Ngành Dệt May VN trên con đường hội nhập

Lời mở đầu Ngành công nghiệp Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt Nam. Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người, là ngành giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội và đặc biệt nó là ngành có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu của đất nước.Trong quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá hiện nay, ngành Dệt may đang chứng tỏ là một ngành mũi nhọn trong

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1618 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Ngành Dệt May VN trên con đường hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền kinh tế được thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trong mấy năm gần đây, các thị trường luôn được rộng mở,số lao động trong ngành ngày càng nhiều và chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành công nghiệp, giá trị đong góp của ngành vào thu nhập quốc dân… Tuy nhiên trong quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế và những biến động của môi trường kinh tế , ngành Dệt may đang đứng trước những khó khăn và thách thức mới cho sự phát triển. Với mục đích tim hiểu những vấn đề lớn liên quan đến ngành trong giai đoạn hiện nay và thử tìm một số giải pháp để khác phục những vấn đề đó, em đã quyết định lựa chọn đề tài : “Ngành Dệt May Việt Nam trên con đường hội nhập”. Bài viết được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Th.s Mai Xuân Được. Đây là một bài viết với vấn đề được đề cập tương đối rộng nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong được sự góp ý của mọi người. Nội dung bài viết được chia làm hai phần: -Phần một: Thực trạng ngành Dệt May Việt Nam. -Phần hai: Định hướng phát triển công nghiệp Dệt May Việt Nam. I. Thực trạng ngành dệt may việt nam 1.1 Thị trường dệt may Trong hơn 10 năm qua, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân 23.8%/ năm, vươn lên đứng thứ 2 trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Nếu như năm 1990 hàng dệt may Việt Nam mới chỉ có mặt ở gần 30 nước trên thế giới thì đến nay đã hiện diện ở hầu khắp các châu lục với trên 100 nước và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng. Năm 1998 xuất khẩu hàng dệt may đạt 1,45 tỷ USD, tới năm 1999 đã tăng lên 1,76 tỷ USD và năm 2000 xuất gần 1,89 tỷ USD, gấp 16 lần so với năm 1990. Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt 2,7 tỷ USD, tăng 30,7% so với năm 2001, vượt kế hoạch 12,5%. Năm 2003 là 3,6 tỷ USD và vượt hơn 400 triệu USD so với mục tiêu đề ra, điều này không chỉ góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu nói chung của cả nước tăng 20% mà còn tạo cở sở vững chắc cho sự tăng trưởng xuất khẩu cho những năm sau. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua các năm Đơn vị : triệu USD Thị trường xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may nước ta hiện nay là Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU. *Thị trường EU Hàng dệt may chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU Từ năm 1993, EU dành cho Việt Nam điều kiện xuất khẩu hàng dệt hàng năm và từng đợt điều chỉnh tăng hạn ngạch. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng từ 1991 đến nay. Trị giá xuất khẩu trong các năm 1991 đến 2001 tăng lên 21 lần. Tăng trưởng liên tục hàng năm: năm thấp nhất (1993) cũng tăng 5,3%, các năm cao đạt 77,6% (1994 và 1997), 87,6% (1995). Bên cạnh đó EU là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam về hàng may mặc (40% xuất khẩu may mặc của Việt Nam). Từ trước đến nay hàng này được EU cấp hạn ngạch, tăng số lượng hàng năm. Tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 38%. EU và Việt Nam đã ký hiệp định xuất khẩu may mặc của Việt Nam thời kỳ 1998-2000, tăng 31% so với 1992-1997. Việt Nam sử dụng cả hạn ngạch của EU cấp cho Singapore, Indonesia, Philipin. Giai đoạn 2001-2002 EU tăng hạn ngạch cho Việt Nam với 16 mã hàng may mặc xuất khẩu sang EU. Tỷ trọng hàng dệt may Việt Nam giữ mức 15-16% kim ngạch xuất khẩu. Năm 1999 xuất khẩu hàng này đạt 700 triệu USD. Các nước nhập khẩu lớn là Đức, Pháp, Hà Lan, Anh. Nhiều nước đặt gia công may mặc cho Việt Nam (Đức, Pháp …) Kim ngạch xuất khẩu dệt may vào EU Đơn vị: triệu USD *Thị trường Nhật Bản Nhật Bản là một thị trường mở, có quy mô tương đối lớn đối với các nhà xuất khẩu hàng may mặc nước ngoài, là nước nhập khẩu hàng may mặc lớn thứ 2 trên thế giới với số dân 126,9 triệu người và mức thu nhập bình quân hàng năm 30.039USD/người. Tuy nhiên, việc mua sắm của người Nhật Bản đối với các sản phẩm may mặc khác với thị trường Mỹ, EU. Người tiêu dùng Nhật Bản chịu tác động rất mạnh bởi các phương tiện thông tin đại chúng như các loại tạp chí, phim ảnh. Nếu như có một mẫu mốt mới xuất hiện ở Newyork, Milan, Pari hoặc Tokyo thì các phương tiện thông tin về thời trang đều đưa tin cập nhật đến mẫu mốt đó, làm thay đổi sở thích tiêu dùng hàng may mặc rất nhanh. Trong khi đó, hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chỉ mới đáp ứng được một cách tương đối hai yêu cầu, đó là giá cả và chất lượng. Còn yêu cầu về kiểu dáng thì kiểu dáng hàng may mặc Việt Nam rất nghèo nàn, không đa dạng do ngành công nghiệp thiết kế thời trang trong nước chưa phát triển, về nhãn mác chỉ người tiêu dùng trong nước mới biết đến nhãn mác các sản phẩm may Việt Nam. Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 105.7 58.4 104.1 210.5 309.5 325 321 417 620 592 480 Đơn vị : triệu USD Nhật Bản là thị trường phi hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đứng thứ 4 trong các nước có hàng may xuất khẩu vào Nhật Bản. Các sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu là hàng may mặc như Jacket, quần áo thể thao, quần âu, sơ mi, quần áo lót, quần áo dệt kim…. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản hàng năm đến năm 2000 đạt cao nhất (620 triệu USD), sau đó đến năm 2001 lại giảm 5%so với năm 2000 còn 592 triệu USD. Theo số liệu mới nhất của Bộ Thương mại thì năm 2002, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản đạt dưới 500 triệu USD, giảm 20% so với năm 2001. Nguyên nhân chính là do sức ép cạnh tranh của hàng Trung Quốc có chất lượng, mẫu mã đa dạng và giá rẻ, hiện đã chiếm tới gần 90% thị phần hàng may mặc nhập khẩu của Nhật Bản. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ nghĩ tới việc thay đổi mẫu mã sản phẩm khi chu kỳ sống của sản phẩm đó đã bước sang giai đoạn thoái trào, hàng không bán được nữa. Còn xuất khẩu cả năm qua cũng giảm 1,8% so với năm 2002. *Thị trường Hoa Kỳ Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ: năm 1998 đạt 26.4 triệu USD, năm 1999 đạt 48 triệu USD, năm 2000 đạt 60 triệu USD, năm 2001 đạt 49 triệu USD. Năm 2001 Việt Nam và Hoa Kỳ đã thiết lập quan hệ thương mại trở lại bằng việc ký kết một hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ. Có thể nói đây là một cơ hội mới rất tốt cho thương mại của Việt Nam, trong đó có ngành may mặc. Bởi Hoa Kỳ được xếp là nước có lượng nhập khẩu hàng may mặc lớn nhất trên thế giới, thêm vào đó trong thời gian đầu Mỹ không áp dụng quator cũng như việc mức thuế sẽ giảm từ 40% xuống còn 20% sau khi hiệp định thương mại có hiệu lực. Sau một năm thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, hàng dệt may vươn lên đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may tăng lên tới 1,9 tỷ USD. Các mặt hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ cũng đa dạng hơn so với trước. Tháng 1 năm 2001, Việt Nam mới chỉ có khoảng 17 chủng loại có kim ngach xuất khẩu đáng kể nhưng đến tháng 7 năm 2002 đã có đến 42 chủng loại khác nhau xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Đồng thời tỷ trọng của hàng dệt may trong tổng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng lên rõ rệt. Năm 2001 hàng dệt may chỉ chiếm 4,7% tổng xuất khẩu của Việt Nam thì đến tháng 7 năm 2002 đã lên đến 24,2%, chỉ đứng sau nhóm hàng hải sản, vượt qua các nhóm hàng truyền thống là khoáng sản và giầy dép. Mặc dù có sự đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, nhưng tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may tập trung chủ yếu vào các loại quần áo dệt kim và dệt thoi, các mặt hàng khác chiếm tỷ trọng không lớn. 1.2 Thiết bị công nghệ ngành Dệt may. Thiết bị công nghệ ngành Dệt may Việt Nam vừa lạc hậu vừa thiếu đồng bộ, sản phẩm làm ra không có năng lựccạnh tranh. Theo chương trình phát triển Liên hợp quốc ngành Dệi may Việt Nam đang ở trình độ 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 3-3 thế hệ. Điều này làm cho năng lực sản xuất của ngành Dệt may còn nhiều hạn chế. Máy móc thiết bị ngành Dệt phần lớn là cũ kỹ, lạc hậu và có xuất xứ từ nhiều nước. Ngành Dệt có gần 50% thiết bị đã sử dụng trên 25 năm nên hư hang nhiều, mất tính năng vận hành tự động nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao.Trong nhiều năm qua, hầu hết các doanh nghiệp đã sử dụng nguồn vốn tự có, vốn vay trung hạn, dài hạn để mua sắm thiết bị,góp phần năng cao chất lương công nghệ, đa dang hoá sản phảm.Hàng ngàn máy dệt không thoi, có thoi khổ rông đã được nhập về, nhiều bộ đồ mắc mới , hiện đại đã được trang bị thay thế cho những thiết bị quá cũ. Tuy ngành Dệt đã có nhiều cố gắng trong đầu tư đổi mới công nghệ nhưng cho đến nay trình độ kỹ thuật của ngành vẫn còn lạc hậu so với khu vực và thế giới. Trong 5 năm gần đây , toàn ngành đã tranh bị thêm được gần 20.000 máy may hiện đại các loại để sản xuất các mặt hàng sơ mi, jacket, đồ bảo hộ lao động, áo phông các loại… cải thiện một bước chất lượng hàng may xuất khẩu và nội địa. Ngành may liên tục đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới thiết bị để đáp ứng yêu cầu chất lượng của thị trường thế giới.Các máy may được sử dụng hiện nay phần lớn là hiện đại, có tốc độ cao(4.000-5.000 vòng/phút), có bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Một số doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền đồng bộ, sử dụng nhiều máy chuyên dùng sản xuất một mặt hàng như đây chuyền may sư mi của May 10, đây chuyền may quần đứng có thao tác bộ phận tự động theo chương trình, đây chuyền sản xuất quần Jean có hệ thống máy giặt mài. 1.3 Nguyên liệu cho ngành Dệt may. Việc sản xuất nguyên liệu bông từ các nguồn trong nước hiện đang thu hút sự quan tâm đặc biệt. Hiện nay, Việt Nam chỉ có t5hể sản xuất hơn 3.000 tấn bông/năm, đáp ứng được 5% nhu càu của ngành Dệt trong nước. Sợi tổng hợp phải nhập khẩu hoàn toàn và sợi bong cho sản xuất hàng dệt kim cũng phải nhập khẩu với số lượng lớn hàng năm. Hơn nữa, dù ngành hoá chất trong nước tương đối phát triển nhưng 100% hoá chất nhuộm và hơn 80%hoá chất khác vẫn phải nhập khẩu. Như vậy vấn đề nguyên liệu chính là vấn đề nan giải cho ngành dệt. Cho đến nay mặc dù cây bông Việt Nam có những điều kiện thuận lợi để phát triển nhưng cơ chế và tổ chức thực hiện còn lúng tong. Có tới 95% nguyên liệu chính(bông) phải nhập khẩu với giá không ổn đinh. Hiện tại các doanh nghiệp Dệt vẫn phải chạy theo thị trường mua bông theo kiểu mớ món, giá cả thất thường làm cho sản xuất kinh doanh ở thế bị động và bất lợi. Đầu ra của dệt chính là đầu vào cho may hay nói cách khác là sản phẩm của ngành Dệt chính là nguyên liệu cho ngành May. Nhưng nguyên vật liệu trong nước (ngành Dệt) chưa đáp ứng được do chất lượng thấp, nên phải nhập do đó rất bị động , thường không đồng bộ.Các sản phẩm Dệt thường không đạt tiêu chuẩn về chất lượng và có tính chất đơn điệu. Vải sợi sản xuất trong nước phần lớn được sử dụng ở các doanh nghiệp địa phương để sản xuất quần áo cho nông thôn và vùng xa, chỉ thoả mãn một số nhu cầu của thành thị. Điều này chính là nguyên nhân gây khó khăn cho các nhà chế tạo may mạc và thời trang, cũng như các nhà thiết kế để nâng cao hiệu suất sử dụng các nguồn nguyên liệu trong nước.Trên 80% vải sẵn có trong nước hiẹn nay đều phải nhập khẩu. Thậm chí các doanh nghiêp may thuộc Tổng công ty Dệt may cũng hông sử dụng vải do các công ty trong nước sản xuất, có tới 90% nguyên vật liệu để sản xuất hàng may mặc xuất khẩu phải nhập từ nước ngoài nên bị phụ thuộc vào khách hàng bên ngoài. Vì vậy giá trị xuất khẩu của ngành may lớn nhưng nguyên liệu chính và phụ phần lớn phải nhập khẩu nên hiệu quả thấp. 1.4 Mặt hàng Dệt may. Trước đây, các mặt hàng sợi được sản xuất chủ yếu là các loại sợi bông chải thô, cung cấp cho thị trường nội địa, dệt các mặt hàng phổ thông như vải bạt quân dụng, vải bảo hộ lao động, ka ki.Những năm gần đây mặt hàng sợi đa dạng và phong phú hơn. Tuy các mặt hàng đã được phát triển và nâng cao chất lượng một cách rõ rệt, mang lại những kết quả khả quan trong xuất khẩu và tiêu thụ nội địa nhưng tỷ lệ sản lượng mặt hàng có hiệu quả chưa cao làm cho việc phục hồi vốn đầu tư chem., kéo dài việc trả nợ.Hơn nữa công tác nghiên cứu các mặt hàng chưa được khuyến khích, thiếu chủ động trong việc tìm hang mới… nên chưa thay thế được các mặt hàng mà ngành May phải nhập để tái xuất, chưa hình thành được mối liên hệ vững chắc giữa Dệt và May trên thị trường nội địa. Sản phẩm của ngành May rất đa dạng và phong phú, có tính chất thời trang, vừa có tính quốc tế, vừa có tính dân tộc. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, yêu cầu hàng may lại càng phong phú và chất lượng cao hơn. Bên cạnh những mặ hàng truyền thống nhân dân mặc hàng ngày, thông qua gia công cho các nước, các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện làm quen với công nghệ may phức tạp, thời trang của thế giới. Có nhiều chủng loại mặt hàng các doanh nghiệp đang sảnn xuất phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu như: -Nhóm mặt hàng lót. -nhóm mặt hàng mặc thương ngày: sơ mi, quần âu,áo váy… -Nhóm quần áo thể thao: quần áo vải thun, quần áo Jean. -Nhóm thời trang hiện đại -Nhóm trang phục đặc biệt: Quân đội, Nội vụ, bảo hộ lao động cho các loại ngành nghề. Các chủng loại mặt hàng trên với nhiều chất liệu và phụ liệu, các doanh nghiệp may đang thực hiện đơn hàng với nước ngoài vàcủa các ngành trong nước với tay nghề tốt, khéo léo nên sản phẩm sản xuất ra đạt yêu cầu chất lượng của khách hàng. Tuy vậy, do còn thiếu các máy chuyên dùng hiện đại, phải dung nhiều thao tác thủ công nên năng suất thấp so với nhiều nước khác. Một số mặt hàng như áo da….do chưa co máy chuyên dùng nên còn bị hạn chế trong sản xuất. 1.5 Lao động ngành dệt may. Nghề dệt may không đòi hỏi kĩ thuật cao siêu, điêu luyện nên ngành rất dễ thu hút nhiều lao động. Đến nay cac doanh nghiệp Dêt may đã thu hút hơn 500.000 lao động góp phần đáng kể trong việc giải quyết khó khăn về việc làm cho người lao động. Tuy rằng lao động Việt Nam có đôi bàn tay khéo léo, tiếp thu kiến thức mới nhanh nhưng do chưa được đào tạo bài bản, hệ thống nên trình độ của họ còn rất hạn chế. Hơn nữa, do điều kiện làm việc chuyên môn hoá cao nên cường độ lam việc căng thẳng trong khi tiền lương nói chung còn thấp và có sự chênh lệch lớn giữa các doanh nghiệp nên có nhiều biến động lớn trong đội ngũ lao động ngành. Thực tế cho thấy rằng các công ty sản xuất phát triển, đủ việc làm, thu nhập cao, biến động lao động nhỏ, công nhân gắn bó với công ty, thậm chí nhiều người xin vào làm việc. Ngược lai ở những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, sản xuất đình trệ, thiếu việc làm, thu nhập thấp sẽ nảy sinh tinh trạng “ đất không lành, chim không đậu”, công nhân lành nghề , công nhân mới đào tạo sau thơi gian quen việc cung sẽ dần chuyển sang công ty khác. Bên cạnh đó ngành đang có tình trạng thiếu nguồn lao động quản lý và kĩ thuật, nghiệp vụ. Hầu hết, các cán bộ quản lý chủ chốt trong các doanh nghiệp Dệt may đều có trinh đọ đại học hoặc cao đẳng, chuyên môn khá nhưng trình độ quản lý theo phong cánh công nghiệp còn yếu, tiếp cận với phương thức quản lý hiện đại còn ít. Cán bộ kĩ thuật chủ yếu trưởng thành từ công nhân bậc cao nên chỉ giỏi về chuyên môn của nhưng sản phẩm cụ thể con như việc sáng tác mẫu, tạo dang sản phảm còn rất kém. Các doanh nghiệp rất cần những kỹ sư có bằng cấp, công nhân kĩ thuật và các nhà quản lý- những người có khả năng nắm bắt công nghệ hiện đại. Có một thực tế là nhiều doanh nghiệp bỏ ra một số tiền lớn để mua thiết bị và công nghệ hiện đại, giá cao để chuẩn bị cho việc sản xuất các mặt hàng cao cấp, song người vận hành các thiết bị này lại có trình độ chuyên môn thấp. Nhìn chung tăng trưởng nhanh trong khi những cán bộ kĩ thuật và quản lý được đào tạo tại các trường có xu hướng giảm dần nên dẫn đến tình trạng thiếu đội ngũ công nhân lành nghề và cán bộ khoa học cho ngành Dệt may. II. định hướng phát triển công nghiệp dệt may việt nam 2.1.Quan điểm phát triển. 2.1.1 một số quan điểm phát triển ngành dệt may. 2.1.1.1 Công nghiệp dệt may phải được ưu tiên phát triển và phải được coi là ngành trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta trong những năm tiếp theo Trong 4 năm qua ,kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đều tăng và đã vươn lên hàng thứ hai trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước . Mặt khác, ngành công nghiệp dệt may là ngang thu hút nhiều lao động, vốn đầu tư không lớn và đang trong xu hướng chuyển dịch từ các nước Đông á và các nước Đông Nam á. Nước ta là một nước có nguồn lao động dồi dào và lành nghề nên có thể coi đây là một lĩnh vực lớn có khả năng phát triển nhất. Đồng thời với dân số là hơn 80 triệu thị trường trong nước có tiềm năng to lớn tiêu thụ các mặt hàng tiêu dùng trong đó có hàng Dệt may. 2.1.1.2 Phát triển công nghiệp Dệt may theo hướng hiện đại và đa dạng về sản phẩm Công nghệ hiện đại ngày nay đã trở thành yêu tố quyết định cho sự phồn vinh của mỗi quốc gia, hay sức mạnh cạnh tranh kinh tế quốc tế của mỗi sản phẩm. Chúng ta chỉ có thể thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển và tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế thông qua việc tăng cường năng lực công nghệ quốc gia, tiếp cận và làm chủ công nghệ tiên tiến và công nghệ cao. Từ nhận định đó , công nghiệp dệt may phải dược phát triển theo hướng hiện đại và đa dạng hoá về sản phẩm. Trong thời gian tới , cung với sự phát triển kinh tế của cả nước , nhu cầu hàng tiêu dùng sẽ tăng lên nhưng không đơn giản tăng về số lượng mà ngày càng đòi hỏi nâng cao về chất lượng ,đa dạng về mẫu mã và số lượng các mặt hàng cao cấp cũng tăng lên. Theo quy luật tiêu dùng thì khi thu nhập tăng lên , tỷ lệ chi cho ăn uống sẽ giảm tương đối , còn tỷ lệ tiêu dùng hàng hoá sẽ tăng lên rất nhanh. Như vậy cung với sự gia tăng dân số và tăng thu nhập thij trường trong nước sẽ là tiền đề cho công nghiệp sản xuất hang tiêu dùng nói chung và hàng dệt may nói riêng. Đối với thị trường nước ngoài , để tiếp cận thành công sự dịch chuyển kinh tế từ các nước phát triển hơn và nhanh chóng thay thế họ thâm nhập vào các thị trường quốc tế mới, ngành dệt may cang cần được trang bị theo hương hiện đại. Có như vậy mới đáp ứng được nhưng nhu câu ngày càng cao , ngày càng đa dạng cua thị trường trong và ngoài nước. Tất cả các yếu tố đó, đòi hỏi bức xúc nghành dệt may phải có kế hoạch hiện đại hoá từng bước, kết hợp giữa thay thế và hiện đại hoá, đồng thời nhanh chóng tiếp thu công nghệ mới để giảm bớt khoảng cách tụt hậu. 2.1.1.3 Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng kết hợp hướng về xuất khẩu với thay thể nhập khẩu. Hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả, đó là kinh nghiệm của nhiều nước công nghiệp mới ( NIC) và ở nước ta cũng xác nhận điều đó. Đó là một hướng chiến lược cơ bản của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong những điều kiện của thế giới ngày nay. Ngành dệt may là một trong những ngành làm được điều đó . Thực tế những năm qua cho they, chiến lược hướng về xuất khẩu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Kinh nghạch xuất khẩu trong những năm qua đều tăng. Nhờ nguồn ngoại tệ thu được, ngành có điều kiện tái đầu tư để hiện đại hoá đẩy mạnh sản xuất. Song song với xu hướng đẩy mạnh xuất khẩu, cần kết hợp sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu. Thị trường trong nước với dân số đông và sức mua ngày càng lớn là đối tượng rất quan trọng mà công nghiệp dệt may phải đáp ứng cho được từ những sản phẩm bình thường phù hợp với đa số người dân lao động cho đến những mặt hàng cao cấp phục vụ cho các đối tượng có thu nhập cao. Hiện tại, các sản phẩm dệt may của ta bị cạnh tranh gay gắt bởi các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu ở giá cả. mặc dù, chất lượng có kém hơn song do thắng áp đảo về giá nên họ vẫn chiếm được thị trường rộng lớn ở nông thôn. Đấy là điểm yếu quan trọng buộc các nhà sản xuất phải bằng nhiều cách để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm thì mới có thể cạnh tranh được. 2.1.1.4 Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng đa dạng hoá sở hữu và tập trung vào các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN là chiến lược phát triển kinh tế của Đảng. Thực tế cho thấy, ở bất cứ một ngành kinh tế kỹ thuật nào, nếu không có nhiều thành phần kinh tế tham gia thì sẽ không tạo ra được môi trường cạnh tranh, mà cạnh tranh chính là đông lực thúc đẩy sự phát triển. Trong tổ chức của ngành dệt may đã có những mô hình quy mô lớn nhưng kém hiệu quả. Qua nhiều lần tiến hành đổi mới quản lý và qua nhiềuhoạt động thực tế cho they doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ là những mô hình hoạt động tốt. 2.1.1.5 Phát triển công nghiệp dệt may phải gắn liền với sự phát triển của ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác, đồng thời góp phần thúc đâỷ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở nước ta. Trong chiến lược phát triển Kinh tế- Xã hội đến năm 2010, Đảng đã chỉ rõ cần phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế mà trước hết là công nghiệp hoá nông thôn. Như vậy , đối với tất cả các ngành công nghiệp , đặc biệt như công nghiệp Dệt may là nganh sử dụng nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp như bông tơ tằm , trong chiến lược phát triển của mình cần phải xác định được hướng phát triển là phải gắn lion với sự phát triển của ngành nông nghiệp Trong suốt quá trình phát triển của mình ngành công nghiệp dệt may Việt nam luôn ở trong tình trạng bị động về nguyên liệu . Hầu hết tất cả các loại nguyên liệu đều phải nhập khẩu, kể cả bông xơ là loại nguyên liệu mà ta có thể tự cung cấp một phần. Tơ tằm tuy không phải nhập khẩu nhưng nguồn tơ sản xuất bị hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng nên giá trị xuất khẩu thấp.Do vậy muốn từng bước tiến tới sự phát triển ổn định bền vững ngành dệt may phải tạo được cho mình một cơ sở nguyên liệu thích hợp và ổn định 2.1.2 Một vài chính sách của đảng và nhà nước đối với ngành dệt may 2.1.2.1Chính sách về bảo hộ hàng sản xuất trong nước Do tinh trạng thiết bị cũ , nhiều năm chưa được đổi mới lại thêm công nghệ lạc hậu nên sản phẩm sản xuất ra chỉ đạt mức trung bình, đáp ứng một phần nhu cầu bình thường của người dân. Trong khi đó các nước khác với máy moc hiện đại và công nghiệp tiên tiến đã sản xuất ra rất nhiều loại vải có mẫu mã đẹp ,chất lượng cao , sẵn sàng tràn vào thị trường việt nam để lũng đoạn thị trường. Trước sức ép của hàng ngoại nhập vào nước ta có thể đánh đổ hàng Dệt may trong nước , Nhà nước có chủ trương bảo vệ hàng nôịi địa. Chính sách bảo vệ hàng dệt may nội địa được thực hiện qua các biện pháp chính sau đây: - Lập hàng rào thuế quan đối với hàng ngoại nhập. - Sử dụng hạn ngạch để hạn chế số lượng . - Tăng cường các biện pháp quản lý thị trường nhằm hạn chế đến mức tối thiểu hàng nhập lậu qua biên giới trên bộ và trên biển. Với hàng rào thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu , chúng ta đã bảo hộ hàng sản xuất trong nước , nhưng không phải lúc nào cũng đạt kết quả mong muốn . Với hàng ngàn con đường biên giới trên bộ và trên biển , nhất là khi nước ta và Trung Quốc bình thường hoá quan hệ thì tình trạng buôn lậu qua biên giới rất phổ biến.Hàng dệt may Trung Quốc với mẫu mã đa dạng , phong phú về chủng loại và giá rẻ đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam. Để hỗ trợ các biện pháp về thuế quan và hạn ngạch hàng nhập , Nhà nước ta tăng cường quản lý thị trường như đòi hỏi các chủ hàng vận chuyển phải có hoá đơn , chứng minh xuất xứ hàng hoá, truy thu thuế và triệt để thu thuế doanh thu. Tuy nhiên do lực lượng thu thuế của ta dàn mỏng nên khâu quản lý thị trường còn nhiều sơ hở, kết quả thu được không đạt như mong muốn. 2.1.2.2 Chính sách về khuyến khích xuất khẩu Xuất khẩu hàng hoá là một trong những mục tiêu lớn của Nhà nước ta nhằm cân bằng kim ngạch xuất nhập khẩu. Đối với ngành Dệt may là một ngành mà nguyên liệu chủ yếu phụ thuộc nước ngoài, hàng năm chúng ta phải nhập khoảng 60.000-70.000 tấn bông, xơ sợi và hàng tấn hoá chất thuốc nhuộm, phụ ting cơ kiện thay thế đưa kim ngạch nhập khẩu lên khoảng 120-150 triệu USD. Muốn cân bằng kim ngạch xuất- nhập khẩu , không có cách nào khác là phải đẩy mạnh sản xuất khẩu. Để khuyến khích xuất khẩu, từ nhiều năm nay Nhà nước không đánh thuế xuất bkhẩu ào mặt hàng Dệt may hay nói cách khác là áp dụng biểu thuế suất bằng 0% đối với các mặt hàng Dệt may. Đây là mức thuế thấp nhằm tạo điều kiên cho hàng Dệt may xuất khẩu được thuận lợi. Dự kiến trong mấy năm tới đây, Nhà nước cũng sẽ áp dụng chính sách ưu đãi hàng xuất khẩu 2.1.2.3.Chính sách về khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt nam Luật đầu tư nước ngoài vào Việt nam ra đời đã được nhiều công ty từ các quốc gia và khu vực hưởng ứng. Với điều khoản rộng rãi, thoáng và luôn được điều chỉnh ho phù hợp luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã được dư luận đánh giá cao. Qua xem xét các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt nam về ngành Dệt, chúng ta nhận they có một số điểm sau đây: -Hầu hết các dự án đầu tư của các nước Đông á và các nước Đông Nam á, Nhật Bản, Tây Âu và Bắc Mỹ chưa sẵn sàng đầu tư vào ngành Dệt Việt nam. -Đa phàn các thiết bị máy móc đưa vào hầu hết đã qua sử dụng. Đây là một sự chuyển dịch của các nước NIC nhằm đổi mới công nghệ hiện đại tại chính quốc, ận dụng giá trị sử dụng còn lại của thiết bị và khai thác nhân công rẻ tai Việt Nam. Rõ ràng trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt may, chúng ta gạp phải một mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa ý muốn chủ quan đưa nhanh ngành Dệt trở thành ngành công nghiệp chủ lực có máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến và vốn đầu tư thiếu. Chấp nhân đưa thiết bị cũ vào Việt Nam, ngành Dệt may nước ta tiếp tục đi sau ngành Dệt may thế giới nhưng trong điều kiện nền kinh tế chưa phát triển người lao động chưa có đủ việc làm thì chung ta phải tạm thời chấp nhận ở mức độ nhất định. 2.2 Định hướng phát triển ngành dệt may 2.2.1 Giải pháp về thị trường 2.2.1.1 Nghiên cứu thị trường Thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa là nguồn đầu ra của qua trình sản xuất kinh doanh, thị trường là vấn đề hết sức quan trọng mang tính sống còn của mỗi doanh nghiệp vì nó đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu qủa hoạt động sản xuất kinh doanh hàng may mặc trước tiên là phải nghiên cứa tìm hiểu thị trường tiêu thụ một cách chu đáo. Hoạt động nghiên cứa thị trường đòi hỏi phải nắm bắt được những thông tin thiết yếu về nhu cầu, khả năng tiêu thụ cũng như các điều kiện xâm nhập thị trường của hàng Dệt – May. Từng bước củng cố, mở rộng các thị trường truyền thống ( Khối Đông Âu, Nga…) đồng thời tích cực tìm mọi cách xâm nhập, chiếm lĩnh các thị trường tiểm năng mới như Nhật, Mỹ, Châu á… Trước mắt, để tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng Dệt – May cần phải tập trung vào các thị trường trọng điểm, đó là thị trường EU, Nhật…. 2.2.1.2 Chính sách sản phẩm. Quá trình tiêu thụ sản phẩm được thuận lợi hay không đòi hỏi cả một cơ chế hệ thống hoàn hảo từ công nghệ sản xuất, hoàn thành sản phẩm đến việc tiếp thị, quảng cáo, tiêu thụ được trên thị trường sẽ đem lại doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế, thúc đẩy sự phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.Đối với ngành Dệt – May, việc đề ra chính sách sản phẩm đúng đắn phù hợp với từng thời kỳ, từng thị trường có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng thêm kim nghạch xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường trong nước và thế giới trong giai đoạn hiện nay. Chính sách sản phẩm hàng Dệt – May trước tiên phải bảo đảm phù hợp thị hiếu ngời tiêu dùng và khả năng từng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Bắt đầu từ khâu sẩn xuất, sản phẩm phải bảo đảm được tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với từng thị trường, các lọai vải phải đủ chất lượng, quần áo phải phù hợp với hoàn cảnh và thời gian sử dụng. Nhà kinh doanh hàng Dệt – May phải nắm được thị hiếu, sở thích của thị trường trong nước và quốc tế về các loại mẫu mã để từ đó đáp ứng nhu cầu của họ. Trước mắt, sự cần thiết phải có một bộ phận nghiên cứu mẫu mã hàng Dệt – May. Sự phát triển của việc nghiên cứu mẫu hàng ở Việt Nam mới chỉ bắt đầu nhưng phần nào đẫ đáp ứng được nhu cầu tạo mẫu cho hàng Dệt – May. Một hướng phát triển tốt cho việc nghiên cứu tạo mẫu hàng Dệt – May đó là thành lập các trung tâm nghiên cứu tạo mẫu thời trang nằm trong các doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội về những thông tin thời trang và nhu cầu về tiêu dùng sản phẩm Dệt – May trong tương lai, từ đó mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Thị trường trong nước. Nước ta với số dân khá đông ( Khoảng 75 triệu dân ) nên nhu cầu tiêu thụ cũng rất lớn, thu nhập quốc dân bình quân đầu người mới đạt 250 USD/ năm nhưng có sự chênh lệch lớn giữa thu nhập của người dân thành thị và nông thôn. Những người dân thành thị có yêu cầu về hàng Dệt – May cao hơn nhiều so với những người ở nông thôn và miền núi. Nghĩa là họ có thể mua sắm quần áo hàng tháng, đặc biệt là vào các dịp lễ tết. Ngược lại, người có nhu cầu thấp hiện nay cũng thích xài hàng Dệt – May một mùa hợp với túi tiền của họ. Điều này cho thấy tại sao hàng may mặc Trung Quốc cần rất ít nguyên liệu, mẫu mã đẹp, rẻ lại tràn ngập thị trường Việt Nam. Hàng Dệt – May Việt Nam lại chủ yếu xuất khẩu xuất chủ yếu sang thị trường EU, Nhật Bản….. là những khách hàng rất kỹ tính với đòi hỏi cao về chất lượng. Nếu có sai sót bị trả lại và bán trên thị trường nội địa thì không phải ai cũng có thể mua được ngoại trừ tầng lớp có thu nhập cao và tương đối cao nên rất khó tiêu thụ. Đó chính là hạn chế của nền kinh tế hướng về xuất khẩu. Một số doanh nghiệp chú trọng sản xuất hàng xuất khẩu, bỏ rơi thị trường nộiđịa trong khi điều kiện cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật còn lạc hậu, tỷ lệ sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thấp đã dẫn đến tình trạng làm ăn thua lỗ. Đối với những sản phẩm may mặc cao cấp, lâu nay chúng ta vẫn mặc “thừa” của các khách hàng nước ngoài, thị trường nội địa đang bị các nhà sản xuất bỏ quên. Nhiều doanh nghiệp chỉ bán những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu trên thị trường nội địa mà không có chiến lược phát triển thị trường trong nước, điều đó làm uy tín của doanh nghiệp trên thị trường nội địa bị giảm sút. Đó là do các hoạt động nghiên cứu thị trường còn yếu, không chủ động xây dựng chiến lược mở rộng thị trường sản phẩm, không thường xuyên nghiên cứu thiết kế mẫu, mốt nên không chủ động trong việc sản xuất hàng cao cấp tiêu thụ trong nước. Mặt khác, do bộ máy đôi lúc còn quan liêu, ỷ lại, khách hàng nước ngoài thường đặt với lô hàng lớn, có sẵn mẫu mã, chỉ phải tính giá thành và thương lư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24304.doc
Tài liệu liên quan