Ngân sách phường của thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp phường) là cấp chính quyền cơ sở trong tổ chức hành chính 4 cấp của nước ta, “là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống” [17, tr.166]. Chức năng, nhiệm vụ của phường gắn trực tiếp với việc thực hiện mục tiêu xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; là nơi chính quyền trực tiếp tiếp xúc và giải quyết các mối quan hệ phát sinh ban đầu của Nhà nước với dân; thực hiện mọi nguyện vọng, phản ánh mọi tâm tư, tì

doc100 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1852 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Ngân sách phường của thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh cảm cũng như những yêu cầu của dân đến Đảng và Nhà nước. Để thực hiện được những chức năng, nhiệm vụ đó, chính quyền cấp phường phải có nguồn ngân sách được hình thành từ nguồn cân đối ngân sách cấp phường để đảm bảo nhu cầu chi tiêu theo những nguyên tắc ổn định, bền vững. Với nguồn ngân sách ổn định, hoạt động thu, chi tốt sẽ góp phần thực hiện những mục tiêu phát triển KT-XH do Đảng và Nhà nước đề ra. NSP là một bộ phận cấu thành của NSNN, thông qua thu ngân sách, chính quyền cấp phường vừa thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất-kinh doanh, dịch vụ, chống các hành vi hoạt động kinh tế phi pháp, trốn lậu thuế và các nghĩa vụ đóng góp khác, vừa thực hiện việc điều tiết các hoạt động kinh tế trên địa bàn phường theo những mục tiêu chung. Thu NSP còn là nguồn chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu ở địa phương, bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Là Thủ đô-trung tâm kinh tế tài chính lớn của cả nước, Hà Nội có mức động viên vào NSNN lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu ngân sách cả nước. Trong 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, thu ngân sách trên địa bàn thành phố tăng nhanh về lượng và rất đa dạng về nguồn thu. Trong tổng thu NSNN trên địa bàn thì nguồn thu ở cấp phường mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn nhưng có vai trò quan trọng giúp bảo đảm cơ bản nguồn tài chính của phường, góp phần ổn định tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở địa phương. Với phương châm hướng về cơ sở, nhiều năm qua chính quyền thành phố luôn quan tâm đến mọi hoạt động trên địa bàn phường, nhất là hoạt động tài chính của phường, đặc biệt là công tác thu, chi ngân sách, để thống nhất quản lý các nguồn thu, chi, bảo đảm công khai, minh bạch, tập trung và dân chủ. Nhờ vậy, hoạt động tài chính của phường nói chung, công tác thu, chi ngân sách nói riêng đã đạt được những kết quả nhất định, số thu tương đối tập trung, đã cơ bản thu đúng, thu đủ và thu kịp thời các nguồn thu vào NSNN; cơ bản giải quyết được các mâu thuẫn giữa nhu cầu chi và khả năng thu của phường, dần loại bỏ tình trạng thâm hụt ngân sách… Tuy vậy, trong những năm qua, hoạt động thu ngân sách trên địa bàn phường nhìn chung vẫn còn thất thoát nhiều, một số nguồn thu chưa tập trung đầy đủ vào NSNN, ngược lại, có một số nguồn thu không đúng quy định của Luật NSNN; một số hoạt động chi chưa công khai, minh bạch; đã xuất hiện nhiều sự việc, hiện tượng tiêu cực, gây bức xúc, phiền hà cho người dân địa phương, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước. Trong điều kiện nền kinh tế còn chậm phát triển, NSNN còn hạn hẹp, việc tập trung đầy đủ và kịp thời các nguồn thu của NSP trên địa bàn thành phố luôn là nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần tăng NSP, giảm trợ cấp từ ngân sách cấp trên, dần bảo đảm cân đối thu, chi, phát huy vai trò tích cực của NSP trên địa bàn Hà Nội. Điều đó đòi hỏi phải có sự thống kê, phân tích đánh giá một cách khách quan, chi tiết và đầy đủ về các nguồn thu, chi NSP của Hà Nội để tìm ra những giải pháp hữu hiệu góp phần tăng nguồn thu cho NSP, bảo đảm chi ngân sách công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả KT-XH của NSP, tạo niềm tin cho người dân địa phương về chính quyền sở tại, về đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Từ những phân tích trên, tôi chọn đề tài luận văn thạc sĩ “Ngân sách phường của thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới” với mong muốn góp phần giải quyết những tồn tại, vướng mắc trên. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kể từ khi Quốc hội khoá IX thông qua Luật NSNN (1996), Quốc hội khoá XI thông qua Luật NSNN sửa đổi (tháng 12/2002) và chính thức có hiệu lực vào tháng 5/2004, đã có một số công trình nghiên cứu cụ thể về ngân sách cấp xã, phường, thị trấn đã được công bố: - Quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn tỉnh KonTum, Luận văn thạc sỹ, Đào Xuân Quý, Hà Nội, 2000. - Ngân sách xã ở 11 huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp, Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị, Bùi Trung Anh, 2002. - Thu chi ngân sách xã ở tỉnh Nam Định- Thực trạng và giải pháp, Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị, Trần Thị Thuý, 2004. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều tập trung đi sâu làm rõ thực trạng, cách thức quản lý ngân sách ở cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) trên bình diện một địa phương. Hiện chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và cụ thể về công tác thu, chi cũng như đánh giá được hiệu quản sử dụng ngân sách cấp phường trên địa bàn thành phố Hà Nội từ góc độ kinh tế chính trị học. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Đánh giá thực trạng tình hình thu, chi NSP của thành phố Hà Nội, những tác động tới đời sống chính trị-kinh tế -văn hoá-xã hội của địa phương và kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng NSP với việc ổn định và phát triển KT-XH ở địa phương. * Nhiệm vụ: Luận văn có 3 nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm rõ thực trạng thu, chi NSP của Thủ đô trong thời kỳ đổi mới. - Những tác động của hoạt động thu, chi NSP tới đời sống chính trị-KT-XH của địa phương. - Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng NSP trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Đối tượng: Luận văn nghiên cứu chủ yếu về thu, chi các khoản do NSP được hưởng 100% trên địa bàn cấp phường. * Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu NSP trên địa bàn các quận nội thành, số liệu phân tích chủ yếu của hai quận: Cầu Giấy và Thanh Xuân, trong thời kỳ từ năm 2004-2006 (là thời kỳ ổn định ngân sách kể từ khi Luật NSNN năm 2002 có hiệu lực). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên các quan điểm của kinh tế chính trị Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. * Phương pháp nghiên cứu: Ngoài các phương pháp chung của kinh tế chính trị học, luận văn sử dụng các phương pháp khác như: so sánh, khảo sát thực tế, phỏng vấn chuyên gia. 6. Những đóng góp chính của luận văn - Đánh giá đúng thực chất vai trò của NSP của thành phố Hà Nội. - Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo thu, chi NSP trên địa bàn Hà Nội đúng, đủ, kịp thời, công khai, minh bạch góp phần ổn định tình hình kinh tế-chính trị-xã hội của Thủ đô. 7. ý nghĩa của luận văn Những kết quả của luận văn sẽ góp phần làm cơ sở cho việc xây dựng dự toán NSP ở thành phố Hà Nội. Đồng thời, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho một số sở, ngành, quận của Hà Nội trong việc quản lý các nguồn thu, chi NSP. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết. Chương 1 Những vấn đề cơ bản về ngân sách phường 1.1. quá trình hình thành Ngân sách phường 1.1.1. Lịch sử hình thành ngân sách phường Khái niệm về “phường” đã xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XI, đây là tổ chức có những quy ước và tập tục riêng của cộng đồng dân cư trong phường. Tuy phường có sự tồn tại và phát triển lâu đời, nhưng phải đến năm 1980, trong điều 113, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thì cấp phường mới được coi là một cấp chính quyền độc lập. Theo đó, phường là đơn vị hành chính nhỏ nhất ở đô thị, là cấp chính quyền hoàn chỉnh được tổ chức ở các thành phố, thị xã ở nước ta. Quyết định số 94/HĐBT ngày 26-9-1981 của Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định: Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị tổ chức theo khu vực dân cư ở đường phố, có khoảng 7000-12.000 dân. Chức năng chủ yếu của bộ máy chính quyền cấp phường là quản lý hành chính Nhà nước, quản lý xã hội và chăm lo phục vụ đời sống dân cư. Cũng như các đơn vị hành chính khác, phường cũng có những chức năng, nhiệm vụ như: tổ chức bộ máy, công tác chuyên môn thông qua việc sử dụng các phương tiện vật chất, công cụ tài chính… trong đó, NSP là một yếu tố quan trọng để phục vụ chính quyền cấp phường hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Ban đầu, khi chưa được coi là một cấp hành chính độc lập, phường thành lập một quỹ riêng nhằm phục vụ việc chung, vì phường được thành lập với ý nghĩa là phường hội, chứ chưa phải là một đơn vị hành chính độc lập , do vậy, quỹ đó được dùng để giải quyết những việc có liên quan đến đời sống, sinh hoạt, sản xuất của nhân dân trong phường, đồng thời, thực hiện quan hệ với các cộng đồng khác và với chính quyền nhà nước. Ngay khi đơn vị hành chính phường được thành lập, cùng với việc xây dựng và củng cố chính quyền cấp phường, vấn đề NSP được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nhờ đó, NSP trở thành công cụ, phương tiện vật chất bằng tiền có tác dụng to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước. NSP được thành lập đã đáp ứng nhu cầu vật chất, giúp củng cố chính quyền, đồng thời chấn chỉnh công tác tài chính ở phường, tránh việc huy động tuỳ tiện và sử dụng lãng phí tài sản của nhân dân. Tuy nhiên, trước năm 1983, do chưa có cấp ngân sách quận nên NSP hoạt động theo những quy định của “Điều lệ ngân sách xã ” được Hội đồng Chính phủ ban hành tại Nghị định 64/CP ngày 08-4-1972 của Bộ Tài Chính, Thông tư số 14-TC/TDT về hướng dẫn thi hành Điều lệ ngân sách xã, Quy định số 13-TC/TDT ban hành chế độ kế toán ngân sách xã. Vì mới được công nhận là một cấp hành chính độc lập, nên NSP đã hoạt động dựa vào các văn bản trên. Những văn bản này giúp hoàn thiện chế độ quản lý NSP theo một luật lệ thống nhất, NSP thực sự trở thành công cụ huy động tài lực, vật lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Mặc dù vậy, trong giai đoạn đầu này, NSP chưa phát huy hết được những tác dụng, vai trò của mình, chưa phát huy đầy đủ tính chủ động, sáng tạo của địa phương trong quản lý tài chính và ngân sách. Trước yêu cầu cải cách nền kinh tế kế hoạch hoá, quản lý kinh tế để khắc phục tình trạng tập trung, quan liêu, bao cấp và phân tán, tuỳ tiện trong cơ chế quản lý ngân sách hiện hành, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị quyết số 138-HĐBT, ngày 19-11-1983 về cải tiến chế độ phân cấp quản lý ngân sách cho địa phương, tổ chức quản lý và cơ cấu NSĐP bao gồm 3 cấp: ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp quận (huyện), ngân sách cấp phường (xã, thị trấn). NSP là một bộ phận cấu thành ngân sách quận, ngân sách quận là một bộ phận cấu thành ngân sách thành phố. Toàn bộ NSĐP là một bộ phận của NSNN. Như vậy, trước đây, NSP nằm ngoài NSNN, nay được tổng hợp vào NSNN. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của NSP và cần có thời gian để tổ chức lại công tác kế toán, việc đưa NSP vào hệ thống NSNN phải tiến hành từng bước. Trước mắt, đưa vào dự toán và quyết toán NSNN các khoản thu, chi của NSP theo đúng chế độ, chính sách nhà nước quy định. Đối với cấp phường, mặc dù Nghị quyết trên đã xác định NSP là một cấp ngân sách nằm trong hệ thống 4 cấp NSNN, nhưng thực tế NSP vẫn được quản lý bằng phương thức gán thu bù chi, trợ cấp chênh lệch, trong đó, chỉ có số trợ cấp chênh lệch được ghi vào chi khác của NSĐP, để tổng hợp vào NSNN, còn số thu, chi của NSP thì tổng hợp vào một kênh riêng báo cáo về Bộ Tài chính. Từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), đất nước ta bước vào thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế; với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật”, tại Đại hội này, Đảng ta thống nhất lãnh đạo nền kinh tế đất nước chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Trung ương định lại chế độ phân cấp quản lý thu, chi ngân sách cho phù hợp trên cơ sở khuyến khích đúng mức để phát triển nhanh nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế, chống thất thu. Mặt khác, phải căn cứ vào nguồn thu mà bố trí chi, không chi vượt quá thu ngân sách, triệt để tiết kiệm chi tiêu về mọi mặt và Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị quyết số 186/HĐBT ngày 27-11-1989 về phân cấp quản lý ngân sách cho địa phương. Việc ra đời Nghị quyết này đã nhấn mạnh phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn của chính quyền Nhà nước các cấp trong việc quản lý ngân sách, phân phối, sử dụng công bằng, hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH của đất nước. Trong nghị quyết này, ngoài những nội dung Trung ương quy định để lại 100% cho NSP, quy định những khoản thu cố định dành chung cho toàn bộ các địa phương như: thuế nhà đất, thuế môn bài, thuế trước bạ, thuế sát sinh; còn quy định đối với UBND tỉnh, thành phố cần quy định tỷ lệ điều tiết số thu về thuế công thương nghiệp cho NSP trong phạm vi được hưởng của NSĐP. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều phường chưa tổ chức khai thác hết tiềm năng sẵn có, còn buông lỏng các nguồn thu được giao, để thất thu lớn về thuế, lệ phí trên địa bàn phường. Còn khá nhiều khoản chi tiêu ở phường chưa hợp lý, chưa chấm dứt được hiện tượng “bổ bán chi” cho dân chịu, việc làm này đã ảnh hưởng tới việc khai thác nguồn thu trên địa bàn phường; vẫn có sự co kéo nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa NSTW và NSĐP. Khắc phục những hạn chế trên của NSP, Chính phủ và Bộ Tài chính đã có nhiều nỗ lực giải quyết phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cho NSĐP (trong đó có NSP). Nhưng do chưa có Luật NSNN, nên hàng năm, Chính phủ đều phải điều chỉnh tỷ lệ điều tiết một số khoản thu giữa NSTW và NSĐP, thậm chí ngay trong cùng một năm cũng có sự điều chỉnh, có nguồn thu năm nay để lại cho NSĐP, năm sau lại thu về NSTW (như thuế cấp quyền sử dụng đất). Vì vậy, NSĐP, cụ thể là ngân sách cấp phường không phát huy được tính năng động, sáng tạo trong việc quản lý khai thác nguồn thu và chủ động bố trí chi tiêu hiệu quả. Nhìn chung, việc bố trí quản lý, sử dụng NSP đã từng bước ổn định, thống nhất chung trong cả nước thông qua một số văn bản pháp luật được Chính phủ và các cơ quan chức năng ban hành. Tuy nhiên, do yêu cầu quản lý và phản ánh của NSP trong điều kiện còn khác biệt lớn giữa các địa phương, nên các quy định của NSP chưa phù hợp với thực tế, một số địa phương vẫn còn dấu ấn đặc trưng của quỹ phường ngày xưa, đó là tính tuỳ tiện và tính hà lạm. Vì vậy, những năm trước đây, NSP vẫn còn là cấp ngân sách để ngoài NSNN. Toàn bộ kết quả thu chi NSP được tập hợp riêng, quyết toán riêng như đã phân tích trên. Để thống nhất quản lý nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc quản lý và sử dụng NSNN, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm ngân sách, tăng tích lũy nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, ngày 20-3-1996, sự kiện Quốc hội (khoá XI) đã thông qua Luật NSNN được coi là mốc quan trọng trong công tác quản lý và điều hành NSNN, tạo cơ sở pháp lý cao nhất cho hoạt động NSNN, đưa công tác quản lý tài chính ngân sách từ không có luật chuyển sang xây dựng, quản lý điều hành NSNN theo luật; đồng thời, khi đó NSP mới được coi là một cấp ngân sách hoàn chỉnh, nằm trong hệ thống NSNN thống nhất. Đây cũng là một sự điều chỉnh phù hợp trong điều kiện nền kinh tế đất nước đã có nhiều thay đổi tiến bộ. Khi chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp phường ngày càng được mở rộng thì nội dung thu, chi và quản lý NSP trở nên rộng hơn và phức tạp hơn, cũng có nghĩa là trách nhiệm về mặt quản lý tài chính của chính quyền cấp phường ngày càng nặng nề hơn. Đến kỳ họp thứ hai, Quốc hội (khoá XI) ngày 16-12-2002 đã thông qua Luật NSNN sửa đổi, chính thức có hiệu lực năm 2004; luật NSNN đã tăng cường nguồn thu, phương tiện và cán bộ quản lý tài chính-ngân sách để quản lý tốt, có hiệu quả các nguồn lực tài chính trên địa bàn phường. NSP là một cấp ngân sách đầy đủ, được bố trí nguồn thu và nhiệm vụ chi phù hợp với chức năng, nhiệm vụ; không bị giới hạn trong quá trình thực thi các nhiệm vụ của chính quyền phường. Qui mô, cơ cấu NSP không chỉ phụ thuộc vào chức năng và nhiệm vụ của chính quyền cấp phường mà còn phụ thuộc vào khả năng và thực tế phát triển KT-XH ở địa bàn phường. 1.1.2. Khái niệm ngân sách phường Hơn hai mươi năm qua, chính quyền cấp phường đã khẳng định vai trò quan trọng của mình, nhất là trong điều kiện thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; các phường đã sử dụng tốt các công cụ tài chính, trong đó, NSP đóng một vai trò quan trọng, tích cực giúp phường hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Qua quá trình triển khai và thực hiện các văn bản hướng dẫn của Trung ương và địa phương, nội dung thu, chi của NSP ngày càng được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với tình hình thực tế. Có thể đưa ra một định nghĩa chung về ngân sách cấp phường như sau: NSP là một bộ phận của NSNN do UBND phường xây dựng, quản lý và HĐND phường quyết định, giám sát thực hiện. Đó là một quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của chính quyền cấp phường để đảm bảo cho các hoạt động quản lý nhà nước và góp phần thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH tại địa bàn; hoạt động của quỹ này thể hiện trên hai phương diện: nguồn thu vào quỹ và phân phối sử dụng các khoản vốn quỹ đó. Từ định nghĩa trên, cho thấy: Về mặt bản chất, NSP là hệ thống những mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền cấp phường nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước ở cấp cơ sở trong khuôn khổ đã được phân công, phân cấp quản lý, như: xây dựng và thực hiện các kế hoạch thuộc phạm vi phường như sự nghiệp kinh tế; sự nghiệp văn hoá thông tin, thể dục thể thao, y tế; quản lý dân số, hộ tịch, hộ khẩu, sinh tử, lập sổ địa chính cho từng hộ dân, quản lý lao động và tổ chức thực hiện sự phân bố lao động; quản lý và thi hành chính sách tài chính, thuế, thu nợ cho Nhà nước, xây dựng và quản lý thu chi NSP theo luật NSNN; thực hiện công tác quản lý đô thị, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện chế độ và kế hoạch nghĩa vụ quân sự theo pháp luật; chăm lo cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trong phường; phát hiện và thu giữ, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật theo phạm vi quyền hạn được phân công. Về mặt định lượng, NSP là tổng số thu, tổng số chi trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, phục vụ cho phần lớn các lĩnh vực hoạt động KT-XH trên địa bàn phường, được hình thành trên cơ sở phân chia nguồn thu, đảm nhận nhiệm vụ chi và tổ chức thực hiện trong thời gian một năm. NSP cung cấp các phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước ở cơ sở và đó chính là một công cụ đặc biệt quan trọng để chính quyền cấp phường thực hiện quản lý toàn diện các hoạt động KT-XH tại địa phương. Về nguồn gốc của NSP: Ngày nay, Nhà nước ngày càng có vai trò quan trọng trong việc huy động và phân phối thu nhập quốc dân qua NSNN, chính sự tồn tại và phát triển của Nhà nước đã tạo ra những điều kiện cần và đủ cho NSNN nói chung, trong đó có NSP ra đời và tồn tại. Chừng nào Nhà nước còn tồn tại thì chừng đó ngân sách các cấp còn tồn tại; nhất là khi mọi quốc gia đều có sự phân công, phân cấp quản lý KT-XH cho mỗi cấp quản lý hành chính nên hệ thống NSNN bao giờ cũng bao gồm các cấp khác nhau, vì vậy, NSP ra đời là tất yếu khách quan trong quá trình quản lý nhà nước. Về cấp độ phân cấp ngân sách: NSP là cấp ngân sách trong hệ thống NSNN thống nhất do HĐND cấp tỉnh, thành phố quy định cụ thể nội dung thu, chi; UBND phường xây dựng dự toán và thống nhất tổ chức, quản lý thực hiện dưới sự giám sát của HĐND phường. 1.1.3. Vị trí của ngân sách phường trong hệ thống ngân sách nhà nước Như nội dung định nghĩa trên, NSP là một bộ phận của NSNN, mà NSNN đã xuất hiện và tồn tại từ lâu, với tư cách là một công cụ tài chính quan trọng của Nhà nước. Nó ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở hai tiền đề là nhà nước và nền kinh tế hàng hoá-tiền tệ; nó phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước với các chủ thể kinh tế, xã hội trong phân phối tổng sản phẩm xã hội, thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, chuyển dịch một bộ phận thu nhập bằng tiền của các chủ thể đó, thành thu nhập của nhà nước và nhà nước chuyển dịch thu nhập đó đến các chủ thể được hưởng thụ nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Hệ thống NSNN ở đây được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách. ở nước ta, tổ chức hệ thống NSNN gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ máy Nhà nước và vị trí, vai trò của bộ máy trong qúa trình phát triển KT-XH. Theo Hiến pháp nước ta, mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân sách riêng cung cấp phương tiện vật chất cho cấp chính quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh thổ. Phù hợp với mô hình tổ chức hệ thống chính quyền Nhà nước, hiện nay hệ thống NSNN ở nước ta bao gồm: NSTW và ngân sách các cấp chính quyền địa phương, bao gồm: Ngân sách cấp tỉnh và thành phố trực thuộc TW; Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và ngân sách cấp phường, xã, thị trấn. Trong đó, NSTW phản ánh nhiệm vụ thu chi theo ngành và giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống NSNN. Ngân sách tỉnh, thành phố phản ánh nhiệm vụ thu chi theo lãnh thổ đảm bảo thực hiện tổ chức quản lý toàn diện KT-XH của chính quyền cấp thành phố và tỉnh trực thuộc Trung ương. Ngân sách quận là một bộ phận của NSĐP do UBND quận xây dựng quản lý và HĐND quận quyết định, giám sát thực hiện. Và NSP là cấp ngân sách cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt và có tính đặc thù riêng. Tầm quan trọng đặc biệt của NSP được thể hiện: Mặc dù là cấp ngân sách cuối cùng, nhưng NSP có vị trí quan trọng trong hệ thống ngân sách NSNN, nếu NSP thực hiện thu đúng, thu đầy đủ, tận thu các nguồn thu thì sẽ giảm sự hỗ trợ từ ngân sách cấp trên, cụ thể là ngân sách cấp quận, thành phố, khi đó, ngân sách cấp trên sẽ có thêm kinh phí đầu tư vào các lĩnh vực khác, có tầm quan trọng hơn như xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội, tập trung phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, như công nghiệp, dịch vụ, … NSP giúp tận thu tốt nhất các nguồn thu từ phí, lệ phí; thu thuế môn bài v.v.. vì địa bàn phường thường không lớn, thuận tiện cho công tác quản lý thuế, cán bộ của phường thường nắm rõ từng tập thể, cá nhân hộ kinh doanh trên địa bàn phường nên sẽ thuận tiện hơn cho công tác thu ngân sách. Tính đặc thù riêng được thể hiện: NSP vừa là một cấp ngân sách do Luật NSNN quy định, vừa là một đơn vị dự toán NSNN. Là đơn vị dự toán NSNN nghĩa là các đơn vị được quyền chi nguồn của NSNN, nhưng lại là một đơn vị dự toán NSNN đặc thù vì dưới nó không có đơn vị dự toán trực thuộc, nó vừa phải tạo nguồn kinh phí thông qua các khoản thu ngân sách cấp phường được phân định, vừa duyệt cấp, chi trực tiếp, tổng hợp các khoản chi trực tiếp vào chi ngân sách cấp phường. Nguồn thu của NSP được khai thác trực tiếp trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng được bố trí để phục vụ cho cộng đồng dân cư trong phường mà không qua khâu trung gian nào. Trong hệ thống NSNN, NSP là các cấp ngân sách cơ sở đảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền phường chủ động khai thác các thế mạnh về đất đai, phát triển KT-XH, giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn. Cụ thể hơn, NSP vừa quản lý ngân sách thông qua các nghiệp vụ thuế, tài vụ, quỹ NSP lại vừa quản lý tiền mặt, vật tư, tài sản và các hoạt động KT-XH khác thuộc địa bàn phường; ở phường có những khoản phải chuẩn chi và thực hiện kiểm soát theo đúng quy định của pháp luật, cũng có những khoản phải thuận chi theo yêu cầu nhiệm vụ công việc của phường. Vì vậy, NSP vừa phải quản lý các nguồn thu theo luật định, vừa quản lý các khoản thu, chi từ các hoạt động KT-XH khác trên địa bàn phường, nó không gò bó trong hạn mức kinh phí giống như một đơn vị dự toán thông thường. Để đảm bảo thực hiện tốt vai trò của mình, NSP cần có tiềm lực, khả năng bảo đảm cho những nhu cầu của chính quyền và nhân dân trên địa bàn phường. Nếu chính quyền cấp trên nhìn nhận một cách đúng đắn về tầm quan trọng cũng như tính đặc thù này của NSP thì sẽ phát huy tốt vai trò của nó trong khai thác các nguồn thu trên địa bàn để phục vụ cho phát triển KT-XH. 1.2. Nội dung của ngân sách phường Là một cấp trong hệ thống NSNN, NSP có những nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể, theo quy định của Luật NSNN và theo phân cấp quản lý của HĐND cấp tỉnh, thành phố mà NSP là hệ thống các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước; quỹ này được xây dựng trên cơ sở các nguồn thu vào NSP để thực hiện các nhiệm vụ chi, nguồn thu vào sẽ quyết định sự phân phối nguồn quỹ đó (thực hiện nhiệm vụ chi), nhưng qua việc thực hiện nhiệm vụ chi cũng có tác động lại nguồn thu, nó sẽ tạo động lực cho việc thực hiện tốt nguồn thu, tạo thêm những nguồn thu mới cho phường. Nội dung cụ thể của NSP sẽ được HĐND tỉnh, thành phố đề xuất phù hợp với tình hình phát triển KT-XH của phường, thời kỳ ổn định của nội dung thu chi ngân sách nói chung và NSP nói riêng là trong 3 năm. Sau 3 năm ổn định ngân sách, HĐND tỉnh, thành phố sẽ nghiên cứu, điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế sao cho ngày càng tăng nguồn thu, nâng cao tính chủ động cho NSP; đồng thời, nhiệm vụ chi ngày càng rõ ràng, minh bạch hơn. 1.2.1. Về nguồn thu của ngân sách phường Ngay từ khi Luật NSNN sửa đổi (năm 2002) chính thức có hiệu lực, theo định kỳ 3 năm, nguồn thu của NSP do HĐND cấp thành phố quyết định, phân cấp trong phạm vi nguồn thu NSĐP được hưởng. Thu NSP bao gồm các khoản thu của NSNN phân cấp cho NSP và các khoản huy động đóng góp của tổ chức, cá nhân theo nguyên tắc tự nguyện để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng và thực thi những nhiệm vụ phát triển KT-XH tại phường. Là một bộ phận trực thuộc NSĐP, NSP được HĐND tỉnh, thành phố phân cấp nguồn thu dựa trên ba nguyên tắc cơ bản sau: Một là, phải phù hợp với phân cấp quản lý KT-XH, quốc phòng, an ninh của Nhà nước và chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của cấp phường. Hai là, phải phù hợp với việc phân định nguồn thu giữa NSTW và NSĐP. Ba là, phải căn cứ vào nhiệm vụ chi, khả năng thu từ các nguồn NSNN trên địa bàn; phân cấp tối đa nguồn thu tại chỗ, đảm bảo các phường có nguồn thu cân đối được nhiệm vụ chi thường xuyên, các phường có nguồn thu khá có phần dành để đầu tư phát triển, hạn chế bổ sung từ ngân sách cấp trên, tăng số phường tự đối được ngân sách, giảm dần số phường phải nhận bổ sung cân đối ngân sách từ cấp trên. Về cơ bản, nguồn thu của NSP gồm các khoản thu NSP được hưởng 100%, các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa NSP với ngân sách cấp trên và thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho NSP. Trước hết, là các khoản thu NSP hưởng 100%: Đây là các khoản thu dành cho phường sử dụng toàn bộ để chủ động về nguồn tài chính bảo đảm các nhiệm vụ chi thường xuyên. Căn cứ quy mô nguồn thu, chế độ phân cấp quản lý KT-XH và nguyên tắc đảm bảo tối đa nguồn tại chỗ cân đối cho các nhiệm vụ chi thường xuyên, khi phân cấp nguồn thu, HĐND cấp tỉnh, thành phố đã xem xét dành cho NSP hưởng 100% các nguồn thu từ các khoản phí, lệ phí theo quy định, do cấp có thẩm quyền giao cho phường tổ chức thu theo quy định của luật pháp. Trong đó, phí là khoản tiền mà tổ chức cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được quy định trong danh mục phí. Còn lệ phí là khoản tiền mà tổ chức cá nhân phải nộp khi được cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức được uỷ quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước được quy định trong danh mục lệ phí. Chính quyền cấp phường có quyền quyết định các biện pháp thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển KT-XH và quy hoạch đô thị nên phường cũng được có các khoản thu từ các hoạt động sự nghiệp kinh tế, văn hoá-xã hội trên địa bàn phường, đó là phần nộp vào NSNN theo quy định của pháp luật do phường quản lý. Theo phân cấp, phường quản lý và sử dụng hợp lý có hiệu quả đất công sản được để lại nhằm phục vụ các nhu cầu công ích của phường nên phường còn có nguồn thu đấu thầu, thu khoán theo mùa vụ từ quỹ đất công ích và hoa lợi công sản khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, phường còn được hưởng theo tỷ lệ 100% các khoản huy động đóng góp của tổ chức, cá nhân gồm: các khoản huy động đóng góp theo pháp luật quy định, các khoản đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội do HĐND phường quyết định đưa vào NSP quản lý; nguồn viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho NSP theo chế độ quy định và các khoản thu khác của NSP theo quy định của pháp luật: Thu phạt xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (thu từ các hoạt động chống buôn lậu và kinh doanh trái pháp luật). Thu về quản lý, sử dụng tài sản công do phường quản lý: cho thuê tài sản không cần dùng, thanh lý tài sản… Và cũng như các cấp ngân sách khác, NSP cũng được hưởng 100% nguồn thu kết dư ngân sách từ năm trước. Hai là, các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa NSP với ngân sách cấp trên, gồm nguồn thu từ thuế chuyển quyền sử dụng đất; từ thuế nhà, đất; từ thuế môn bài thu từ các cá nhân, hộ kinh doanh từ bậc 4- bậc 6 trên địa bàn phường và lệ phí trước bạ nhà đất. Đối với các khoản thu trên, tỷ lệ NSP được hưởng tối thiểu là 70%. Căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi của phường mà HĐND cấp thành phố có thể quyết định tỷ lệ NSP được hưởng cao hơn, đến tối đa là 100%. Ngoài ra, phường còn thu thuế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như: thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt (là thuế thu đối với việc sản xuất trong nước thu vào các mặt hàng bài lá, vàng mã, hàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát-xa, karaôkê; kinh doanh gôn bán thẻ hội viên, vé chơi gôn; kinh doanh casinô, trò chơi bằng máy giắcpot). Ba là, nguồn thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho NSP: Hàng năm, căn cứ vào quyết toán ngân sách năm trước, thì HĐND tỉnh, thành phố có bổ sung thêm ngân sách cho phường, khi mà tổng các nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí phân chia theo Luật NSNN đã dành 100% cho phường và các khoản thu NSP được hưởng 100% nhưng vẫn chưa cân đối được nhiệm vụ chi. Nguồn bổ sung này gồm: Thu bổ sung để cân đối ngân sách là khoản thu được xác định trên cơ sở giữa dự toán chi được chuyển giao và các nguồn thu phân cấp (các khoản thu 100% và các khoản thu phân chia theo tỷ lệ %), nếu thiếu được ngân sách cấp trên cấp bổ sung. Số thu này do HĐND cấp quận quyết định sau khi đã báo cáo UBND thành phố để đảm bảo cân đối chung và được giao ổn định trong 3 năm. Hàng nă._.m, được tăng thêm một phần theo tỷ lệ trượt giá do UBND thành phố quyết định. Và thu bổ sung theo mục tiêu được giao hàng năm (không giao ổn định) do UBND quận xem xét trên cơ sở đề nghị của cấp phường và các mục tiêu của ngân sách cấp trên. 1.2.2. Về nhiệm vụ chi của ngân sách phường Chính quyền phường cần thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH, công tác quy hoạch đô thị, giải phóng mặt bằng, bảo đảm trật tự giao thông đô thị, trật tự xây dựng trên địa bàn theo phân cấp quản lý của tỉnh, thành phố; căn cứ vào nguồn thu của mình, chính quyền cấp phường thực hiện chi ngân sách để hoàn thành các nhiệm vụ trên. Những nhiệm vụ chi NSP được thực hiện theo phân cấp quản lý KT-XH của HĐND tỉnh, thành phố gồm nhiệm vụ chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đối với nhiệm vụ chi NSP phục vụ nhiệm vụ đầu tư phát triển là nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng KT-XH của phường từ nguồn huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân cho từng dự án nhất định theo quy định của pháp luật, do HĐND phường quyết định đưa vào ngân sách quản lý. Đối với các khoản chi NSP phục vụ nhiệm vụ thường xuyên, đây là khoản chi chủ yếu của chính quyền cấp phường, phục vụ cho hoạt động của hệ thống chính trị của phường, chi sự nghiệp kinh tế, y tế, văn hoá-thông tin, thể dục-thể thao, dân quân tự vệ, quản lý đô thị…. Một là, các khoản chi phục vụ hoạt động của cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể (Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân) ở phường, gồm: Tiền lương, tiền công, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các khoản phụ cấp khác theo quy định của Nhà nước cho các bộ, công chức cấp phường. Tiền sinh hoạt phí cho đại biểu HĐND, tiền công tác phí cho cán bộ, công chức của phường. Các khoản chi về hoạt động văn phòng, như chi phí điện, nước, văn phòng phẩm, phí bưu điện, điện thoại, hội nghị, chi phí tiếp tân, khánh tiết; chi mua sắm, sửa chữa thường xuyên trụ sở, phương tiện làm việc. Hai là, chi cho công tác dân quân tự vệ, trật tự an toàn xã hội gồm, chi huấn luyện dân quân tự vệ, các khoản phụ cấp huy động dân quân tự vệ, đăng ký tổ chức thanh niên đi làm nghĩa vụ quân sự, đón tiếp quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về, tổ chức hội nghị tập huấn, kỷ niệm ngày truyền thống dân quân tự vệ và các hoạt động khác. Chi tuyên truyền, vận động và tổ chức phong trào quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn (ngoài phần sử dụng quỹ bảo trợ an ninh); hỗ trợ các chiến dịch giữ gìn an ninh trật tự và an toàn xã hội; hỗ trợ công tác phòng cháy chữa cháy; hỗ trợ sơ kết, tổng kết phong trào quần chúng bảo vệ an ninh và các khoản chi khác về dân quân tự vệ thuộc nhiệm vụ chi của NSP theo quy định của Pháp lệnh về Dân quân tự vệ. Chi thực hiện việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, công tác nghĩa vụ quân sự khác thuộc nghĩa vụ chi của NSP theo quy định của pháp luật. Chi tuyên truyền, vận động và tổ chức phong trào bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội, giải phóng mặt bằng, đảm bảo trật tự giao thông đô thị, trật tự xây dựng trên địa bàn phường và các khoản chi khác theo chế độ quy định. Ba là, các khoản chi cho công tác xã hội và hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao do phường quản lý. Theo phân cấp của HĐND tỉnh, thành phố, phường có nhiệm vụ quan trọng là phát triển văn hoá, văn nghệ, thể dục-thể thao, hướng dẫn tổ chức các lễ hội cổ truyền, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh ở địa phương; xây dựng nếp sống văn minh đô thị, chi công tác quản lý dân cư và tổ chức đời sống nhân dân trên địa bản phường. Hàng năm, HĐND phường đưa vào dự toán ngân sách các khoản chi trợ cấp hàng tháng cho cán bộ phường nghỉ việc theo chế độ quy định (không kể tự cấp hàng tháng cho cán bộ phường nghỉ việc và trợ cấp thôi việc 1 lần cho cán bộ phường nghỉ việc từ ngày 01-01-1998 trở về sau do tổ chức Bảo hiểm xã hội chi); chi thăm hỏi các gia đình chính sách, thực hiện chế độ đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, những người và gia đình có công với nước, thực hiện công tác cứu trợ xã hội và vận động giúp đỡ gia đình khó khăn, người già, người khuyết tật, trẻ mồ côi, không nơi nương tựa, biện pháp thực hiện xoá đói, giảm nghèo. Chi chính sách xã hội đối với các đối tượng do phường quản lý, như, chi công tác xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội: mại dâm, ma tuý và các hoạt động xã hội khác do phường quản lý; chi trợ cấp cứu đói, hoả hoạn, thiên tai, mất mùa, tai nạn… Ngoài ra, phường còn có nhiệm vụ chi phục vụ các hoạt động văn hoá-thông tin, thể dục -thể thao, hoạt động truyền thanh do phường quản lý. Bốn là, nhiệm vụ chi cho các hoạt động sự nghiệp, gồm: Sự nghiệp kinh tế, như: Chi duy tu, sửa chữa các tuyến đường, ngõ, ngách; công trình cấp thoát nước công cộng trong các khu dân cư ; các công trình phúc lợi, các công trình hạ tầng cơ sở do phường quản lý như trường học, lớp mẫu giáo, nhà văn hoá, thư viện, đài tưởng niệm, cơ sở thể dục-thể thao... Chi hoạt động giữ gìn vệ sinh, trật tự công cộng và cảnh quan đô thị trên địa bàn phường. Sự nghiệp y tế: Hỗ trợ chi thường xuyên và mua sắm các khoản trang thiết bị phục vụ cho khám chữa bệnh của trạm y tế phường; phòng,chữa bệnh, công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, thực hiện chăm sóc, khám sức khoẻ ban đầu cho người dân, hỗ trợ phường kiểm tra an toàn thực phẩm. Đối với thành phố Hà Nội, nhằm tăng cường vai trò chủ động cho chính quyền phường, HĐND và UBND thành phố Hà Nội đã cụ thể hoá những quy định của Bộ Tài chính bằng Quyết định số 134/2003/QĐ-UB ngày 24-10-2003 về việc ban hành Quy định phân cấp quản lý ngân sách các cấp chính quyền thuộc thành phố Hà Nội. Văn bản quy định, ngoài các nguồn thu NSP của Hà Nội được hưởng như quy định chung, các phường của Hà Nội được hưởng 100% các nguồn thu từ: thuế môn bài thu từ cá nhân hộ kinh doanh từ bậc 4 đến bậc 6 trên địa bàn phường (do Chi cục Thuế của quận UNT cho phường), thuế chuyển quyền sử dụng đất, lệ phí trước bạ nhà đất. Các phường được hưởng theo tỷ lệ điều tiết 32% các khoản thu NSP từ: thuế GTGT thu từ cá nhân và hộ kinh doanh có mức thuế môn bài từ bậc 4 đến bậc 6; thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ cá nhân và hộ kinh doanh có mức thuế môn bài từ bậc 4 đến bậc 6; thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước của cá nhân và hộ kinh doanh có mức thuế môn bài từ bậc 4 đến bậc 6. Đối với nguồn thu theo Pháp lệnh ngày công nghĩa vụ lao động công ích theo Nghị định 81/2000/NĐ-CP của Chính phủ, các phường ở Hà Nội được hưởng 80% tỷ lệ điều tiết với ngân sách cấp trên. Ngoài các nhiệm vụ chi chung, các phường ở Thủ đô Hà Nội còn thực hiện nhiệm vụ chi phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách ở phường và tổ dân phố theo quy định của Nhà nước và của thành phố. Hỗ trợ cho giáo viên mầm non bán công do phường trực tiếp quản lý theo quy định của Nhà nước và hỗ trợ các hoạt động thể dục thể thao trên địa bàn theo quy định của Thành phố. Chi hỗ trợ hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội của phường; Uỷ ban MTTQ (kể cả hoạt động của Ban Thanh tra Nhân dân); hoạt động của Hội Người cao tuổi, Hội Chữ thập đỏ và các tổ chức xã hội của phường theo quy định của pháp luật; hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, hoạt động hoà giải. Chi hỗ trợ hoạt động của các khu dân cư trên địa bàn phường. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu, chi ngân sách phường NSP được hình thành từ rất nhiều nguồn thu phí, lệ phí, thu thuế, thu bổ sung từ ngân sách cấp trên; từ nguồn thu đó, chính quyền phường sẽ tổ chức thực hiện nhiệm vụ chi phục vụ cho mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội của phường. Chính vì vậy, công tác thu, chi ngân sách phường chịu ảnh hưởng trực tiếp của các nhân tố sau: Một là, tình hình phát triển KT-XH trên địa bàn phường. Trong những năm gần đây, với chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, những chính sách phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước, với xu thế thời đại, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, với chủ trương mở rộng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ; mọi người, mọi nhà đều có thể làm kinh tế, chủ động phát triển kinh tế gia đình, nên nhìn chung, các hoạt động kinh tế ở trên địa bàn các phường đã có nhiều thay đổi; mọi điều kiện tự nhiên, xã hội ở trên địa bàn phường được tận dụng để làm kinh tế, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân. Những thay đổi theo hướng trên đã tác động không nhỏ đến nội dung, cơ cấu thu, chi cũng như cơ chế quản lý NSP. Những thay đổi đó đã làm cho cơ cấu nguồn thu đa dạng và phong phú hơn trước, đồng thời đặt ra nhiệm vụ chi của NSP cũng rộng hơn, phức tạp hơn. Đối với những phường có nhiều nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh thương mại, dịch vụ; những phường ở vị trí có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, gần các trường đại học, cao đẳng thì phường đó sẽ có nguồn thu từ thuế môn bài, thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, các khoản thu từ phí, thuế thu từ tiền thuê nhà trọ và các khoản thu khác trên địa bàn lớn hơn các phường khác. Vì vậy, sự phát triển KT-XH trên địa bàn phường không chỉ góp phần tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân địa phương mà còn tăng nguồn thu cho NSP. Hai là, tỷ lệ phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho NSP: Theo Luật NSNN năm 1996, thì các nguồn thu, nhiệm vụ chi của NSP được quy định cụ thể trong luật NSNN, nhưng Luật NSNN sửa đổi năm 2002 (có hiệu lực năm 2004) chỉ quy định chung về những nội dung mà NSP được thu, còn tỷ lệ điều tiết lại do HĐND tỉnh, thành phố quy định phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Ví dụ: Bộ Tài chính quy định chung là NSP được hưởng theo tỷ lệ điều tiết một số nguồn thu, HĐND thành phố Hà Nội đã cụ thể hoá, phân cấp ngân sách cấp phường ở Hà Nội được hưởng 32% nguồn thu từ thuế môn bài, hưởng 100% lệ phí trước bạ nhà đất v.v... Sự phân cấp của địa phương có thể làm tăng hoặc giảm nguồn thu của NSP, phát huy hoặc kìm hãm vai trò, hiệu quả của NSP đối với sự phát triển KT-XH của phường. Nếu nguồn thu của phường, nhất là nguồn thu phường được hưởng 100% tăng lên khi đó, phường được sẽ sở hữu một nguồn vốn lớn , chủ động hơn trong công tác tổ chức quản lý và tiến hành phân phối hợp lý. Ba là, tổ chức bộ máy quản lý thu, chi NSP: Bộ máy quản lý tài chính cấp phường gồm Đảng uỷ phường lãnh đạo chung, HĐND và UBND phường chỉ đạo, tổ chức thực hiện và Ban Tài chính phường là cơ quan tham mưu cho phường về công tác quản lý, sử dụng NSP. Nếu Ban Tài chính phường thực sự có năng lực, được sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng uỷ, sự chỉ đạo bằng chủ trương, chính sách của HĐND và UBND phường, sự phối kết hợp nhịp nhàng với tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Uỷ ban MTTQ v.v.., tăng cường tuyên truyền giáo dục, động viên, khuyến khích nhân dân thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, tích cực phát triển sản xuất kinh doanh, thi đua làm giàu chính đáng thì sẽ giảm được thất thu thuế, hạn chế đối tượng chây ỳ, nợ đọng thuế, từ đó, tăng nguồn thu cho NSP. Khi đó, HĐND và UBND phường phải chỉ đạo Ban Tài chính phường tìm các biện pháp để khai thác nguồn thu, biết tận thu, thu đi đôi với bồi dưỡng nguồn thu sẽ làm cho nguồn thu NSP ổn định và phát triển theo hướng ngày càng tăng. Thực tế, nhiều phường biết sử dụng tốt yếu tố này, coi đây như là một giải pháp quan trọng để tăng thu NSP, như đào tạo và sử dụng cán bộ tài chính phường nhiệt tình công tác, có năng lực chuyên môn; thành lập những đội tuyên truyền giải thích cho bà con “thấu tình đạt lý” nên đã không những chống được thất thu cho NSP, mà còn làm tăng số thu cho NSP. 1.3. Đặc điểm và vai trò của NGÂN SáCH PHƯờNG 1.3.1. Đặc điểm của ngân sách phường NSP là một bộ phận thuộc NSĐP nằm trong hệ thống NSNN, nên NSP cũng có đặc điểm chung là một loại quỹ tiền tệ của cơ quan chính quyền Nhà nước cấp cơ sở. Hoạt động của quỹ này thể hiện trên hai phương diện: huy động nguồn thu vào quỹ (gọi tắt là thu NSP) và phân phối, sử dụng các khoản vốn quỹ đó (gọi tắt là chi NSP). Về cơ bản, nguồn thu sẽ quyết định về số lượng và chất lượng; quy mô và cơ cấu chi NSP. Thực vậy, nguồn gốc của mọi vấn đề chính là sở hữu, khi đã xác định được chủ thể sở hữu của nguồn ngân sách phường là toàn thể nhân dân trên địa bàn, trong đó, chính quyền phường, được đại diện cho người dân tham gia quản lý thì khi đó chính quyền phường sẽ có trách nhiệm trong việc tổ chức quản lý, sử dụng sao cho có hiệu quả nhất lực lượng vật chất này, để ngày càng củng cố hơn nữa niềm tin của người dân vào chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đặc điểm trên, NSP không những là một cấp ngân sách thuộc hệ thống NSNN mà còn là đơn vị dự toán đặc biệt, nên NSP có những đặc điểm cơ bản khác ngân sách cấp trên như sau: Thứ nhất, là hoạt động thu, chi của NSP luôn gắn với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền phường đã được HĐND tỉnh, thành phố phân cấp phù hợp với thực tiễn phát triển KT-XH ở phường; đồng thời, hoạt động này còn chịu sự kiểm tra giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước cấp phường. Thứ hai, là hình thức thu, chi của NSP phản ánh là quan hệ về lợi ích giữa lợi ích chung của cộng đồng cấp cơ sở mà chính quyền phường là người đại diện với lợi ích của các chủ thể KT-XH khác (có thể là tập thể hoặc cá nhân). Các quan hệ lợi ích này phát sinh trong cả quá trình thu và chi NSP. Trong quá trình thu NSP đều có lợi ích giữa các bên, bên thu muốn thu được nhiều để tăng NSP và ngược lại bên bị thu muốn nộp ít hơn để tăng lợi nhuận cho mình; chính quyền cấp phường muốn nguồn thu bổ sung từ ngân sách cấp quận, thành phố là nhiều nhất để thực hiện các nhiệm vụ chi được giao. Đó còn là mẫu thuẫn giữa thực tế nguồn thu và nhu cầu chi ở phường. Các mâu thuẫn này đòi hỏi chính quyền các cấp phải hiểu rõ để từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết thấu đáo, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng NSP. Thứ ba, là các quan hệ thu, chi NSP rất đa dạng và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng số thu hoặc số chi theo từng hình thức chỉ có thể thực thi khi đã được ghi vào dự toán và được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Phần lớn các khoản thu của NSP được thực hiện theo phương thức phân phối lại và không hoàn trả một cách trực tiếp, như chi xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội, các công trình phục vụ hoạt động văn hoá, xã hội, thể dục thể thao của phường; chi thông qua các quỹ phúc lợi xã hội để tổ chức quản lý, nâng cao hơn nữa đến đời sống của người dân trên địa bàn phường nói chung, tới các đối tượng chính sách nói riêng. 1.3.2. Vai trò của ngân sách phường Cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, vai trò của NSP đã có những thay đổi căn bản. Nếu như trước đây, NSP được coi là công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện các chức năng kinh tế thì ngày nay, trải qua các giai đoạn phát triển, NPS đã trở thành công cụ, phương tiện vật chất bằng tiền có tác dụng rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển phường, góp phần quản lý và điều tiết cơ cấu kinh tế trên địa bàn phường, thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý đô thị, xây dựng phường thành đô thị văn minh, hiện đại. Luật NSNN sửa đổi (năm 2002) đã quy định rõ về nguồn thu và nhiệm vụ chi theo hướng tăng nguồn thu cho NSĐP, trong đó có NSP, đã khẳng định vai trò quan trọng của NSP, góp phần giữ vững ổn định chính trị-xã hội, phát triển kinh tế trên địa bàn. 1.3.2.1. Ngân sách phường giúp đảm bảo hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước cấp phường Bộ máy quản lý nhà nước ở cấp phường có chức năng rất quan trọng về quản lý đô thị, quản lý KT-XH v.v.. trên địa bàn, để có nguồn kinh phí trang trải cho các nhiệm vụ trên rất cần một nguồn ngân sách đảm bảo. Trong điều kiện hình thành chính quyền cấp phường và ngân sách cấp phường thì chi phí cho hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước do NSP đảm bảo; nó có vai trò cung cấp các phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước cơ sở. Nhờ có nguồn ngân sách này mà các khoản chi trả lương, sinh hoạt phí, phụ cấp của cán bộ, công chức, viên chức, các khoản chi tiêu cho quản lý hành chính hay mua sắm các trang thiết bị cho văn phòng mới có thể thực hiện được. Thông qua nhiệm vụ chi thường xuyên của NSP mà các hoạt động của hệ thống chính trị ở phường bao gồm cấp uỷ đảng, cơ quan chính quyền và các đoàn thể chính trị-xã hội được duy trì và phát triển một cách liên tục và ổn định. Nhờ đó mà nâng cao được hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở cơ sở. Khi có nguồn NSP đầy đủ, phong phú, phường bố trí các khoản chi tiêu hợp lý để đảm bảo tăng cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt động của chính quyền phường về quản lý pháp luật giữ vững trật tự, trị an, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân, quản lý đô thị, quản lý mọi hoạt động kinh tế, văn hoá, thực hiện các chính sách của phường ... làm cho phúc lợi công cộng của người dân được tăng lên, đảm bảo công bằng xã hội. Vì vậy có thể nói, không có các khoản chi NSP thì bộ máy Nhà nước cấp cơ sở không thể tồn tại và phát triển với tư cách là bộ máy quản lý mọi hoạt động KT-XH trên địa bàn phường. 1.3.2.2. Ngân sách phường là công cụ quan trọng để chính quyền phường thực hiện quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội tại địa phương Với mục đích của nền sản xuất XHCN là đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội có đời sống vật chất và văn hoá ngày càng phong phú, đảm bảo cho họ phát triển và vận dụng một cách tự do những năng khiếu, thể lực và trí lực phục vụ đất nước, trong những năm qua, chính quyền phường đã được giao thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng về quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội, quản lý đô thị, hạ tầng kỹ thuật đô thị; đất đai, môi trường và về quy hoạch, đầu tư xây dựng trên địa bàn phường. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, chính quyền phường luôn phải quan tâm đến việc phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư trên địa bàn phường thông qua các phương án, giải pháp cụ thể, thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về đô thị; tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả các chương trình hỗ trợ của quốc gia, của thành phố và của quận nhằm đẩy nhanh tiến độ phát triển của phường, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế đất nước. Mặt khác, trong bối cảnh hiện nay, chính quyền phường còn là nơi thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy dân chủ ở cơ sở, để nhân dân có thể tham gia mọi hoạt động của phường. Mọi phường bình yên chính là điều kiện cho đất nước yên bình để phát triển. Với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp phường ngày càng được mở rộng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao, thì NSP chính là một yếu tố quan trọng để phục vụ cho chính quyền phường hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thực tiễn phát triển KT-XH trên địa bàn phường cho thấy với một thực lực kinh tế đủ mạnh sẽ cho phép phường hoàn thành tốt các kế hoạch, mục tiêu của mình. Ngược lại, với một nguồn kinh phí ít ỏi, thụ động, trông chờ vào ngân sách cấp trên sẽ làm một cản trở đối với chính quyền phường trong việc đạt mục tiêu mong muốn. Về mặt lý luận ta thấy rằng chỉ khi nào phường được chủ động nguồn ngân sách thì sẽ thực hiện tốt nhiệm vụ tổ chức quản lý và phân phối có hiệu quả nguồn ngân sách này. Vì vậy, “Xây dựng, thực hiện tốt kế hoạch ngân sách xã, phường” [12, tr.13] là một trong nội dung kinh tế quan trọng, quyết định tiềm lực kinh tế và sức mạnh của chính quyền phường. Chính quyền phường tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, nhờ sự tập trung này mà “có cơ sở tạo ra nguồn thu cho ngân sách xã, phường” [12, tr.13], đến lượt mình, “có ngân sách xã, phường sẽ là điều kiện cơ bản cho việc phát triển kinh tế -xã hội ” [12, tr.29]. Vai trò này được biểu hiện qua hoạt động thu, chi NSP: Thông qua hoạt động thu NSP mà các nguồn thu được tập trung nhằm tạo lập quỹ tiền tệ để sử dụng vào các mục đích mà phường được phân cấp quản lý KT-XH, đồng thời giúp chính quyền phường thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác theo đúng quy định của pháp luật. Từ đó, có những điều tiết, kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển đúng mục tiêu và theo một hướng tích cực. Thu NSP còn góp phần vào việc thực hiện đúng các chính sách xã hội, như: đảm bảo công bằng giữa những người có nghĩa vụ đóng góp cho NSP hoặc miễn giảm cho các loại hình sản xuất-kinh doanh mới, chưa ai làm, cần vốn lớn, nhất là những ngành nghề thu hút nhiều lao động của địa phương, đặc biệt là lao động trẻ, giải quyết công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần phát triển kinh tế chung của phường, ổn định an ninh trật tự… Ngoài ra, việc áp dụng đúng các hình thức và mức thu phạt đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm trật tự, an toàn xã hội đã được coi như là một công cụ pháp lý buộc họ phải nghiêm chỉnh thực hiện tốt nghĩa vụ của mình trước cộng đồng xã hội. Như vậy, thu ngân sách có vị trí, vai trò quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu KT-XH tại địa bàn do chính quyền Nhà nước cấp cơ sở quản lý. Đồng thời, xét trên phương diện quan hệ giữa hai mặt hoạt động (thu và chi) của NSP thì thu NSP là nguồn chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu chi ngày càng tăng ở phường, nó mang tính quyết định đến chi NSP bởi vì trên cơ sở có nguồn thu mới có nguồn để bố trí cho nhiệm vụ chi. NSP là một công cụ để điều chỉnh, điều tiết, kích thích mọi hoạt động của phường đi đúng định hướng, đúng chính sách chế độ và tăng cường mục tiêu phát triển KT-XH, thực hiện công bằng xã hội trên địa bàn phường, với các hình thức và mức thu thích hợp, chế độ miễn giảm công bằng thu NSP đã tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn phường. Thông qua hoạt động chi NSP, đặc biệt là chi đầu tư phát triển ở phường trong việc sửa chữa, bảo dưỡng; phối hợp cùng quận xây dựng trụ sở làm việc, khu vui chơi, bêtông hoá đường ngõ, xóm, xây mới hoặc sửa chữa đường thoát nước, thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” theo nguyên tắc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, từ khâu lập dự toán, quyết định đầu tư đến khi công trình bàn giao đưa vào sử dụng, nhằm khai thác mọi nguồn lực, đa dạng hoá hình thức đóng góp của nhân dân, thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển kết cấu hạ tầng ở địa phương. Việc bố trí chi từ NSP cho phát triển văn hoá, thể dục thể thao, y tế đã góp phần nâng cao dân trí, nâng cao sức khoẻ cho nhân dân. Những phát sinh thường ngày liên quan đến sức khoẻ của người người dân địa phương về cơ bản được giải quyết thông qua mạng lưới y tế phường. Chi NSP còn có vai trò góp phần phát triển hệ thống truyền thanh, các di tích lịch sử văn hoá nhằm mở mang văn hoá, nâng cao nhận thức cho người dân, góp phần loại trừ các phong tục lạc hậu và từng bước xây dựng phường văn minh-hiện đại theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bằng việc trợ cấp cho những gia đình khó khăn, chăm lo các gia đình đối tượng chính sách, những công việc tình làng nghĩa xóm, NSP đã tạo điều kiện cho chính quyền thực hiện các công việc xã hội có ý nghĩa sâu sắc và lớn lao để tạo dựng và củng cố thêm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chính quyền cơ sở. Từ những nội dung trên cho thấy NSP có vai trò tích cực tới sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội cũng như công tác quản lý đô thị ở phường. 1.3.3. Nguyên tắc cơ bản trong thu, chi ngân sách phường Với chủ trương phân cấp mạnh về cơ sở, trong những năm qua, các tỉnh, thành phố đã thực hiện phân cấp mạnh nhiệm vụ phát triển KT-XH, quản lý đô thị cho cấp phường, vì vậy, NSP có ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình đối với mọi hoạt động của phường. Với một nguồn ngân sách đầy đủ, dồi dào sẽ giúp chính quyền phường giải quyết tốt nhiều vấn đề phát sinh từ cơ sở, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các vấn đề xã hội như đảm bảo an ninh trật tự, thực hiện phòng chống các tệ nạn xã hội, vấn đề chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân, tạo nhiều khu vui chơi giải trí lành mạnh, bổ ích. Để phát huy tốt vai trò của mình về quản lý nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH trên địa bàn phường, chính quyền phường cần thực hiện nghiêm túc ba nguyên tắc sau để thực hiện tốt mọi nhiệm vụ thu, chi ngân sách: Một là, cần phải tổ chức thực hiện NSP theo nguyên tắc dân chủ, công khai, hiệu quả và tiết kiệm. NSP là một loại quỹ tiền tệ từ nguồn thu trên địa bàn, từ các khoản đóng góp theo quy định và đóng góp tự nguyện của người dân trong phường và các tổ chức; từ nguồn bổ sung cân đối ngân sách cấp trên, đây là nguồn quỹ tiền thuộc sở hữu của tập thể nhưng được giao cho chính quyền phường tổ chức quản lý và phân phối bảo đảm theo đúng quy định của luật NSNN, thực hiện được mục tiêu đề ra, đảm bảo công bằng xã hội. Vì vậy, hàng năm, HĐND phường cần xây dựng dự toán và được cấp có thẩm quyền quyết định, các chương trình, dự án do Nhà nước, tổ chức cá nhân đầu tư trực tiếp cho phường, các khoản tiền uỷ quyền cho phường thực hiện; có tổ chức thanh tra, kiểm tra và phải thông báo kết quả thu, chi ngân sách cho nhân dân biết. Dự án huy động sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân cho NSP để xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội trước khi trình HĐND phường hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định phải lấy ý kiến nhân dân, sau khi thực hiện phải thông báo kết quả cho nhân dân biết. Vấn đề thu NSP được quy định chặt chẽ về thủ tục, những khoản đóng góp thường xuyên hay bất thường của nhân dân trong phường phải được công bố công khai về mục đích thu, chi nguồn ngân sách này. Hai là, mọi khoản thu, chi ở phường phải được phản ánh vào NSP để HĐND phường thảo luận, quyết định và kiểm tra thực hiện; phải thực hiện quản lý qua Kho bạc Nhà nước. Phường không được tuỳ tiện đặt ra các chế độ thu, chi riêng hoặc giữ nguồn thu để lập quỹ riêng ngoài ngân sách trái quy định của Nhà nước. Trong khi nói về quan hệ phân phối và quan hệ sản xuất, C. Mác đã khẳng định: "Theo ý nghĩa là việc điều tiết thời gian lao động và phân phối lao động xã hội giữa những nhóm sản xuất khác nhau và kết thúc việc ghi chép tất cả những khoản đó vào sổ kế toán sẽ trở thành quan trọng hơn bao giờ hết" [24, tr.593]. Luật NSNN quy định: Các tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thu, nộp ngân sách nhà nước, sử dụng vốn, kinh phí ngân sách nhà nước và quản lý các khoản thu, chi tài chính phải tổ chức hạch toán kế toán, lập báo cáo kế toán và quyết toán các khoản thu, chi của ngân sách nhà nước và các khoản thu, chi tài chính theo quy định của pháp luật về kế toán, thống kê theo chế độ kế toán và Mục lục Ngân sách nhà nước [5, tr.49]. Theo quy định, chính quyền phường sẽ tổng hợp kết quả thu của phường từ phí, lệ phí, các nguồn đóng góp của nhân dân và các tổ chức để báo cáo HĐND phường cùng cấp và cấp trên, tiến hành phân bổ các khoản mục chi theo qui định. Đồng thời, mọi khoản thanh quyết toán với cấp trên cũng phải tuân theo quy định của Luật NSNN và công khai qua các cuộc họp để HĐND phường kiểm tra và quản lý. Mục tiêu trong công tác thu, chi ngân sách của mỗi phường là ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng NSP, nghĩa là cần tăng nguồn thu ngân sách, tuy nhiên, không phải chúng ta thực hiện mục đích này bằng mọi cách mà cần tuân theo đúng quy định của Luật NSNN, phù hợp với thực tế của địa phương, phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội… Ba là, cân đối NSP phải đảm bảo chi không vượt quá tổng nguồn thu, kể cả nguồn thu bổ sung từ ngân sách cấp trên (nếu có); nghiêm cấm việc đi vay hoặc chiếm dụng vốn dưới mọi hình thức để cân đối NSP. Nội dung của NSP bao gồm các nguồn thu và nhiệm vụ chi, trong đó, các khoản thu này thường được xây dựng dựa trên phân cấp quản lý KT-XH của phường để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chi thường xuyên theo quy định. Tuy nhiên, nhìn chung, số phường tự cân đối được nhiệm vụ này còn rất ít, nên ngân sách cấp trên vẫn cần bổ sung với mục đích để cân đối NSP giữa nhiệm vụ chi thường xuyên và thu của phường hoặc bổ sung có mục tiêu để thực hiện những chương trình, kế hoạch của quận, của thành phố. Nhưng chính quyền phường cần thực hiện nhiệm vụ chi sao cho không vượt quá tổng thu ngân sách của phường. Trong suốt quá trình thực hiện thu, chi ngân sách phải đảm bảo được sự cân đối, cố gắng chi ít hơn tổng thu, tránh thâm hụt ngân sách để có nguồn kinh phí bố trí chi cho các hoạt động văn hoá, xã hội, phúc lợi của phường. Và tính hợp lý giữa các nguồn lực phát triển, giữa các đơn vị thụ hưởng NSNN. Chương 2 Thực trạng công tác thu-chi ngân sách phường của hà nội trong thời kỳ đổi mới 2.1. những nhân tố ảnh hưởng tới thu, chi ngân sách phường của Hà Nội 2.1.1. Các nhân tố kinh tế - xã hội Hà Nội có vị trí địa lý-chính trị quan trọng, có ưu thế đặc biệt so với các địa phương khác trong cả nước - “là Thủ đô, trái tim của cả nước, đầu não chính trị-hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế” [8] là vùng đất “địa linh nhân kiệt” với lịch sử ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ, kết tinh, toả sáng các giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại của dân tộc. Người Hà Nội thanh lịch, văn minh, tiếp thu nhanh nhạy cái mới, có khả năng sáng tạo những giá trị văn hoá, tinh thần có giá trị. Hà Nội luôn là trung tâm văn hoá của cả nước, hệ thống di sản văn hoá tập trung với mật độ cao, trên địa bàn Hà Nội có 1.744 di tích lịch sử văn hoá (2 di sản/1km2). Hà Nội là một thành phố có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, ngày càng có sức cuốn hút khách du lịch trong và ngoài nước. Trước thời kỳ đổi mới, kinh tế Thủ đô là nền kinh tế tập trung, bao cấp, chậm phát triển, các ngành kinh tế hoạt động cầm chừng, không đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm cho nhân dân, xuất khẩu trì trệ, lạm phát ở mức cao, nhiều tổ chức tín dụng nhân dân bị đổ vỡ. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, Đảng bộ chính quyền thành phố đã quyết tâm đổi mới, từng bước chuyển kinh tế Thủ đô hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN; tập trung chăm lo đời sống của nhân dân và phát triển KT-XH. Sau 5 năm (1986-1990) vừa xây dựng cơ chế, chính sách đổi mới, vừa lựa chọn bước đi phù hợp để tổ chức triển khai, từ năm 1991 đến nay, kinh tế Thủ đô đã phát triển mạnh; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; chính trị-xã hội luôn ổn định; n._.ch vụ, du lịch. Chính quyền các phường cần đầu tư nâng cấp, sửa chữa, cải tạo, xây dựng mới kết cấu hạ tầng xã hội, chợ, bến bãi, để khai thác, tăng nguồn thu, đồng thời, tạo điều kiện cho nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh. Thành phố Hà Nội nên có quy định đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động giữ xe đạp, xe máy trên địa bàn phường có nghĩa vụ nộp vào NSP từ 20-40% tổng số tiền thu từ hoạt động này, tránh hiện tượng mỗi phường thu một kiểu, vừa gây mất trật tự trị an, vừa không tăng nguồn thu cho ngân sách. Từ nay đến năm 2010, thành phố Hà Nội đã có chủ trương trong khu vực nội thành thì cần tập trung giữ gìn di sản văn hoá, lịch sử, cảnh quan thiên nhiên và công trình kiến trúc có giá trị. Cải tạo, sắp xếp lại hệ thống chợ, sắp xếp lại các tuyến phố kinh doanh, tuyến phố đi bộ để tạo môi trường kinh doanh tốt cho người dân trên địa bàn. Đối với các nguồn thu huy động từ các nguồn đóng góp tự nguyện của người dân cần vận dụng phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”; “Dân làm, Nhà nước hỗ trợ” phù hợp với sức dân, phù hợp với điều kiện KT-XH ở mỗi quận, mỗi phường. Ba là, chính quyền phường cần tổ chức thu đúng, thu đủ các nguồn thu NSP. Một trong những tồn tại của các phường hiện nay là vấn đề thu chưa đúng, chưa tận thu và thu đủ các nguồn thu để góp phần tăng thu NSP. Thu NSP đúng được hiểu là thu theo Luật NSNN, thu theo các chính sách thuế qui định. Còn thu đủ NSP là một khái niệm tương đối, tùy thuộc vào tình hình phát triển KT-XH của mỗi phường. Thời gian qua, phần lớn tổng thu của các phường đều tăng và vượt dự toán thành phố, quận giao, nhưng số tăng đó chủ yếu phụ thuộc vào nguồn thu từ đất. Vì vậy, những năm tới, các phường cần tổ chức thu đủ, thu kịp thời các nguồn thu vào ngân sách và huy động sức dân hợp lý, loại bỏ dần những khoản thu bất hợp lý, giảm đóng góp theo bình quân đầu người trên địa bàn phường. Coi trọng số lượng thu hơn là tỷ suất thu (thu 1000VNĐ/toàn bộ số dân hơn là 2000VNĐ/nửa số dân). Triển khai thực hiện tốt Luật quản lý thuế sẽ được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 10, tập trung tổ chức thực hiện thu đầy đủ, kịp thời các luật thuế theo phân cấp, chế độ thu nhằm động viên hợp lý vừa khuyến khích sản xuất kinh doanh, vừa bảo đảm nguồn lực thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH. Để thực hiện thu đúng nguồn thu NSP, thành phố cũng cần đề ra các quy định về các nguồn thu, như để khắc phục tình trạng trông xe trái phép, thu tiền gửi xe cao thì thành phố cần qui định: với các tổ chức, cá nhân muốn trông xe đạp, xe máy cần phải có bảng niêm yết giá, ngoài việc nộp lệ phí cho phường, phải đặt tiền thế chấp và giải quyết đền bù khi xảy ra sự cố mất xe. Đặc biệt, để đảm bảo tính nghiêm minh của các quy định trên, UBND các phường không được đứng ra tổ chức trông xe gây quỹ. Các phường cần quản lý công tác thu thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh, thu thuế môn bài, phân loại đưa vào thu thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp. Hàng tháng, quản lý chặt chẽ các hộ gia đình có đơn xin nghỉ kinh doanh; những hộ thôi kinh doanh, nhưng lại đổi tên khác để giảm thu thuế. Cần định kỳ tổ chức khảo sát, điều tra doanh thu để xác định doanh thu sát thực tế, giảm hiện tượng trốn, lậu thuế, nhất là các cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Phối hợp với Chi cục thuế của quận lập bộ thuế nhà, đất và áp dụng mức thuế đất, kiểm tra diện hộ sử dụng đất trên địa bàn, tổ chức thu 2 kỳ trong một năm, để tránh nợ đọng thuế, làm thất thu nguồn thu NSP. Thường xuyên kiểm tra hoạt động mua bán nhà, đất trên địa bàn; kịp thời thu thuế chuyển quyền sử dụng đất và lệ phí trước bạ nhà đất. Với các khoản phí, lệ phí, các phường lập phương án thu phí vỉa hè, lề đường, bến bãi đỗ xe trên địa bàn để kịp thời triển khai có hiệu quả. Ngoài các nguồn thu theo qui định, Hà Nội còn có một lượng lớn học sinh sinh viên lên thuê nhà trọ học, đây là nguồn thu chưa được quản lý chặt chẽ mặc dù một số phường đã có qui định là mỗi hộ cho thuê nhà giá trên 300.000VNĐ thì phải nộp thuế cho phường, nhưng thực tế vẫn còn nhiều hộ chưa nộp thuế hoặc xây dựng hợp đồng thuê nhà với giá thấp hơn quy định phải đóng thuế, để trốn thuế. Vì vậy, Phòng Tài chính của các quận cần tham mưu giúp các phường xây dựng những qui định, có chế tài hợp lý để chống thất thu từ nguồn thuế này. 3.2.4. Giải pháp chi ngân sách phường theo hướng công khai, minh bạch, tiết kiệm và hiệu quả Đi liền với giải pháp để tăng nguồn thu, chính quyền các phường cần thực hiện nhiệm vụ chi theo hướng công khai, minh bạch, tiết kiệm và hiệu quả. Hiện nay, các phường của Thủ đô được giao thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng, có tác động trực tiếp đến đời sống của người dân trên địa bàn, như nhiệm vụ chi sửa chữa đường giao thông ngõ, xóm; xây dựng, cải tạo các công trình phúc lợi; chi phục vụ công tác quản lý trật tự đô thị,… Mà nguồn thu chủ yếu của NSP là từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh của những tổ chức, cá nhân; thu đóng góp tự nguyện của người dân trên địa bàn phường, nên cần xây dựng và công khai dự toán chi, thực hiện chi theo đúng mục đích phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội, nâng cao điều kiện, cải thiện môi trường sống cho người dân, để chính quyền phường ngày càng thực hiện tốt hơn nhiệm vụ tổ chức đời sống cho dân cư trên địa bàn. Thực hiện chi theo đúng dự toán, đúng định mức và đối tượng, được Thủ trưởng đơn vị hoặc người ủy quyền nhất trí; chi có chứng từ, có sự quản lý chặt nguồn thu. Khâu lập dự toán chi phải sát, đáp ứng yêu cầu thực hành tiết kiệm. Đối với một số nội dung chi trên địa bàn phường không thuộc thẩm quyền của phường, khi triển khai cần có kế hoạch phổ biến, thông báo cho nhân dân trong phường biết. Cần xây dựng cơ cấu chi hợp lý, các phường phấn đấu tăng chi cho sự nghiệp xã hội, văn hoá -thông tin, các hoạt động thể dục thể thao (chiếm khoảng 7-10% tổng chi ngân sách); đẩy mạnh công tác phòng, chống dịch bệnh, công tác bảo vệ cảnh quan môi trường đô thị. Bố trí chi dự phòng ngân sách, bảo đảm chủ động phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, thực hiện những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách phát sinh. 3.2.5. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động thu, chi ngân sách phường Gắn liền với việc tăng các nguồn thu NSP, đảm bảo nhiệm vụ chi minh bạch, hiệu quả, chính quyền cấp phường cần tăng cường các hoạt động kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động thu-chi NSP để đảm bảo tính khách quan, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.. Việc kiểm tra, giám sát trước hết đối với các nguồn thu NSP, HĐND phường và Phòng Tài chính quận cần thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các nguồn thu đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, không để thất thu. Để thực hiện việc này, cần tăng cường củng cố bộ máy thu NSP trên địa bàn phường, đặc biệt, kiện toàn đội thuế của phường để giải quyết tốt về mối quan hệ giữa đội thuế của phường với các bộ phận nghiệp vụ trong Chi cục thuế quận và UBND phường. Thực hiện công khai hoá các khoản thu và mức đóng góp của từng người để dân biết, dân bàn, dân kiểm tra hoạt động thu NSP trên địa bàn. Đối với các nhiệm vụ chi của phường, cần tiếp tục thực hiện tốt việc kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng, chi tiêu NSP trên cơ sở tuân thủ các điều kiện chi, đảm bảo đúng mục đích, đúng chính sách, chế độ, có hiệu quả; đáp ứng được nhiệm vụ chính trị của địa phương, tiết kiệm, chống lãng phí trong chi tiêu. Xây dựng cơ cấu chi tiêu hợp lý, có thứ tự ưu tiên cho các khoản chi cần thiết. Việc kiểm tra, giám sát hoạt động thu, chi NSP chủ yếu do HĐND phường thực hiện. Cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch UBND và Chủ tịch HĐND phường trong việc quản lý và sử dụng ngân sách, thực hiện đầy đủ chế độ công khai ngân sách, phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát của nhân dân, các đoàn thể đối với công tác quản lý, sử dụng NSP. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Tóm lại, cần tăng cường công tác quản lý thu, chi NSP bảo đảm thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí và có hiệu quả; những hoạt động thu, chi NSP cần phải được thực hiện công khai, dân chủ, đồng thời, phải chịu sự kiểm tra, giám sát của các chính quyền Nhà nước có thẩm quyền và chịu sự giám sát của nhân dân. 3.2.6. Thực hiện công tác quản lý gắn liền với việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tài chính ngân sách cấp phường 3.2.6.1. Trong những năm tới, chính quyền các cấp của thành phố cần tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ tài chính ngân sách phường Trước mắt, UBND thành phố cần kiện toàn bộ máy quản lý tài chính-ngân sách phường, kể cả bộ phận theo dõi công tác quản lý NSP của phòng Tài chính quận, có kế hoạch đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về kế toán, tài chính; nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức cho cán bộ tài chính, ngân sách phường. ổn định công tác đối với cán bộ tài chính NSP, sử dụng cán bộ tài chính kế toán lâu dài, không thay thế liên tục, vì hiện nay ở cấp phường, cán bộ kế toán thường được thay theo nhiệm kỳ của HĐND và UBND, rất ảnh hưởng tới việc nắm bắt, quản lý tốt các nguồn thu, cũng như nhiệm vụ chi của phường. Nếu có thể, Thành uỷ, UBND thành phố Hà Nội có thể nghiên cứu, bố trí cán bộ tài chính phường là một đồng chí đảng uỷ viên, vì công tác tài chính-ngân sách có vai trò quan trọng đối với mọi hoạt động của phường. Sở Nội vụ thành phố phối hợp với Phòng Tổ chức chính quyền quận tổ chức thi tuyển cán bộ về công tác tại phường, nhất là cán bộ làm nghiệp vụ tài chính-ngân sách; thực hiện tốt việc thu hút sinh viên tốt nghiệp các trường cao đẳng-đại học về công tác tại phường. Với đặc thù các phường của Hà Nội có nguồn thu ngân sách tương đối cao so với các tỉnh, thành phố trong cả nước, nhưng địa bàn phường phức tạp, vì vậy, Sở Nội vụ cần phối hợp với Sở Tài chính quan tâm nghiên cứu, đề xuất, tìm ra biện pháp thiết thực về chế độ đi học, chế độ phụ cấp và các chế độ đãi ngộ khác đối với cán bộ tài chính-ngân sách cấp phường, cán bộ thuế để khuyến khích họ về điều kiện vật chất cũng như tinh thần để giúp họ yên tâm công tác, nâng cao nghiệp vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 3.2.6.2. Gắn liền với việc bồi dưỡng, quản lý và sử dụng cán bộ tài chính-ngân sách, chính quyền phường cần thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ này Trong mọi thời đại, kiến thức chính là chìa khoá để mở cửa đi vào tương lai, vì vậy, vấn đề giáo dục và đào tạo luôn là vấn đề quan trọng đối với mỗi quốc gia. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở: Tích cực trẻ hoá và từng bước chuẩn hoá đội ngũ cán bộ công chức cơ sở, phấn đấu khoảng 80% cán bộ, công chức chuyên môn có trình độ trung cấp trở lên đối với đồng bằng. Đổi mới căn bản chương trình nội dung và phương pháp giảng dạy với cán bộ cơ sở theo hướng đào tạo căn bản, bồi dưỡng theo chức danh đảm bảo tính thiết thực [17, tr.179]. Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XIV tiếp tục chỉ đạo: “Xây dựng bộ máy chính quyền các cấp thực sự của dân, do dân, vì dân và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức: trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân” [35, tr.98]. Tuy nhiên, thực tế trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này còn nhiều bất cập; cán bộ quản lý tài chính-ngân sách chưa phát huy tốt vai trò chủ động, sáng tạo, khả năng phát hiện và khai thác mọi nguồn thu phát sinh trên địa bàn phường vì đây là những nguồn thu tuy nhỏ nhưng lâu dài, ổn định hoặc là những nguồn thu lớn nhưng đột xuất. Thực hiện được điều đó, sẽ làm cho nguồn thu NSP ngày càng phong phú hơn. Chính quyền phường sẽ thực có nguồn lực tài chính lớn phục vụ cho nhiệm vụ chi xây dựng cơ bản trên địa bàn. Ngày 07-01-2004, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg với mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp phường theo tiêu chuẩn chức danh, trang bị, bổ sung những kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng quản lý điều hành, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức cấp phường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Vì vậy, trong năm năm tới, Trung ương và thành phố cần nghiên cứu biên soạn thêm nhiều bộ chương trình chuẩn về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tài chính phường theo yêu cầu mới, với phương châm gắn kết giữa lý thuyết với thực tế, hướng vào việc đào tạo, bồi dưỡng cách xử lý cụ thể các tình huống phát sinh liên quan đến hoạt động kinh tế, xã hội, tài chính trên địa bàn phường. Các đơn vị trên phối hợp với Sở Tài chính, Phòng Tài chính của các quận tổ chức các hình thức đào tạo dài hạn, ngắn hạn, lớp bồi dưỡng theo chuyên đề phù hợp với trình độ, tính chất công việc của từng cán bộ; tăng cường các kênh giao lưu, phổ biến kinh nghiệm về hoạt động thu, chi ngân sách giữa các phường trong thành phố thông qua hình thức giao ban, trao đổi học tập… 3.2.7. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở Thực hiện chương trình tổng thể của Chính phủ về cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, văn minh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền XHCN, thực hiện Chương trình số 07-CTr/TU về “cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực chính quyền giai đoạn 2001-2005”, Đề án số 32-ĐA/TU “về một số nhiệm vụ trọng tâm về cải cách hành chính trong hai năm 2004-2005”, công tác CCHC đã góp phần từng bước nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền các cấp. Tuy nhiên, hiệu lực quản lý của chính quyền Nhà nước vẫn còn yếu, nhất là chính quyền cơ sở, rõ nhất trong lĩnh vực quản lý đô thị, đất đai, quản lý trật tự đô thị và văn minh đô thị. Mặt khác, nguy cơ tham nhũng, tình trạng quan liêu, mất đoàn kết nội bộ vẫn xảy ra ở nhiều nơi, đây không chỉ là hiện tượng mà đã trở thành quốc nạn, mức độ nghiêm trọng của sự việc trên có xu hướng ngày càng tăng lên, ảnh hưởng không tốt đến uy tín của Đảng; đặc biệt, trong một số lĩnh vực nhạy cảm như tài chính, ngân hàng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến công tác CCHC của thành phố Hà Nội không đạt kết quả tốt là do việc đầu tư phương tiện vật chất và lực lượng để thực hiện CCHC còn ít, vì vậy, trong 5 năm tới, chính quyền Thành phố cần quan tâm đẩy mạnh công tác CCHC, nhất là ở cấp phường, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền phường: Trong những năm tiếp theo, thành phố vẫn tập trung và kiên quyết đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính ở các lĩnh vực trọng tâm, búc xúc, có nhiều quan hệ với công dân và các tổ chức, nhạy cảm với sự phát triển đô thị, như là quản lý trật tự xây dựng đô thị, quản lý nhà đất… Tiếp tục phân cấp mạnh hơn cho phường: Xác định cụ thể những lĩnh vực mà thành phố cần tập trung thống nhất quản lý, đồng thời, phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền quận, huyện, xã, phường, thị trấn theo nguyên tắc: Công việc nào giải quyết tốt hơn thì giao cho cấp đó quản lý; việc gì chính quyền cấp dưới không đủ sức gánh vác thì mới giao cho chính quyền cấp trên liền kề, các sự vụ hành chính hàng ngày nên giao cho chính quyền cơ sở giải quyết, cấp trên chỉ tập trung hướng dẫn, giúp đỡ, kiểm tra cấp dưới thi hành thể chế. [17, tr. 174] Thực hiện cải cách tài chính công vì hệ thống tài chính công luôn gắn liền với hoạt động của khu vực công, có nhiệm vụ phát huy và sử dụng có hiệu quả nguồn NSNN cho hoạt động của bộ máy nhà nước các cấp. Tiếp tục rà soát, sửa đổi các quy định về phí, lệ phí, phân định rõ các loại phí bắt buộc do cơ quan Nhà nước thực hiện khi cung cấp dịch vụ công và phí phải đóng góp do cơ quan Nhà nước thu để bù đắp chi phí, kiên quyết loại bỏ các loại phí thu ngoài chế độ đã quy định hoặc tự đặt ra các khoản thu không đúng với quy định và thẩm quyền được giao. Cải cách thủ tục thuế, mở rộng chế độ tự khai, tự nộp thuế, tăng trách nhiệm của người nộp thuế và cơ quan thu. Xây dựng cơ chế trách nhiệm, gắn với khuyến khích về tinh thần và vật chất đối với cán bộ, công chức làm tốt nhiệm vụ tiếp dân, có chế tài đủ mạnh để xử lý đối với cán bộ, công chức có hành vi gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Bố trí, phân công nhiệm vụ hợp lý cho công chức cơ sở, cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách ở phường; Thực hiện khoán biên chế và chi phí hành chính ở cấp phường. Đi liền với việc đẩy mạnh CCHC là thực hiện tốt QCDC, mở rộng dân chủ ở cơ sở để quần chúng nhân dân đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực của một số ít cán bộ, công chức Nhà nước, công dân coi thường kỷ cương, phép nước. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của đại biểu HĐND, đặc biệt là của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc phường về các hoạt động thu, chi ngân sách của chính quyền phường; thực hiện nghiêm việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ chốt ở phường. 3.2.8. Cải thiện môi trường pháp lý về ngân sách phường bổ sung, xây dựng các văn bản hướng dẫn thu, chi ngân sách phường cấp phường cụ thể hơn Năm năm tới, Trung ương và thành phố cần khắc phục tình trạng có nhiều văn bản pháp luật quy định, hướng dẫn cụ thể về nội dung thu, chi ngân sách các cấp, nhưng lại ít văn bản phục vụ trực tiếp cho cấp phường bằng việc tiếp tục nghiên cứu, ban hành bổ sung thêm những quy định cụ thể hơn, đổi mới cơ chế thu-chi NSP theo hướng minh bạch hoá và đúng pháp luật, vì mục tiêu là để nâng cao hiệu quả sử dụng NSP thì cần gắn liền với mục tiêu phát triển KT-XH, đặc biệt là nền tảng nguồn thu NSP phải ổn định, gắn liền với việc tăng trưởng kinh tế trên địa bàn phường. Để khắc phục những khó khăn, hạn chế, nâng cao hiệu quả sử dụng NSP, chính quyền các cấp cần: Ban hành thống nhất trên toàn thành phố hệ thống các biểu mẫu thống kê, tổng hợp hoạt động thu, chi NSP; các biên lai, phiếu thu thuế, lệ phí, phí để tránh tình trạng mỗi quận, mỗi phường tổng hợp theo một kiểu, thậm chí có những phường thực hiện thu không có biên lai, gây thắc mắc cho người dân. Kiện toàn hệ thống chính sách thuế theo hướng giảm dần thuế suất, giảm chênh lệch giữa các mức thuế, mở rộng phạm vi, đối tượng nộp thuế đảm bảo nguyên tắc công bằng về thuế giữa các đối tượng nộp thuế, các thành phần kinh tế theo bước đi thích hợp, góp phần cải thiện sự công bằng, bình đẳng trong xã hội và tăng nguồn thu cho NSNN nói chung và NSP nói riêng. Tiếp tục coi NSP là một cấp ngân sách độc lập, tính độc lập của nó không thể hiện ở danh mục các khoản chi và các khoản thu giao cho phường theo chế độ phân cấp mà ở chỗ, sau khi được phân cấp nhiệm vụ thu và chi, thì địa phương phải hoàn toàn quyết định ngân sách của mình. Nhưng, như vậy không có nghĩa là chính quyền phường không cần sự chỉ đạo của NSTW, NSP tách khỏi hệ thống NSNN. Trong bất kỳ trường hợp nào, cũng phải đảm bảo sự thống nhất trong hệ thống NSNN. Sự thống nhất này thể hiện ở chỗ: mọi chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức về thu, chi phải do nhà nước quy định bằng pháp luật, hệ thống kế toán, thống kê... thống nhất trong cả nước. Trong giới hạn nhất định, nhà nước có thể cho phép chính quyền địa phương được điều chỉnh một số thuế suất, định mức chi tiêu hoặc thực hiện các nghiệp vụ cần thiết để cân đối ngân sách. Song các nội dung đó được thể hiện rõ ràng, cụ thể trong các văn bản pháp luật: “Các địa phương không được tự ý thay đổi, vượt khỏi giới hạn cho phép”. Cần được xây dựng chế độ thu NSP theo hướng động viên hợp lý các nguồn lực trên địa bàn phường, giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước địa phương-các tổ chức, cá nhân trên địa bàn phường. Cần tập trung hoàn thiện hệ thống thuế theo hướng vừa bảo đảm nhu cầu chi NSP, vừa tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích các hộ gia đình sản xuất, kinh doanh. Tổ chức rà soát và chấn chỉnh việc thu ngân sách theo hướng bao quát tất cả các lĩnh vực mà phường được quản lý; tiếp tục hoàn thiện chế độ thu các loại phí, lệ phí, chế độ huy động các khoản đóng góp của nhân dân. Tăng cường các biện pháp chống gian lận, trốn thuế, lậu thuế bằng việc tăng cường thanh tra, kiểm tra, cưỡng chế hành chính. Rà soát và chấn chỉnh việc ban hành và thu các loại phí, lệ phí trái quy định. Về nhiệm vụ chi NSP, theo hướng minh bạch hoá, hiệu quả, tiết kiệm; thực hiện theo nguyên tắc thu từ thuế và phí phải lớn hơn chi thường xuyên, khi đó, các phường sẽ có nhiều điều kiện dành nguồn vốn tích luỹ cho quỹ dự phòng của mình, chủ động hơn trong thực hiện nhiệm vụ chi. kết luận Từ sự phân tích những nhiệm vụ của chính quyền phường, quá trình hình thành và phát triển của NSP trong 20 năm đổi mới dựa trên những văn bản pháp luật cũng như thực trạng công tác thu, chi ngân sách của các phường trên địa bàn Hà Nội; luận văn đã làm rõ vị trí, vai trò quan trọng, tính tất yếu khách quan của NSP trong hệ thống NSNN, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH của đất nước và của Thủ đô, góp phần tập trung các nguồn lực vật chất phục vụ sự nghiệp phát triển KT-XH của Thủ đô, giảm gánh nặng cho ngân sách cấp quận, cấp thành phố để thành phố tập trung lực lượng vật chất xây dựng kết cấu hạ tầng, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội; thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, thực hiện cho được mục tiêu Hà Nội sẽ phấn đấu về đích trước cả nước 5 năm, trở thành thành phố công nghiệp vào năm 2015. Nhìn lại chặng đường 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là những năm gần đây, có thể khẳng định: thành phố đã thực hiện phân cấp mạnh về cơ sở, nhất là phân cấp nhiệm vụ phát triển KT-XH, phân cấp quản lý ngân sách, tăng cường tính chủ động, sáng tạo cho địa phương. Thành uỷ và UBND thành phố đã chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các văn bản hướng dẫn của Trung ương về thu, chi ngân sách cấp phường. Vấn đề sử dụng ngân sách của các phường ở Hà Nội đã ngày càng có hiệu quả, công tác thu-chi ngân sách bước đầu đã có sự minh bạch, công khai nhất định, thu đúng, thu đủ, tận thu các nguồn thu…NSP đã ngày càng đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình phát triển KT-XH trên địa bàn phường, nhất là công tác quản lý đô thị, giữ gìn trật tự đô thị, văn minh đô thị, xây dựng các phường ở Hà Nội dần trở thành những khu đô thị văn minh, hiện đại, xứng đáng là cơ sở vững mạnh của Thủ đô hiện đại, văn minh. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn đặt ra, những kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế Thủ đô, hiệu quả sử dụng NSP chưa cao, công tác thu-chi ngân sách vẫn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục và đang đặt ra những yêu cầu mới, cấp bách cần phải giải quyết. Đó là, cần xây dựng ngân sách cấp phường bền vững, ổn định, trở thành lực lượng vật chất chủ yếu phục vụ cho mọi hoạt động chính trị, xã hội trên địa bàn, giảm dần trợ cấp của ngân sách cấp trên, làm sao để ngân sách phường ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu chi tiêu của phường, giúp cho chính quyền phường chủ động trong mọi hoạt động, thực hiện tốt những nhiệm vụ mà quận và thành phố giao. Trước yêu cầu đặt ra đối với việc sử dụng nguồn ngân sách cấp phường, tác giả luận văn đã xác định rõ ba quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng NSP trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và Thủ đô. Thực hiện đồng bộ các giải pháp đó, chính là sự vận dụng sáng tạo những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về ngân sách phường. Để tổ chức thực hiện thực sự có hiệu quả các giải pháp trên, phải có sự quan tâm, phối hợp chặt chẽ từ thành phố tới các bộ, ban, ngành chức năng của Trung ương, điều quan trọng có tính chất quyết định nhất là phải có sự phân cấp mạnh mẽ trong quản lý ngân sách của HĐND thành phố, cần tăng nguồn thu NSP được hưởng 100%, tạo nguồn ngân sách cấp phường có tiềm lực mạnh, chủ động bảo đảm cho nhu cầu chi tiêu phục vụ nhiệm vụ phát triển KT-XH, quản lý đô thị trên địa bàn. Đi liền với việc tăng nguồn thu, HĐND thành phố cần giao thêm những nhiệm vụ chi cho chính quyền phường, để cấp phường được chủ động hơn trong chi ngân sách, thực hiện phương châm "quản lý cái gì, chi cái đó". Sử dụng hiệu quả ngân sách phường chính là việc thực hiện thu ngân sách đúng, đủ và chi ngân sách công khai, minh bạch, tiết kiệm, chi đúng nhiệm vụ; mà công tác thu, chi ngân sách phường là một công việc tương đối phức tạp, khó khăn, nó đụng chạm tới lợi ích của một bộ phận dân cư trên địa bàn phường, nó bị cản trở bởi mối quan hệ láng giềng, nó đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ tâm huyết, nhiệt tình, năng nổ, có năng lực và chuyên môn nghiệp vụ. Với bộ máy chính quyền cơ sở vững mạnh, đội ngũ cán bộ lãnh đạo giỏi về quản lý, vững về chuyên môn, nghiệp vụ; đội ngũ cán bộ chuyên viên giúp việc năng nổ, nhiệt tình, tâm huyết cùng với sự quan tâm, tạo điều kiện của Thành uỷ, UBND thành phố Hà Nội và của các quận, chắc chắn trong những năm tới, nguồn ngân sách của phường sẽ ngày càng tăng lên, đảm bảo nhu cầu chi tiêu của phường, giảm dần nguồn bổ sung ngân sách cấp trên; là lực lượng vật chất góp phần quan trọng xây dựng các phường ở Thủ đô ngày càng văn minh, hiện đại, xứng đáng là cấp chính quyền cơ sở vững mạnh của "Thủ đô anh hùng", "Thành phố vì hoà bình”. Danh mục tài liệu tham khảo Bộ Chính trị (2000), Nghị quyết số 15-NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ 2001-2010. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 54-NQ/TW về phát triển kinh tế -xã hội đồng bằng Sông Hồng 2010 và định hướng đến 2020. Bộ Tài chính, (2002), Chỉ thị số 03/2002/CT-TTg về việc tăng cường công tác xây dựng và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tài chính xã, phường, thị trấn. Bộ Tài chính (2001), Tài chính Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, Nxb Tài chính, Hà Nội Bộ Tài chính (2006), Văn bản pháp quy về quản lý tài chính đối với xã, phường, thị trấn, Nxb Tài chính, Hà Nội Bộ Tài chính (2006), Lịch sử Tài chính Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội. Bộ Tài chính (2006), 60 năm Tài chính Việt Nam (1946-2006), Nxb Tài chính, Hà Nội. Chính phủ (2003), Chỉ thị số 03/2003/CT-TTg về việc xử lý các khoản nợ của ngân sách xã Chính phủ (2004), Nghị định số 123/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định một số cơ chế tài chính, ngân sách đặc thù đối với Hà Nội. Phạm Đình Cường (2004), "Phân cấp trong lĩnh vực quản lý tài chính-ngân sách ở Việt Nam", Tài chính, (7), tr.5-17. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2004), Thủ đô Hà Nội 50 năm xây dựng và phát triển. Bùi Tiến Dũng, Dương Danh My (1998), Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính quyền các cấp địa phương trong từng giai đoạn hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH TW (khóa IX), ngày 18/3/2002 về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Hanoinet, (2006), Phân cấp quản lý kinh tế-xã hội, ngân sách: Mở rộng quyền chủ động cho cơ sở. Học viện Hành chính Quốc gia, (2005), Quản lý tài chính ngân sách xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Phạm Đức Hồng, (2002), "Tạo thế chủ động tối đa cho chính quyền cơ sở", Tài chính, (3). V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. C.Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 25, Phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa XHXN Việt Nam, (1997), Luật Ngân sách Nhà nước, Nxb Tài chính, Hà Nội Quốc hội nước Cộng hòa XHXN Việt Nam, (2002), Luật Ngân sách Nhà nước, Nxb Tài chính, Hà Nội Thành uỷ Hà Nội (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa X (1986-1990), Hà Nội. Thành uỷ Hà Nội (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XI (1991-1995), Hà Nội. Thành uỷ Hà Nội (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XII (1996-2000), Hà Nội. Thành uỷ Hà Nội (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XIII (2001-2005), Hà Nội. Thành uỷ Hà Nội, (2001), Chương trình số 07-CTr/TU ,Một số vấn đề về cải cách hành chính nâng cao hiệu lực của chính quyền Thành uỷ Hà Nội (2002), Đề án Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn (16-ĐA/TU), Hà Nội. Thành uỷ Hà Nội, (2005), Hai mươi năm đổi mới ở Thủ đô Hà Nội, định hướng phát triển đến năm 2010, Nxb Hà Nội. Thành uỷ Hà Nội (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XIV (2006-2010), Hà Nội. Thành uỷ Hà Nội, (2006), Chương trình số 04-CTr/TU đẩy mạnh cải cách hành chính góp phần nâng cao hiệu lực chính quyền các cấp giai đoạn 2006-2010 Thành uỷ Hà Nội, (2006), Chương trình số 04-CTr/TU đẩy mạnh cải cách hành chính góp phần nâng cao hiệu lực chính quyền các cấp giai đoạn 2006-2010 ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, (2003), Quy định số 134-QĐ/UBND về việc phân cấp quản lý ngân sách các cấp chính quyền thuộc thành phố Hà Nội, Hà Nội, tháng 10/2003 ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, (2001-2005), Báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách từ năm 2001 đến năm 2005 và dự toán ngân sách từ năm 2002 đến năm 2006, Hà Nội ủy ban nhân dân quận Cầu Giấy, (2004-2005), Báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách của các phường trực thuộc quận trong các năm 2004, 2005 và dự toán ngân sách năm 2005, 2006, Hà Nội. ủy ban nhân dân quận Thanh Xuân, (2004), Báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách của các phường trực thuộc quận trong các năm 2004, 20005 và dự toán ngân sách năm 2005, 2006, Hà Nội ủy ban Thường vụ Quốc hội, (2000), Pháp lệnh Thủ đô, Hà Nội, tháng 12/2000 Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế-xã hội, (2002), Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2010, Hà Nội Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán, (2002), Chế độ Kế toán ngân sách và tài chính xã, Hà Nội, ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2716.doc
Tài liệu liên quan