Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong truyện Kiều

MỤC LỤC 2TLỜI CẢM ƠN2T ....................................................................................................................... 4 2TPHẦN MỞ ĐẦU2T................................................................................................................... 5 2T1. Lý do chọn đề tài:2T .......................................................................................................... 5 2T . Lịch sử vấn đề:2T ........................................................

pdf97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5909 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong truyện Kiều, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
...................................................... 5 2T3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu:2T .......................................................................... 9 2T4. Kết cấu của luận án:2T .................................................................................................... 11 2TCHƯƠNG 1 : NGƯỜI KỂ CHUYỆN2T ................................................................................. 12 2T1.1. Khái niệm:2T ................................................................................................................ 12 2T1.2. Các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện:2T ........................................................ 14 2T1.2.1. Chủ thể kể chuyên vô hình:2T ................................................................................ 14 2T1.2.2. Nhân vật tham gia kể lai câu chuyện của nhân vật khác ở trong tác phẩm:2T ......... 20 2T1.2.3. Nhân vật tự kể chuyện mình:2T ............................................................................. 21 2T1.3. Hiệu quá nghê thuật của hình thức "đa chủ thể kể chuyện" trong Truyện Kiều:2T ......... 25 2TCHƯƠNG 2: CÁCH KỂ CÂU CHUYỆN2T ........................................................................... 30 2T .1. Khái niêm:2T ................................................................................................................ 30 2T .2. Cách kể trong Truyện Kiều:2T ...................................................................................... 30 2T .2.1. Đặc điểm thứ nhất: đơn giản hóa sự kiện, hành động, tập trung cho nhân vật trung tâm - Vương Thúy Kiều.2T ..................................................................................... 31 2T .2.2. Đặc điếm thứ hai: Bớt kể tăng miêu tả, biểu hiện tâm lý.2T .................................... 38 2T .2.3. Đặc điếm thứ ba:2T ................................................................................................ 44 2T .2.4. Đặc điểm thứ tư: Truyện Kiều có nhịp kể chậm phương thức kể chuyện linh hoạt.2T .................................................................................................................................... 52 2TCHƯƠNG 3: GIỌNG ĐIỆU KỂ CHUYỆN2T ........................................................................ 58 2T3.1. Khái niệm về giọng kể:2T ............................................................................................. 58 2T3.2. Giọng kể trong Truyện Kiều:2T .................................................................................... 58 2T3.2.1. Truyện Kiều có giọng điệu đa dạng, tràn đầy cảm xúc:2T ...................................... 59 2T3.2.2. Giọng điệu kể chính của Truyện Kiều là giọng buồn đau chiêm nghiêm với đời:2T 74 2TCHƯƠNG 4: LỜI KỂ CHUYỆN2T ........................................................................................ 76 2T4.1. Lời kể chuyện gọn gàng, chính xác trong khuôn khổ của câu văn vần lục bát:2T .......... 76 2T4.2. Tính chất chủ quan và tính cụ thể xác định của lời kể chuyện:2T .................................. 79 2T4.3. Chất thơ, chất trữ tình tràn trổ trong lời kể của người kể chuyện:2T .............................. 82 2T4.4. Ngôn ngữ kể chuyện của Truyện Kiều giàu sắc thái dân gian:2T ................................... 84 2TPHẦN KẾT LUẬN2T ............................................................................................................. 87 2TPHỤ LỤC2T ........................................................................................................................... 90 2T ÀI LIỆU THAM KHẢO2T ................................................................................................... 92 4 LỜI CẢM ƠN Thực hiện luận án này, chúng tôi được sự giúp đỡ của quý thầy cô, của các đồng nghiệp, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của PGS - TS Lê Ngọc Trà; nhân dịp này chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc của chúng tôi. 5 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: a.) Xưa nay đã có nhiều người nghiên cứu về Truyện Kiều trên nhiều phương diện khác nhau. Nhìn chung ở phương diện nào các nhà nghiên cứu cũng phát hiện được những điểm sâu sắc, độc đáo của Nguyễn Du. b.) Ở phương diện hình thức của Truyện Kiều, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu công phu về nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ... Riêng nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng ít nhiều được đề cập đến, nhưng còn tản mác, chưa có hệ thống, c.) Cái hay cứa một tác phẩm thuộc loại hình tự sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó cách kể chuyện có một vị trí đặc biệt. Nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Truyện Kiều là nghiên cứu một mặt quan trọng đã tạo nên cái hay của tác phẩm. Người ta cũng hay nói tới cái "tài" , cái "duyên" của người kể chuyện khi người đó kể lại một câu chuyện trong đời thường . Cùng một câu chuyện nhưng người này thì kể hay, hấp dẫn, còn người khác thì ngược lại, đó là một thực tế vẫn thường gặp. Trong nghệ thuật cũng vậy. Nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiểu , chúng ta thầy rõ hơn một phương diện của thiên tài Nguyễn Du. thấy rõ hơn sự đóng góp của ông vào hình thức kể chuyện trong văn học dân tộc. d.) Nghệ thuật kể chuyện là một vấn đề mới và khó . Ngay cả về phương diện lý luận , thi pháp kể chuyện là mảng còn được ít người đề cập đến Trên cơ sở kế thừa thành tựu của những người đi trước, chúng tôi muốn đưa ra một số nhận xét nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm nghệ thuật kể chuyện trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, góp phần làm sáng tỏ thêm cái "duyên" của Truyện Kiều đối với người đọc. 2. Lịch sử vấn đề: Trong lịch sử văn học Việt Nam , không có tác phẩm nào được bàn bạc . nghiên cứu nhiều như Truyện Kiều của Nguyễn Du. Khen Truyện Kiều cũng nhiều và chê Truyện Kiều cũng không ít. Trong các ý kiến khen chê có cả ý kiến của những nho sĩ cùng thời với Nguyễn Du như Phạm Quý Thích ( Tổng Vịnh Đoạn Trường Tân Thanh ), Mộng Liên Đường Chủ nhân có những ý kiến của các vua chúa nhà Nguyễn như Minh Mệnh, Tự Đức. Nội dung của các ý kiến trong khoảng hai thế kỷ qua rất phức tạp, xoay quanh các vấn đề chủ yếu của nội dung và hình thức Truyện Kiều ... Trong số các vấn đề về hình thức của tác phẩm , nghệ 6 thuật kể chuyện của Nguyễn Du là vấn đề ít được bàn đến nhất. Chưa có những chuyên luận đi sâu vào đề tài này; thường nó chỉ được nói qua khi bàn về các vấn đề khác. Giáo sư Lê Trí Viễn , ở chương viết về Nguyễn Du, trong cuốn: Lịch sử văn học Việt Nam (Tập III) phần : Một vài phương diện của nghệ thuật Nguyễn Du , đã đề cập tới bốn vấn đề : - Nguyễn Du và ngôn ngữ văn học Việt Nam . - Nguyễn Du và câu thơ lục bát. - Nguyễn Du đã "diễn ca" Kim Vân Kiều Truyện như thế nào? - Vài nét về bút pháp của Nguyễn Du. Trong khi nói về bốn vấn đề trên, giáo sư Lê Trí Viễn ở một số chỗ đã đề cập đến nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Chúng tôi xin dẫn một vài ví dụ : " Truyện Kiều là cả một xã hội phức tạp , nhiều màu, nhiều vẻ. nhưng ngòi bút Nguyễn Du - mặc dù đã bị hạn chế trong khuôn khổ văn vần - luôn luôn đủ tiếng , đủ lời, tiếng và lời thực chính xác để lột được tinh thần, diện mạo của từng trường hợp một, không hề lúc nào bị lúng túng, khó khăn cả." 1TP0F(1) " Nguyễn Du giữ nguyên cốt truyện và những sự việc lớn, về chi tiết cũng giữ, chỉ thêm bớt một số . Sự sáng tạo của Nguyễn Du tập trung ở chỗ thêm bớt các chi tiết ấy, xây dựng nhân vật thành những tính cách rõ rệt, có diện mạo, có tâm lý sắc sảo hơn, đem thiên nhiên vào trong văn thơ, làm cho câu chuyện dồi dào, sâu sắc hơn."1TPF(1) "Có lúc đang đóng vai người kể chuyện, Nguyễn Du bỗng kêu thét lên như bản thân mình cùng xen vào cảnh ngộ của nhân vật."1TP ,(2)P1T Trong cuốn Văn học Việt Nam, thế kỷ XVIII , nửa đầu thế kỷ XIX.ông Hoàng Hữu Yên trong chương viết về Nguyễn Du, phần Một số vấn đề về thơ văn Nguyễn Du, có đề cập đến ba nội dung : - Cách xây dựng nhân vật của Truyện Kiều . - Ngôn ngữ văn học trong Truyện Kiều. - Ảnh hưởng qua lại giữa Truyện Kiều và ca dao dân ca. Khi bàn về các vấn đề liên, ở một đôi chỗ ông Hoàng Hữu Yên đã lưu ý đến nghệ thuật kể chuyện cua Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Xin dẫn một vài ví dụ: (1) Lê Trí Viễn : Lịch sử văn học Việt Nam ( Tập III)-Nhà xuất bản Giáo dục - 1976 Trang 183,184. (1) (2) Lê Trí Viễn : Lịch sử văn học Việt Nam (Tập III)-Nhà xuất bán Giáo dục -1976.Trang 188,195. 7 " Nguyễn Du vui mừng, thông cảm, xót thương, phẫn nộ khi Thúy Kiều có hạnh phúc hay bị đày đọa. Ngòi bút âu yếm của nhà thơ không một giờ phút nào xa lời cuộc đời Thúy Kiều ... Nhà thơ đã nhập thân vào Thúy Kiều."1TP2F(3) " Ngôn ngữ Truyện Kiều là một thứ ngôn ngữ chải chuốt, đẹp, trong sáng, vô cùng thi vị và đại chúng sâu sắc."P(4) Giáo sư Nguyễn Lộc, trong cuốn: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX (Tập II), trong phần : Lai lịch Truyện Kiều đã có một số ý kiến nói đến nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du. "Nguyễn Du viết Truyện Kiều dựa khá sát vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, có nghĩa là Nguyễn Du đã giữ lại của tác phẩm này những tình nối chính,những biến cố quan trọng, chứ không phải mọi tình tiết của tác phẩm đều được giữ lại. Thực tế thì nhà thơ đã bỏ đi khoảng một phần ba những chi tiết trong tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, và thêm vào một khối lượng cũng khá lớn."1TP3F(5) Giáo sư Nguyễn Lộc trong khi nói về nghệ thuật xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn ngữ cua Nguyễn Du cũng đã nêu một số ý kiến liên quan đến nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du. Những ý kiến trên đây của các tác giả một sô giáo trình đại học có thê được xem phần nào như đại diện cho ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du. Ớ đây các tác giả chưa đại vân đề nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, mà chỉ đề cập qua vân đề này khi bàn về những vấn đề khác. Song nói chung đó là những nhận xét đúng gợi ra nhiều hướng đê suy nghĩ , mặc dù còn lẻ lẻ, chưa có hệ thông. Có lẽ người cổ ý thức đề cập đến vân đề nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là Giáo sư Phan Ngọc. Trong cuốn sách Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, ông Phan Ngọc có một chương bàn về Phương pháp tự sự của Nguyễn Du. Bằng phương pháp so sánh đối chiếu mà nhiều nhà nghiên cứu đã áp dụng khi nghiên cứu Truyện Kiều, ông Phan Ngọc đã tiến hành khảo sát và đưa ra những ý kiến sắc sảo. Tính thuyết phục của các ý kiến này có lẽ chủ yếu nằm ở phần số liệu thống kê cái cụ thể của cuốn sách. Tất nhiên ý kiến của Phan Ngọc trong vấn đề này không phải là hoàn toàn mới, nhưng cái chính là cách trình bày cụ thể, sắc sảo của ông. Xin dẫn một vài ý kiến : (3) (4) Hoàng Hữu Yêu : Văn học Việt Nam , thế kỷ XVIII, nửa dầu thế kỷ XIX - Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội - 1962. Trang 313,315. (5) Nguyễn Lộc: Văn học Việt Nam.nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX. Tập II -Nhà xuất bản ĐH & THCN. Hà Nội - 1978. Trang 65. 8 " Nguyễn Du dã đôi mới hoàn toàn bô cục của Kim Vân Kiều Truyện. Ta có thể thấy điều dó qua quan hệ về số lượng giữa các bộ phận. Các sự việc chính trong Kim Vân Kiều Truyện và trong Truyện Kiều về căn bản là như nhau nhưng quan hệ số lượng của chúng lại khác nhau."1TP4F(1)P1T. Khi nói tới "con người cô độc" trong Truyện Kiều, ông Phan Ngọc đã khẳng định: Nguyễn Du "cố tình không cho họ hành động, bởi vì số câu lự sự hết sức ít, mọi hành động của họ đều bị ông dùng phương pháp kể lại vắn tắt."P(2) Trong những thao tác của Nguyễn Du, Phan Ngọc có nói đến thao tác "đặt sự việc vào một thế đối lập" và khẳng định " tự thân Nguyễn Du không thể nghĩ ra thao tác này, bởi vì đó là thao tác của kịch . Ông học tập nó ở kịch Trung Quốc và nhất là ở tuồng." P(3)P . Tính chất kịch mà Phan Ngọc nói, thực ra trong Kim Vân Kiều Truyện đã có, Nguyễn Du kế thừa và nâng cao lên. Sức hấp dẫn của nhiều bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc chủ yếu là ở tính kịch của sự kiện được kể, mỗi hồi gần như kể về mội mưu mô, một sự kiện có tính chất kịch. Và, một khuyết điểm dễ thấy của một số nhà nghiên cứu là, trong khi so sánh để thấy rõ cái tài của Nguyễn Du thì lại vô tình hạ thấp Thanh Tâm Tài Nhân. Trong lúc khẳng định giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều với tư cách là truyện thơ, một số nhà nghiên cứu lại so sánh nó với một tác phẩm khác thuộc loại tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc sáng tác cách Truyện Kiều khá xa về mặt thời gian ; như vậy là thiếu quan điểm lịch sử trong đánh giá. Muốn phê phán Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là "chi tiết rườm rà"... thì phải đặt nó trong hệ thống thi pháp của tiểu thuyết chương hồi thời Minh - Thanh. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một truyện thơ của Việt Nam được sáng tác vào đầu thế kỷ XIX, có những đặc điểm riêng về thế loại. So sánh hai tác phẩm để thấy sự kế thừa và sáng tạo của Nguyễn Du thì được, còn từ đó phê phán Thanh Tâm Tài Nhân thì cần phải xem xét lại. Trong lịch sử văn học thế giới , hiện tượng dựa vào một tác phẩm của dân tộc khác để sáng tạo nên một tác phẩm khác mang bản sắc của dân tộc mình là một hiện tượng cũng dễ thấy. Anh hùng ca Ramayana của Ấn Độ và các bản anh hùng ca của các dân tộc chung quanh như Rama Kiên (Thái Lan) , Xỉn Xay (Lào), Ramayana (Inđônêxia ) , Ramayna ( của người Chàm - Việt Nam ) ... là ví dụ. Trong lúc khẳng định giá trị các bán anh hùng ca của các dân tộc dựa vào Ramayana của Ấn Độ để sáng tác, người ta vẫn đánh giá cao bản anh hùng ca vĩ đại Ramayana của Ấn Độ cổ đại. Nói tóm lại, về mặt nghệ thuật kể chuyện , mặc dù chưa có những bài viết chuyên về vấn đề này , một số nhà nghiên cứu đã khẳng định được sự kế thừa có sáng tạo của Nguyễn (1) (2),(3) Phau Ngọc : Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều - Nhà xuất bản Khoa học xã hội , Hà Nội -1985 . Trang 86,91,84. 9 Du đối với Thanh Tâm Tài Nhân và khẳng định tài năng của Nguyễn Du trong việc kế lại một câu chuyện cũ. 3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu: a.) Phương pháp : a1.) Tác phẩm văn học là một hệ thống, trong đó có nhiều hệ thống con. Nghệ thuật kể chuyện là một hệ thống trong hệ thống nghệ thuật của tác phẩm thuộc loại hình tự sự. Nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều được thể hiện dần theo lời kể chuyện của Nguyễn Du - người kể chuyện. Đặc điểm của nghệ thuật Truyện Kiều đều được phản ánh trong nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du. Đặc điểm của nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du là một mặt của phong cách nghệ thuật của Nguyễn Du. Vì vậy, phương pháp chủ yếu chúng tôi áp dụng khi nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là phương pháp hệ thống - cấu trúc. a2.) Câu chuyện về Từ Hải và Thúy Kiều là câu chuyện có thật trong lịch sử. Từ Hải tự là Minh Sơn, người An Huy , năm thứ 34 niên hiệu Gia Tĩnh Triều Minh (1555) đã chỉ huy bọn giặc cướp đánh phá Sa Thổ, Bình Hồ, Gia Hưng, Tô Châu , Hàng Châu. Hồ Tôn Hiến, một trọng thần của triều đình đã lợi dụng mưu thuẫn, li gián tả hữu , hối lộ Thúy Kiều - sủng thiếp của Từ Hải, để Kiều khuyên Từ Hải ra hàng. Kết quả : Từ Hải đã đầu hàng và bị giết ; Thúy Kiều bị bắt , buộc phải đánh đàn, hầu rượu cho Hồ Tôn Hiến. Sau đó, Kiều bị ép lấy một tù trưởng người dân tộc thiểu số , Kiều đau khổ và nhục nhã đã nhảy xuống sông tự tử. Câu chuyện này do Mao Khôn, một người trong quân đội của Hồ Tôn Hiến ghi lại trong sách : Ký tiểu trừ Từ Hải bản mạt. Từ đó về sau câu chuyện này được viết đi viết lại nhiều lần . Ví dụ: Lý Thúy Kiều truyện của Đới Sĩ Lâm ; Vương Thúy Kiều Truyện của Dư Hoài, Hồ Thiếu Bảo bình nụy tấu tích của Trần Thụ Cơ, ... Những tác phẩm này tình tiết có thay đổi ít nhiều nhưng cốt truyện chính vẫn là mối quan hệ giữa Thúy Kiều và Từ Hải. Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là cuốn tiểu thuyết cuối cùng vào thời cuối Minh đầu Thanh viết về đề tài này. Câu chuyện này không còn tồn tại ở dung lượng truyện ngắn như các tác phẩm trước đó mà đã tồn tại ở dạng truyện dài, gồm hai mươi hồi. Nội dung của Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân không còn xoay quanh mối quan hệ chính Từ Hải - Thúy Kiều như những tác phẩm trước đó, mà xung quanh cuộc đời mười lăm năm lưu lạc của Vương Thúy Kiều - nhân vật chính của truyện. Câu chuyện không kết thúc lúc Kiều tự vẫn ở sông Tiền Đường mà Thanh Tâm 10 Tài Nhân thêm đoạn Kiều được vớt lên và Kim-Kiều tái hợp. So với những tác phẩm trước dó , Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân tình tiết phức tạp hơn , nhân vật nhiều hơn, và thực sự một tác phẩm mới về chất lượng đã được ra đời. Nguyễn Du đã dựa vào Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để viết Đoạn Trường Tân Thanh ( Truyện Kiều ). Vì vậy, trong khi nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều chúng tôi áp dụng phương pháp so sánh. Trước hết chúng tôi so sánh đối chiếu Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân . Sự so sánh này sẽ giúp người nghiên cứu thấy được sự kế thừa của Nguyễn Du đối với Thanh Tâm Tài Nhân và sự sáng tạo của Nguyễn Du về mặt nghệ thuật kể chuyện ở trong Truyện Kiều. Thứ hai. chúng tôi so sánh Truyện Kiểu với những tác phẩm có nội dung tự sự trong sáng tác của Nguyễn Du như : Sở Kiến Hành, Thái Bình mại ca giả,... Cách kể chuyện đơn giản của Nguyễn Du trong những bài thơ tự sự có thể giúp người nghiên cứu hiểu thêm nghệ thuật kể chuyện của ông ở trong Truyện Kiều. Thứ ba, nghệ sĩ bao giờ cũng là con đẻ của thời đại. Nghệ sĩ thực sự có tài năng là người biết kế thừa tinh hoa của thời đại nước, đồng thời thể hiện được tinh hoa của biện pháp nghệ thuật của thời đại trong lác phẩm của mình. Ngoài ra nếu nghệ sĩ sáng tạo được những biện pháp nghệ thuật mới mà người cùng thời không làm được, người đời sau kế thừa phát huy thì nghệ sĩ đó thực sự là thiên tài. Vì vậy, chúng tôi đặt Nguyễn Du trong quan hệ so sánh với những nghệ sĩ cùng thời và những người trước và sau ông trong truyền thống Huyện Nôm. Việc làm này sẽ giúp người nghiên cứu xác định rõ hơn tài năng của Nguyễn Du về mặt nghệ thuật kể chuyện. Ngoài hai phương pháp chính nói trên , chúng tôi có sử dụng thêm biện pháp thống kê. Các phương pháp nghiên cứu nói trên không phải được áp dụng riêng biệt mà được phối hợp với nhau trong nghiên cứu. b.) Nôi dung nghiên cứu : Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là một vấn đề khá lớn và phức tạp. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những người đi trước và trong điều kiện hạn hẹp của bản thân, chúng tôi xin tập trung khảo sát nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều ở một số mặt chủ yếu sau đây : - Người kể chuyện. 11 - Cách kể chuyện. - Giọng điệu kể chuyện. - Lời kể chuyện. Văn bản Truyện Kiều chúng tôi kháo sát chủ yếu là bản Truyện Kiều trong cuồn Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế do Nhà xuất bản Hà nội in 1991. 4. Kết cấu của luận án: Luận án gồm ba phần sau đây : - Phần mở đầu. - Phần nội dung: Chương I : Người kể chuyện. Chương II : Cách kể chuyện. Chương III : Giọng điệu kể chuyện. Chương IV : Lời kể chuyện. - Phần kết luận. Cuối luận án có mục thống kê tài liệu tham khảo. 12 CHƯƠNG 1 : NGƯỜI KỂ CHUYỆN 1.1. Khái niệm: Trong loại hình truyện tự sự nói chung, từ các truyện kể dân gian cổ đại: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích đến các truyện hiện đại: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết luôn luôn tồn lại hình thức người kể chuyện. Người kể chuyện là chiếc cầu nối giữa câu chuyện về các nhân vật với các độc giả. Chủ thể kể chuyện ( hay người kể chuyện ) là "chủ thể của lời kể chuyện, người đứng ra kể trong tác phẩm văn học."1TP5F(1)P1T Người kể chuyện là người có nhiệm vụ kể lại câu chuyện. Trong truyện chủ thể kể chuyện có nhiều hình thức xuất hiện. Thông thường người kể chuyện xuất hiện trong tác phẩm như một nhân vật trung gian để kể lại câu chuyện. Có lúc tác giả giao nhiệm vụ này cho một hoặc nhiều nhân vật khác đảm nhiệm. Khi chủ thể kể chuyện ẩn mình ở ngôi trung gian ở dạng "vô nhân xưng" thì chủ thể kể chuyện hoàn toàn ở ngoài cốt truyện. Người kể chuyện luôn luôn theo sát các nhân vật và sự kiện, biết toàn bộ sự việc kể tỉ mỉ về con người và sự việc và dường như không bao giờ trực tiếp can thiệp vào câu chuyện. Vai trò của chủ thể kể chuyện ở dạng "vô nhân xưng" đổi thay theo lịch sử phát triển của truyện . Ớ các truyện kể dân gian : thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, người kể chuyện ở dạng "vô nhân xưng" (người kể chuyện vô hình) không để lại dấu vết riêng của mình , vì đó là truyện kể của tập thể quần chúng lao động. Chúng ta chỉ cỏ thố khái quát hình lượng người kể chuyện ở các loại truyện này ỏ dạng trung bình lý tưởng mà thôi. Theo quá trình cá thể hóa của hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật, chủ thể kể chuyện ở trong truyện ngày càng rõ nét hơn. Điều đo được đánh giá bằng cái mốc lúc tác phẩm truyện là sản phẩm của tác giả cá nhân cụ thể. Và trong một thời gian dài, khi văn học còn ở trong giai đoạn văn học "phi ngã" (theo cách nói của giáo sư Lê Trí Viễn) thì mặc dù tác phẩm truyện có mang tên tác giả cụ thể nhưng dấu ấn tinh thần của hình tượng người kể chuyện vẫn chưa được rõ rệt. (1) Lê Ngọc Trà : Lý luận vãn học . Nhà xuất bàn Trẻ - Thành phố Hồ Chí Minh -1990 . Trang 149 13 Khi văn học thoái khỏi giai đoạn "phi ngã", đặc biệt giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa hiện thực, chủ quan của người viết văn , bộc lộ qua vai trò của người kể chuyện rất rõ rệt. "Đặc biệt, cùng với việc lồng cái nhìn của nhà văn vào cái nhìn của từng nhân vật , lối trao đổi tường thuật qua tay nhiều nhân vật khác nhau tạo nên mối quan hệ phức tạp giữa cái tôi của tác giả, cái tôi của người kể và cái tôi của nhân vật, hình thành "tính phức điệu" trong tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực." 1TP6F(1) Từ cách kể chuyện , từ một điểm nhìn của truyện truyền thông đến cách kể chuyện từ nhiều điểm nhìn của truyện hiện đại , thể loại truyện đã có sự phát triển vươt bậc về mặt nghệ thuật kể chuyện. Từ cách nhìn nhiều chiều của nhiều chủ thể kể chuyện , tác giả đã ''khách quan hóa" được cách kể chuyện của mình, giảm bớt được sự phụ thuộc của người đọc vào quan điếm cua tác giả, tăng cường khả năng độc lập trong thưởng thức tác phẩm cho người đọc và tránh được sự đơn điệu trong kể chuyện. Nhiệm vụ của chủ thể kể chuyện là kể lại câu chuyện , nhưng ngoài cốt truyện , trong tác phẩm truyện còn có những đoạn " trữ tình ngoại đề" thể hiện những suy tư về con người , cuộc đời, những đoạn triết lý mang tính chất luận đề ... Ớ những đoạn này, tác giả thay đổi giọng điệu rất linh hoạt. Những đoạn "trữ tình ngoại đề" này giúp người đọc thấy được thái độ của tác giả đối với nhân vật và sự kiện được kể, đồng thời giúp người đọc hiểu thêm câu chuyện theo quan điếm của tác giả . Truyện Kiều của Nguyễn Du có nhiều đoạn "trữ tình ngoại đề". Khi nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du, chúng ta không bỏ qua yếu tố này. Truyện Kiều củaNguyễn Du là một truyện thơ . Bằng một tình cảm nồng cháy , nhà thơ kể lại một câu chuyện có đầu có đuôi, có cốt truyện, có nhân vật , nhân vật có quá trình phát triển. Vì thế đặc điểm của chủ thể kể chuyện ở tác phẩm thơ tự sự sẽ có những điểm khác với chủ thể kể chuyện trong tác phẩm văn vần lự sự hoặc văn xuôi tự sự. Khảo sát Truyện Kiều của Nguyễn Du , chúng ta thấy Nguyễn Du xuất hiện ở trong tác phẩm với hai tư cách :Thứ nhất : tư cách chủ thế kể chuyện vô hình ; thứ hai : tư cách chủ thể trữ tình. Nguyễn Du không phải là người duy nhất phân thân thành chủ thể tự sự và chủ thể trữ tình ở trong tác phẩm, nhưng ông là người thể hiện sự phân thân này hoàn chỉnh nhất. Đây là một nét độc đáo cua Nguyễn Du.1TP7F(1)P1T (1) Lê Ngọc Trà : Lý luận và vãn học . tài liệu đã dẫn. Trang - 150. (1) Xem: Đỗ Minh Tuấn : Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Nhà xuất bản Vãn hóa Thông tiu , Hà Nội - 1995. 14 1.2. Các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện: Trong Truyện Kiều chủ thể kể chuyện xuất hiện dưới các hình thức sau đây: 1.2.1. Chủ thể kể chuyên vô hình: Chủ thể kể chuyện ẩn mình dưới dạng "vô nhân xưng ". Truyện Kiều là câu chuyện về Thúy .Kiều viết theo Huyền thông truyện Nôm của Việt Nam. Câu chuyện xoay quanh nhân vật nào thì tên của nhân vật đó thường được dùng để dặt tên cho tác phẩm , ví dụ : Thạch Sanh, Phạm Tải-Ngọc Hoa, Lục Vân Tiên. Nguyễn Du đặt lên cho lác phẩm cua mình là Đoạn Trường Tân Thanh (tiếng nói mới đứt ruột). Khi viết xong chưa được in ngay, tương truyền Nguyễn Du có đưa cho Phạm Quý Thích xem, Phạm Quý Thích có sửa chữa một số chỗ và lúc đưa in đã đổi lên tác phẩm của Nguyễn Du thành Kim Vân Kiều Tân Truyện. Sau đó tác phẩm của Nguyễn Du lại được đổi tên lần nữa từ Kim Vân Kiều Tân Truyện sang Truyện Kiều. Cái lên này được chấp nhận lâu dài vì có lẽ nó đã phản ánh đúng bản chất đích thực của lác phẩm: đây là câu chuyện về Vương Thúy Kiều. Tên gọi này cua tác phẩm phù hợp với cách đặt tên tác phẩm thường có trong truyền thống truyện Nôm của Việt Nam. Truyện Kiều, như đã nói ở trên là câu chuyện xoay quanh số phận cua vương Thúy Kiều trong vòng mười lăm năm. Câu chuyện này được kể chủ yểu dưới hình thức người kể chuyện vô hình - ở dạng "vô nhân xưng". Câu chuyện về Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện trong 3254 dòng thơ lục bát. Trong đó theo thống kê ban đầu của chúng tôi , chỉ có 182 dòng thơ ( trong đó có 19 dòng thơ Vương Quan kể về Đạm Tiên, thực ra đó là một hình bóng của Kiều ) chiếm tỷ lệ hơn 5 phần trăm là do các nhân vật khác kể về đời Kiều, phần còn lại gần 95 phần trăm lời kể là lời của người kể "chuyện vô hình". Tất nhiên hơn ba nghìn dòng thơ chủ thể vô hình kể về Kiều không có nghĩa là chỉ kể về riêng Thúy Kiều mà còn kể về nhiều nhân vật khác. Các nhân vật khác tồn tại trong Truyện Kiều một phần cũng là để góp phần bộc lộ nhân vật Thúy Kiều. Những nhân vật mà Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả, nếu Nguyễn Du không thấy không phục vụ cho việc bộc lộ nhân vật Kiều, ông không sử dụng lại. Xin nêu một ví dụ : Trong Kim Vân Kiều Truyện có khoảng hai phần ba của hồi mười hai1TP8F(1)P1T , Thanh Tâm Tài Nhân dùng để miêu tả cuộc đấu trí giữa Tú Bà và Thúc Sinh để giành giật Thúy Kiều. Thúc Sinh sau khi đưa Kiều đi dấu ở một nơi đã sai người báo cho Tú Bà biết mình muốn chuộc Kiều. Mụ Tú đi tìm mười ngày cũng không thấy tung tích của Kiều ở đâu. Sau đó mụ mới biết Thúc Sinh dựa vào Vệ Hoa Dương một người "đã từng khét tiếng trong tỉnh" để uy hiếp mụ. Màn kịch do Thúc Sinh dàn dựng (1) Phạm Dan Quế : Truyện Kiều đối chiếu. Nhà xuất bản Hà Nội-1991. Từ trang 249 - 256 15 đã được trình diễn, mụ Tú thua cuộc. Mụ chỉ nhận được năm trăm lạng bạc liền chuộc, và tân trạng "tiếc rẻ đến chảy máu mắt, cụt hứng mà quay trở về"1TP9F(2)P1T .Màn kịch nhỏ này có năm nhân vật : Tú Bà, Kiều, Bộ Tân, Vệ Hoa Dương, Thúc Sinh - với tư cách vừa là nhân vật của vở kịch vừa là đạo diễn , là một màn kịch sinh động ; nhưng Nguyễn Du bỏ không đưa vào Truyện Kiều vì nó không bổ ích gì cho việc thể hiện nhân vật Kiều. Màn kịch chỉ thể hiện tính ma lanh "mượn oai hùm nhát khỉ" của Thúc Sinh mà thôi. Đặc điểm nổi bật của chủ thể kể chuyện vô hình trong Truyện Kiều là tính chủ quan rất rõ rệt. Tính chủ quan là một đặc điểm quan trọng của thi pháp kể chuyện hiện đại. Chính tính chủ quan trọng kể chuyện của Nguyễn Du thể hiện qua vai trò của hình tượng người kể chuyện vô hình đã làm cho Truyện Kiều của ông có một số đặc điểm của tiểu thuyết hiện đại. Nguyễn Du trở thành người đầu tiên cải cách nghệ thuật kể chuyện truyền thống của truyện Nôm Việt Nam thời kỳ trung đại. là người mở đẩu trong giai đoạn sơ khai của tiểu thuyết kể theo phong cách kể chuyện hiện đại của dân tộc. Tính chất chủ quan của người kể chuyện vô hình trong nghệ thuật kể chuyện được biểu hiện ở nhiều mặt, trong đó chủ yếu ở các mặt : cách kể câu chuyện , giọng điệu kể chuyện, ngôn ngữ kể chuyện; và ở cách kể lại những chủ thể hữu hình trong tác phẩm đang kể lại một phần đời nào đó của một hay nhiều nhân vật ở trong tác phẩm. Chúng lôi sẽ chứng minh trong các phần viết tiếp theo. Chủ thể kể chuyện vô hình rất chủ quan , thậm chí rất "thiên vị"' đối với nhân vật chính của tác phẩm - Vương Thúy Kiều, nhưng không phải vì thế mà tùy tiện trong miêu tả, kể chuyện, không tuân theo "chủ nghĩa lược đồ" - một đặc điểm nổi bật của nhiều truyện Nôm đương thời . Đây là một chủ thể kể chuyện có bản lĩnh, ông đi sâu vào miều tả đời sống nội lâm nhân vật, để nhân vật phát triển theo logíc của chính nó, mặc dù sự phát triển đó có thể không phù hợp với mong muốn chủ quan của người kể chuyện. Nguyễn Du không đặt tên tác phẩm của mình theo tên nhân vật , như nhiều người cùng thời với ông thường làm. Tên của tác phẩm đã gợi được tư tưởng của tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh đã gợi cho người đọc một tiếng kêu thương mới đứt ruột nát gan. Thần thái của tiếng nói ây được loát lên từ lời kể của người kể chuyện vô hình về số phận nàng Kiều. Tất cả nỗi niềm thương cẩm , nâng niu, trân trọng ... của ông đều dồn vào Thúy Kiều , nhưng không phải vì thê mà ông miêu lả Kiều không đúng thực tế. Kiều của Nguyễn Du có quá trình phát triển , không phải là một sự phát triển đi lên dể tìm một sự hoàn thiện hơn mà là một quá trình tha hóa, đổ vỡ. Từ một nhân vật cực kỳ xinh đẹp , tài hoa và đức hạnh buổi đầu, mười (2) Phạm Dan Quế : Truyện Kiều đối chiếu, Nhà xuất bản Hà Nội-1991 Trang 256 . 16 lăm năm gió bụi dã làm cho Kiều bị tha hóa, Kiều cũng ăn cắp, cũng nói dối, cũng xiêu lòng bởi tiền tài và địa vị vương hầu, cũng cơ hội ( khi khuyên Từ Hải đầu hàng)... Đó là một thực tế tàn nhẫn, người kể chuyện không muốn như vậy nhưng vẫn kể như vậy, thậm chí kể rất tỉ mỉ, rất hay, kể lừ gan ruột của nhân vật kể ra. Đấy chính là bản lĩnh của người kể chuyện. Bản lĩnh, đó là lập trường cá nhân của người kể chuyện .._. Đó là một trong những phẩm chất của nhà văn hiện đại, thể hiện tính chủ quan của nhà văn. Nguyễn Du đã vượt được cái nhìn một chiều của truyện cổ tích, của truyện Nôm khuyết danh truyền thông. Ông đã xây dựng nhân vật Thúc Sinh , Hoạn Thư, Kiều trỏ thành những nhân vật của văn học hiện thực , những nhân vật có cá tính, có chiều sâu lâm lý, thậm chí có chiều sâu tâm linh (Kiểu ). Đặc điểm thứ ba của hình tượng người kể chuyện vô hình trong Truyện Kiều là : chủ thể kể chuyện vô hình với tác giả và với nhân vật có những lúc hòa nhập với nhau làm một. Hay nói cách khác có sự hài hòa giữa chủ thể kể chuyện và chủ thể trữ tình trong khi kể lại câu chuyện. Chủ thể trữ tình là chủ thể của cảm xúc trữ tình được thế hiện trong tác phẩm. Nhân vật của Truyện Kiều là nhân vật tự sự của truyện thơ, nhưng có nơi, cố lúc Nguyễn Du đã thể hiện họ như là những nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình. Nguyễn Du, người kể chuyện đã nhập thân vào nhân vật để thể hiện đời sống nội tâm sôi động , dữ dội của họ : cảm xúc, tâm trạng của nhân vật được thể hiện trong một ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh , nhạc điệu, có tính tổng hợp hàm súc cao. Nếu lách những đoạn đó ra , sửa đổi chút ít thì nó có thể đứng được như một bài thơ độc lập. Ví dụ : Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích, tâm trạng Kiều ở lầu xanh lần thứ nhất ... Trong bảy lần Kiều nhớ nhà, 22 lần chính Kiều cỏ những tâm sự nước hoặc sau mỗi biến cố của cuộc đời, chúng ta thấy nhiều lần Nguyễn Du thể hiện Kiều như lù một nhân vật trữ tình. Trong điều kiện hạn hẹp , chúng tôi có khảo sát một số truyện Nôm thời trung đại , đặc biệt ba truyện: Nhị Độ Mai, Bích Câu Kỳ Ngộ , Lục Vãn Tiên . Những tác phẩm này có nhiều chứng cớ xác định chúng xuất hiện sau Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhưng trong ba ltác phẩm này không có đoạn thơ nào , tác giả thế hiện nhân vật như những nhân vật trữ tình. Nguyễn Du rất am hiểu nhân vật, ông gần như nhập thân vào nhân vật Kiều để tả và biểu hiện . Đoạn thơ : " Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lai thương mình xót xa. ... Đã đày vào kiếp phong trần 17 Sao cho sĩ nhục một lần mới thôi."1TP0F(1) tức từ dòng thơ 1233 đến dòng thơ 1274 của Truyện Kiều , là một đoạn thư tiêu biểu. Sau khi bị mắc lừa kế "đà đao" của Tú Bà qua bàn lay của Sở Khanh, Kiều bị đánh đập tàn nhẫn và buộc lòng phải ra tiếp khách. Đoạn thơ nói trên gồm 42 dòng thơ thể hiện nỗi đau cua Thúy Kiều trong những ngày tháng ở lầu xanh của mụ Tú, đồng thời thể hiện sự cảm thương sâu sắc của người kể chuyện, của Nguyễn Du đối với vương Thúy Kiều. Trong Kim Vân Kiều Truyện không có đoạn truyện thể hiện nỗi đau của Kiều, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ nối đến bài ca "khốc hoàng thiên" của Kiều. "Kiều đem phổ nhạc vào khúc Hồ cầm , một khi dạo lên nghe càng ai oán, não nuột"1TPF(2)P1T . Nội dung của bài ca "Khóc trời xanh" của Kiều trong Kim Vân Kiều Truyện mang tính tự sự. Kiều kể lại một quảng đời của mình : Xót mệnh bạc gặp cơn biến cố Liều cứu cha mắc hố lửa nồng cho đến lúc : Chăn gối bảo học nghề ma mọi Phân son tô, đêm lôi gạ người. Kiều nói khá rõ về cách tiếp khách và phần cuối bài ca có một số dòng bộc lộ nỗi khổ tâm của Kiều : Sinh ra phận gái khổ thay Gái mà kỹ nữ khố rày gấp trăm ! ..... Khóc trời tả lại mấy câu, Ngâm lên một chữ dạ sầu muôn chung.1TP2F(3) Nguyên Du đã nắm bắt tinh thần bài ca này và đã thể hiện trong 6 dòng thơ thể hiện suy nghĩ, tâm trạng của Kiều : Xót mình cửa các buồng khuê Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay ! Khéo là mặt dạn, mày dày, (1) Phạm Đan Quế - Truyện Kiều đối chiếu , đã dẫn. Trang 244.245,246. (2) Phạm Đau Quế - Truyện Kiều đối chiếu , đã dẫn. Trang 232. (3) Phạm Đau Quế - Truyện Kiều đối chiếu , đã dẫn. Trang 230.231.Từ đây uhữug câu thơ Kiều chúng tôi sử dụng trong luận án đều dược trích từ tài liệu liêu trêu. 18 Kiếp người đã đến thế này thì thôi ! Thương thay ! Thân phận lạc loài, Dẫu sao, cũng ở tay người, biết sao ? Nguyễn Du dùng 6 dòng thơ kể tiếp về cuộc đời của Kiều ở lầu xanh. sau đó ông mới thể hiện tâm trạng của Kiều. Kiều xuất hiện như một nhân vật có ý thức sâu sắc về mình. Cái "tôi" cá nhân của nhân vật được Nguyễn Du thể hiện rõ nét: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa. Khi sao phong gấm rũ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường. Chỉ qua động tác "giật mình", "thương mình" khi "tàn canh", khi tàn cuộc rượu cũng đủ thấy được Kiều đau đớn đến nhường nào. Không có ý thức về cá nhân sâu sắc không thể có sự "giật mình" ấy được. Cảm giác : Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ ? là cảm giác của Nguyễn Du, của người kể chuyện vô hình và cũng là cảm giác của Vương Thúy Kiều. Tám dòng thơ tiếp theo thể hiện tâm trạng "vui là vui gượng", tâm trạng "chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau " của Kiều. Sau 20 dòng thơ thể hiện nỗi đau của một nhân phẩm bị chà đạp, người kể chuyện đã nhập thân vào Kiều thể hiện nỗi nhớ những người thân : cha mẹ, người tình của Kiều. Nhớ ơn chín chữ cao sâu Một ngày một ngả bóng dâu tà tà. ... Nhớ lời nguyện ước ba sinh Xa xôi, ai có thấu tình chăng ai ? .... Hoa kia đã chắp cành này cho chưa? Nỗi đau , nỗi nhớ của Kiều không dứt theo dòng thời gian : 19 Song sa vò võ phương trời, Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng. Đến đây, Nguyễn Du ,người kể chuyện không chịu được nữa đã bước ra phát biểu trực tiếp, vừa thương, vừa giận : Xót người trong hội Đoạn trường đòi cơn. Đã cho lấy chữ hồng nhan, Làm cho cho hại cho tàn cho cân ! Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi. Trong đoạn thơ trên Nguyễn Du đã xuất hiện với ba tư cách : chủ thể trữ tình, chủ thể kể chuyện và tác giả. Chứ thể kể chuyện vô hình và tác giả ở Truyện Kiều là một , Nguyễn Du phân thân và hội nhập rất hài hòa ở hai tư cách: chủ thể kể chuyện và chủ thể trữ tình ở trong Truyện Kiều. Đó là một nguyên nhân quan trọng đã lạo ra tiếng nói đa thanh trong đoạn thơ mà chúng tôi đã dẫn ở trên. Đoạn thơ có ngôn ngữ trữ tình của Vương Thúy Kiều , có tiếng nói trữ tình ngoại đề cửa tác giả, có ngôn ngữ' của người kể chuyện vô hình trong quá trình kể, tả, phần tích tâm lý nhân vật. Qua "cảnh", qua "tình" người là thấy được "việc". Chỉ đoạn thơ này , người đọc hiểu được đoạn đời của Kiều ở lầu xanh. Và vì thế , Nguyễn Du không tả, kể về cuộc sống của Kiều lúc vào lầu xanh lần hai ở Châu Thái. Nguyễn Du đã dùng 14 dòng thơ , bộc lộ trực tiếp thái độ phẫn uất của mình đối với định mệnh khắc nghiệt đang kiềm tỏa Kiều. Chém cha cái số hoa đào, Gở ra rồi lại buộc vào như chơi ! Nghĩ đời mà ngán cho dời, Tài tình chi lắm cho trời đất nghen ! ..... Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phân cho rồi ngày xanh. Tiếng chửi số phận, chửi đời, oán trời, tâm trạng "liều" trong đoạn thơ trên là của Kiều đồng thời là của người kể chuyện, của Nguyễn Du. 20 Câu chuyện trong Truyện Kiều được kể lại chủ yếu bằng ngôn ngữ kể của người kể chuyện vô hình, một chủ thể kể chuyện độc đáo so với đương thời, điều đó được thể hiện ở ba đặc điểm của hình tượng người kể chuyện vô hình mà chúng lôi vừa phân tích ở trên. Câu chuyện trong Truyện Kiều còn dược kể lại bằng lời kể của các nhân vật của tác phẩm. Đây là một điểm khác biệt của Nguyễn Du so với các tác gỉa cùng thời với ông về mặt nghệ thuật kể chuyện. Khi để cho nhân vật tham gia kể lại câu chuyện Nguyễn Du tách làm hai loại , loại thứ nhất: nhân vật kể lại câu chuyện của nhân vật khác trong tác phẩm, loại thứ hai: nhân vật tự kể chuyện mình. Hai loại nhân vật này có những đặc điểm khác nhau rõ rệt. 1.2.2. Nhân vật tham gia kể lai câu chuyện của nhân vật khác ở trong tác phẩm: Đây là hình thức xuất hiện thứ hai của chủ thể kể chuyện. Nhân vật của truyện tham gia kể lại một phần của câu chuyện qua việc kể lại chuyện của nhân vật khác trong tác phẩm. Loại nhân vật này trong Truyện Kiều có 10 người, 13 lần kể trong 173 dòng thơ. Cụ thể : Đạm Tiên kể với Kiều về Kiều 3 lần, lần một sau hội Đạp Thanh (4 dòng) : lần hai lúc Kiều tự tử ở nhà Tú Bà (6 dòng); lần ba lúc Kiều tự tử ở sông Tiền Đường ( 12 dòng).Giác Duyên kể với Kiều về Kiều (10 dòng), kể về Kiều với gia đình Kiều (8 dòng). Tam Hợp đạo cô kể Kiều cho Giác Duyên nghe (38 dòng). Đạo sĩ kể về Kiều cho Thúc Sinh nghe (7 dòng) . Như vậy bốn nhân vật tượng trưng cho tiếng nói của định mệnh, kể về Kiều ở góc độ định mệnh trong 7 lần với 85 dòng thơ . Nếu kể thêm nhân vật thầy bói nói về số mệnh của Kiều trong hai dòng thơ , trong lúc Kiều kể cho Kim Trọng nghe về mình : Anh hoa phát tiết ra ngoài, Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa. thì số nhân vật tham gia kể về nhân vật Kiều sẽ là năm người, số lần kể sẽ là làm và số dòng thơ dùng để kể sẽ là 87 và nếu nói theo cách nói của Phan Ngọc , thường nhấn mạnh để tạo ấn tượng, thì phải nói là "'mội tỉ lệ phải gọi là khủng khiếp". Trong 88 dòng thơ kể chuyện còn lại, Nguyễn Du để cho Vương Quan kể về Đạm Tiên cho Kiều nghe (19 dòng), Mã Kiều kể về Sở Khanh cho Kiều nghe (10 dòng), vương ông kể về Kiều cho Kim Trọng nghe (17 dòng), họ Đô kể về Kiều cho Kim Trọng nghe (26 dòng), Thúc Sinh kể về Kiều cho Kim Trọng nghe (10 dòng) và người dân ở Hàng Châu kể về Kiều cho Kim Trọng nghe (6 dòng). Như vậy, hơn 83 phần năm lời kể cứa các nhân vật kể chuyện trong Truyện Kiều là dùng để kể trực tiếp về Kiều, gần 17 phần trăm lời kể dùng để kế về bóng ma Đạm Tiên - một 21 bóng ma luôn ám ảnh trong tiềm thức Kiều và một ma cô hiện hữu trong đời thực, kẻ trực tiếp đẩy Kiều vào lầu xanh - đó là Sở Khanh. 1.2.3. Nhân vật tự kể chuyện mình: Đây là hình thức xuất hiện thứ ba của chủ thể kế chuyện . Trong Truyện Kiều chỉ có một nhân vật tự kể chuyện mình dó là Thúy Kiều. Trong truyện ký hiện đại nhân vật tự kể chuyện mình không phải là hiếm hoi . Đặt biện pháp kể chuyện này trong thời đại Nguyễn Du thi chúng tôi chưa thấy truyện Nôm nào có cách kể chuyện như thế này. Đây thực sự là một sự đổi mới của Nguyễn Du về mặt nghệ thuật kể chuyện. Thực ra trong lác phẩm truyện Nôm nửa đầu thế kỷ XIX , không phải không có hiện tượng nhân vật trong tác phẩm tham gia kể lại câu chuyện về mình hoặc về nhân vật khác ở trong tác phẩm. Mai Lương Ngọc, Xuân Sinh, ... trong Nhị Độ Mai là những nhân vật như vậy. Thảng hoặc cũng có nhân vật đưa các tích người xưa để nhằm răn dạy đạo đức hoặc nhằm khuyên bảo một vấn đề gì đó (ông Quán trong Lục Vân Tiên, Hà Sinh trong Bích Câu Kỳ Ngộ,...) Điểm khác nhau cơ bản cua nhân vật kế chuyện trong Truyện Kiều với các nhân vật của một số truyện Nôm khác có tham gia kể chuyện là ở chỗ : đối với các truyện Nôm khác nhìn chung, con người và sự việc được nhắc đến trong lời kế của nhân vật như là một hình ảnh, một điển tích, điển có để người kế giáo dục đạo đức , lối sống ... cho nhân vật khác của tác phẩm. Hà Sinh trong Bích Câu Kỳ Ngộ thấy ban mình là Tú Uyên tương tư Giáng Kiều, một tiên nữ , Hà Sinh đã nhắc lai việc Thánh Tông gặp tiên và khuyên bạn không nên mơ tưởng hão huyền. Ngọc Liên nghe có Hoa liên ... Còn di tích đó là lầu vong tiên.1TP3F(1) Ông quán trong Lục Vân Tiên cũng vậy. Quán rằng: "Ghét việc tầm phào, Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm. Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang. (1) Bích Câu Kỳ Ngộ - Thi Nham Đinh Gia Thuyết đính chính và chú thích , Sách giáo khoa Tân Việt, Sài Gòn, Trang 21,22. 22 Thương ông Gia Cát tài lành Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha Xem qua kinh sử mấy lần Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương1TP4F(1) Hà Sinh và ông Quán nói theo giọng kể của người kể chuyện vô hình, chứ chưa có giọng điệu riêng của mình. Có lẽ tác phẩm có nhân vật tham gia kể chuyện tương đối nhiều hơn trong truyện Nôm khuyết danh là Nhị Độ Mai. Trong Nhị Độ Mai có một số nhân vật tham gia kể chuyện , trong đó có kể chuyện của bản thân mình. Mai Lương Ngọc và Xuân Sinh kể chuyện của bản thân mà như đọc diễn ca , không có giọng kể riêng, họ chỉ là cái loa phát ngôn của tác giả. Giọng kể của họ với giọng kể của người kể chuyện vô hình trong tác phẩm là một. Ví dụ , Mai Sinh kể gia cảnh của mình cho Trần Đông Sơ nghe : Lạy rồi, sinh mới giải bày: Từ ngày về quán từ ngày nghe oan, Bao nhiêu trình tự nguồn cơn, Sơn Đông chia bước Hầu Loan trở lòng1TP5F(2) Xuân Sinh con của Trần Đông Sơ , kể về mình cho Ngư bà nghe, khi Xuân Sinh tự tử được vớt lên Xuân sinh mới kể gót đầu: "Quê tôi ở huyện Thường Châu cũng gần. Cha làm quan họ là Trần Chẳng may mắc phải gian thần vu oan. Tâu vua bắt chị hoà man Thiên lao lại bắt thung đường phó giam.P(3) Lời kể của các nhân vật nói trên chưa phải là lời kể chuyện có tính chất văn học đích thực , tức là chưa thể hiện được chất Người của đối tượng được kể và chưa bộc lộ được chủ (1) Đồ Chiểu : Lục Vân Tiên - Sách Giáo khoa Tâu Việt , SàiGòn . Trang 62,63. (2) (3) Nhị Dộ Mai - Nhà xuất bản Văn học - 1994 , Trang 74,107. 23 quan của người kể, lời kể chưa có được những phẩm chất của ngôn ngữ văn học mỹ thuật . Ngôn ngữ đó chỉ mới mang tính chất diễn ca. Còn nhân vại của Truyện Kiều thì ngược lại , nhìn chung những nhân vật tham gia kể chuyện là những nhân vật có cá tính, có giọng kể riêng, có cách kể riêng và không trùng với giọng kể, cách kể của người kể chuyện vô hình. Đó là cái mới , là cống hiến của Nguyễn Du cho nghệ thuật kể chuyện của văn học dân tộc. Một điều cần lưu ý là : những tác phẩm mà chúng tôi vừa nói trên, có một số chịu ảnh hưởng rất sâu của Truyện Kiều (Nhị Độ Mai, Bích Câu Kỳ Ngộ). Như vậy có thể tác giả của những tác phẩm này đã học tập Nguyễn Du trong cách kể chuyện nhưng chưa đạt yêu cầu. Điều này đã thể hiên đước vai trò của Nguyễn Du đối với đời sống văn học của dân lộc - ông đã mở ra một cách kể chuyện mới. Kiều tự kể về mình bốn lần trong 12 dòng thơ, cụ thể: kể cho Sở Khanh nghe (2 dòng), kể cho Từ Hải nghe (4 dòng), kể cho gia đình, cha mẹ nghe (4 dòng), kể cho Kim Trọng nghe về chuyện ông thầy tướng đoán số cho Kiều lúc Kiều còn nhỏ (2 dòng). Ngoài ra Kiều còn kể về Mã Giám Sinh cho mẹ nghe (14 dòng). Kiều là nhân vật tham gia kể chuyện với số lần nhiều nhất : 5 lần, nhưng số dòng thơ thể hiện nội dung kể chuyện lại rất ít. Nếu tính riêng việc Kiều tự kể chuyện mình thì bình quân mỗi lần kể, Kiều chỉ kể trong ba dòng thơ. Tại sao mỗi lần kể Kiều lại kể ngắn như vậy ? Chúng ta thây lý do của hiện tượng đặc biệt này ở hai người : Kiều và Nguyễn Du. Kiều là một nhân vật có cá tính, có đời sống nội tâm phong phú, phức tạp , có ý thức sâu sắc về sự hiện hữu của mình. Không ai hiếu Kiều bằng Kiều. Ớ những con người có ý thức sâu sắc về cá nhân mình, có chiều sâu tâm linh thì nỗi đau tinh thần của họ càng được nhân lên gấp bội. Kiều là một. con người như vậy. Kiều càng kể ít bao nhiêu, người ta càng thấy Kiều đau đớn về tinh thần bấy nhiêu. Những lần Kiều tự kể chuyện mình là những lần do hoàn cảnh bắt buộc, không thể không kể được. Nếu không kể cho Sở Khanh - một người xa lạ mới gặp - nghe về chuyện của mình thì làm sao có thể "Nhờ lay tế độ với người trầm luân" được. Hoàn cảnh "chua xót" , "bơ vơ" của Kiều lúc đó đã bắt buộc Kiều "đánh liều, nhắn một hai lời". Nguyễn Du đã thể hiện nội dung tự kể chuyện của Kiều trong hai dòng kể cửa người kể chuyện vô hình : Mảnh tiên kể hết xa gần, Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài. 24 Nếu Kiều không kể cho Từ Hải nghe về cuộc đời oan khổ của mình thì không có cớ để thực thi ý định báo ân, báo oán. Ngôn ngữ kể chuyện của Kiều được hòa trong ngôn ngữ kể chuyện của người kể chuyện vô hình , và nội dung kể cũng rất chung chung. Trong quân có lúc vui vầy, Thong dong mới kể sự ngày hàn vi. Khi Vô Tích khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương. Tấm thân rày đã nhẹ nhàng. Chút còn ân oán đôi đường chưa xong. Đây là nường hợp duy nhất trong Truyện Kiều, Nguyễn Du . người kể chuyện vô hình không giới thiệu ai kể và kể về ai nhưng người đọc vẫn hiểu và Từ Hải vẫn hiểu . Từ công nghe nói thủy chung, Bài bình nơi trận đùng đùng sấm vang. Đây cũng là một biểu hiện sự linh hoạt, sáng tạo trong cách kể củaNguyễn Du. Khi gặp lại những người thân trong gia đình sau 15 năm lưu lạc lại am Vân Thúy, Kiều đã : Khóc than, mình kể sự mình đầu đuôi. "Từ con lưu lạc quê người, Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm. Tính rằng sông nước cát lầm, Kiếp này, ai lại còn cầm gặp đây." Mặc dù Kiều tự kể việc mình có đầu có đuôi trong khoảng đời mười lăm năm, nhưng ngôn ngữ thể hiện vẫn rất khái quát bằng một vài hình ảnh tượng trưng. Nguyễn Du để Kiều né tránh việc kể cụ thể. Kể cụ thể, thứ nhất sẽ tạo ra cảm giác lặp, một điều tối kỵ của nghệ thuật kể chuyện, thứ hai sẽ là một cực hình đối với Kiều vì càng kể cụ thể bao nhiêu càng khoét sâu nỗi đau của Kiều bấy nhiêu. Điều này cũng thể hiện sư cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du đối với nhân vật Kiều, thể hiện sự "thiên vị" của ông khi kể về Kiều, thể hiện tính chủ quan cao của người nghệ sĩ trong nghệ thuật kể chuyện. 25 Tính chủ quan nói ở trên và cách để nhân vật tự bộc lộ đã làm tăng thêm chất hiện thực tâm lý ; đó là nét mới của Nguyễn Du trong nghệ thuật kê chuyện khác với Huyện Nôm đương thời. 1.3. Hiệu quá nghê thuật của hình thức "đa chủ thể kể chuyện" trong Truyện Kiều: Về mặt mục đích , Nguyễn Du vẫn chỉ kể về một nhân vật chính - Vương Thúy Kiều - như đặc điểm thi pháp của truyện Nôm, nhưng về phương pháp Nguyễn Du có kế thừa và có cách tân so với thi pháp kể chuyện của Truyện Nôm đương thời. Kế thừa, dùng ngôn ngữ của người kể chuyện vô hình để chủ yếu kể lại câu chuyện ; cách tân, dùng nhân vật tự kể về mình và nhân vật kể về nhân vật để kể lại câu chuyện. Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du vừa cũ lại vừa mới, một phần được biểu hiện ở điểm này. Nguyễn Du giao một phần nhiệm vụ kể chuyện cho các nhân vật, biện pháp này có những ưu điểm cơ bản sau đây : Thứ nhất, tóm lược được quảng đời dài của nhân vật trong một số dòng trần thuật ngắn. Qua sự tóm lược ấy người đọc thấy được thái độ của các nhân vật đang kể chuyện đối với các nhân vật hoặc sự kiện được kể. Đó là một điểm nhìn của nhân vật kể chuyện đối với nhân vật và sự kiện được kể. Càng cố nhiều nhân vật tham gia kể chuyện ở những thời điểm khác nhau thì hiện thực được phản ánh càng chân thực, sinh động, tính chất phong phú của tác phẩm càng rõ. Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du người ta có thể lúng túng trước yêu cầu kể lại câu chuyện , có thể không nhớ lắm đến hình hài nhân vật, nhưng người ta cảm thây rất rõ những tâm trạng của một số phận bị vùi lấp. Kim Vân Kiều Truyện dễ kể hơn vì nhân vật của truyện là nhân vật tự sự, được thể hiện với nhiều sự kiện, hành động cụ thể ... còn Truyện Kiều khó kể vì nhân vật còn được thể hiện ở góc độ tâm trạng trữ tình. Chính Nguyễn Du đã dùng nghệ thuật nhân vật kể về nhân vật để giúp người đọc dễ hình dung lại câu chuyện. Với 67 dòng thơ gần hai phần trăm chiều dài tác phẩm, với năm lần kể cua năm người: Vương ông (17 dòng), ông già họ Đô (26 dòng), Thúc Sinh (10 dòng), người dân vô danh ở Hàng Châu (6 dòng), Giác Duyên (8 dòng), Nguyễn Du đã giúp người đọc nắm được sườn cốt truyện của câu chuyện được kể trong Truyện Kiều với ngôn ngữ của người kể chuyện vô hình theo bước chân Kiều trong vòng 15 năm. Cả năm người đều kể cho Kim Trọng nghe về cuộc đời Kiều, lời kể tiếp nối về mặt thời gian , rõ ràng, mạch lạc. Vương ông kể về Kiều trong lúc xây ra gia biến. Họ Đô kể về quảng đời 13 năm của Kiều từ lúc "Tú Bà cùng Mã Giám Sinh, đi mua người ở Bắc Kinh đem về" đến lúc Thúy Kiều báo ân , báo oán xong : "Oán thì trả oán, ân thì trả ân". Thúc Sinh kể tiếp về mối tình Từ - Kiều và sự lớn mạnh của lực lượng Từ 26 Hải với cảm xúc ca ngợi. Người dân ở Hàng Châu kể về sự thất bại của Từ, cái chết của Kiều. Giác Duyên kể về Kiều từ lúc được vớt lên. Cách kể của năm người không giống nhau nhưng họ giống nhau ở chỗ đều rất thương Kiều. Có một điều đặc biệt là chỉ những người thương Kiều, quan tâm tới Kiều mới kể về Kiều, còn kẻ thù của Kiều không bao giờ kể về Kiều. Đó là ý muốn của Nguyễn Du, vì Nguyễn Du không phải không có khả năng sáng tạo ra một nhân vật ở dạng kẻ thù của Kiều kể về Kiều. Đó là một biểu hiện của tính chủ quan , "thiên vị" của Nguyễn Du . của người kể chuyện vô hình trong Truyện Kiều. Trong Truvện Kiều nhân vật được nhiều người kể chuyện quan tâm đó là Vương Thúy Kiều. Mỗi người đều bộc lộ thái độ riêng của mình khi kể về Kiều. Trong những nhân vật kể về Kiều có hai nhân vật kể nhiều nhất, ông già họ Đô (26 dòng), Tam Hợp đạo cô (38 dòng). Tam Hợp đạo cô, nhân vật tượng trưng cho sức mạnh của định mệnh, thể hiện ở những "dự báo" cực kỳ chính xác về số phận của Kiều. tiếng nói của Tam Hợp là một tiếng nói khách quan, lạnh băng, vô sắc. Tam Hợp là người duy nhất gọi Kiều bằng tên , không bao giờ gọi Kiều bằng từ "nàng". - Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan. - Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều. Mở đầu lời "tiên tri", Tam Hợp đã nêu ra một nguyên lý "khách quan, lạnh lùng". Sư rằng : " Phúc họa tại trời, Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra. Có trời mà cũng tại ta, Tu là cội phúc, tình là dây oan." Tiếp đó Tam Hợp đưa Thúy Kiều ra phân tích và khẳng định những oan nghiệt mà Thúy Kiều phải gánh chịu là tài yếu. Vô duyên là phận hồng nhan đã đành. Lại mang lây một chữ tình, Khư khư mình buộc lấy mình vào trong. Vậy nên những chôn thong dong, Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng... Tam Hợp luận công và tội của Kiều,vì công nhiều hơn tội, nên 27 " Khi nên trời cũng chiều người, Nhẹ nhàng nợ trước , đền bồi duyên sau" Tam Hợp xuất hiện rất ít trong tác phẩm , nhưng liếng nói lạnh băng của nhà sư là một hình thức bày tỏ thái độ đối với Kiều. Ông già họ Đô là người kể khách quan, giữa ông và Kiều không biết nhau, không có gì ràng buộc với nhau, nhưng âm hưởng chung loài ra lừ lời kể là một sự cảm thương và ca ngợi Kiều. Tóc tơ các tích mọi khi, Oán thì trá oán, ân thì trả ân. Đã nên có nghĩa có nhân, Trước sau tròn vẹn xa gần ngợi khen. Không phải Vương Thúy Kiều là đối tượng duy nhất được đánh giá khác nhau bởi các chủ thể kể chuyện khác nhau, Từ Hải, Đạm Tiên cũng là trường hợp tương tự. Từ Hải trong sự đánh giá của Kiều, Thúc Sinh, ông già họ Đô khác hẳn sự đánh giá của sư Tam Hợp. Đạm Tiên trong lòng Kiều và trong lòng vương Quan khác nhau. Đoạn thơ vương Quan kể về Đạm Tiên là đoạn thơ sinh động. Đạm Tiên trong quan niệm cua Vương Quan là một con người có thật, một Kiếp người bị vùi dập phũ phàng, một tài hoa đã chết. Đấy là một câu chuyện quả khứ cua quá khứ ."'Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi". Lời kể của Vương Quan đã thể hiện sự thương xót của Vương Quan đối với Lưu Đạm Tiên. Kiếp hồng nhan có mong manh, Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương. Hình ảnh người khách viễn phương hâm mộ Đạm Tiên, tìm đến nhưng nàng đã mất, hành động và tâm trạng của người khách phương xa hiện lên rõ mồn một trong lời kể của vương Quan. Khóc than khôn xiết sự tình Khéo vô duyên bây là mình với ta ! Đã không duyên trước chăng là, Thì chi chút ước gọi là duyên sau. Sắm sanh nếp tử xe châu 28 Vùi nông một nấm, mặc dầu cỏ hoa. Trong một đoạn thơ ngắn chỉ 19 dòng , chúng ta thấy được bốn nhân vật . Người kể chuyện vô hình đang kể về Vương Quan , Vương Quan đang kể về Đạm Tiên và người khách phương xa, ngôn ngữ nhân vật được lồng trong ngôn ngữ nhân vật. Người đọc thấy được thái độ của ba nhân vật đối với Đạm Tiên. Trong các tác phẩm truyện Nôm cùng thời với Nguyễn Du chúng tôi thấy chưa có tác phẩm nào có cách kể chuyện như thế này. Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác sau Truyện Kiều khá lâu cũng không có cách kể như thế này. Ngược với Vương Quan, Đạm Tiên trong mắt Kiều là một sự thể hiện cụ thế của định mệnh đã tồn tại và đang tồn tại. Vương Quan không tin, không chấp nhận là có ma quỷ, Kiều thì lại tin và bị nó ám ảnh suốt đời. Chính ưu điểm thứ nhất về mặt chủ thể kể chuyện mà chúng tôi vừa phân tích ỏ trên dã xác định sự gần gũi của Truyện Kiều với truyện hiện đại về mặt nghệ thuật kể chuyện. Ưu điểm thứ hai của các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện trong Truyện Kiều là : nhân vật, sự kiện được nhìn nhận, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau của nhiều chủ thể kể chuyện, điều này đã giúp tác giả có điều kiện thể hiện được tính khách quan trong phản ánh và đánh giá. Kiều là nhân vật được Nguyễn Du đặt trong nhiều điểm nhìn nhất. Những người yêu mến Kiều như Kim Trọng, bố mẹ Kiều, Vương Quan, Thúy Vân.Thúc Sinh,Từ Hải,mụ quản gia, Mã Kiều; những nhân vật trung gian không hề quen biết gì Kiều như : ông già họ Đô, người vô danh ở Hàng Châu,ông lại già họ Chung, ai cũng khen Kiều, thương mến Kiều, đa số tìm cách che chở cho Kiều, tìm cách cứu Kiều, ... Những thế lực siêu phàm , có năng lực "tri thiên mệnh" như Tam Hợp đạo cô, Đạm Tiên, Đạo sĩ đều khẳng định Kiều có tài. có sắc, có đức nhưng bạc mệnh. Hoạn Thư , người đàn bà sắc sảo thứ hai trong Truyện Kiều, coi Kiều như một tình địch, hành hạ Kiều rất tàn nhẫn nhưng vẫn khen, phục Kiều. Hồ Tôn Hiến một tống đốc trọng thần của triều đình lợi dụng Kiều để dẹp trừ Từ Hải, đã làm nhục Kiều trong tiệc mừng công nhưng vẫn phục Kiều. Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh ... xem Kiều như một công cụ đế làm ăn nhưng vẫn khen và nể sợ Kiều ... Nguyễn Du đã khéo léo "lồng cái nhìn của nhà văn vào cái nhìn của từng nhân vật" và "trao tường thuật qua tay nhiều nhân vật khác nhau"1TP6F(1)P1T, việc làm này đã tạo được sự khách (1) Lê Ngọc Trà . Lý luận và vãn học , dã dân. Trang 150. 29 quan trong phản ánh, đánh giá dồng thời thể hiện bản lĩnh sáng tạo, cá nhân hóa trong sáng tạo của ông. Nếu Đạm Tiên là sứ giả của định mệnh, đưa những thông điệp cửa định mệnh đến với Kiều trong những giác mộng thì Giác Duyên là sứ giả của định mệnh đưa những thông điệp của định mệnh đến với Kiều trong cuộc đời thường. Giác Duyên còn xuất hiện như một bà đỡ.như một ông bụt trong truyện cổ tích.Qua lời kể của chủ thể vô hình, Giác Duyên còn xuất hiện như một con người của đời thường. Giác Duyên cũng nhận quà biếu của Kiều, khi phát hiện đó là chuông vàng khánh bạc "của nhà Hoạn nương" thì rụng rời sợ hãi "nửa thương nữa sợ, bồi hồi chẳng xong". Thương Kiều, nhưng cũng rất sợ Hoan Thư. Giác Duyên lại phải khuyên Kiều: "Lánh xa trước liệu tìm đường".Việc làm này của Giát Duyên không khỏi làm cho người đọc nhớ đến phương pháp "lẩu" mà Sở Khanh và Thúc Sinh đã khuyên Kiều áp dụng những lúc cùng đường. Tất nhiên tính chất của những lần "tẩu" này của Kiều có khác nhau. Giác Duyên rất thương Kiều . nhưng bí quá không giám cho Kiều trú ở Chiêu Ân am nữa, việc làm này vô tình đã đẩy Kiều vào lầu xanh lần thứ hai. Thái độ của Giác Duyên lúc được trả ân ( cùng với mụ quản gia ) là thái độ rất thực. Hai người trông mặt tần ngần Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui. Chỉ vài nét chấm phá, người kể chuyện đã dựng được hình ảnh một nhà sư trong đời thường của xã hội phong kiến. Giác Duyên một nhân vật tham gia kể chuyện trong Truyện Kiều đã có dáng dấp một nhân vật văn học - một nhân vật có cá tính. Như vậy, trong Truyện Kiều , Nguyễn Du "nhờ thay đổi các chủ thể kể chuyện khác nhau nhà văn tạo điều kiện cho cách nhìn nhiều chiều về nhân vật, sự kiện, giảm bớt sự phụ thuộc vào quan điểm của tác giả, tăng cường khả năng nghiền ngẫm độc lập của bạn đọc".1TP7F(1) Ưu điểm thứ ba : Hai ưu điểm của phương pháp thay đổi chủ thể kể chuyện trong Truyện Kiều mà chúng tôi vừa phân tích ở trên là cơ sở để rút ra ưu điểm thứ ba của phương pháp này : nghệ thuật Truyện Kiều kể chuyện sinh động hấp dẫn, không đơn điệu như cách kể theo một giọng từ đầu tới cuối tác phẩm. (1) Lê Ngọc Trà - Lý luận và vău học , đã dẫn, trang 151 30 CHƯƠNG 2: CÁCH KỂ CÂU CHUYỆN 2.1. Khái niêm: Trong tác phẩm tự sự giữa thời gian của sự kiện hành động xẩy ra trong thực tê và thời gian trần thuật về nó có một khoảng cách nhất định. Trong cuốn Nghệ thuật thi ca Arislote có viết : "Nhà thơ tự sự kể về các sự kiện như về một cái gì đó bên ngoài mình"1TP8F(1) "Đối với sự trần thuật thì cái được miêu tả là một cái quá khứ. Đối với người trần thuật ( người kể chuyện ) thì cái tiêu biểu là lập nường của một con người nhớ lại cái điều đã xảy ra".1TP9F(2) Câu chuyện có thật trong đời thường và câu chuyện được kể trong tác phẩm vô hình không bao giờ trùng nhau. Dung lượng hiện thực trong tác phẩm bao giờ cũng ít hơn nội dung vốn có của câu chuyện xảy ra trong cuộc đời, mặc dù bức tranh cuộc sống được thể hiện ở trong tác phẩm thường có ý nghĩa điển hình hơn hiện thực mà tác phẩm phản ánh. Ngay ở thể loại ký, loại văn học viết về người thật việc thật - tình hình cũng thường xảy ra như vậy. "Lập trường", cái chủ quan của người nghệ sĩ có ý nghĩa quyết định cho việc lựa chọn nôi dung hiện thực và thể hiện nó ỏ trong tác phẩm. Đây là lý do cơ bản giải thích hiện lượng cùng một đề tài, cùng trên cơ sở một hiện tượng hiện thực, với nhiều nghệ sĩ khác nhau thì có nhiều tác phẩm khác nhau, hoặc với một nghệ sĩ ở những thời điểm khác nhau có thể có những lác phẩm khác nhau. 2.2. Cách kể trong Truyện Kiều: Trường hợp Truyện Kiều cũng vậy. Dựa vào câu chuyện do Thanh Tâm Tài Nhân kể trong Kim Vân Kiều Truyện, Nguyễn Du kể lại câu chuyện đó trong Truyện Kiều, theo chủ quan của ông . Cách kể của Thanh Tâm Tài Nhân có sự kế thừa và thay đổi so với cách kể của những người nước đó cùng kể về câu chuyện này. Cách kể của Nguyễn Du cũng có những điểm kế thừa và phát triển so với cách kể của Thanh Tâm Tài Nhân. Những điểm Nguyễn Du kế thừa Thanh Tâm Tài Nhân không có nghĩa là Nguyễn Du phụ thuộc mà đó chính là thể hiện tính chủ quan của ông trong sự lựa chọn, kế thừa. Nguyễn Du thấy cái nào của Kim Vân Kiều Truyện phù hợp với ý đồ sáng tạo của mình thì ông giữ lại và cho nó có một ý nghĩa mới vì nó được xếp trong một hệ th._.ôn ngữ kể dưới dạng văn vần lục bát của Nguyễn Du . Điều đó đã đem lại khoái cảm thẩm mĩ cao cho người đọc ,làm cho người đọc dễ thuộc. Đây cũng là mội ưu điểm nổi bật của ngôn ngữ Truyện Kiều. Kể chuyện bằng văn vần do chịu sự quy định của thi pháp loại thể cho nên bao giờ cũng khó hơn văn xuôi ,đặc biệt là sự thể hiện ngôn ngữ đối thoại. " Trong thực tiễn của lời nói đàm thoại, các lời phát ngôn riêng Một nhanh chóng luân phiên nhau thường không có tính trọn vẹn"1TP36F(1)P1T.Cách thức luân phiên lời nói của các nhân vật bởi các từ "rằng" là cách thức phổ biến ở trong Truyện Kiều: "Vân rằng:", "Rằng :", "Quan rằng:", " Kiều rằng :", "Nàng rằng:" , " thưa rằng :", "Dạy rằng:", "Sinh rằng:",... Nguyễn Du còn thể hiện ngôn ngữ đối thoại của nhân vật bằng một số cách khác và thường là miêu tả sự xuất hiện của lời nói ,ví dụ: Cách tường lên tiếng ,xe đưa ướm lòng: "Thoa này bắt được hư không, Tiếng Kiều nghe lọt bên kia: "Ơn lòng quân tử sá gì của rơi, Dưới hoa ,đã thấy có chàng đứng trông. "Trách lòng hờ hững với lòng Khen:Tài nhả ngọc phun châu .... (1) Nguyễn Văn Hạnh) -Huỳnh Như Phương : Lý luận vãn học - vấn đế và suy nghĩ , đã dẫn . Trang 87. (1) G.N.Pospclov (thủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học .Tập II - Nhà xuất bản Giáo dục - 1985 .trang 103. 79 Các cách thức thể hiện ngôn ngữ đối thoại nổi trên nói chung đều thể hiện trọn vẹn ngôn ngữ đối đáp của các nhân vật và ít nhất lời nói của một nhân vật cũng phải từ hai dòng thơ trở lên . Trong Truyện Kiều , chúng tôi thấy chỉ có một đoạn thơ thể hiện ngôn ngữ đối thoại rất đặc biệt đảm bảo được sự "riêng biệt" "nhanh chóng" "luân phiên nhau" "thường không có tính trọn vẹn" của ngôn ngữ đối thoại, đó là đoạn Kim Trọng hỏi thăm láng giềng của Kiều về gia đình Kiều . Có lúc , Nguyễn Du đã rút gọn lời hỏi và lời đáp trong một dòng thơ , nhưng ý vẫn rất sáng rõ: Láng giềng có kẻ sang chơi, Lân la sẽ hỏi một hai sự tình. Hỏi ông, ông mắc tụng đình, Hỏi nàng , nàng đã bán mình chuộc cha. Hỏi nhà nhà đã dời xa, Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân, Đều là sa sút khó khăn, May thuê viết mướn ,kiếm ăn lần hồi. Nội dung của 8 dòng thơ này được bắt nguồn từ một câu kể ở trong Kim Vân Kiều Truyện, Kim Trọng " hỏi thăm láng giềng , họ mới đem việc Vương ông mắc nạn , Thúy Kiều bán mình ... kể rất tường tận để cho chàng hay, thì chàng hoảng hốt tái người"1TP37F(1) Từ dạng tường thuật của chủ thể kể chuyện vô hình ,Nguyễn Du đã chuyển thành ngôn ngữ đối thoại của Kim Trọng và những người hàng xóm,đây là sự sáng tạo của Nguyễn Du , thể hiện sự quan tâm tỉ mỉ cụ thể của Kim Trọng đối với gia đình Kiều. Ở đây chúng ta lưu ý một điều là, Nguyễn Du sử dụng thật thần tình câu văn vần lục bát . 4.2. Tính chất chủ quan và tính cụ thể xác định của lời kể chuyện: Dể tăng cường sức thuyết phục của lời kể Nguyễn Du để cho người kể chuyện vô hình cũng như tất cả các nhân vật tham gia kể chuyện, kể cụ thể , nói có sách mách có chứng, mỗi người có một ngôn ngữ kể riêng . Điều này đã tăng cường được tính chất chủ quan và tính cụ thể xác định của lời kể chuyện. Đây là một phẩm chất của lời kể chuyện hiện dại . (1) Phạm Đan Quế :Truyện Kiều đối chiếu, đã dẫn,trang 425. 80 Tính cụ thể xác thực được biểu hiện chủ yếu ở hai mặt. Thứ nhất: Người kể chuyện cũng như nhân vật trong Truyện Kiều sử dụng số từ rất nhiều. Điều này thể hiện nhân vật của Nguyễn Du tôn trọng sự chính xác tối đa . Đây cũng là một phẩm chất trong những phẩm chất của nhân vật văn học hiện dại, thể hiện cái tôi cá nhân của họ. Đặc điểm này của lời kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều không cổ ở trong lời kể của các truyện Nôm cùng thời với ông. Mở đầu Truyện Kiều, trong bản "lý lịch trích ngang" của Kiều trong 30 dòng thơ từ dòng 9 đến dòng 38 Nguyễn Du dã sử dụng tới 14 từ chỉ số lượng và chủ yếu là những từ chỉ số lượng như nhỏ: một, hai, bốn. Bốn phương phẳng lặng , hai kinh vững vàng Một trai con thứ rốt lòng Đầu lòng hai ả tố nga. Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một, tài đành họa hai Cung thương làu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một chương Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân Và việc sử dụng số từ trong ngôn ngữ kể chuyện hầu như không trang nào không có: một thì , một nấm , một vài nén hương, một bài . một lời , một vài thằng con con , một vùng , hai Kiều e lệ, một nền , mặn mà cả hai, bốn bề bát ngát xa trông , nửa tình , nửa cảnh, vâng trăng ai xẻ làm đôi,... Nếu kể về Kiều , những người tham gia kể chuyện chủ yếu dùng số từ chỉ số ít thì trong đoạn thơ kể về Kim Trọng đi tìm Kiều, họ có sử dụng số ít. nhưng đã bổ sung thêm từ chỉ số nhiều : "mười lăm", "nghìn" Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình Những từ sen ngó đào tơ Mười lăm năm ấy bây giờ là đây 81 Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần "mười lăm năm" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần , có tác dụng khác sâu một đoạn đời đau khổ của Kiều .Mở đầu Truyện Kiều là dòng thơ có từ chỉ số , kết thúc Truyện Kiều cũng là một dòng thơ có từ chỉ số. Trăm năm trong cõi người ta Mua vui cũng được một vài trống canh Điều này có lẽ là ngẫu nhiên, nhưng đặc điểm dùng từ chỉ số trong lời kể để tăng tính xác thực của con người và sự việc được kể là một điều không ngẫu nhiên chút nào. Mặt thứ hai thể hiện ý thức tăng cường tính xác thực trong lời kể đó là những người kể chuyện hay sử dụng đại từ chỉ thị: này, kia, ấy, nọ,... trong lúc kể chuyện. Đạm -Tiên nàng ấy xưa là ca nhi Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm Thiệt đây mà có ích gì đến ai Rằng : "Trăm năm cũng từ đây Của tin gọi một chút này làm ghi" - Cành thoa ấy ,bên trông đầu nọ,bên chờ cuối kia, ấy mới gan ấy mới tài, ngày hôm nọ giao binh, nọ chàng Kim đó,... Cách dùng đại từ chỉ thị này đã tăng tính cụ thể cho lời kể ,cho đối tượng được kể. Những đại từ chỉ thị này gợi mở tính chất động tác cho lời kể. hình như người kể đang đưa tay hay đưa mắt chỉ cho người nghe vị trí của đối lượng; tính sinh động của lời kể , do đó được nâng lên rõ rệt . Đây cũng là một cống hiến của Nguyễn Du cho nghệ thuật kể chuyện của dân tộc. Ngôn ngữ nhân vật kể chuyện trong Truyện Kiều mang đậm màu sắc chủ quan. Ngôn ngữ nhân vật tham gia kể chuyện bước đầu đã được cá tính hóa mỗi người đều có một ngôn ngữ riêng. Lời kể của Vương Quan là lời kể của một người có học vấn . Lời kể của Kiều là lời kể của một người từng trải, có ý thức sâu sắc về bản thân. Kiều kể cho mẹ nghe về Mã Giám Sinh, kể rất cụ thể. Xem gương trong bấy nhiêu ngày ... Khi về bỏ vắng trong nhà, 82 Khi vào dùng dắng , khi ra vội vàng. Khi ăn, khi nói lỡ làng, Khi thầy , khi tớ xem thường xem khinh. Còn Kiều kể cho bố mẹ và cả gia đình nghe về bản thân mình thì lại kể rất khái quát, né tránh kể cụ thể, vì "nói bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu". Đôxtôiépxki có nói : "có mội nguyên tắc quý giá : lời nói ra là bằng bạc, còn lời không nói ra thì bằng vàng"1TP38F(1) Kiều lúc nào kể kỷ , lúc nào kể lướt , điều đó có dụng ý của Kiều. Ngôn ngữ kể của các nhân vật trong Truyện Kiều không ai giống ai. Điều đó thể hiện tính chủ quan trong lời kể' của nhân vật , thể hiện sự cá tính hóa của ngôn ngữ lời kể chuyện . Và cái rõ nhất , có tính bao trùm thể hiện rõ tính chủ quan sáng tạo của Nguyễn Du là ông đã tạo ra một Thúy Kiều mới, một truyện thơ mới khác với Thanh Tâm Tài Nhân. 4.3. Chất thơ, chất trữ tình tràn trổ trong lời kể của người kể chuyện: Truyện Kiều là một truyện thơ, trong lời kể chuyện của nó có những đặc điểm thể hiện chất truyện và có những đặc điểm thể hiện chất thơ. Hai đặc điểm vừa nêu ở trên của lời kể chuyện nghiêng về thể hiện chất huyện, đặc điểm thứ ba này tập trung nói về chất thơ của lời kể chuyện. Có thể nói phẩm chất thơ của một tác phẩm thơ được thể hiện ở các mặt sau đây : Tình cảm mãnh liệt, trí tưởng tượng phong phú, phản ánh súc tích đời sống xã hội , ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu, cô đọng, hàm súc. Tài nhiên không thể bê những đặc điểm nói trên của tác phẩm thơ để đối chiếu với lời kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều xem lời kể chuyện của ông thể hiện chất thơ ở chỗ nào mà phải xem lời kể của người kể chuyện trong Truyện Kiều có chất thơ hay không. Lời kể của chủ thể kể chuyện trong Truyện Kiều thấm đẫm chất thơ. chất trữ tình , điều đó được thể hiện ở những điểm sau : Thứ nhất, đó là dòng trữ tình sâu nặng chảy xiết thể hiện trong giọng kể mà chúng ta đã nói ở phần giọng điệu. Với một tình cảm nồng cháy . chủ thể kể chuyện đã kể lại cuộc đời oan khổ của Kiều. Giọng kể buồn đau chiêm nghiệm của người kể chuyện bao trùm toàn tác phẩm là nhân tố cơ bản tạo ra chất thơ của lời kể chuyện. Thứ hai, chất thơ , chất trữ tình của lời kể còn được thể hiện ở những tâm hồn nhân vật giàu chất thơ được hiện lên từ lời kể của chủ thể kể chuyện. Kiều của Nguyễn Du là nhân vật tâm trạng, luôn luôn sống trong những xúc dộng mãnh liệt ở những thời điểm bước ngoặt của (1) Dẫn theo Ti mô phê ép : Nguyên lý lý luận văn học, Tập II . Nhà xuất bản văn hóa -1962 . Trang 100. 83 cuộc đời. Người kể chuyện đặt điểm nhìn trần thuật từ tâm hồn nhân vật , vì vậy, kể về nhân vật có cảm xúc mãnh liệt, đòi hỏi ngôn ngữ của người kể chuyện phải kể, tả theo màu sắc của tâm hồn nhân vật: cũng có lúc không phân biệt được đấy là lời nhân vật hay lời người kể chuyện , điều này đã tạo ra chất thơ của lời kể chuyện. Thứ ba , chất thơ, chất trữ tình của lời kể chuyện được thể hiện ở lời kể thấm đẫm cảm xúc, ở tính biểu cảm cao, ở tính chất cách diệu hoá, ở đặc điểm giàu hình ảnh, nhạc điệu, cô đọng hàm súc của ngôn ngữ người kể chuyện. Có thể đưa bất kỳ một đoạn thơ nào của Truyện Kiền để chỉ ra những phẩm chất liên của ngôn ngữ người kể chuyện , ở đây chúng tôi xin nói tới việc hình ảnh ảo, màu sắc ảo trong lời kể. Màu hồ đã mất đi rồi. Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Một màu quan tái, bốn mùa gió trăng. Mùi thiền đã bén muối dưa Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng. ... Những hình ảnh ảo, màu sắc ảo nổi trên trong lời kể của Nguyễn Du là một hiện tượng hiếm hoi đương thời, thể hiện sự liên tưởng sâu sắc và trí tưởng tượng kỳ diệu của nhà thơ, nó làm cho hình ảnh hoặc tình cảm được thể hiện trở nên lung linh kỳ diệu. Thúc Sinh chia tay Kiều trở về Vô Tích với Hoạn Thư , người kể chuyện đã kể về cuộc chia tay này : Người lên ngựa , kẻ chia bào, Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san Dặm hồng bụi cuốn chinh an, Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh. Kim Vân Kiều Truyện không có đoạn kể truyện tương ứng . Tình cảm của Thúc và Kiều đã được thể hiện trong màu quan san trong con mắt của họ. Ở đây Nguyễn Du đã tả cảnh mùa thu theo con mắt. theo tâm trạng của hai nhân vật dang chia tay nhau, hình như họ linh cam thây một diều gì đó qua cái màn biệt ly này. Màu quan san là màu không có thật, đó chỉ 84 màu của lâm trạng ; tâm trạng chia ly được gợi ra từ hình ảnh cửa ải ở trên núi, nơi của ải biên cương là nơi ly biệt. Tình cảm vợ chồng quyến luyến và một dự cảm mông lung nào dó về bước đời mới của hai người không được thuận buồm , xuôi gió dược hiện lên lung linh qua sắc ảo này. Phải có trí tưởng tượng kỳ diệu, phải có sự liên tưởng sâu sắc mới tạo được những hình ảnh ảo có giá trị nghệ thuật. Vì vậy, hình ảnh ảo, màu ảo trong lời kể của người kể chuyện là một biểu hiện của chất thơ của người kể chuyện . Đọc những dòng thơ trên của Nguyễn Du , chúng ta như được gợi lại những hình ảnh không hiếm hoi gì của thơ mới Việt Nam(1930 - 1945) Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. ( Xuân Diệu - Vội vàng) Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang (Xuân Diệu - Dây mùa thu tới) Phải nói rằng, những hình ảnh của sự chuyển đổi cảm giác trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một cống hiến độc đáo của ông so với những người đương thời về mặt nghệ thuật kể chuyện . Đó là một biểu hiện của việc cá tính hoá ngôn ngữ kể chuyện đó cũng là một biểu hiện của tính hiện đại trong lời kể chuyện của Nguyễn Du. 4.4. Ngôn ngữ kể chuyện của Truyện Kiều giàu sắc thái dân gian: Ngôn ngữ kể chuyện của Truyện Kiều trước hết là ngôn ngữ của một trí thức bậc cao - Nguyễn Du - dùng để kể lại , mặc dù rất sáng tạo, câu chuyện đã được kể trong một cuốn tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc . Chất bác học trong ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Du là tất yếu. Trong phần này chúng tôi xin bàn đến chất dân gian trong lời kể của người kể chuyện trong Truyện Kiều. Tính chất dân gian trong ngôn ngữ kể chuyện của Truyện Kiều trước hết được thể hiện ở việc sử dụng tục ngữ , thành ngữ , ca dao trong lời kể. Theo Giáo Sư Hoàng Hữu Yên "có hai trăm trường hợp ca dao, dân ca và Truyện Kiều chịu ảnh hưởng lẫn nhau" và "gần một trăm trường hợp tục ngữ , thành ngữ dân gian và Truyện Kiều xâm nhập lẫn nhau "1TP39F(1) (1) Hoàng Hữu Yên - Nguyễn Lộc : Văn Học Việt Nam (Thế kỷ XVIII. nửa đầu thế kỷ XIX), Nhà xuất bản Giáo dục - Hà Nội 1962 , Trang 323 . 85 Nguyễn Du sử dụng thành ngữ rất linh hoạt trong lời kể của mình, có khi ông sử dụng nguyên , có lúc ông sửa đổi , và đặc biệt "Nguyễn Du đã sáng tạo thêm một số thành ngữ 1TP40F(2)P1T. Ví dụ : Liệu mà cao chạy xa bay Khéo là mặt dạn mày dày Mạt cưa mướp đắng, đôi bên một phường Ra tuồng mèo mã gà đồng .... Ca dao, tục ngữ cũng được Nguyễn Du sử dụng trong lời kể của mình: Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi Vầng trăng ai xẻ làm đôi Trùm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai ... Việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ , ca dao đã tăng chất dân gian cho lời kể rất rõ rệt . Việc sử dụng ngôn ngữ sinh hoạt đời thường, dân dã khi kể chuyện cũng là một biểu hiện của tính chất dân gian. Những hình ảnh, tiếng nói của đời thường được sử dụng hợp lý trong lời kể sẽ có tác dụng bộc lộ bản chất nhân vật và sự kiện được kể đồng thời bộc lộ được thái độ của người kể. Ví dụ , Nguyễn Du dùng hình ảnh "ruồi xanh", "đầu trâu mặt ngựa" để nói về bọn sai nha ; dùng từ "mặt mo" để nói về Sở Khanh, ... Trong lời kể của Kiều có những từ ngữ dân dã : "muối dưa", "nâu sồng", "gió sương", "bướm chán, ong chường". ... Ngay Hoạn Bà , phu nhân của một Lại bộ Thượng thư cũng dùng ngôn ngữ dân dã để nói về Kiều : "phường trốn chúa", "quân lộn chồng'", "quen thân",... Tính chất dân gian của lời kể còn được thể hiện ở việc người kể chuyện sử dụng những biện pháp tu từ quen thuộc của văn học dân gian trong lời kể của mình : so sánh, ngoa dụ, lộng ngữ, điệp ngữ, ẩn dụ,... Từ sự phân tích liên chúng ta có thể khẳng định : Lời kể của người kể chuyện trong Truyện Kiều là lời kể có tính văn học cao, là lời kể vừa có chất thơ , chất truyện và chất dân gian đậm đà. Đó là thứ ngôn ngữ kể chuyện bước đầu đã có cá tính hóa, mang đậm màu sắc (2) Lê Trí Viễn - Phan Côn - ... Lịch sử Văn Học Việt Nam - Tập III , Nhà xuất bản Giáo dục, 1976 . Trang 179 86 chủ quan mang đậm sắc thái tình cảm. Nguyễn Du thực sự đã có những đổi mới về mặt lời kể so với những tác phẩm truyện Nôm đương thời. Lời kể chuyện của Nguyền Du trong Truyện Kiều đã có một số đặc điểm của lời kể chuyện trong truyện hiện đại. 87 PHẦN KẾT LUẬN Nếu chỉ xét riêng về mặt nghệ thuật kể chuyện trong Truyện Kiều , Nguyễn Du thực sự đã xứng đáng là một nhà văn cách tân trong văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX. Nguyễn Du thực sự đã là nhà văn có nhiều điểm mới so với thời đại của ông. Trước hết , những thành tựu về mặt nghệ thuật kể chuyện của ông trong Truyện Kiều đã xác nhận điều đó . Về mặt chủ thể kể chuyện , từ một chủ thể trần thuật trong truyện nôm truyền thống ,Nguyễn Du đã sáng tạo được một cách kể mới với nhiều chủ thể kể chuyện cùng tồn lại.Nguyễn Du vẫn giữ lại vai trò của người kể chuyện vô hình của truyện nôm truyền thống , ông thêm hai loại chủ thể kể chuyện mới , tồn tại ở hai phương thức mới: thứ nhất , nhân vật của tác phẩm kể về nhân vật khác của tác phẩm; thứ hai, nhân vật tự kể chuyện của mình . Ba loại chủ thể kể chuyện này mỗi hình thức một vẻ, nhưng có một điểm chung: người kể phải chịu trách nhiệm về lời kể của mình , tính chất cá nhân của chủ thể kể được khẳng định. Người kể chuyện vô hình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và người kể chuyện vô hình trong truyện nôm đương thời có khác nhau .Hình tượng người kể chuyện vô hình trong Truyện Kiều nhân danh mình mà kể , còn người kể chuyện vô hình trong truyện nôm đương thời nhân danh tập thể , nhân danh "cái ta chung" để kể . Chính điều đó đã tạo ra tính chất chủ quan ,tính chất phong phú , sinh động và tạo được sự hấp dẫn cho câu chuyện, tránh được cái nhìn một chiều , trành được tính chất đơn điệu trong cách kể. Nguyễn Du cũng đã sáng tạo được một cách kể mới trong Truyện Kiều . Nguyễn Du đã đơn giản hóa sự kiện , hành động để tập trung cho nhân vật chính .Có nhiều lý do buộc Nguyễn Du phải làm điều này, trong đó lý do cơ bản là Nguyễn Du muốn thể hiện con người đa diện, con người được hiện hữu cả hành động bên ngoài lẫn hành dộng bên trong, có ưu điểm và khuyết điểm ,có quá trình phát triển trong không gian và thời gian cụ thể .Vì vậy Nguyễn Du không thể miêu tả nhiều sự kiện, hành động mà chỉ tập trung cho nhân vật chính. Trong lúc tập trung cho nhân vật chính, Nguyễn Du chú ý miêu tả tâm trạng, tức là một nửa của con người nước đây đã bị bỏ rơi .không được thể hiện trong truyện nôm .Vì thế ông phải bớt kể, tăng miêu tả, độc thoại. Trong quá trình kể, Nguyễn Du tập trung kể về con người trong những biến cố của cuộc đời họ, từ đó làm nổi lên được sự lựa chọn của nhân vật, làm hiện rõ được cái tôi của nhân vật trong những bước đời, nói chung là khổ đau bất hạnh của họ . 88 Nguyễn Du cũng đã có sự đóng góp mới về mặt giọng kể. Câu chuyện không còn được kể theo giọng trung tính vốn có trong truyện nôm đương thời mà được kể với giọng có hồn ,đó là giọng kể thể hiện sự đánh giá nhận xét và bộc lộ cảm xúc của người kể chuyện.Với Nguyễn Du, giọng kể đã thực sự trở thành một phương thức để phản ánh,đánh giá con người và cuộc sống, giọng kể đã trở thành một nguồn hấp dẫn thẩm mỹ đối với người đọc. Mỗi một chủ thể kể chuyện có một giọng kể riêng trong từng trường hợp cụ thể. Lời kể của Nguyễn Du trong Truyện Kiều gọn gàng cụ thể, chính xác,đậm đà chất trữ tình và chất dân gian. Nguyễn Du đã sử dụng thành thục câu văn vần lục bát trong lời kể chuyện. Như vậy, Nguyễn Du đã có một nghệ thuật kể chuyện khá mới mử so với thời đại của ông. Với Truyện Kiều một loại nhân vật văn học mới đã được xuất hiện, đó là con người có cuộc sống nội tâm phong phú. phức tạp, con người vận động trong không gian và thời gian cụ thể. Điểm thứ hai :thể hiện rõ tư cách nhà văn có nhiều điểm mới. có những điểm cách tân so với thời đại của Nguyễn Du đối với thời đại đương thời, đó là những kết quả ông đã tạo ra trong đời sống văn học từ nghệ thuật kể chuyện của ông trong Truyện Kiều. Lâu nay nhiều người nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều chỉ tập trung tìm hiểu bản thân Truyện Kiều chứ chưa quan tâm đầy chì tới tác động của Truyện Kiều đối với đời sống văn học dân tộc. Mặt khác khi tìm hiểu về Nguyễn Du, nhiều người còn nặng về việc xem ông như một công dân ; chứ chưa tập trung nghiên cứu ông như một nghệ sĩ. Người la tìm hiểu con người chính trị trong Nguyễn Du , Nguyễn Du có hoài Lê hay không hoài Lê , Nguyễn Du có ủng hộ Tây Sơn hay không ?... Điều này không sai, nhưng phiến diện vì nó gần như bỏ mất vai trò nhà văn có nhiều điểm cách tân của Nguyễn Du. Nguyễn Du đã có cống hiến rất lớn cho văn học dân tộc , cho việc góp phần hiện dại hóa văn học dân lộc. Bằng thực tế sáng tác, bằng hiệu quả sáng tác, Nguyễn Du đã đề xuất ,dưới dạng hàm ẩn, cho đời sống văn học nhiều văn đề quan trọng. Với Truyện Kiều ,Nguyễn Du đã xác lập được những yêu cầu của phương pháp kể chuyện mới, thể hiện trước hết trong tính chủ quan của người kể chuyện . Bản thân nghệ sĩ không thể sáng tác nếu như bản thân anh ta không tồn tại như một cá nhân, có "cái tôi" sâu sắc. có phong cách cá nhân độc đáo.Vai trò cá nhân của nhà văn rất quan trọng. họ phải thực sự chịu trách nhiệm cá nhân về tiếng nói của họ ở trong tác phẩm văn học. 89 Tác phẩm của Nguyễn Du đã thỏa mản được một nhu cầu thẩm mĩ mới và đồng thời đã tạo ra một loại công chúng văn học mới theo luật giao tiếp văn học. Dù ông có thể không ý thức đầy đủ , về khách quan Nguyễn Du cũng thực sự là một nhà văn có nhiều điểm mới so với thời đại ông. Đó là cống hiến lớn lao của Nguyễn Du vào quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc . 90 PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: Nhân vật của tác phẩm tham gia kể về nhân vật khác trong truyện Kiều của Nguyễn Du Stt NGƯỜI KỂ NỘI DUNG KỂ CHỦ YẾU SỐ DÒNG THƠ 1 Vương Quan Kể về Đạm Tiên cho Kiều nghe 19 dòng, từ dòng 62 - 80 2 Vương Thúy Kiều Kể về Mã Giám Sinh cho Vương bà 14 dòng, từ dòng 877 - 3 Đạm Tiên Nói về số phận của Kiều trong giấc mộng của Kiều sau hội Đạp Thanh 12 dòng, từ dòng 193 - 204 4 Đạm Tiên Nói về số phận của Kiều trong giấc mộng của Kiều lúc Kiều tự tử ở nhà Tú 6 dòng, từ dòng 995 - 1000 5 Mã Kiều Kể về Sở Khanh cho Kiều nghe 10 dòng, từ dòng 1157 - 6 Đạo sĩ Kể về Kiều cho Thúc Sinh nghe 7 dòng, từ dòng 1692 - 7 Giác Duyên Nói về số phận của Kiều cho Kiều 10 dòng, từ dòng 2403 - 8 Tam Hợp đạo cô Nói về số phận của Kiều cho Giác Duyên nghe 38 dòng, từ dòng 2655 - 2676 và từ dòng 2679 - 9 Đạm Tiên Nói về số phận Kiều trong giấc mộng của Kiều lúc Kiều tự tử ở sông Tiền 12 dòng, từ dòng 2713 - 1724 10 Vương ông Kể về Kiều cho Kim Trọng nghe 17 dòng, từ dòng 2776 - 11 Ông già họ Đô Kể về Kiều cho Kim Trọng nghe 26 dòng, từ dòng 2887 - 12 Thúc Sinh Kể về Kiều cho Kim Trọng nghe 10 dòng , từ dòng 2917 - 13 Người dân vô danh ở Hàng Châu Kể về Kiều cho Kim Trọng nghe 6 dòng, từ dòng 2959 - 2964 14 Giác Duyên Kể về Kiều cho gia đình Vương ông và Kim Trọng nghe 8 dòng, từ dòng 2985 - 2992 91 PHỤ LỤC II: Vương Thúy Kiều tự kể chuyện mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Stt NỘI DUNG KỂ CHỦ YẾU SỐ DÒNG THƠ 1 Kiều kể về mình cho Sở Khanh nghe 2 dòng, từ dòng 1081 - 1082 2 Kiều kể cho Kim Trọng nghe về ông thầy tướng đoán số cho Kiều lúc Kiều còn nhỏ 2 dòng. từ dòng 415-416 3 Kiều kể cho Từ Hải nghe về cuộc đời mình 4 dòng, từ dòng 2291 - 2294 4 Kiều kể về 15 năm lưu lạc của mình cho gia đình cha mẹ và Kim Trọng nghe tại am Vân Thủy 4 dòng, từ dòng 3019 - 3022 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Đào Duy Anh : Khảo luận về Truyện Kiều Nhà xuất bản văn hóa, Hà nội 1958 2- Đào Duy Anh : Từ điển Truyện Kiều. Nhà xuất bản KHXH , Hà nội 1974 3- Trần Văn Bính-Nguyễn Xuân Nam-Hà Minh Đức : Cơ sở lý luận văn học. tập III,( loại thể văn học). Nhà xuất bản giáo dục -1970 4- Bích câu kỳ ngộ-Thi Nham Định Gia Thuyên( hiệu đính và chú thích), Sách giáo khoa Tân việt- Sài gòn . 5- M.Ba khtin: Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du Nhà xuất bản- Hà nội 1992 6- Nguyễn Sĩ Cẩn : Mấy vấn đề phong cách giảng dạy thơ văn cổ Việt Nam -Nhà xuất bản Giáo dục -1984. 7- Đặng Trần Côn (Nguyên bản hán văn), Đoàn thị Điểm (Diễn ca): Chinh phụ ngâm khúc Sách giáo khoa Tân Việt -Sài gòn. 1973. 8- Đồ Chiểu: Lục Vân Tiên . Sách giáo khoa Tân Việt -Sài gòn. 1973 9- Xuân Diệu :Các nhà thơ cổ điển Việt Nam Nhà xuất bản văn học 1987 10- Nguyễn Du : Kim Vân Kiều (Bùi Khánh Diễn chú thích). nhà xuất bản, Sống mới- Sài gòn, 1960 11- Nguyễn Du : Truyện Thúy Kiều ( Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo) Sách giáo khoa Tân Việt -Sài gòn. 12- Nguyễn Du :Truyện Kiều . Hà Huy Giáp giới thiệu, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và giới thiệu Nhà xuất bản ĐH và THCN, Hà Nội 1972 13- Nguyễn Du: Thơ chữ Hán .Nhà xuất bản văn học -1978 14- Trần Thanh Đạm : Phương pháp giảng dạy văn học theo loại thể. Trường SP 10+3 Nam Hà.-Xuất bản (lưu hành nội bộ trong các trường Sư phạm)- 1974 15- Trần Thanh Đạm - Huỳnh Lý - Hoàng Như Mai - Phan Sĩ Tấn - Đàm Gia Cẩn :Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể. Nhà xuất bản Giáo dục .Hà Nội - 1971. 16- Hà Minh Đức (chủ biên):Lý luận văn học Nhà xuất bản giáo dục 1995 17- Hà Minh Đức : Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt nam hiện đại. Nhà xuất bản KMXH -Hà nội 1974 93 18- Đường Thi (Trần Trọng Kim tuyển dịch) - Nhà xuất bản văn hóa thông tin-1995 19- N.A. Gu lai cp : Lý luận văn học. Nhà xuất bản ĐH và THCN, Hà nội 1982 20- M. Gorki : Bàn về văn học (2 tập) Nhà xuất bản văn học - Hà nội -1970 21- Nguyễn Thị Bích Hải : Thi pháp thơ Đường, Nhà xuất bản Thuận hoá Huế- 1995 22- Lê Bá Hán- Lê Minh Đức: Cơ sở lý luận văn học ,tập II ( Tác phẩm văn học). Nhà xuất bản giáo dục Hà nội 1990 23- Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương: Lý luận văn học - vấn đề và suy nghĩ. Nhà xuất bản giáo dục -1995. 24- Ôn Như Hầu: Cung oán ngâm khúc . Sách giáo khoa Tân Việt -Sài gòn. 25- Tố Hữu : Tác phẩm Tố Hữu ( Thơ) . Nhà xuất bản giáo dục- Hà nội 1997 26- Diên Hương: Tự điển Thành ngữ Điển tích. Nhà Sách khai trí, Sài gòn , 1969. 27- Bửu Kế : Tầm nguyên từ điển. Nhà xuất bản Nam cường - 1955 28- Quan Âm Thị Kính ( Thi nham Đinh gia Thuyết đính chính và chú thích). Sách giáo khoa Tân Việt -Sài gòn. 29- Đỗ Văn Khang (chủ biên): Mỹ học đại cương . Nhà xuất bản giáo dục -1997 30- Nguyễn Thị Dư Khánh: Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp Nhà xuất bản giáo dục- 1995 31- Đinh Gia Khánh (chủ biên): Điển cổ văn học. Nhà xuất bản: KHXH. Hà nội 1977 32- M.B. Khaplrenkô: Cá tính sáng lạo cùa nhà văn và sự phát văn học Nhà xuất bản tác phẩm mới Hà nội 1978. 33- M.B. Khaptrenkô:Sáng tạo nghệ thuật. hiện thực, con người- Nhà xuất bản KHXH, Hà nội 1984 34- Lê Đình Kỵ: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực - Hội nhà văn TP Hồ chí Minh 1992. 35- l.S.Lisevich : Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh - xuất bản. 1993. 36- Đặng Thanh Lê: Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm. Nhà .xuất bản KHXH.Hà nội 1979 94 37- Nguyễn Lộc: Văn học Việt Nam. (Nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX) tập II. Nhà xuất bản ĐH vàTHCN- Hà nội -1978. 38- Nguyễn Lộc- Phan Nhật Chiêu-Trần Xuân Đề - Lê Ngọc Trà-Lương Duy Trung:Văn học 10. tập II. Nhà xuất bản giáo dục 1973. 39- Phạm Luận - Đặng Thanh Lê - Lê Trí Viễn : Tư liệu tham khảo văn học Việt nam- (tập III) (Giai đoạn giữa thế kỷ XVIII-1858). (Tư liệu lưu hành nội bộ ĐHSP - Hà nội- 1967). 40- Phim Trọng Luận : Phím tích tác phẩm văn học trong nhà trường. Nhà xuất bản giáo dục - 1977 41- Phan Trọng Luận - Cảm thụ Văn học - Giảng dạy văn học Nhà xuất bản Giáo dục 1983 42- Phương Lựu: về quan niệm Văn chương cổ Việt nam- Nhà xuất bản giáo dục - 1985. 43- Lục súc tranh công- Ưu thiên Bùi Kỷ( hiệu đính), Sách giáo khoa Tân việt -Sài gòn. 44- Nguyễn Đăng Mạnh - Con đường đi vào thế giới nghệ thuật Nhà xuất bản Giáo dục 1994 45- C.Mác-Ph Ăng ghen-V.I.Lê Nin: Về văn học và nghệ thuật. Nhà xuất bản sự thật, Hà nội, 1977. 46- M A R.Nauđôp : Tâm lý học sáng tạo văn học . Nhít xuất bỉm Víìn học , llíì nôi 1978. 47- Phan Ngọc: Tim hiếu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Nhà xuất bản khoa học xã hội - Hà nội - 1985 48- Phùng Quý Nhâm - Thẩm định văn học Nhà xuất bản Văn nghệ TP Hồ Chí Minh 1991 49- Nhị Độ Mai Nhà xuất bản văn học 1994 50- G.N.Pospelov( chủ biên):Dẫn luận nghiên cứu Văn học tập Nhà xuất bản giáo dục - 1985. 51- Nguyễn Khắc Phi - Lương Duy Thứ: Văn học Trung Quốc, tập II. Nhà xuất bản giáo dục 1988. 52- Phạm Đan Quế-Truyện Kiều đối chiếu, Nhà xuất bản Hà nội -1971 . 95 53- Đoàn Quốc Sĩ- Việt Tú: Khảo luận về Đoạn Trường Tân Thanh. Nam sơn xuất bản - Sài gòn 54- Trần Đình Sử: Một số vấn đề thi pháp học hiện đại. Hà nội 1993. 55- Trần Đình Sử: Giáo trình thi pháp học TP Hồ Chí Minh, 1993 56 - Trần Định Sử: Thi pháp thơ Tố Hữu . Nhà xuất bản tác phẩm mới ,1987 57- Trần Đình Sử: Những thế giới nghệ thuật thơ . Nhà xuất bản giáo dục - Hà nội - 1995 58- Tập nghị luận và phê bình vãn học -chọn lọc. (Đỗ Quang Lưu -Tuyển chọn và giới thiệu)- (Tập I) Nhà xuất bản giáo dục -Hà nội 1973. 59- Hoài Thanh - Hoài Chân : Thi nhân Việt nam Nhà xuất bản Văn học 1993. 60- Lê Tử Thành : Lô gic học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Nhà xuất bản Trẻ 1995 61- Đường Thi (Trần Trọng Kim tuyển dịch)- Nhà xuất bản văn hóa thông tin-1995. 62- Đoàn Thêm - Quan niệm và sáng tác thơ Viện Đại học Huế 1962 63- T Séc nư sépxki : Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật đối với hiện thực. Nhà xuất bản Văn hoá Nghệ thuật. Hà Nội - 1962. 64- Lương Duy Thứ: Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Nhà xuất bản khoa học xã hội, Nhà xuất bản Mũi Cà mau- 1996 65- Ti môphiep: Nguyên lý lý luận văn học ( Tập I,II) Nhà xuất bản văn hóa, 1962. 66- Lê Ngọc Trà : Lý luận và văn học - Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ chí Minh 1990 67- Lê Ngọc Trà ( Chủ biên)- Lâm Vinh- Huỳnh Như- Phương Mỹ học đại cương. Nhà xuất bản văn hóa thông tin -1994 68- Lưu Đức Trung giáo trình văn học Ấn độ (ĐHSP hà nội Hà nội 1984 69- Lưu Đức Trung - Đinh Việt Anh: Vũ học Ấn Độ - Lào - Cam pu chia Nhà xuất bản giáo dục 1989 70- Nguyễn Văn Trung: Lược khảo văn học. ( Ngôn ngữ văn chương và kịch .) Nam sơn xuất bản, Sài gòn 1965. 96 71- Đổ Minh Tuấn : Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều Nhà xuấl bản văn hóa thông tin , Hà nội 1995 72- Văn (nghiên cứu và phê bình văn học) Số đặc biệt tưởng niệm Nguyễn Du.Sài gòn 1967 73- Lê Trí Viễn : Đặc điểm có tính quy luật của lịch sử văn Việt nam Trường ĐHSP TP Hồ chí Minh- 1984. 74- Lê Trí Viễn: Những bài giảng văn ở đại học. Nhà xuất bản giáo dục 1982. 75- Lê Trí Viễn - Phan Côn - Đặng Thanh Lê- Phan văn Luật Lê Hoài Nam:Lịch sử Văn học Việt nam (tập III) Nhà xuất bản giáo dục 1976. 76- Hoàng Hữu Yên -Nguyễn Lộc: Văn học Việt Nam (Nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX) Nhà xuất bản giáo dục Hà nội 1962 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5484.pdf
Tài liệu liên quan