tác phẩm xuất sắc, đánh
dấu bƣớc phát triển mới của tiểu thuyết chƣơng hồi Việt Nam, nhƣng do tác
giả Việt Lam tiểu sử cịn cĩ một số vấn đề tạo nên sự phản cảm nên dẫn đến
tác phẩm chƣa đƣợc đánh giá thực chất. Để làm sáng tỏ hơn về điều này, nhà
nghiên cứu Nguyễn Đăng Na đã nêu và lý giải những vấn đề tạo nên sự phản
cảm cho tác phẩm đồng thời chỉ ra những mặt hạn chế về nội dung và hình
thức của tác phẩm này. Tuy nhiên khi chỉ ra những hạn chế trên, nhất là hạn
chế về nội dung, tác giả Nguyễn Đăng Na cũng giúp cho độc giả phát hiện ra
một ẩn ý khĩ nĩi của tác giả Việt Lam tiểu sử. Khi ngƣời Minh sang xâm lƣợc
nƣớc ta, họ gƣơng cao ngọn cờ diệt Hồ phù Trần để hấp dẫn ngƣời Việt. Đến
cả Lý Tự Thành - một thái giám già đời dƣới triều Trần cũng phải động lịng
khi nghe Trƣơng Phụ nĩi rằng “đến cõi bắt kẻ hung tàn để lập con cháu nhà
Trần” thế là Tự Thành vội vàng giãi bày tâm sự với Trƣơng Phụ. Nhƣng sau
phút bồng bột đĩ, Lý Tự Thành cũng chột dạ nên trong bức thƣ gửi cho con rể
Lê Thiện, ơng đã nhắc nhở con tuy hợp sức giết kẻ thù nhƣng phải nghĩ mình
mà thờ chúa cũ. Phải chăng nhân vật Lý Tự Thành đã thay mặt tác giả để lại
bức thơng điệp mà thời cuộc lúc bấy giờ khơng cho phép nĩi thẳng: Hãy cảnh
giác khi bắt tay với ngƣời Pháp. Cịn với nhân vật Lê Lợi, mặc dù giúp
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Trƣơng Phụ đánh thắng nhà Hồ nhƣng đến khi bắt đƣợc kẻ hung tàn Lê Lợi
nhắc đến việc “lập lại họ Trần” thì Trƣơng Phụ lại giả vờ đánh trống lảng
“hơm nay tiệc mừng hãy cứ uống rượu”. Đến lúc đĩ Lê Lợi mới vỡ lẽ ra rằng
tƣớng Minh muốn chiếm giữ nƣớc ta. Đấy phải chăng là sự vỡ lẽ của tác giả
Việt Lam tiểu sử? Dẫu sao tác giả Việt Lam tiểu sử chĩt làm việc với ngƣời
Pháp, biết “ăn nĩi làm sao bây giờ?”. Một con ngƣời dù chĩt lỗi lầm nhƣng
đã biết hối hận, cĩ nghĩa là ở họ cịn cĩ lƣơng tri. Từ đĩ, tác giả bài viết đã
bày tỏ sự cảm thơng sâu sắc đối với tác giả Việt Lam tiểu sử: “Hiểu được
những mâu thuẫn giằng xé trong con người cá nhân thời ấy, thấm thía cái giá
mà dân tộc phải trả cho cuộc sống tự do, hạnh phúc hơm nay, ta mới thơng
cảm được với các tác giả Việt Lam tiểu sử. Và, càng cảm thơng với nỗi khổ
tâm của thế hệ ấy, ta càng trân trọng chút ánh sáng lương tri mà họ gửi gắm
một cách “mờ mờ nhân ảnh” trong tác phẩm” [43,554].
Nhƣ vậy, tác phẩm Việt Lam tiểu sử đã đƣợc các nhà nghiên cứu tiếp
cận và khẳng định ở từng luận điểm cụ thể phục vụ cho các mục đích nghiên
cứu khác nhau. Tuy nhiên, nhữn._.g bài viết về nghệ thuật thể hiện nhân vật vẫn
cịn hạn hẹp. Đây cũng chính là một gợi ý, một cơ hội để ngƣời viết thực hiện
đề tài. Tìm hiểu về nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tác phẩm Việt Lam tiểu
sử giúp ngƣời đọc thấy đƣợc một khía cạnh giá trị của tác phẩm, qua đĩ cĩ cái
nhìn thấu đáo hơn về ý nghĩa của tác phẩm Việt Lam tiểu sử.
3. Phạm vi đề tài
Để thực hiện đề tài này, chúng tơi đã tiến hành đọc và tham khảo một số tác
phẩm sau:
- Đọc tác phẩm Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan.
- Đọc tham khảo (để đối chiếu so sánh) một số tác phẩm thuộc thể loại
tiểu thuyết chƣơng hồi nhƣ:
+ Nam triều cơng nghiệp diễn chí (Nguyễn Khoa Chiêm).
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
+ Tam quốc diễn nghĩa (La Quán Trung).
- Ngồi ra chúng tơi cịn đọc và tham khảo bộ sử:
+ Đại Việt sử ký tồn thư (Ngơ Sĩ Liên).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Luận văn cố gắng gĩp phần làm sáng tỏ những vấn đề cĩ liên quan đến
tác giả, tác phẩm Việt Lam tiểu sử.
4.2. So sánh nhân vật trong Việt Lam tiểu sử với những nguyên mẫu trong
lịch sử để lý giải những tƣơng đồng và khác biệt giữa nguyên mẫu và các hình
tƣợng văn học.
4.3. Chỉ ra những nét đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện nhân vật của tiểu
thuyết Việt Lam tiểu sử để thấy đƣợc một phần tƣ tƣởng của tác giả, đồng thời
khẳng định những đĩng gĩp, những thành tựu của tác phẩm Việt Lam tiểu sử
đối với thể loại tiểu thuyết chƣơng hồi.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp khảo sát thống kê và tổng hợp
Sử dụng phƣơng pháp này, ngƣời viết cĩ thể khái quát đƣợc những nét
cơ bản nhất trong nghệ thuật thể hiện nhân vật của tiểu thuyết Việt Lam tiểu
sử thơng qua việc khảo sát các nhân vật trong tác phẩm. Phƣơng pháp khảo
sát, thống kê và tổng hợp cũng là cơ sở tạo dữ liệu để chúng tơi thực hiện các
bƣớc tiếp theo là phân tích - bình giá. Đây cũng là một phƣơng pháp rất quan
trọng, giúp ngƣời nghiên cứu rút ra đƣợc những kết luận chính xác khoa học
đồng thời làm tăng thêm tính thuyết phục cho những kết luận khoa học ấy.
5.2. Phƣơng pháp phân tích tác phẩm và phân tích nhân vật theo loại hình
Mỗi một thể loại văn học đều cĩ những đặc trƣng riêng biệt. Do đĩ khi
nghiên cứu, chúng tơi quan tâm sử dụng phƣơng pháp phân tích tác phẩm theo
đặc trƣng thể loại, nhằm đảm bảo tính chính xác khoa học khi phân tích văn
học, tránh áp đặt chủ quan.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
5.3. Phƣơng pháp so sánh văn học
Sử dụng phƣơng pháp này, ngƣời viết nhằm để đối chiếu giữa các nhân
vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử với các nhân vật nguyên mẫu cĩ trong
lịch sử để thấy đƣợc những nét tƣơng đồng, khác biệt, đồng thời thấy đƣợc tài
năng và sáng tạo của nhà văn Lê Hoan trong quá trình đƣa từ các nguyên mẫu
lịch sử thành các hình tƣợng văn học.
6. Những đĩng gĩp của luận văn
- Lần đầu tiên tìm hiểu một cách hệ thống về nghệ thuật thể hiện nhân vật
trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan.
- Tìm tịi khám phá những vẻ đẹp cịn tiềm ẩn trong Việt Lam tiểu sử - một
tác phẩm cĩ giá trị nghệ thuật nhƣng bấy lâu nay chƣa đƣợc nhiều ngƣời biết
đến.
- Làm rõ tài năng sáng tạo của Lê Hoan trong việc nhào nặn từ các nguyên
mẫu lịch sử thành nhân vật văn học.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc triển
khai thành ba chƣơng sau đây.
Chƣơng 1: Tác giả, tác phẩm và vấn đề thể loại trong tiểu thuyết Việt
Lam tiểu sử.
Chƣơng 2: Nhân vật trong Việt Lam tiểu sử từ nguyên mẫu đến hình
tƣợng văn học.
Chƣơng 3: Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tác phẩm Việt Lam tiểu
sử.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
NỘI DUNG
CHƢƠNG MỘT
TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ VẤN ĐỀ THỂ LOẠI TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT LAM TIỂU SỬ
1. Tác giả Lê Hoan
Lê Hoan (1856 - 1915) tự là Ƣng Chi, hiệu là Mục §×nh, thụy là Vân
Nghị. Ơng sinh ngày 28 tháng 12 năm Bính Thìn (1856). Ngƣời thơn Cự Lộc,
xã Nhân Mục Mơn, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đơng, nay là phƣờng Thƣợng
Đình, quận Đống Đa, Hà Nội. Ơng vừa là quan lại vừa là một nhà văn. Theo
Thanh Trì Lê Lựu thị thế phả, Lê Hoan từng giữ các chức Binh bộ thƣợng thƣ
kiêm Đơ sát viên Hữu đơ ngự sử, Tổng đốc Ninh - Thái - Hải - Yên, tƣớc Phú
Hồn nam.
Theo cách nhìn nhận của những ngƣời hoạt động chính trị, ngƣời
nghiên cứu lịch sử mấy chục năm gần đây thì Lê Hoan là ngƣời khơng dành
đƣợc bao nhiêu thiện cảm với quốc dân. Ơng đã từng hợp tác với kẻ thù và
đàn áp những cuộc khởi nghĩa, làm hại ngƣời yêu nƣớc và phản bội lại sự
nghiệp giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Trong tiểu sử của Lê Hoan, cịn
cĩ nhiều những ý kiến xuyên tạc cho rằng ơng là một kẻ võ biền khơng cĩ học
hành gì. Trải qua sự biến thiên của lịch sử những điều tiếng về tác giả Lê
Hoan đã ăn sâu vào tiềm thức của nhân dân Việt Nam.
Trên thực tế, lịch sử khơng chỉ giản đơn nhƣ vậy, xung quanh vấn đề
tiểu sử Lê Hoan cịn cĩ nhiều uẩn khúc khiến cho chúng ta khơng khỏi băn
khoăn và đặt ra nhiều câu hỏi. Đặc biệt là gần đây, các nhà nghiên cứu đã thu
thập đƣợc một số những tƣ liệu quan trọng cĩ liên quan tới cuộc đời nhà văn
Lê Hoan. Đây chính là những căn cứ khoa học gĩp phần giúp cho chúng ta cĩ
những cách nhìn nhận mới hơn về nhân vật này.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Theo sử sách, viên khâm sai đại thần Lê Hoan là một ngƣời đƣợc thực
dân Pháp giao dẹp yên cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Nhƣng trong “Từ điển thư
mục tác giả, tác phẩm tổng quát, cổ điển và hiện đại về Đơng Dương thuộc
Pháp” của A.Brebion cĩ viết: “Năm 1909, khi cịn là Tổng đốc Hải Dương,
ơng lại được bổ nhiệm làm khâm sai và ngày 4 tháng 8 ơng ta đã chỉ huy bốn
trăm thân binh để tìm cách bắt liên lạc với các tốn phỉ ở Yên Thế, trong đĩ
cĩ tốn phỉ của Đề Thám. Cuối năm đĩ ơng ta bị kết tội làm những điều hại
đến thanh danh và hùm theo trùm phỉ và cuối cùng là tội phản bội” [2,230].
Năm 1998, GS. Lê Thành Khơi cĩ chuyển cho báo Xưa và Nay một bức
thƣ của nhà sử học Charles Fourniau. Ngay sau khi nhận đƣợc bức thƣ này,
báo Xưa và Nay đã kịp thời đăng tải đƣợc tới bạn đọc. Trong thƣ gửi cho Lê
Thành Khơi đề ngày 18 - 7 - 1998, Charles Fourniau cĩ nĩi rõ là khi trở lại
nghiên cứu về Doumer, ơng đã tìm lại đƣợc những tài liệu cĩ liên quan tới Lê
Hoan. Fourniau cho biết trong một báo cáo của viên chỉ huy Pháp Penequin
cho tổng chỉ huy quân đội Pháp đề ngày 13 - 10 - 1897 (nằm trong hồ sơ số
19243 ở Aixcote: CAUM - Indo GGI - Gouvernement general del Indochine)
nĩi ơng ta nắm trong tay bức thƣ của Lê Hoan viết năm 1892 gửi cho Đề Kiều
nĩi rằng: “Lúc này chống với quân Pháp phỏng cĩ ích gì, vì họ mạnh hơn.
Chúng ta hãy làm như đã từ bỏ sự nghiệp của người nước Nam, mà chỉ can
thiệp với Pháp thơi. Chúng ta phải kiên trì rồi một ngày kia chúng ta sẽ tập
hợp chống lại chúng và tống chúng ra biển. Thời cơ lúc này chưa đến, tốt hơn
hết hãy ru ngủ chúng bằng tình bạn giả vờ của chúng ta” [50,29]. Rồi
Pennequin kết luận: “Chúng ta đang bị khối quan lại và nho sĩ căm ghét, họ
khơng từ bỏ việc đánh đuổi chúng ta đâu” [50,29].
Cũng trên Tạp chí Xưa và Nay số 55 tháng 9 năm 1998, cĩ đăng tải tài
liệu về Lê Hoan do bà Phan Thị Minh Lễ gửi về từ Pháp. Trong thƣ, bà Phan
Minh Lễ nĩi rằng từ lâu nhân tìm tịi những nhân vật cách mạng chống Pháp
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
từ đầu thế kỷ XX, bà cĩ tìm thấy trong hồ sơ mật thám Pháp hai bài báo “Le
Journal de Paris” viết về nhân vật Lê Hoan cĩ liên quan tới Đề Thám cùng
tồn quyền Đơng Dƣơng. Tiến sĩ Phan Minh Lễ cũng gửi hai bài báo đã đọc
đƣợc tại cục lƣu trữ cơ quan mật thám của Pháp, bài thứ nhất “Ơng Picquíe
chống Lê Hoan” đăng trên báo Le Journal de Paris số ra ngày 1- 4-1910. Bài
báo cĩ đoạn viết: “Vụ khâm sai Lê Hoan đã diễn biến một cách kỳ quặc, ơng
Picquíe tồn quyền Đơng Dương lâm thời, người đã ra lệnh chấm dứt quyền
hành đặc biệt của viên quan khâm sai ngày 1 tháng 3 vừa qua, vừa ra lệnh mở
cuộc điều tra về hành vi nhận hối lộ của viên khâm sai, cùng với những người
xung quanh ơng ta” [32,31]. Bài thứ hai Lê Hoan cĩ phải là kẻ phản bội hay
khơng? số ra ngày 24 - 4 - 1910. Bài báo cĩ đoạn viết: “Cuộc điều tra về Lê
Hoan đang tiếp tục. Chúng tơi nĩi những gì về con người này.
Ngày nay, ai cũng biết rằng Lê Hoan được nước Pháp giao trách nhiệm
săn đuổi và bắt Đề Thám, lại trao đổi thư từ với Đề Thám một cách hồn tồn
thân mật. Bản gốc của những thư từ này được tìm thấy tại vị trí NUI LANG
(chỗ này bản chụp lại mờ khơng cĩ dấu – ND) do Đề Thám để lại sau một
trận đánh quyết liệt khiến cho bốn mươi lính Pháp phải thiệt mạng” [32,31].
Cả hai bài báo này đều là những tài liệu quan trọng đƣợc cắt ra và lƣu vào hồ
sơ về Lê Hoan của mật thám Pháp.
Gần đây nhất, trên báo Xưa và Nay số 110 (2 - 2002), cĩ đăng bài
Quanh việc đánh giá nhân vật Lê Hoan trong lịch sử cận đại của thạc sĩ sử
học Gerard Sarger Đại học Cambridge. Thạc sĩ Gerard Sagrer cho biết: “Ngay
sau khi bắt tay vào việc nghiên cứu những cuộc nổi dậy và bạo động của nơng
dân Trung du Bắc Bộ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tơi gặp phải những
vấn đề cĩ liên quan đến viên đại thần Lê Hoan” [52,34]. Khi bắt đầu tiếp xúc
với những tƣ liệu trong Cục lƣu trữ Hải ngoại của Pháp và Cục lƣu trữ Quốc
gia Việt Nam, Gerard Sarger phát hiện ra một số vấn đề nổi bật trong các tài
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
liệu của Pháp nĩi về Lê Hoan là các quan chức Pháp khơng hề tin tƣởng ơng
ta “Các quan chức ở mọi cấp từ địa phương đến tồn quyền đều tỏ ra nghi
ngờ lịng trung thành của Lê Hoan đối với chế độ thuộc địa. Ngay cả cho tới
năm 1909 khi Lê Hoan được bổ nhiệm làm khâm sai cĩ trách nhiệm dẹp yên
cuộc khởi nghĩa Yên thế, Thống sứ Pháp Bắc Kỳ buộc phải cấm Lê Hoan tiếp
xúc với báo giới người Âu để tổ chức phỏng vấn cơng khai vì sợ ơng ta chỉ
trích hay gây rối cho chính quyền. Trong một bức thư gửi cho Cơng Sứ Hải
Dương nơi Lê Hoan làm tổng đốc, viên Thống sứ Pháp Simoni viết: “Đề nghị
báo cho tổng đốc biết rằng ơng ta khơng được trả lời phỏng vấn cơng khai
nhất là các cuộc phỏng vấn mà ơng ta cĩ thể chỉ trích chính quyền hay chính
sách của chính phủ” [52,34]. Theo thạc sĩ Gerard Sarger, mọi sự khơng tin
tƣởng này khơng phải là khơng cĩ cơ sở. Trong khi Lê Hoan mở chiến dịch
chống Hồng Hoa Thám vào 1896, thủ lĩnh nghĩa quân này bố trí giết hai tên
Pháp. Cuộc điều tra ngay sau đĩ cho thấy cĩ thể Lê Hoan đã liên kết với
Hồng Hoa Thám nhƣng do chƣa cĩ bằng chứng hồn tồn chính xác nên
chính phủ Pháp chỉ chuyển Lê Hoan khỏi vị trí hoạt động và giáng chức
xuống hai cấp.
Ngồi ra, Gerard Sarger cịn cung cấp thêm một số thơng tin khác khá
quan trọng. Đĩ là đến thời điểm xảy ra vụ âm mƣu đầu độc trại lính Pháp ở
Hà Nội năm 1908 thì Lê Hoan đã đƣợc hồi phục chức vụ của mình và đƣợc bổ
nhiệm làm Tổng đốc tỉnh Hải Dƣơng. Năm1909 khi Lê Hoan đƣợc bổ nhiệm
làm chỉ huy một đội cảnh sát đi dẹp yên cuộc khởi nghĩa Yên Thế với vai trị
quan trọng, Lê Hoan khơng những chỉ huy lực lƣợng cảnh sát chính quy tuần
tiễu khắp vùng trung tâm Bắc Bộ mà cịn cĩ quyền thuê thám tử bí mật và cấp
cho họ giấy tờ xác nhận. Loại giấy tờ này cho phép họ đi lại tự do khắp vùng.
Cuối năm 1909 xảy ra vụ hai ơng Đỗ Văn Huỳnh và Vũ Ngọc Thụy bị bắt.
Điều đáng nĩi là cả hai ngƣời này đều mang tờ chứng minh họ là mật thám
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
của Lê Hoan “Huỳnh mang giấy tờ của cháu ơng ta là Nguyễn Tư Trung, cĩ
hai bộ giấy tờ căn cước cho phép anh ta an tồn khi ở nhà, trong khi ơng bác
lại sử dụng giấy căn cước đĩ để đi lại như con thoi giữa Yên Thế và Hà Nội.
Về phần mình Thụy là gián điệp chính thức của Lê Hoan” [52,35]. Vụ việc
này đã khiến ngƣời Pháp đặt ra câu hỏi vì sao Huỳnh và Thụy cĩ thể đi lại tự
do khắp Bắc Kỳ lâu đến nhƣ vậy? Tuy nhiên trong vụ việc này, khơng chỗ
nào cĩ bằng chứng cho thấy Lê Hoan biết về hoạt động của các điệp viên của
mình. Lê Hoan cĩ thể phủ nhận một cách hợp lý mọi sự liên quan và đƣa vụ
việc xuống chỉ cịn là một sự thất bại đáng tiếc trong việc đánh giá cấp dƣới,
vì khơng cĩ chứng cớ nên ngƣời Pháp đành chấp nhận lời giải thích này và
đƣa ra những lời nhận xét chua cay của phịng nhì nĩi với cơng sứ Pháp:
“Những sự kiện thực tế này thể hiện rõ ràng là chúng ta chỉ cĩ thể đặt rất ít
niềm tin vào các điệp viên Việt Nam và càng giải thích thêm vì sao mà chúng
ta lại rất khĩ khăn trong việc phát hiện ra nơi ẩn náu của nghĩa quân, sau
mỗi lần giao chiến” [52,35]. Sự việc diễn ra khiến ngƣời ta đánh giá Lê Hoan
đã hỗ trợ bí mật cho chính ngƣời mà phía Pháp đã cử Lê Hoan đi để phá hoại.
Thêm vào đĩ ngày 23 tháng 3 năm 1909, ngay sau khi bắt đầu chiến dịch cuối
cùng chống Hồng Hoa Thám, Thống sứ Simoni ở Hà Nội nhận đƣợc một bức
thƣ lạ của cơng sứ lạng sơn tên là Du Vaure giải thích rằng vào tháng 8 năm
1908 ơng ta đã bắt giữ một trong số thủ lĩnh chính của Đề Thám tên là Dƣơng
Bang, cùng với 13 ngƣời khác. Trong cuộc thẩm vấn, Dƣơng và những ngƣời
của ơng ta đã xác nhận là kế hoạch âm mƣu đầu độc trại lính Pháp ở Hà Nội là
do một nhĩm quan lại cao cấp của triều đình vạch ra dƣới sự lãnh đạo của Lê
Hoan. Tuy nhiên với sự khơn khéo thơng minh của Lê Hoan, mọi lời cáo buộc
của ngƣời Pháp đều trở nên vơ căn cứ và khơng đƣợc bảo đảm.
Nghiên cứu những vấn đề cĩ liên quan đến Lê Hoan, thạc sĩ sử học
Gerard Sarges đặt ra câu hỏi: “Vậy Lê Hoan cĩ phải là nhà yêu nước hay
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
khơng? Phải chăng trong lúc Lê Hoan vừa là một đầy tớ trung thành của chế
độ thực dân Pháp ơng ta lại hợp tác với Hồng Hoa Thám và những người
khác để đuổi Pháp ra khỏi Việt Nam? Kết luận này là một cách để giải thích
những sự kiện trên. Dù cĩ một sự nghiệp dài và nổi bật nhưng Lê Hoan chưa
bao giờ được người Pháp tin tưởng một cách tuyệt đối” [52,40].
Khi tìm hiểu và đánh giá về tác giả Lê Hoan, ngồi căn cứ từ những tài
liệu quan trọng đƣợc các nhà nghiên cứu trong và ngồi nƣớc sƣu tầm chúng
ta khơng thể khơng chú ý đến hồn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Sau bao nhiêu năm lăm le dịm ngĩ, ngày 31 - 8 - 1858 thực dân Pháp
nổ súng vào cửa bể Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lƣợc chính thức nƣớc ta. Ngày
10 tháng 2 năm 1859 từ Vũng Tầu chúng pháo kích các cơng sự bảo vệ con
đƣờng thuỷ vào Gia Định và 8 ngày sau chúng chiếm thành Gia Định. Từ giữa
thế kỷ trƣớc trong cuộc chiến đấu chống Pháp, Miền Nam đã đi đầu trong tồn
quốc. Thực dân Pháp phải trải qua một thời gian non bốn mƣơi năm mới đặt
đƣợc ách thống trị trên đất nƣớc ta. Trong thời gian ấy, chúng lần lƣợt đánh
chiếm ba tỉnh miền Đơng rồi tiến đánh ba tỉnh miền Tây. Sau khi chiếm đƣợc
tồn bộ Nam Kỳ thực dân Pháp bắt đầu đánh ra Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Thắng
lợi của thực dân Pháp đánh dấu bằng những hàng ƣớc của triều đình Huế ký
kết với chúng. Hàng ƣớc năm 1862 nhƣờng ba tỉnh Biên Hịa, Gia Định, Định
Tƣờng và đảo Cơn Lơn cho thực dân Pháp. Điều ƣớc và thƣơng ƣớc 1883 và
1884 thì cơng nhận sự đơ hộ của thực dân Pháp trên tồn cõi Việt Nam. Đến
đầu thế kỷ XX thực dân Pháp thực sự tiến hành khai thác thuộc địa về mặt
kinh tế, nhân dân lầm than cơ cực, xã hội cĩ sự phân hĩa giai cấp sâu sắc.
Tƣơng lai của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX cịn mờ mịt, phong trào
yêu nƣớc giải phĩng dân tộc đang tạm thời bị thất bại. Trƣớc tình hình đĩ một
bộ phận khơng nhỏ trong hàng ngũ quan lại triều đình Huế hoang mang. Theo
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Pháp thì sợ bị lên án, nhƣng khơng theo lại sợ Pháp, đƣơng đầu với Pháp cũng
khơng dám, đã cĩ một số cá nhân mạnh bạo đứng hẳn vào hàng ngũ đối lập
với kẻ địch, dứt khốt sống mái với kẻ thù để bảo vệ non sơng, cĩ ngƣời đầu
hàng địch làm tay sai phản bội lại tổ quốc. Cĩ một số vì hồn cảnh và một số
lý do khác nhau phải hợp tác với kẻ địch. Một trong số những ngƣời đã nhận
quan tƣớc của triều đình là Lê Hoan, mà triều đình lại đặt dƣới sự bảo hộ của
Pháp, do đĩ dù muốn hay khơng muốn Lê Hoan vẫn phải hành động theo sự
chỉ huy của ngƣời Pháp. Vì vậy, ơng đƣợc liệt vào hàng ngũ bán nƣớc hại dân.
Thực ra, Lê Hoan cũng nhƣ một số quan lại của triều đình cũng cĩ khi bị ép
buộc, cĩ ngƣời do bát cơm manh áo ràng buộc, cũng cĩ ngƣời ngây thơ chính
trị cả tin Pháp tƣởng họ là những ngƣời khai sáng văn minh, chỉ sau khi làm
việc với ngƣời Pháp họ mới vỡ lẽ ra rằng mình bị lừa, đến lúc ân hận muốn từ
bỏ con đƣờng quan tƣớc để trở lại dân thƣờng. Nhƣng mặc cảm tội lỗi đè nặng
hai vai họ cũng khơng đủ dũng khí để làm lại cuộc đời. Vả lại, chính ngƣời
Pháp cũng khơng để cho họ cơ hội làm lại cuộc đời. Cĩ lẽ cũng bởi những
mặc cảm tội lỗi khơng thể thốt ra đƣợc cạm bẫy nên Lê Hoan đã kín đáo gửi
gắm tâm sự của mình trong lời tựa của tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử: “Cần phải
tường tận bản sắc anh hùng Lê Thái Tổ. Khi thời cơ chưa đến thì thuận theo
đạo trời, an tâm với mệnh, thương kẻ sĩ yêu dân lành, giả cách nhún nhường
để khỏi nhận chức tước của triều ngụy. Lúc thời cơ tới thì dùng người hiền
tài, dựa vào kẻ cĩ năng lực, điều binh khiển tướng tiêu diệt giặc Minh, khơi
phục nước nhà. Trong mười năm trù hoạch kinh dinh khơng cĩ một việc làm
nào của ngài chứng tỏ ngài khơng phải là vị quốc vương cĩ trí, cĩ nhân, cĩ
dũng. Nếu khơng phải là một ơng vua độ lượng liệu cĩ thể như thế được
chăng?” [26,15].
Cĩ thể nĩi rằng, nếu Lê Hoan khơng phải là ngƣời cĩ tâm huyết thì khĩ
lịng mà cĩ đƣợc sự đánh giá về Lê Lợi khá tồn diện và nĩi lời kính phục
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
thành thật, chất phát đến nhƣ vậy. Việc lựa chọn chủ đề nĩi chuyện về vua Lê
Thái Tổ lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng quân Minh giải phĩng đất nƣớc khỏi
ách thống trị của ngoại bang vào thế kỷ XV và sau đĩ lập ra triều đại hậu Lê
trong cuốn Việt Lam tiểu sử cĩ vẻ nhƣ hơi lạ đối với một ngƣời đã từng phục
vụ một cƣờng quốc ngoại bang muốn xâm lƣợc Việt Nam. Trong lời tựa của
cuốn Việt Lam tiểu sử, Lê Hoan nĩi rằng ơng cảm thấy cần phải xuất bản bản
thảo đĩ để các thế hệ ngƣời Việt Nam sau này cĩ thể học về một ngƣời anh
hùng dân tộc này và áp dụng một số bài học cho một số tình huống khĩ khăn
mà họ cĩ thể gặp phải.
Những dẫn chứng và các kết quả mà các nhà nghiên cứu tìm đƣợc mới
chỉ là gián tiếp khĩ cĩ thể đánh giá một cách chắc chắn về Lê Hoan và vai trị
của ơng trong lịch sử Việt Nam. Nhƣng qua những tài liệu mật những cuộc
điều tra tranh cãi, giúp chúng ta cĩ thể nhìn nhận mới hơn về nhân vật này.
Đúng nhƣ GS. Chƣơng Thâu đã nĩi: “Vấn đề rõ ràng là chưa thể kết luận.
Nhưng phải chăng cĩ thể đưa ra một suy nghĩ để giúp cho sự nghiên cứu, sự
bình luận được “văn hành cơng khí hơn”. Đĩ là sự đánh giá nhân vật lịch sử
của chúng ta khơng thể cứ theo một định kiến, một thĩi quen mà điều trước
mắt là phải cĩ thật nhiều, thật dồi dào tư liệu lịch sử. Cơng bằng hay bất cơng
chỉ cĩ tư liệu mới là cơ sở vững chắc cho chúng ta đốn định” [63,397].
Về nhân vật Lê Hoan, các nhà nghiên cứu cịn phải tốn kém khá nhiều
thời gian để chứng minh tranh luận nhƣng cĩ một điều ai cũng phải thừa nhận
đĩ là cơng lao của Lê Hoan đĩng gĩp cho sự nghiệp văn học nƣớc nhà qua
việc năm 1905 ơng tổ chức cuộc thi thơ Đề Thanh Tâm Tài Nhân và một số
tác phẩm đƣợc các nhà nghiên cứu sƣu tầm cơng bố nhƣ tiểu thuyết chữ Hán
Việt Lam tiểu sử (cịn cĩ tên Việt Lam xuân thu hơn 400 trang), Lê Lựu Thanh
Trì thị thế phả và các văn bút văn bia, câu đối,...
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
2. Tác phẩm Việt Lam tiểu sử
Việt Lam tiểu sử là một trong những sáng tác ra đời vào buổi xế chiều
của tiểu thuyết chƣơng hồi Việt Nam thời trung đại. Khơng chỉ cĩ nhiều uẩn
khúc trong vấn đề tác giả mà cuốn tiểu thuyết này cịn nhiều vấn đề khá phức
tạp khác cần đƣợc quan tâm xem xét.
2.1. Tên gọi
Cho đến nay Việt Lam tiểu sử cĩ 3 tên gọi: Hồng Việt xuân thu, Việt
Lam xuân thu, và Việt Lam tiểu sử. Để xác định tên gọi đích thực của tác
phẩm này, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na chúng ta cần phải phân loại
theo hai tiêu chí: Loại hình thể loại và nội dung.
Trƣớc hết là theo loại hình thể loại, dựa vào những chữ chỉ thể loại tác
phẩm đứng cuối nhan đề của sách ta cĩ thể chia chúng làm hai loại: Loại hình
lịch sử và loại hình phi chức năng lịch sử. Loại hình lịch sử gồm các nhan đề
Hồng Việt xuân thu và Việt Lam xuân thu, chính hai chữ “xuân thu” cuối
sách đã chỉ rõ rằng chúng thuộc loại hình lịch sử. Bởi vì từ xƣa ngƣời ta đã
dùng thuật ngữ xuân thu để chỉ các bộ sử biên niên của Trung Hoa. Điều này
xuất phát từ thuyết cho rằng Khổng Tử đã san định bộ sử biên niên nƣớc Lỗ
mà đời sau gọi là xuân thu. Sách xuân thu đƣợc liệt vào một trong năm bộ
kinh của Nho gia (kinh thi, kinh thu, kinh lễ, kinh dịch, kinh xuân thu). Loại
hình phi chức năng lịch sử chính là nhan đề Việt Lam tiểu sử. Sở dĩ gọi là tiểu
sử theo lời Lê Hoan giải thích trong lời tựa Việt Lam tiểu sử là để phân biệt
với chính sử.
Theo nội dung, dựa vào nhan đề sách ta cĩ thể chia nội dung tác phẩm
thành hai loại: Loại viết về một thời đại khơng xác định và loại viết về thời đại
xác định. Loại viết về thời đại lịch sử khơng xác định là Hồng Việt xuân thu.
“Hồng Việt” là khái niệm dùng để chỉ các triều vua nƣớc Việt nĩi chung
khơng giới hạn ở một triều vua nào nhất định. Loại viết về một thời đại xác
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
định gồm Việt Lam xuân thu và Việt Lam tiểu sử. “Lam” là chữ Lam sơn viết
tắt. “Việt” là Việt Nam. Với nhan đề là Việt Lam xuân thu, Việt Lam tiểu sử,
dù tác phẩm thuộc loại hình văn học nào thì nội dung của chúng cũng chỉ nĩi
về thời kỳ Lam Sơn khởi nghĩa của ngƣời Việt.
Hiện nay các thƣ viện Hà Nội cịn lƣu trữ ít nhất tám văn bản tác phẩm.
Nội dung của chúng tuy cĩ xuất nhập nhƣng về cơ bản khơng khác nhau
nhiều. Văn bản đầy đủ nhất cĩ 60 hồi thì 51 hồi (từ hồi 10 đến hồi 60) viết về
phong trào khởi nghĩa do Lê lợi lãnh đạo, 9 hồi cịn lại (từ hồi 1 đến hồi 9) tuy
khơng trực tiếp phản ánh khởi nghĩa Lam Sơn nhƣng tạo dựng khơng khí tiền
khởi nghĩa. Bởi vậy, nhan đề Hồng Việt xuân thu khơng thật sự phù hợp với
nội dung tác phẩm dù trên thực tế nhan đề đĩ vẫn tồn tại và chiếm một tỉ lệ
khá lớn. Hiện nay tám bản cịn lƣu trữ tại các thƣ viện quốc gia, viện sử học
và viện nghiên cứu Hán Nơm thì cĩ tới sáu bản ghi tên tác phẩm là Hồng
Việt xuân thu. Đĩ là các bản mang số hiệu HVv 2085, VHv 1683, A13, A
3215. VH 141 và R451. Cịn lại văn bản ghi tên tác phẩm là Việt Lam xuân
thu, Việt Lam tiểu sử chỉ cĩ hai đĩ là bản VHv1819 và HV 84. Điều đáng chú
ý là các sách mang nhan đề Hồng Việt xuân thu đều là bản chép tay cịn sách
cĩ tên Việt Lam xuân thu, Việt Lam tiểu sử đều là bản in và đƣợc in vào năm
Mậu Thân 1908 thời Duy Tân.
Bên cạnh đĩ trong lời đề tự cho Hồng Việt long hưng chí viết 1804,
Ngơ Giáp Đậu vẫn gọi tác phẩm kia là Hồng Việt xuân thu Ơng viết: “Các
truyện chí của nước Nam thời nào cũng cĩ người sáng tác. Sách Hồng Việt
xuân thu thuật lại duyên cớ phế hưng qua qua các đời” [43,332] (trích lại theo
Nguyễn Đăng Na). Lời đề tựa của Ngơ Giáp Đậu cho thấy Hồng Việt xuân
thu là nhan đề vốn cĩ của tác phẩm và tới năm 1904 nĩ vẫn cịn. Thế nhƣng
trong cả 8 văn bản nhất là văn bản đủ 60 hồi đều chỉ kể về thời Lam Sơn chứ
khơng thuật lại duyên cớ phế hƣng qua các đời. Cũng bởi đầu thế kỷ XX lịch
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
sử Việt Nam cĩ cái gì đĩ na ná nhƣ những năm đầu thế kỷ XV. Vì thế, ngƣời
ta đã sử dụng Hồng Việt xuân thu để gửi gắm tâm sự cá nhân và cắt xén một
phần nào đĩ đúng nhƣ lời nhận xét của GS. Phan Huy Lê khi đọc Việt Lam
xuân thu: “Những cứ liệu lịch sử đĩ đã bị tác giả cắt xén một cách rất tuỳ
tiện”. Bởi vậy, Việt Lam xuân thu khơng đủ tƣ cách là tác phẩm thuộc loại
hình lịch sử mà thuộc loại hình phi lịch sử. Nghĩa là tác phẩm đã đƣợc chuyển
từ văn học chức năng hành chính sang chức năng nghệ thuật qua sự “hư cấu”
và “sáng tạo” của tác giả. Khi đã gia cơng nhào nặn thành “một bộ tiểu thuyết
lịch sử về cơ bản xây dựng theo sự hư cấu, theo trí tưởng tượng của tác giả”
thì hai chữ xuân thu khơng cịn phù hợp với nhan đề của tác phẩm nữa. Do đĩ,
Lê Hoan mới đặt nhan đề cho sách là Việt Lam tiểu sử để phân biệt với chính
sử. Nhƣ vậy dựa vào nội dung cũng nhƣ nghệ thuật của tác phẩm, đặt nhan đề
Việt Lam tiểu sử nhƣ Lê Hoan là hợp lý. Đây cũng là căn cứ để khi nghiên
cứu thiên tiểu thuyết này, chúng tơi đã chọn tên gọi là Việt Lam tiểu sử.
2.2. Vấn đề xác định tác giả Việt Lam tiểu sử
Tác phẩm Việt Lam tiểu sử khơng phải ngay từ khi sinh ra nĩ đã hồn
chỉnh và cĩ tên gọi nhƣ vậy. Cho đến nay vấn đề ai là tác giả của Việt Lam
tiểu sử vẫn cịn nhiều ý kiến khác nhau chƣa đi đến thống nhất.
Theo học giả Trần Văn Giáp xác định trong Tìm hiểu kho sách Hán
Nơm (tập 2) thì tác giả tƣơng truyền là Vũ Xuân Mai, Tri huyện Phúc Thọ (Hà
tây).
Ngƣợc lại với ý kiến của Trần Văn Giáp, nhà nghiên cứu Tạ Ngọc Liễn
lại cho rằng Vũ Xuân Mai khơng phải là ngƣời khởi thảo bộ tiểu thuyết lịch sử
chƣơng hồi Việt Lam tiểu sử. Vũ Xuân Mai sống cùng thời với Lê Hoan, nếu
Vũ Xuân Mai là tác giả của Việt Lam tiểu sử thì chắc chắn Lê Hoan Phải biết,
phải nĩi tới họ Vũ khi sửa chữa khắc in thành Việt Lam tiểu sử. Ngƣợc lại, Vũ
Xuân Mai cũng biết việc làm của Lê Hoan và khơng thể khơng cĩ phản ứng gì
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
để “bảo vệ quyền tác giả”. Theo Tạ Ngọc Liễn: “Việt Lam xuân thu vẫn là tác
phẩm khuyết danh, chính Lê Hoan là người đã phát hiện rồi bỏ nhiều cơng
sức sửa chữa khắc in cuốn Việt Lam xuân thu cũng khơng nĩi ai là tác giả”
[26,402].
Năm 1914, khi bắt đầu dịch và cho cơng bố bản dịch Việt Lam tiểu sử,
Nguyễn Đơng Châu viết trong nhời của ngƣời dịch sách rằng: “Nguyên bản
chữ nho truyện Việt Lam xuân thu này đã cĩ từ lâu lắm khơng biết đích xác là
ai làm nhưng cĩ nhiều người truyền là của Nguyễn Trãi làm ra. Đến năm Duy
Tân Mậu Thân (1908) quan Tổng Đốc Hải Dương Phú Hồn tử Lê tướng
cơng cĩ đề thêm bài tựa và khắc in ra, ai ai cũng được đọc và cũng lấy làm
hay lắm. Chúng tơi thấy sách hay nên dịch ra quốc âm để chư vị dễ xem,
khơng chỉ mua vui trong mười lăm phút đồng hồ mà ai xem sách này cịn biết
được sự tích nước mình” [5,1]. Nhƣ vậy, nếu theo bản dịch của Đơng Châu thì
tác giả của Việt Lam tiểu sử cĩ thể là Nguyễn Trãi và Lê Hoan. Nhƣng trong
Việt Lam tiểu sử bản Nguyễn Đơng Châu khơng cĩ bài tựa của Lê Hoan. Điều
đáng nĩi là, nếu đọc nhời của ngƣời dịch sách của Nguyễn Đơng Châu thì
chúng ta sẽ thấy rằng tác phẩm Việt Lam tiểu sử hiện hành ngay khi mới đƣợc
viết ra đã hồn thiện và hay nhƣ vậy chứ khơng biết đƣợc là văn bản đã đƣợc
Lê Hoan gia cơng sửa chữa khá cơng phu.
Bác bỏ ý kiến cho rằng Việt Lam tiểu sử là của Nguyễn Trãi làm ra, nhà
sử học Phan Huy Lê khi tìm hiểu tác phẩm Việt Lam tiểu sử đã đƣa ra ý kiến:
“Căn cứ vào thể văn và nội dung của tác phẩm tơi nghĩ rằng chúng ta đã đủ
căn cứ để bác bỏ ý kiến cho rằng đây là tác phẩm của thế kỷ XV do Nguyễn
Trãi viết” [31,33].
Năm 1999 khi dịch và cơng bố tác phẩm Việt Lam tiểu sử, tác giả Trần
Nghĩa đã dựa theo ý kiến của học giả Trần Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách
Hán Nơm (tập 2) và đi đến kết luận Việt Lam tiểu sử do Xuân Mai biên soạn,
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Lê Hoan nhuận sắc. Theo Trần Nghĩa: “Từ trước đã cĩ văn bản Việt Lam
xuân thu rồi đến năm Mậu Thân (Duy Tân 1908) Lê Hoan đã đưa vào đĩ để
biên tập lại thành “Tân bản” với hi vọng nâng cao về nội dung cũng như
nghệ thuật một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử trình bày dưới dạng chương hồi”
[26,14].
Gần đây nhất năm 2006, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na cĩ bài viết
“Việt Lam tiểu sử tác giả, tác phẩm, và phương pháp sáng tác” in trong Con
đường giải mã văn học trung đại Việt Nam. Trong bài viết, Nguyễn Đăng Na
đã đƣa ra những căn cứ và lý giải về vấn đề ai là tác giả Việt Lam tiểu sử.
Theo Nguyễn Đăng Na, Việt Lam tiểu sử thốt thai từ Hồng Việt xuân thu.
Bởi vậy, muốn biết ai là tác giả phải bắt đầu từ Hồng Việt xuân thu. Ngƣời
đầu tiên đề cập tới Hồng Việt xuân thu cĩ lẽ là Ngơ Giáp Đậu - tác giả
Hồng Việt long hưng chí. Ơng khơng chỉ cho biết nội dung Hồng Việt xuân
thu mà cịn gợi ý thời điểm ra đời của nĩ cĩ thể trƣớc Việt Nam quốc chí của
Nguyễn Khoa Chiêm. Bởi vì, Việt Nam quốc chí đƣợc ra đời năm 1917. Nếu
Hồng Việt xuân thu ra đời trƣớc thì tác phẩm này phải đƣợc viết chậm nhất
là năm 1719. Điều này hợp với ý kiến của Nguyễn Đơng Châu: “Việt Lam
xuân thu đã cĩ lâu lắm, khơng biết đích xác ai làm nhưng cĩ nhiều người
tương truyền là của Nguyễn Trãi” [5,1]. Nếu cho rằng Việt Lam xuân thu là
của Nguyễn Trãi thì khơng đúng bởi ơng sinh ở thế kỷ XV mà sách ra muộn
nhất là thế kỷ XVIII, nhƣng khẳng định sách đã cĩ lâu lắm là hồn tồn đúng.
Tuy nhiên, với các minh chứng nĩi trên, ta mới kết luận đƣợc rằng Hồng Việt
xuân thu ra đời chậm nhất là năm 1719. Câu trả lời ai là tác giả vẫn cịn đang
bỏ ngỏ. Sau Ngơ Giáp Đậu là Trần Văn Giáp tuy nhiên Trần Văn Giáp cũng
chỉ khảo về Việt Lam tiểu sử. Ơng cho biết tác phẩm “tương truyền” là của Vũ
Xuân Mai ngƣời phƣờng Xuân Yên tỉnh Hà Nội, đậu cử nhân khoa kiến phúc
Giáp Thân 1884. Tuy nhiên để lƣu ý ngƣời đọc về lời truyền đĩ ơng nhấn
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
mạnh “lời truyền này chưa tìm thấy ghi trong sách nào cả”. Theo nhà nghiên
cứu Nguyễn Đăng Na, để kết luận ai là tác giả của Việt Lam tiểu sử chúng ta
cần phải cĩ những chân lý xác thực chứ khơng thể dựa vào những cảm nhận
“cĩ lẽ đúng”, những “suy đốn” hay “tương truyền”. Từ đĩ, Nguyễn Đăng Na
cũng đƣa ra ba chứng cớ để cho phép ta nghi ngờ một cách khoa học rằng tác
giả Việt Lam tiểu sử khơng ai khác ngồi Lê Hoan.
._.m làm
vua” [26,259]. Từ chối lời đề nghị của mọi ngƣời khơng phải vì ơng sợ gánh
nặng trách nhiệm mà ơng khơng muốn mang tiếng là kẻ bất nghĩa chiếm ngơi
của nhà Trần. Với Lê Lợi, khát vọng trừ bạo cứu dân luơn là một lý tƣởng cao
nhất để ơng hƣớng tới.
Nĩi đến Nguyễn Trãi là nĩi đến một vị quân sƣ tài trí mƣu lƣợc. Bởi
vậy khi thể hiện nhân vật, tác giả Lê Hoan rất chú ý lựa chọn ngơn ngữ để thể
hiện đƣợc bản chất của con ngƣời này. Vốn là ngƣời yêu thƣơng dân chúng,
những lời nĩi của Nguyễn Trãi đối với ngƣời trên kẻ dƣới đều xứng danh là
một bậc hiền sĩ. Chẳng hạn lúc “vén màn xơng vào” gặp Lê Lợi, Nguyễn Trãi
làm Lê Lợi giật mình định rút gƣơm ra chém nhƣng nhờ những lời nĩi hết sức
giõng rạc lƣu lốt Nguyễn Trãi khơng những khơng bị Lê Lợi sử tội chết mà
cịn đƣợc kính mộ “thần là tiến sĩ triều Trần, người Nhị Khê, họ Nguyễn tên
Trãi, bởi tướng nhà Minh bạo ngược nên phải lẩn lút tha phương. Nghe minh
cơng là bậc trưởng giả khoan dung, thần đặc biệt muốn tới đây xin theo,
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
nhưng khơng cĩ cách gì đề đạt nguyƯn vọng. May gặp lúc minh cơng ra tiếp
dân, thần hân hạnh được biết dung nhan, muốn vái chào nhưng sợ đường đột.
Vì vậy mà liều lĩnh đi theo trốn vào gĩc phịng” [26,252]. Chỉ thơng qua một
vài câu nĩi rất ngắn gọn khi đối đáp với Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã bộc lộ tất cả
sự khơn ngoan khéo léo của mình. Cũng vì những lời nĩi khơn khéo này mà
ơng nhanh chĩng chiếm đƣợc cảm tình của Lê Lợi. Bản chất lanh lợi cộng với
sự thẳng thắn khiến cho Nguyễn Trãi khơng ngại nĩi ra những suy nghĩ của
mình với bất cứ ai kể cả với Lê Lợi. Thấy Lê Lợi một mực từ chối lên làm
chúa, Nguyễn Trãi nĩi: “Mệnh trời ở lịng người, lịng người theo về đâu tức
mệnh trời ở đĩ. Nay mệnh trời đã ở minh cơng đúng như người ta nĩi: “Mệnh
trời quy về kẻ cĩ đức”. Nếu khơng cĩ đức sao nhân tâm lại hướng về? Minh
cơng dù muốn tránh cũng khơng được” [26,259]. Những lời nĩi của Nguyễn
Trãi thể hiện sự am hiểu sâu rộng về “mệnh trời” về lịng ngƣời. Qua cách nĩi
ấy cịn thấy đƣợc ở Nguyễn Trãi một vị quân sƣ cĩ tầm nhìn xa trơng rộng,
một con ngƣời sáng suốt am hiểu lịng dân. Nguyễn Trãi thật khơng hổ danh
là một vị quân sƣ “văn võ song tồn” đƣợc Lê Lợi hết sức tin cậy.
Dẫu khơng phải là một yếu nhân lịch sử nhƣng Đồn Phát cũng đƣợc
tác giả Lê Hoan chú ý miêu tả ngơn ngữ để làm nổi bật đƣợc phẩm chất thẳng
thắn cƣơng trực của nhân vật này. Ví dụ khi cịn là một tƣớng nhà Hồ, ngƣời
đọc rất ấn tƣợng với những lời nĩi rất ngay thẳng dứt khốt của Đồn Phát.
Lúc Dân Hiến bị Phạm Đán lừa tổ chức tiệc tùng khao quân ăn uống, Đồn
Phát khơng hề sợ hãi “hớt ha hớt hải” từ ngồi vào lớn tiếng mắng rằng: “Nay
hai nước đang giằng co chưa biết hươu chết vào tay ai, vậy mà Nguyên
Nhung khơng biết lo xa, đam mê chơi bời” [26,92]. Những lời nĩi này đã
chứng tỏ đƣợc khí chất khẳng khái của Đồn Phát. Với con ngƣời này, mọi lời
nĩi đều tỏ ra ngay thẳng khơng biết vịng vèo uốn lƣợn. Tuy đã bị bắt nhƣng
Đồn Phát khơng hề nhún mình, thấy Lê Thiện hạ mình pha trà liền gạt đổ cốc
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
nƣớc rồi mắng Lê thiện rằng: “Ngươi là kẻ khơng cĩ lương tâm cùng sinh ở
cõi nước Nam lại thơng đồng với giặc Bắc, cùng chung một tổ quốc mà lại bỏ
rơi dân mình, sống ở nước nhà mà dở mặt phản chúa, ta mặt mũi nào đi uống
trà cùng ngươi? mau mau chém ta đi” [26,116]. Những lời nĩi lƣu lốt thẳng
thắn của Đồn Phát làm cho Lê Thiện càng mến mộ và quyết tìm mọi lý lẽ để
thuyết phục. Khi đã phân biệt đƣợc chính ngụy, Đồn Phát về phị tá cho Lê
Lợi trƣớc sau vẫn là con ngƣời thẳng thắn dám nghĩ dám làm. Vừa biết tin
triều Minh chiếm giữ lãnh thổ, Đồn Phát khơng quản giĩ mƣa tức tốc đến
gặp Lê Lợi nĩi: “Kế sách bây giờ là hãy tiêu diệt bọn tướng tá nhà Minh rồi
tơn Minh cơng lên làm chúa... nếu chúng đến là đánh chứ đâu cĩ chuyện non
sơng ta cứ để bọn chúng ngang nhiên muốn làm gì thì làm” [26,162]. Thấy Lê
Lợi khơng chịu lên làm chúa, Đồn Phát khơng ngại nĩi ra những suy nghĩ
của mình: “Người ta theo minh cơng là để chung lo việc đánh kẻ cĩ tội, cứu
vớt dân lành. May được chút cơng lao, trên cĩ thể làm vẻ vang tiên tổ, dưới cĩ
thể làm hiển hách họ hàng. Nếu Minh cơng khơng làm theo ý nguyện của dân
thì lịng người sẽ trễ biếng, cịn ai cộng sự với minh cơng nữa” [26,258]. Dám
nĩi ra những suy nghĩ của mình khơng phải Đồn Phát khơng kính nể ngƣời
khác mà xuất phát từ bản chất thật thà ngay thẳng. Từng lời nĩi của Đồn Phát
đều là lời nĩi của một con ngƣời trung nghĩa thật đáng để cho ngƣời sau phải
ngƣỡng mộ nể phục.
Để lột tả bộ mặt xấu xa nham hiểm của Trƣơng Phụ - một tƣớng giặc
của nhà Minh, tác giả Việt Lam tiểu sử khơng chỉ bằng hành động mà cịn tái
hiện qua ngơn ngữ của nhân vật này. Vừa thấy Trần Thiên Bình sang cầu cứu
nhà Minh, Phụ đã tâu với Minh Thành Tổ “Quý Ly phản phúc bạo ngược đủ
điều, tội ác khơng gì lớn hơn. Nay nhân cơ hội trong nước biến loạn, phúc tộ
họ Trần đã hết, ta nên đưa quân đi bắt cha con họ Hồ đem về đây rồi đặt
nước họ vào chế độ quận huyện để dứt mối lo về sau” [26,27]. Lời nĩi của
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
Trƣơng Phụ ngay từ đầu đã bộc lộ rõ ý định thơn tính phƣơng Nam, bắt
phƣơng Nam thuần phục và biến cả đất nƣớc ấy thành quận huyện nhỏ, thuộc
quyền cai trị của phƣơng Bắc. Khi đảm nhiệm làm một tƣớng giặc đƣa quân
sang xâm lƣợc Nam Việt, Trƣơng Phụ luơn tỏ ra kiêu căng tự phụ. Mặc dù
mọi chiến thắng nhà Hồ phần lớn là nhờ cơng lao của Lê Thiện nhƣng thấy
nhiều ngƣời tán dƣơng Lê Thiện, Phụ khĩ chịu nĩi: “Hạng tép riu ấy thì làm
nên trị trống gì. Chẳng qua là dựa vào cái thế của ta để hành động mới được
như vậy” [26,120]. Những lời nĩi của Trƣơng Phụ cịn bộc lộ đƣợc cả bản
chất lạnh lùng thâm độc của hắn. Khi thấy Tiết Thạch và Nhiếp Hạnh giết bọn
Hiến, Nhạc, trả thù cho cha, Trƣơng Phụ thản nhiên nĩi: “Ngươi trả thù cho
cha một cách ngoạn mục, chỉ tiếc là giết khi người ta đang bị trĩi, giết như
thế thì chưa khối lắm” [26,121]. Chỉ với ngần ấy câu nĩi cũng đã đủ vẽ nên
những nét tính cách cơ bản của Trƣơng Phụ - một kẻ tàn bạo khơng cĩ tính
ngƣời. Những ngày tháng đƣa quân sang xâm lƣợc Nam Việt, chính Trƣơng
Phụ đã nhiều lần hồn siêu phách lạc, biết bao nhiêu tƣớng sĩ nhà Minh phải bỏ
mạng ở nƣớc Nam, nhân dân đất Việt thì lầm than nheo nhĩc. Vậy mà cho
đến phút cuối khi Minh Tuyên Tơng đƣa tờ biểu cầu hịa của Lê Lợi cho
Trƣơng Phụ đọc để ngầm xem ý Phụ thế nào, Phụ vẫn một mực nĩi: “Khơng
thể như thế được. Tướng sĩ vất vả suốt bao nhiêu năm trời mới cĩ được đất
ấy. Tờ biểu này là do sự xảo quyệt của Lê Lợi mà ra. Ta nên đưa thêm quân
sang để giết tên giặc đĩ” [26,375].
Tất cả mọi lời nĩi của Trƣơng Phụ đều chứa chất những mƣu đồ xảo
quyệt nham hiểm. Mỗi lời nĩi mà Y thốt ra đều làm sáng tỏ bản chất của một
kẻ hiếu chiến luơn khát chinh chiến và xâm lăng. Với con mắt nhìn tinh tế của
tác giả, chỉ thơng qua một vài câu nĩi của nhân vật thì tính cách của nhân vật
đã hiện lên một cách rõ rệt, cụ thể và đầy đủ nhất.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
Cĩ thể thấy khi xây dựng nhân vật, tác giả Lê Hoan rất chú trọng đến
ngơn ngữ nhân vật. Thực chất ngơn ngữ cũng là một dạng hành động của nhân
vật, chỉ cĩ điều đặc biệt hơn đây là hành động với chất liệu là ngơn từ. Việc
tách riêng ngơn ngữ ra khỏi hành động cũng là nhằm đi sâu hơn vào hệ thống
này để tìm hiểu đặc trƣng rất riêng của nĩ. Từ đĩ hiểu hơn về nhân vật, chủ
thể của ngơn ngữ đĩ. Các nhân vật trong Việt Lam tiểu sử do đƣợc xây dựng
chủ yếu trên bút pháp tƣợng trƣng, ƣớc lệ cho nên ngơn ngữ của nhân vật
cũng chịu ảnh hƣởng bởi bút pháp này. Ngơn ngữ của các nhân vật nhiều khi
bị quy định chặt chẽ bởi lối cơng thức, nhiều sáo ngữ hoa mĩ, diễn tả bằng
nhiều câu biền ngẫu, đăng đối nhịp nhàng. Ta cĩ thể dễ dàng bắt gặp trong
Việt Lam tiểu sử những đoạn đối thoại giữa ngƣời trên kẻ dƣới, giữa bề tơi và
tƣớng lĩnh. Các nhân vật bề tơi đều cĩ một thái độ rất khiêm nhƣờng, lời lẽ
của họ bao giờ cũng thể hiện sự tơn kính. Lời nĩi của các nhân vật thƣờng
chứa những cụm từ cĩ tính chất hoa mĩ, giàu hình ảnh, ngƣời nĩi thƣờng so
sánh mình với những sự vật nhỏ nhoi thấp hèn đã trở thành cơng thức kiểu
nhƣ: “Gắng sức ngựa hèn”, “tài hèn học cạn, ít trí nghèo mưu”, “cá bơi trong
chậu”,… Chẳng hạn nhƣ lời nĩi của Trần Thiên Bình với vua Minh Thành
Tổ: “Nay hồng thượng thừa kế đại Tống, tơn trọng nếp xưa cúi mong bệ hạ
lấy đức sinh thành của trời đất cha mẹ mà thương sĩt kẻ bề tơi bé mọn này,
làm cho đời đời được giữ đất phương Nam chăm lo triều cống” [26,24]. Hoặc
lời nĩi của Lê Thiện với Mai Sĩ sứ giả nhà Hồ: “Coi như anh em Thiện đây
chỉ là hạng trí mọn tài sơ khơng xứng đáng để triều đình sai phái” [26,36].
Cĩ thể nĩi, ngơn ngữ đối thoại trong Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan là
một hiện tƣợng khá lý thú. Dù nhân vật là ngƣời cĩ trình độ học vấn cao hay
chỉ là kẻ bề tơi hèn mọn khơng biết chữ, dù là bậc khanh tƣớng hay những con
ngƣời bình thƣờng thì ngơn ngữ của họ bao giờ cũng rất sang trọng thể hiện
tầm nhận thức cao của những ngƣời cĩ học thức. Đấy là cách nĩi cĩ hình ảnh,
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
thƣờng hay so sánh ví von với những ngƣời nổi tiếng trong sử sách khiến cho
ngƣời đối thoại cĩ ấn tƣợng sâu sắc. Ví nhƣ lời nĩi của Mai Sĩ sứ giả nhà Hồ
lúc đem thƣ của Hồ Quý Ly đến gặp Lê Lợi: “Ngày nay trên cĩ thánh chúa
sáng suốt, khắp bốn biển khơng ai khơng xưng bề tơi. Giúp triều đình giữ mối
hịa hiếu với các nước vĩnh viễn loại bỏ nạn xâm chiếm từ bên ngồi, vin theo
mình rồng, tựa vào cánh phượng vốn khơng thiếu chi người. Riêng cĩ hạng
hiền sĩ câu ở sơng Vị, cày ở núi Sằn thì cịn đang khát khao mong ngĩng. Nếu
quý ngài chịu tung chí hồng hộc, trổ tài kỳ lân ra mà duy trì thế đạo giúp chúa
làm lợi cho dân khiến cơng danh lưu sử sách thì hay biết mấy” [26,36]. Rõ
ràng thơng qua ngơn ngữ nhân vật, tác giả đã nĩi lên đƣợc rất nhiều điều. Chỉ
cần qua những ngơn ngữ này chúng ta cĩ thể thấy Mai Sĩ là một ngƣời cĩ
trình độ học vấn cao. Để cố gắng thuyết phục đƣợc anh em nhà họ Lê về với
Hồ Quý Ly, Mai Sĩ đã lựa chọn những ngơn ngữ hết sức giàu hình ảnh, cĩ sức
thuyết phục mạnh mẽ. Nhƣng thật khơng may cho Mai Sĩ ngƣời đối thoại với
ơng lại là Lê Thiện một con ngƣời tài trí vốn thơng kim bác cổ. Nếu nhƣ ngơn
ngữ của Mai Sĩ đã rất sắc bén thì những lời nĩi của Lê Thiện cịn sắc bén hơn.
Đáp lại những lời nĩi của Mai Sĩ, Lê Thiện cũng dùng những lời nĩi ví von
gắn liền với những điển tích điển cố “Trên đã cĩ bậc vua hiền như Nghưu
Thuấn, dưới lại cĩ bề tơi giỏi như Trác, Tiết, Vũ, Cao, dù bên ngồi triều đình
cĩ hàng trăm Sào Phủ, Hứa Do đi chăng nữa thì cũng khơng ảnh hưởng đến
nền thịnh trị của đời Đường, cịn như anh em Thiện đây…” [26,36]. Những
lời nĩi của Lê Thiện khơng chỉ thể hiện đƣợc sự hiểu biết sâu rộng về tri thức
mà qua đĩ ơng cũng kín đáo gửi gắm lời từ chối hợp tác với họ Hồ. Đây cũng
là một cách từ chối rất khéo léo, chắc chắn rằng ngƣời cĩ hiểu biết nhƣ Mai Sĩ
khơng những khơng bực tức mà cịn phải kính nể.
Hay nhƣ lời biện bạch của ngƣời đàn bà họ Đinh ở vùng Liêu Đơng
nĩi với chồng về bài thơ tức cảnh trên vách cũng xứng danh là một ngƣời
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
thơng thạo chữ nghĩa “thiếp từ tuổi cịn thơ đã nâng khăn sửa túi cho chàng,
khơng hề thay lịng đổi dạ, trước sau vẫn một niềm chung thuỷ, nào cĩ chuyện
chăng giĩ như Tiểu Ngọc, sỗ sàng như Văn Quân? Bài thơ kia là để vịnh cái
bĩng của thiếp đĩ thơi” [26,45]. Cho đến khi tự tử biến thành yêu tinh nƣơng
náu trên cây ngơ đồng ngàn năm mà lời nĩi của ngƣời đàn bà họ Đinh vẫn
một mực là con nhà dịng dõi. Lúc nĩi chuyện với Quý Ly, luận về đức trị của
vua thị nĩi: “Nhà trần hết phúc cho nên đức khơng thắng được yêu tinh, cịn
nay là triều thánh yêu tinh khơng thắng được đức. Huống chi bệ hạ đạo như
Nghiêu Thuấn, đức giống Vũ Thang, lấy lễ làm nhạc đánh xe, lấy nhạc làm cỗ
xe chở, dùng người làm cái mộc, dùng nghĩa làm cái khiên. Như thế kẻ xa sẽ
tới, người gần sẽ đẹp lịng” [26,47]. Chỉ là một ngƣời phụ nữ bình thƣờng thơi
nhƣng mọi lời nĩi đều hết sức chau chuốt bĩng bẩy. Ngƣời đàn bà họ Đinh
trong khi đối thoại thƣờng hay so sánh ví von với các nhân vật nổi tiếng cĩ
trong sử sách. Cách nĩi ấy vừa thể hiện đƣợc trình độ hiểu biết sâu sắc lại vừa
gây đƣợc thiện cảm đối với ngƣời nghe.
Các nhân vật trong Việt Lam tiểu sử khi đối thoại khơng chỉ so sánh ví
von với các nhân vật cĩ trong điển tích điển cố mà đơi lúc họ cịn sử dụng
những lời nĩi hết sức văn hoa bĩng bẩy kiểu nhƣ lời nĩi của Trƣơng Phụ (đại
tƣớng nhà Minh) với thái giám nhà Trần là Lý Tự Thành: “Lan sinh ở khe sâu
khơng cĩ ý khoe thơm mà hương thơm ngào ngạt, trăng mọc ở nơi biển thẳm
khơng cố tình phơ sắc mà ánh sáng lung linh. Cần gì phải ngắm mình trước
gương, đứng đầu ngọn giĩ rồi mới biết?” [26,75]. Để thuyết phục đƣợc Lý Tự
Thành sớm khuyên con rể ra hợp tác với mình, Trƣơng Phụ đã dùng những lời
nĩi thật bay bƣớm khen chàng rể Lê Thiện khiến cho Lý Tự Thành ít nhiều
cũng phải xiêu lịng.
Điểm dễ nhận thấy nhất với các nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu
sử là trong những cuộc đối thoại giao tiếp, tác giả Lê Hoan thƣờng để cho các
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
nhân vật viện dẫn các điển tích điển cố trong sử sách Trung Quốc khiến cho
tính chất của lời nĩi trở nên sắc sảo, mạnh mẽ và dễ hiểu hơn đối với ngƣời
đối thoại. Chẳng hạn khi đối thoại với Đồn Phát, luận về tội ác của họ Hồ, Lê
Thiện nĩi: “Họ Hồ tàn hại muơn vật giết hại dân lành ác như Kiệt Trụ, giết
vua cướp nước tội quá Vương Tào. Huống hồ dân là dân nhà Trần, chúa là
chúa nhà Trần. Việc dấy quân của Thiện này khơng nhằm lợi ích bản thân,
mà chính là trên là vì nước dưới thì vì dân” [26,117]. Để thu phục đƣợc Đồn
Phát một vị tƣớng giỏi trung nghĩa của nhà Hồ, Lê Thiện đã rất khéo léo viện
dẫn những điển tích, điển cố rất quen thuộc để vạch ra tội ác tày trời của nhà
Hồ giúp Đồn Phát nhanh chĩng phân biệt đƣợc chính ngụy. Những câu đối
đáp ngắn gọn của Lê Thiện vừa thể hiện sự hiểu biết về lẽ đời, khả năng đối
đáp linh hoạt lại vừa làm cho ngơn ngữ trở nên trang trọng, giàu khả năng
biểu cảm.
Ngồi ra, chúng ta cịn cĩ thể dễ dàng bắt gặp các điển tích điển cố
đƣợc các nhân vật trích dẫn trong khi giao tiếp nhƣ lời của Cảnh Dị lúc đối
đáp với vua Trần: “Nhị đế nhường ngơi cho người hiền, Tam Vương nhường
ngơi cho con mình. Trần Tể tướng đức, nghĩa, nhân, hiếu đều nổi tiếng ở đời,
bệ hạ nhường ngơi cho ơng ấy ý đồ cũng giống như vua Nghiêu, vua Thuấn cĩ
gì mà khơng được” [26,183]. Hay nhƣ lời của Phùng Quý nĩi với Đỗ Dung:
“Ta là tơi con của thiên triều, đứng vào hàng danh giá chỉ muốn sống như
Hứa Viễn, Trương Tuần, chứ khơng thể làm theo Lý Lăng, Vệ Luật. Nguyện
làm cái lưỡi của Nhan Thường Sơn, cái đầu của Nghiêu tướng quân, đĩ là tố
trí của đấng trượng phu” [26,294]. Việc tác giả Việt Lam tiểu sử để cho các
nhân vật vận dụng các điển tích điển cố trong sử sách Trung Quốc và Việt
Nam, vừa nhằm mục đích tơ điểm cho ngơn ngữ của nhân vật cĩ sắc thái trang
trọng vừa thể hiện đƣợc sự hiểu biết sâu sắc của ngƣời nĩi làm cho ngƣời đối
thoại nhanh chĩng bị thuyết phục trƣớc ngơn ngữ đầy hàm xúc nhƣ vậy.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
Cĩ thể nĩi rằng, ngơn ngữ đối thoại giữa các nhân vật trong tiểu thuyết
Việt Lam tiểu sử là một đặc điểm khá lý thú. Cùng với lối nĩi ví von hình ảnh,
viện dẫn các điển tích, điển cố, các nhân vật trong Việt Lam tiểu sử nhiều lúc
cịn sử dụng lối chơi chữ trong khi giao tiếp thể hiện đƣợc trình độ học vấn
của ngƣời nĩi, đồng thời khiến cho lối diễn đạt phù hợp với cấu trúc câu văn
biền ngẫu. Chẳng hạn, nhân cơ hội Phạm Đán vào rừng bắt đƣợc đơi chồn đen
mang tới dâng nộp cho Lê Thiện, ơng đã mƣợn hình ảnh đơi chồn đen này để
chơi chữ nĩi về Hồ Hán Thƣơng “Chồn tức là Hồ, đen tức là Thương. Hán
Thương sắp đi đời rồi sao?” [26,88]. Lối chơi chữ của Lê Thiện càng gĩp
phần thể hiện đƣợc trình độ uyên thâm của ơng. Vốn là ngƣời “trên thơng
thiên văn, dưới tường địa lý” những lời mà Lê Thiện nĩi ra đều xuất phát từ
sự am hiểu sâu sắc về thời thế. Bởi vậy, dựa vào đơi chồn đen Phạm Đán vừa
săn đƣợc, Lê Thiện đã chơi chữ luận giải ý nghĩa sau đĩ sai ngƣời nộp cho
Dân Hiến khiến hắn bị mắc mƣu gĩp phần dẫn đến sự thất bại của nhà Hồ sau
này.
Nhìn chung trong Việt Lam tiểu sử, Lê Hoan đã vận dụng rất cĩ hiệu
quả việc tái hiện lại những lời nĩi của các nhân vật nhƣ một phƣơng tiện để
làm nổi bật những nét tính cách cơ bản của nhân vật. Cĩ thể khẳng định rằng,
ngơn ngữ nhân vật trong Việt Lam tiểu sử đã thực hiện tốt chức năng của mình
là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên tính cách nhân vật. Ngơn ngữ
đối thoại của các nhân vật trong tác phẩm đã tạo nên đƣợc một phần giá trị
nghệ thuật của tác phẩm Việt Lam tiểu sử nĩi riêng và tiểu thuyết chƣơng hồi
Việt Nam chữ Hán nĩi chung. Chính nhờ cĩ ngơn ngữ làm cho các nhân vật
trong Việt Lam tiểu sử sống động hơn so với các nhân vật trong sử sách. Ngơn
ngữ nhân vật cĩ thể đƣợc đánh giá là một trong những thành cơng của Việt
Lam tiểu sử.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
Tiểu kết
Với sự kết hợp một cách hài hịa các thủ pháp xây dựng nhân vật, tác
phẩm Việt Lam tiểu sử đã rất thành cơng trong nghệ thuật thể hiện nhân vật.
Sở dĩ tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử cĩ nhiều trang viết gây đƣợc ấn tƣợng đối
với ngƣời đọc chính là nhờ vào nghệ thuật thể hiện nhân vật của Lê Hoan.
Một mặt, tác giả Việt Lam tiểu sử vẫn tuân theo những cơng thức của bút pháp
truyền thống, mặt khác nhà văn cũng luơn cố gắng sáng tạo theo cách riêng
của mình và đã để lại những dấu ấn khá đậm nét. Trong quá trình thể hiện
nhân vật, tác giả Lê Hoan khơng tránh khỏi những hạn chế nhƣ: Tính cách của
nhân vật đa dạng nhƣng chƣa thật sự cĩ chiều sâu, nhà văn chƣa chú ý miêu tả
nội tâm nhân vật, hoặc do ảnh hƣởng của tiểu thuyết chƣơng hồi Trung Quốc
đặc biệt là tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa nên nhiều nhân vật cịn mang
dáng dấp nhân vật của tiểu thuyết này: Lê Lợi giống Lƣu Bị, Lê Thiện giống
Khổng Minh, Đồn Phát giống Từ Thứ,... Song với những gì mà tác giả Lê
Hoan thể hiện, chúng ta khơng thể khơng khẳng định rằng nhờ nghệ thuật thể
hiện nhân vật, Lê Hoan đã giúp cho Việt Lam tiểu sử đạt đến giá trị văn học
đích thực. Nhân vật từ nguyên mẫu lịch sử trở thành hình tƣợng văn học sống
động lung linh hơn, giúp cho tác phẩm cĩ một sức sống lâu dài và bền bỉ hơn.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
KẾT LUẬN
1. Việt Lam tiểu sử là cuốn tiểu thuyết chữ Hán viết theo lối kết cấu
chƣơng hồi ra đời vào buổi xế chiều của nền văn học trung đại Việt Nam. Tác
phẩm đã dựng lên đƣợc một bức tranh hồnh tráng rộng lớn của dân tộc trong
vịng 30 năm đầu thế kỷ XV. Đây là giai đoạn cĩ nhiều biến cố lịch sử trọng
đại, đặc biệt là sự kiện Lê Lợi lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn đánh thắng quân
Minh đem lại độc lập tự do cho dân tộc. Bằng tài năng của mình, tác giả Việt
Lam tiểu sử đã đem đến cho ngƣời đọc cái cảm giác đƣợc sống lại những giây
phút hào hùng, những phen biến đổi sơn hà. Qua đĩ, đem đến cho độc giả cảm
hứng tự hào về truyền thống đấu tranh giữ nƣớc vĩ đại của dân tộc. Chúng ta
ghi nhận tâm huyết và sự cố gắng của nhà văn Lê Hoan trong việc tái tạo lại
những năm tháng vừa đau thƣơng vừa hùng tráng ấy. Tìm hiểu giá trị của Việt
Lam tiểu sử ta cĩ thêm cơ sở để khẳng định, cùng với truyện ngắn, ký, tiểu
thuyết chƣơng hồi đã hồn chỉnh hình thức văn xuơi tự sự trung đại. Từ đây,
văn xuơi tự sự trƣởng thành vƣợt bậc, đủ sức phản ánh những vấn đề lịch sử
xã hội rộng lớn với tầm khái quát hĩa cuộc sống trên quy mơ tồn quốc.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
2. Việt Lam tiểu sử là một cuốn tiểu thuyết lịch sử lấy nhân vật và sự
kiện lịch sử làm nịng cốt. Từ nguyên mẫu lịch sử đi vào tác phẩm văn học để
trở thành hình tƣợng nghệ thuật là cả một quá trình. Tuy vậy trong khi sáng
tạo nghệ thuật, nhà văn Lê Hoan luơn cố gắng thốt khỏi cách ghi chép lạnh
lùng của các sử gia, đồng thời chú ý khai thác những yếu tố mà các nhà sử học
ít khi chú ý tới. Đĩ là những chi tiết cụ thể trong hành động, ngơn ngữ tính
cách của nhân vật, đặc biệt là sử dụng các yếu tố hƣ cấu để làm nên chất
huyền thoại và tạo nên hƣơng men quyến rũ cho ngƣời đọc.
3. Một trong những thành cơng của Việt Lam tiểu sử chính là nghệ thuật
thể hiện nhân vật. Nhân vật trong Việt Lam tiểu sử khơng chú trọng miêu tả về
đặc điểm tâm lý mà đƣợc chú ý nhiều hơn ở phƣơng diện hành động, ngơn
ngữ. Chính ở phƣơng diện này, nhân vật cĩ khả năng tự bộc lộ những phẩm
chất và tính cách của mình một cách khách quan và nhiều chiều nhất. Nghệ
thuật thể hiện nhân vật cĩ thể xem là một yếu tố quan trọng giúp chúng ta
khẳng định tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử là một tác phẩm văn học cĩ nhiều giá
trị trong nền văn học truyền thống của dân tộc.
4. Mặc dù đạt đƣợc nhiều thành tựu nhƣng tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử
vẫn mắc phải những hạn chế nhƣ: Việc phản ánh sai lệch sự kiện tiến trình
lịch sử (sáng tạo ra việc Lê Lợi bắt tay với giặc Minh đánh nhà Hồ); khắc họa
hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi, mờ nhạt bên cạnh Lê Thiện. Tuy nhiên, những
hạn chế đĩ cũng bắt nguồn từ nhiều lý do cá nhân của tác giả. Những hạn chế
ấy cũng cĩ thể xem nhƣ là những “hạt sạn” trong nội dung Việt Lam tiểu sử và
ít nhiều cĩ gây nên một số phản cảm tâm lý ở ngƣời đọc, nhƣng chúng ta
khơng thể phủ nhận những thành tựu to lớn trong nội dung và nghệ thuật mà
tác phẩm Việt Lam tiểu sử đã đạt đƣợc.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
2. A.Brebion (1935), Từ điển thư mục tác giả, tác phẩm tổng quát, cổ điển và
hiện đại về Đơng Dương thuộc Pháp (Trung tâm dịch thuật dịch), Nxb
Thế giới, Hà Nội.
3. M. Baktin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cƣ tuyển
chọn và dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
4. Trần Lê Bảo (1991), “Cái kỳ trong tổ chức nghệ thuật Tam quốc chí diễn
nghĩa của La Quán Trung”, Tạp chí Văn học, số 3.
5. Nguyễn Đơng Châu (1914), Nhời của người dịch sách, sách Việt Lam xuân
thu, Đơng kinh ấn quán, Hà Nội
6. Phạm Tú Châu (1981), “Đọc văn bản Hồng Lê nhất thống chí”, Tạp chí
Văn học, số 2.
7. Phạm Tú Châu (1997), Hồng Lê nhất thống chí – văn bản, tác giả và nhân
vật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Phạm Tú Châu (2001), Tiểu thuyết Minh Thanh và diễn tiến tiểu thuyết Hán
Nơm ở nước ta, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
9. Nguyễn Huệ Chi (2002), “Con đƣờng giao tiếp văn học cổ trung đại Việt
Nam trong mối liên hệ khu vực”, Tạp chí Văn học, số 5.
10. Nguyễn Huệ Chi (2003), “Mấy đặc trƣng loại đặc biệt của nền văn học
Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX”, Tạp chí Văn học, số 4.
11. Nguyễn Phƣơng Chi (1980), “Tiểu thuyết “Trùng Quang tâm sử” nghĩ về
đề tài lịch sử chống Trung Quốc xâm lƣợc qua một số sáng tác hiện nay”,
Tạp chí Văn học, số 4.
12. Nguyễn Khoa Chiêm (1994), Nam Triều cơng nghiệp diễn chí (Ngơ Đức
Thọ – Nguyễn Thuý Nga giới thiệu dịch và chú thích), Nxb Hội Nhà văn
Hà Nội.
13. Nguyễn Đình Chú (2002), “Hiện tƣợng Văn - Sử - Triết bất phân trong
văn học Việt Nam thời trung đại”, Tạp chí Văn học, số 5.
14. Quỳnh Cƣ - Đỗ Đức Hùng (2006), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh
Niên, Hà Nội.
15. Đỗ Đức Dục (1968), “Tính cách điển hình trong Hồng Lê nhất thống
chí”, Tạp chí Văn học, số 4.
16. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Trần Xuân Đề (2001), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội.
18. Trần Xuân Đề (2003), Tác giả, tác phẩm văn học phương Đơng (Trung
Quốc), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Hà Minh Đức (1971) Nhà văn và tác phẩm văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
20. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
21. Trần Văn Giáp (1990), Tìm hiểu kho sách Hán Nơm, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
22. Vũ Thanh Hà (2005), “Hồng Lê nhất thống chí và thể loại tiểu thuyết
chƣơng hồi trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 6.
23. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ
điển thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (Đồng
chủ biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
25 Nguyễn Xuân Hồ (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc
đến tiểu thuyết cổ Việt Nam, Nxb Thanh Hố.
26. Lê Hoan (1999), Việt Lam xuân thu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Văn Hồn (1973), “Phong trào khởi nghĩa nơng dân và văn học
Việt Nam thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Văn học, số 4.
28. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa,
Nxb Văn học, Hà Nội.
29. M. B. Khrarchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên
cứu văn học (Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
30. N. I. Konrat (1997 ), Phương Đơng và phương Tây (Trịnh Bá Đĩnh dịch),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Phan Huy Lê (1964), “Tác phẩm Việt Lam xuân thu cĩ giá trị về mặt sử
liệu hay khơng?”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 58.
32. Phan Thị Minh Lễ (1998), “Thƣ gửi từ Pháp”, Tạp chí Xưa và Nay, số 55.
33. Ngơ Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký tồn thư (tái bản), Tập 1 (Cao Huy
Giu dịch), Nxb Văn hố - Thơng tin, Hà Nội.
34. Ngơ Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký tồn thư (tái bản), Tập 2 (Cao Huy
Giu dịch), Nxb Văn hố - Thơng tin, Hà Nội.
35. Đồn Ánh Loan (2000), “Ảnh hƣởng của quan niệm thẩm mĩ cổ phƣơng
Đơng trong việc sử dụng điển cố”, Tạp chí Văn học, số 3.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
36. Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế
kỷ thứ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Bùi Văn Lợi (1999), “Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hƣ cấu
nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp
chí Văn học, số 9.
38. Phƣơng Lựu (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, Tập 1, Nxb Đại học Sƣ
phạm, Hà Nội.
39. Phƣơng lựu (2005), Lý luận văn học cổ điển phương Đơng, Tập 1, NXb
Giáo dục, Hà Nội.
40. Đặng Thai Mai (1961), “Mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học
Việt Nam và văn học Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7.
41. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn, tư tưởng và phong cách (tái bản),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuơi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 3,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
43. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Trần Nghĩa (chủ biên) (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam,
Tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội.
45. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, danh mục và phân
loại”, Tạp chí Hán Nơm, số 3.
46. Trần Nghĩa (1997), Nguồn gốc tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam sách Tổng
tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội.
47. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nội dung và nghệ
thuật”, Tạp chí Hán Nơm, số 4.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
48. Trần Nghĩa (1999), “Chỗ khác nhau giữa tiểu thuyết Hán Nơm Việt Nam
và tiểu thuyết cổ các nƣớc trong khu vực”, Tạp chí Văn học, số 4.
49. Bùi Văn Nguyên (1987), Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
50. Charles Fourniau (1998), “Thƣ gửi từ Pháp”, Tạp chí Xưa và Nay, số 55.
51. G. N. Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu khoa học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
52. Nguyễn Hữu Sơn (1988), “Đặc điểm văn học Việt Nam thế kỷ XVI – các
bƣớc nối tiếp và phát triển”, Tạp chí Văn học, số 5.
53. Nguyễn Hữu Sơn (1990), “Khảo sát cái nhìn đạo lý trong văn học cổ điển
dân tộc”, Tạp chí Văn học, số 6.
54. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về thi pháp và việc nghiên cứu văn học trung
đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 7.
55. Nguyễn Hữƣ Sơn ( 2005), Văn học trung đại Việt Nam - Quan niệm con
người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Trần Đình Sử (chủ biên) (1987), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
57. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
58. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
59. Gerard Sasger (2002), “Quanh việc đánh giá nhân vật Lê Hoan trong
lịch sử cận đại”, Tạp chí Xưa và Nay, số 110.
60. Bùi Duy Tân (2005), Theo dịng khảo luận văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
61. Bùi Duy Tân (2006), “Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc
và văn học Việt Nam thời trung đại: Tiếp nhận - cách tân - sáng tạo”,
Tạp chí Văn học, số 1.
Số hĩa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
62. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hĩa thơng tin, Hà
Nội.
63. Chƣơng Thâu (1999), “Đọc Việt Lam xuân thu (bản Duy Tân), nghĩ về
ngƣời khắc in cơng bố và một vài nhân vật thời đại”, Tạp chí Văn học,
số 8.
64. La Quán Trung (2006), Tam quốc diễn nghĩa, Tập 2 (Phan kế Bính dịch),
Nxb Văn học, Hà Nội.
65. La Quán Trung (2006), Tam quốc diễn nghĩa, Tập 3 (Phan Kế Bính dịch),
Nxb Văn học, Hà Nội.
66. Lê Trí Viễn (2000), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh.
67. Trần Ngọc Vƣơng (2003), “Một số vấn đề liên quan đến tính đặc thù của
văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 5.
68. Trần Ngọc Vƣơng (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X - XIX,
những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9361.pdf