LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Đất nước ta sau hơn 20 năm đổi mới đã đạt đựoc nhiêu thành tựu to lớn về kinh tế trong đó sự nghịêp công nghiệp hoá_hiện đaị hoá là nhịêm vụ trọng tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá chính là quá trình tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, quá trình cơ khí hoá, hiện đại hoá nền sản xuất, phải được gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động xã hội. Song để làm đuợc điè
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1161 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Ngăn ngừa rủi ro tín dụng đối tượng hộ sản xuất kinh doanh ở chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Đông Sơn - Thanh hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u đó cần phải có những đìều kịên nhất định mà một trong những tiền đề quan trọng là sự tích luỹ về vốn.
Ở nước ta hiện nay, hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng là nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong quá trình đổi mới và tái cơ cấu lại ngân hàng (NH), bên cạnh những sản phẩm, dịch vụ truyền thống, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã từng bước đổi mới hoạt động của mình, chuyển sang kinh doanh đa dạng các sản phẩm dịch vụ, phát triển và ứng dụng các sản phẩm mới trong hoạt động kinh doanh. Tuy vậy hoạt động tín dụng của ngân hàng vẫn được xem là chủ đạo trong hoạt động kinh doanh và chimd tỷ trọng lớn trong lợi nhuận của mỗi ngân hàng thương mại. Hoạt động tín dụng đã góp phần tích cực cho sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh các mặt được của hoạt động tín dụng thì nó cũng bộc lộ những hạn chế và rủi ro mà các Ngân hàng đang phải đối mặt đó là rủi ro tìêm ẩn còn cao, nợ quá hạn (NQH) ngày một gia tăng. Do vậy để hệ thống Ngân hàng Việt Nam phát triển ổn định, vững chắc, an toàn, hiệu quả thì một trong những mối quan tâm hàng đầu là phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại.
Sau một thời gian thực tập, được tìm hiểu về tình hình kinh doanh của NHNNo&PTNT Huyện Đông Sơn em nhận thấy những năm qua hoạt động tín dụng đã mang lại lợi nhuận chính trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Tuy nhiên trong những nam gần đây bắt đầu bộc lộ những đấu hiệu rủi ro trong tín dụng như nợ quá hạn (NQH), nợ khó đòi ngày một tăng cao, những tìm ẩn khác về rủi ro tín dụng đang có xu hướng ra tăng. Vì vậy việc phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng đang trở thành một vấn đề hết sức cấp bách. Một mặt tạo điều kiện nâng cao tính an toàn bền vững trong hoạt động, nâng cao năng lực tài chính và uy tín cho chi nhánh. Mặt khác góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương một cách bền vững và thúc đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước, phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Với những kiến thức tiếp thu được trong quá trình học tập ở trường và đặc biệt sau thời gian thực tập tại chi nhánh NHNNo&PTNT Huyện Đông Sơn, việc tìm hiểu và đưa ra các giải pháp để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và đặc biệt đối với việc hộ sản xuất kinh doanh vay hộ sản xuất kinh doanh nói riêng vì Đông Sơn là huyện trọng yếu lúa. Vì vậy em đã chon đề tài nghiên cứu là “Ngăn ngừa rủi ro tín dụng đối tượng hộ sản xuất kinh doanh ở chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông thôn huyện Đông Sơn – Thanh Hóa”.
2. Mục đích nghiên cứu
_ Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về kinh tế hộ sản xuất.
_ Hệ thống hoá một số vấn đề cơ bản về tín dụng và rủi ro tín dụng NHTM trong nền kinh tế thị trường.
_ Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNNo&PTNT Huyện Đông Sơn nói chung và đối với đối tượng hộ sản xuất nói riêng. Từ đó rút ra một số tồn tại và nguyên nhân dẫn đến rủi ro.
_ Đề xuất các giải pháp nhằm ngăn ngừa rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Đông sơn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế, từ phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tổng hợp; đến phương pháp điều tra, phân tích, diễn giải - quy nạp, phương pháp thống kê, so sánh... qua các thời kỳ để làm sáng tỏ chủ đề; nội dung và mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề:
Những vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng của NHTM, hộ sản xuất.
Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNN&PTNT Huyện Đông Sơn.
Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng nói chung và rủi ro tín dụng đối với hộ sản xuất nói riêng.
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH TẾ HỘ SX
1.1. Bản chất của kinh tế hộ
Thực tế ta thấy rằng ở bất kỳ quốc gia nào có nền nông nghiệp thì ở đó đều tồn tại kinh tế hộ. Như vậy hộ ở đây được hiểu là một hình thưc tổ chức trong kinh doanh nông nghiệp. Và để hiểu rõ được bản chất của kinh tế hộ ta tìm hiểu một số khái niệm về hộ trên những phương diện khác nhau như sau:
Theo một số từ điển chuyên ngành kinh tế thì hộ được hiểu đơn thuần là những người cùng sống trong một mái nhà.
Về phương diện thống kê hộ được hiểu là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và cùng có chung nguồn ngân quỹ.
Nếu chỉ dừng lại ở đây ta hay nhầm khái niệm ‘hộ’ và khái niệm ‘gia đình’ là một, tuy nhiên trong thực tế hai khái niệm này lại đựơc hiểu rất khác nhau.Có thể nói gia đình là cơ sở của hộ. Nó là một loại hình hộ quy mô nhỏ, và nó chứa đựng những nhân tố để hình thành các loại hình hộ mở rộng khác. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến việc trong nhiều tài liệu thường không phân biệt được hai khái niệm trên mà gộp chung là ‘hộ gia đình’.Thực ra khái niệm này là cách nói trùng lặp những nội dung khác nhau của hộ và gia đình.
Từ đó người ta có một khái niệm khá đầy đủ về hộ đó là: ‘hộ là hình thức tổ chức sản xuất bao gồm một hoặc một nhóm người có cùng huyết tộc hoặc có quan hệ huyết tộc sống chung trong một mái nhà, có chung một nguồn thu nhập và cùng tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh’.
Như vậy ở khái niệm trên ta cần lưu ý một số điểm sau về hộ:
-Hộ là một nhóm người có cùng huyết tộc hay quan hệ huyết tộc;
-Họ cùng sống chung dưới một mái nhà;
-Có chung một nguồn thu nhập và ăn chung. Ăn chung ở đây không chỉ có ý nghĩa ăn thông thường mà còn hàm ý phân phối chung nguồn thu nhập mà các thành viên của hộ làm ra được trong một khoảng thời gian nhất định;
-Cùng tiến hành sản xuất chung.
Qua những hiểu biết về hộ ta có thể xây dựng khái niệm kinh tế hộ như sau: Kinh tế hộ là tổng thể các quan hệ kinh tế trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ bao gồm quan hệ kinh tế nội bộ, quan hệ kinh tế giữa các hộ với nhau, và quan hệ kinh tế giữa kinh tế hộ với các cơ quan quản lý vĩ mô.
Như vậy kinh tế hộ là một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, sản xuất kinh doanh trên cơ sở sức lao động,nguồn vốn và những tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của các thành viên trong hộ.
Ta phải biết rằng kinh tế hộ trong nông nghiệp nông thôn không phải là kinh tế nông hộ. Kinh tế nông hộ có phạm vi hẹp hơn, nó là một loại hình của kinh tế hộ. Xét về lĩnh vực hoạt động, kinh tế nông hộ chỉ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp); còn kinh tế hộ bao hàm cả kinh tế nông hộ và các loại hình kinh tế hộ khác như hộ ngành nghề, hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề, hộ làm dịch vụ….
Ngày nay khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì kinh tế hộ cũng xuất hiện ngày càng nhiều hộ sản xuất hàng hoá với quy mô ngày càng lớn.
1.2. Đặc điểm của kinh tế hộ
Từ sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị năm 1988, kinh tế hộ là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh, là đơn vị kinh tế cơ bản nhất ở nông thôn. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế hộ. Tính tự chủ được biểu hiện:
-Nó là chủ thể kinh tế kinh doanh theo luật pháp và bình đẳng trước pháp luật.
-Nó tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
-Hộ được giao quyền sử dụng đất lâu dài và được vay vôn để sản xuất kinh doanh.
-Có quyền tham gia hợp tác với các loại hình kinh tế khác theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.
Chính các quyền tự chủ trên đã găn kết lợi ích với trách nhiệm và quyền lợi của kinh tế hộ. Đây chính là động lực thúc đẩy kinh tế hộ phát triển.
Về trình độ sản xuất: hiện nay trình độ sản xuất kinh doanh của các hộ chủ yếu còn ở mức thấp, sản xuất thủ công là chính, máy móc còn ít, mô hình sản xuất giản đơn, tổ chưc sản xuất còn mang tính tư phát - chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu thị trường, quy mô sản xuất còn nhỏ, người lao động chưa được đào tạo bài bản. Đồng thời hộ vẫn chủ yếu hoạt động sản xuất kinh doanh theo tính chất truyền thống và thường bị chi phối bởi những phong tục tập quán của làng quê. Trình độ ứng dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất cũng như việc sử dụng hiệu quả các nguồn nội lực đều còn gặp phải nhiều hạn chế.
Về tổ chức: hộ bao gồm các thành viên chủ yếu có quan hệ thân thuộc với nhau, ít lao động thuê ngoài, tuỳ thuộc vào mùa vụ trong sản xuất. Trong sản xuất kinh doanh, chủ hộ là đại diện cũng như là lao động (lđ) trực tiếp, chịu trách nhiệm và tự giác trong các hoạt động của hộ. Vì vậy chủ hộ thường là người lớn tuổi vẫn còn khả năng lao động và có uy cũng như có khả năng quản lý trong gia đình.Do cách thức tổ chức như vậy mà kinh tế hộ có sự thống nhất chặt chẽ giữa việc sở hữu, quản lý, sử dụng các yếu tố sản xuất, có sự thống nhất giữa quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và sử dụng, tiêu dùng trong một đơn vị kinh tế. Do thống nhất về lợi ích nên có sự gắn kết tính tự nguyện, tự giác cao trong lao động.
Về nhân lực: hộ chủ yếu sử dụng nguồn nhân lực tự có (các thành viên có khả năng lao động trong gia đình). Đây là nguồn nhân lực ở quy mô gia đình được huy động để tăng gia sản xuất. Một số hộ sản xuất hàng hoá có thể thuê thêm lao động, đó có thể là lao động thời vụ cũng có thể là lao động thường xuyên nếu hộ đó có quy mô sản xuất lớn. Nhưng trong nông nghiệp nước ta hiện nay với quy mô kinh tế hộ còn nhỏ thêm vào đó là tính mùa vụ trong nông nghiệp khá cao nên việc thuê lao động thường xuyên chiếm tỷ lệ rất ít, chủ yếu hiện nay lao động trong nông nghiệp là lao động được thuê vào những lúc mùa vụ bận rộn.
Về quy mô sản xuất: hộ thường sản xuất sản phẩm, dịch vụ có quy mô nhỏ, ở mức gia đình và trang trại là chủ yếu. Có nhiều lý do cho vấn đề này nhưng chủ yếu là do điều kiện về nguồn vốn; về khả năng quản lý còn yếu; công nghệ sản xuất lạc hậu, chủ yếu các sản phẩm sản xuất ra còn ở dưới dạng thô hoặc chế biến thủ công nên sức cạnh tranh trên thị trường yếu.
Về khả năng quản lý: khả năng quản lý của hộ nói chung còn nhiều hạn chế. Việc quản lý và tổ chức sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm được tích luỹ trong cuộc sống chứ vẫn chưa có một lớp, một chương trình nào đào tạo một cách bài bản về quản lý cũng như cách sản xuất cho khoa học trong nông nghiệp. Và trong kinh tế hộ thì chủ hộ thường thống nhất quản lý mọi yếu tố từ nguyên vật liệu, sản xuất và tiêu thụ cho nên đôi khi nó không đảm bảo được tính hiệu quả của việc quản lý.
Về nguồn vốn sản xuất: chủ yếu là vốn tự có với quy mô nhỏ. Đây là nguồn vốn có được do tiết kiệm tích luỹ được; hoặc do vay mượn của bạn bè người thân quen. Đến nay khi các chính sách tín dụng của ngân hàng ngày càng quan tâm đến việc phát triển hộ cũng như ngày càng đơn giản hoá thủ tục vay mượn, thì đã có nhiều hộ sản xuất với quy mô lớn và kế hoạch sản xuất hợp lý đã dần tiếp cận được với vốn tín dụng ngân hàng.
Ngoài ra kinh tế hộ sản xuất kinh doanh có sự gắn bó chặtt chẽ đối với đặc tính của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn.Cụ thể như đối tượng sản xuất của hộ chủ yếu thuộc lĩnh vực nông nghiệp, tính đa dạng, phức tạp về chủng loại, thời gian sống của các loại cây - con đã quyết định tính đa dạng, phức tạp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ. Vì vậy nó dẫn đến tính thời vụ trong sản xuất, sử dụng vốn trong nông nghiệp. Do đó nó đòi hỏi tính chuyên môn hoá phải kết hợp với đa dạng hoá trong nông nghiệp.
2. RỦI RO TRONG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
2.1. Khái niệm rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng
2.1.1. Rủi ro và sự tồn tại tất yếu trong nền kinh tế thị trường
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về rủi ro đựơc các nhà kinh tế học đưa ra nhưng chúng đều thống nhất ở một nội dung là coi rủi ro là những bất trắc xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gây nên những thiệt hại cho doanh nghiệp.
Nghiên cứu rủi ro trong kinh doanh chúng ta thấy rằng, trong hoạt động kinh doanh luôn chứa đựng những rủi ro và những rủi ro này có thể tác động trực tiếp đến kết quả doanh lợi và là nguy cơ dẫn đến sự phá sản của các doanh nghiệp bất cứ lúc nào. Nhưng không vì thế mà chúng ta hoảng sợ, không dám kinh doanh, vì không chấp nhận rủi ro thì không thể có lợi nhuận cao bởi lẽ mọi kế hoạch kinh doanh có khả năng thu lợi nhuận lớn thì luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhưng rủi ro quá lớn thì có thể đưa người kinh doanh vào thế bị phá sản. Do vậy việc thừa nhận có rủi ro trong kinh doanh và tìm kiếm nhiều phương pháp ngăn ngừa rủi ro là đòi hỏi xuất phát từ yêu cầu của sự tồn tại và phát triển trong kinh doanh. Để đứng vững trên thương trường, các doanh nghiệp không còn con đường nào khác là phải đương đầu với rủi ro có thể xảy ra để tìm biện pháp phòng ngừa, hạn chế nhằm giảm tối đa thiệt hại do rủi ro gây nên.
2.1.2. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Như chúng ta đã biết rủi ro luôn luôn tiềm ẩn trong các hoạt động của đời sống xã hội nói chung và trong hoạt động kinh doanh nói riêng, trong đó có hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Ngân hàng có hoạt động đặc thù là huy động nguồn tiền nhàn rỗi từ công chúng để kinh doanh ( dưới hình thức cho vay hoặc đầu tư vào các tài sản sinh lời…) và cung ứng các dịch vụ thanh toán, vì vậy hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn những rủi ro .
Rủi ro là khả năng dẫn đến những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không thực hiện đúng các nghĩa vụ của họ trong các giao dịch với ngân hàng.
Xuất phát từ quan điểm và nhận thức trên, yêu cầu đặt ra cho chúng ta là phải tìm cách giải bài toán khó khăn và phức tạp này mà mục tiêu là tối thiểu hoá rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
2.2. Phân loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Một ngân hàng trong nền kinh tế thị trường phải đối mặt với nhiều loại rủi ro. Nhưng trong bài viết này chúng ta nghiên cứu một số rủi ro mà các ngân hàng thương mại đặc biệt quan tâm sau:
2.2.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro xảy ra khi mà khoản tiền cấp cho khách hàng sử dụng mà ngân hàng không thu dược đầy đủ cả gốc và lãi khoản vay hoặc việc thanh toán nợ gốc và lãi vay không đúng kỳ hạn và nội dung thoả thuận.
2.2.2. Rủi ro lãi suất
Trong hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay. Để huy động được vốn, ngân hàng phải trả một khoản chi phí gọi là lãi suất huy động vốn, và khi cho vay sẽ thu phí gọi là lãi suất cho vay, như vậy lãi suất cũng là một loại giá cả. Trong cơ chế thị trường giá cả luôn biến động theo quan hệ cung cầu, nên lãi suất cũng biến đổi. Thiệt hại do rủi ro lãi suất gây ra làm chi phí cho nguồn vốn lớn hơn chi phí sử dụng vốn, nếu tình trạng này kéo dài dẫn đến thua lỗ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Như vậy rủi ro lãi suất là những biến động do biến động lãi suất đối với hoạt động tài chính ngân hàng. Rủi ro lãi suất bắt nguồn từ mối quan hệ qua lại của tài sản có, tài sản nợ và các hợp đồng ngoại bảng. Cơ cấu tài sản có và tài sản nợ sẽ quyết định tình thế rủi ro lãi suất của một ngân hàng . Tình thế rủi ro lãi suất phụ thuộc vào mức độ mất cân đối về thời lượng giữa tài sản có và tài sản nợ. Chẳng hạn ngân hàng dùng tài sản nợ ngắn hạn có lãi suất thay đổi để đầu tư vào tài sản nợ dài hạn có lãi suất cố định, thì lãi suất ngắn hạn tăng lên, chi phí ngân hàng sẽ tăng trong khi thu nhập ở tài sản dài hạn vẫn giữ nguyên.
Ngoài ra lạm phát tăng cũng ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng do lãi suất buộc phải điều chỉnh tăng lên.
Rủi ro lãi suất liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng còn xảy ra khi ngân hàng ký hợp đồng cho khách hàng vay theo lãi suất cố định tại thời điểm ký hợp đồng, song đến khi giải ngân cho vay thì lãi suất huy động vốn tăng lên, nhưng ngân hàng không tăng được lãi suất cho vay. Hoặc ngân hàng ký hợp đồng cho vay theo lãi suất thả nổi, khi đến kỳ hạn giải ngân vốn vay, lãi suất thị trường giảm xuống nhưng chi phí bình quân lãi suất huy động vốn vẫn ở mức cao. Rủi ro lãi suất còn được hiểu là do lãi suất thả nổi, đến kỳ giải ngân lãi suất tăng cao, gây rủi ro trả nợ cho ngân hàng. Do đó trong quản trị điều hành rủi ro tín dụng cần hết sức quan tâm đến rủi ro lãi suất.
2.2.3. Rủi ro hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền tính ra một đồng tiền khác. Rủi ro hối đoái là do sự biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền. Trong nên kinh tế thị trường, tỷ giá luôn biến động. Với biến đổi của tỷ giá hối đoái, bất kỳ một khoản nợ nào dù thời hạn dài hay ngắn, đối với một đồng tiền nhất định, đều có thể tạo ra cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hối đoái. Rủi ro hối đoái liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng khi khách hàng vay vốn ngoại tệ, bán đi lấy nội tệ, hoặc kinh doanh nhập khẩu nhưng không cân đối được vốn ngoại tệ phải mua trên thị trường, đến khi trả nợ thì tỷ giả tăng cao, gây rủi ro cho khách hàng và cho ngân hàng. Trường hợp rủi ro hối đoái cũng liên quan trực tiếp đến tín dụng đối với ngân hàng khi không cân đối được nguồn ngoại tệ để cho vay, ngân hàng thương mại luôn ở trong trạng thái “ Trường” hay “ Đoản” về một loại tài sản ngoại tệ nào đó.
2.2.4. Rủi ro nguồn vốn
Rủi ro nguồn vốn thường xảy ra dưới hai hình thức:
- Rủi ro do ứ đọng vốn: Tức là nguồn vốn huy động của ngân hàng bị ứ đọng không cho vay được, cũng như không thể chuyển sang được các loại tài sản sinh lời khác.
Như chúng ta đã biết một trong các hoạt động của ngân hàng thương mại là “ đi vay để cho vay” nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nếu số tiền huy động ngân hàng không sử dụng hết ( tức lượng tiền dự trữ vượt mức cần thiết mà không sinh lời ) thì đến kỳ hạn ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn huy động, các chi phí nghiệp vụ và chi phí quản lý. Điều này dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh ngân hàng không khắc phục có thể dẫn đến đóng cửa ngân hàng.
- Rủi ro do thiếu vốn: Do việc chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn không nhịp nhàng dẫn đến ngân hàng không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, nếu ngân hàng không có biện pháp kịp thời để đảm bảo khả năng thanh toán mà không có cách giải quyết kịp thời để đảm bảo khả năng thanh toán thì rất dễ dẫn đến rủi ro thanh toán và ngân hàng dễ phá sản.
2.2.5. Rủi ro thanh khoản
Trong nền kinh tế thị trường các NHTM luôn phải duy trì một mức dự trữ nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán hiện tại, đột xuất nảy sinh trong tương lai. Khi ngân hàng không đảm bảo khả năng thanh toán mà không có cách giải quyết kịp thời dễ dẫn đến hiệu ứng dây chuyền trong việc rút tiền và làm cho ngân hàng có thể phá sản.
3. RỦI RO TÍN DỤNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA RỦI RO TÍN DỤNG
3.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường hệ thống ngân hàng được ví như hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt, lành mạnh và hiệu quả là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và sử dụng hiệu quả…, kích thích tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, thì rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi, mà đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng rất nhạy cảm nó có phản ứng dây truyền, lây lan và ngày càng có biểu hiện phức tạp. Sự sụp đổ của ngân hàng có ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ đời sống – kinh tế – xã hội của một quốc gia và có thể lan rộng sang quy mô quốc tế.
Đối với ngân hàng, cung ứng tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản, thường mang lại thu nhập chính cho ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật trên và nó luôn chứa đựng những rủi ro. Vậy rủi ro tín dụng là gì? Ta có thể hiểu rõ rủi ro tín dụng như sau:
Rủi ro tín dụng là: Khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho khách hàng . Cụ thể hơn, rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả được đúng nợ với ngân hàng xét trên cả hai khía cạnh: số lượng và thời gian. Do đó, rủi ro tín dụng có thể phân thành:
- Rủi ro mất vốn: Khi khách hàng không hoàn trả một phần hoặc toàn bộ khoản tín dụng ( Xét trên khía cạnh số lượng ). Từ đó làm giảm vốn tự có của NHTM dẫn đến giảm sức mạnh tài chính của ngân hàng ( Mất vốn chỉ có thể khấu trừ vào vốn tự có của ngân hàng ).
- Rủi ro vốn bị ứ đọng: Khi khách hàng không có khả năng hoàn trả đúng hạn làm cho các khoản cho vay của ngân hàng bị bất động hoá. (xét trên khía cạnh thời gian). Từ đó gây ra những chi phí cơ hội cho ngân hàng. Phần nguồn vốn đã huy động để cho khách hàng vay cần phải trả lãi ( trả lãi tiền gửi, trả lãi cho các giấy tờ có giá, trả lãi các khoản vay, trả cổ tức cho cổ đông…) nhưng lại không tạo được nguồn thu tương ứng.
Rủi ro tín dụng là nguyên chủ yếu dẫn tới việc các ngân hàng bị phá sản. Rủi ro tín dụng luôn tồn tại với hoạt động tín dụng, chúng ta không thể giảm nó xuống bằng không mà chúng ta phải chấp nhận sự tồn tại của nó. Nhưng không có nghĩa rằng chúng ta không quan tâm đến rủi ro, mà chúng ta cần có biện pháp để phòng ngừa hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Hạn chế rủi ro tín dụng là tổng thể các biện pháp nhằm giảm thiểu những thiệt hại cho ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Các biện pháp này sẽ được trình bày rõ hơn ở phần sau.
3.2. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
* Đối với ngân hàng
- Tăng chi phí, giảm lợi nhuận trong hoạt động ngân hàng:
Trong hoạt động ngân hàng chi phí là một yếu tố quan trọng để thực hiện các nghiệp vụ. Thông thường chi phí cho các hoạt động ngân hàng bao gồm: chi phí trả lãi cho khách hàng gửi tiền, chi phí mua sắm phương tiện, thiết bị phục vụ hoạt động của ngân hàng, điện sáng, điện thoại… Khi rủi ro tín dụng xảy ra để bù đắp được những khoản tín dụng gặp rủi ro đòi hỏi ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay, dẫn đến có ít khách hàng vay vôn hơn và làm giảm lợi nhuận trong kinh doanh của ngân hàng.
Khi rủi ro xảy ra ngân hàng không thu được số vốn như dự kiến do vậy không quay vòng được vốn, mất cơ hội đầu tư các dự án khả thi, làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
- Giảm khả năng thanh toán của ngân hàng:
Rủi ro tín dụng xảy ra, làm cho ngân hàng không thu hồi được gốc lãi số vốn đã cho vay, do vậy làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Nếu tình trạng này kéo dài có thể làm ngân hàng mất khả năng thanh toán và phá sản.
- Suy giảm uy tín của ngân hàng:
Rủi ro tín dụng xảy ra phản ánh hiệu quả kinh doanh, quản lý của ngân hàng kém, lòng tin của khách hàng với ngân hàng giảm, chính là giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường. Nó tác động mạnh nhất tới nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng làm giảm quy mô hoạt động của ngân hàng. Uy tín ngân hàng giảm cũng làm giảm lòng tin đối với các tổ chức tài chính tiền tệ trên thế giới. Do vậy ngân hàng khó khăn trong việc quan hệ vay vốn, thiết lập quan hệ đại lý với các tổ chức đó
* Đối với hộ sản xuất
- Tín dụng ngân hàng góp phần tác động đến các đơn vị sử dụng nguồn vốn vay của ngân hàng có hiệu quả. Nguồn vốn từ tín dụng ngân hàng là một nguồn tài chính giúp các hộ kinh doanh có đủ vốn để phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ, thúc đẩy sản xuất hàng hoá. Ngoài ra còn góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn và ổn định sản xuất, phục hồi và phát triển các làng nghề truyền thống. Đối với các hộ thiếu vốn đầu tư thì một trong những cách huy động vốn nhanh nhất là vay của ngân hàng.
Do đó rủi ro tín dụng tại các ngân hàng sẽ làm cho hộ ít có cơ hội vay vốn, rất có thể nhiều phương án kinh doanh khả thi sẽ bị bỏ qua- Rủi ro tín dụng xảy ra nhiều sẽ làm niềm tin giữa các hộ và ngân hàng bị suy giảm, làm cho quan hệ tín dụng căng thẳng, thủ tục vay vốn ngày càng chặt chẽ, là rào cản đối với các hộ làm ăn chính đáng.
* Đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung và điều hoà nguồn vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế, tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá và chu chuyển tiền tệ. Nhờ đó mà thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh.
Tín dụng ngân hàng là công cụ chủ yếu để tài trợ, đầu tư cho các nghành kinh tế then chốt và các ngành các vùng kinh tế kém phát triển. Thông qua hệ thống ngân hàng, luồng tiền được chuyển từ những nơi nguồn vốn nhàn rổi sang những nơi cần vốn đầu tư, thức đẩy sự phát triển cân đối giữa các vùng, miền…
Nhờ có tín dụng ngân hàng trên cơ sở cho vay mở rộng sản xuất, phát triển ngành nghề, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện mục tiêu chính sách xã hội của nhà nước. Đây là một nhiệm vụ khó khăn và quan trọng đối với mọi Nhà nước. Các ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc kết hợp với chính phủ giải quýêt nhiệm vụ này.
Do vậy rủi ro tín dụng xảy ra trên phạm vi rộng cũng tạo ra rủi ro cho nền kinh tế, nền kinh tế không có mức tăng trưởng cao hoặc sự phát triển kinh tế không đồng điều giữa các vùng, miền và cũng không thể giúp Nhà nước thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội.
4. NGUYÊN NHÂN GÂY RA RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG
4.1. Nguyên nhân khách quan
4.1.1.Nguyên nhân do chính sách của Nhà nước: Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý cùng với các chính sách của nhà nước nhiều khi dẫn đến những rủi ro tín dụng. Có thể thấy rất rõ điều này thông qua xem xét những khúc mắc trong hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam:
- Sự chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ;
- Quyết định thường xuyên thay đổi trong thời gian ngắn ( ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp vay vốn)
4.1.2.Môi trường kinh tế
Yếu tố điển hình được đề cập là chu kỳ kinh tế. Rủi ro tín dụng thường xảy ra khi nền kinh tế suy thoái. Ví dụ, khi nền kinh tế suy thoái, các ngân hàng đặc biệt gặp nguy hiểm với các khoản cho vay các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá tiêu dùng cao cấp có độ bền cao như ôtô, tủ lạnh,…, các khoản cho vay bất động sản… Lý do đơn giản bởi thời kỳ này, người tiêu dùng thường cắt giảm các khoản chi tiêu thiết yếu như thực phẩm. Nền kinh tế Nhật Bản cùng với các ngân hàng của nước này lại là một minh chứng cho sự ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế đối với hoạt động ngân hàng.
4.1.3. Thông tin không cân xứng, Rủi ro đạo đức, nguyên nhân bất khả kháng
- Thông tin không cân xứng: Quan hệ tín dụng giữa khách hàng là quan hệ kinh tế, vì vậy phát sinh nhu cầu trao đổi và thu thập thông tin giữa các bên. Tuy nhiên trong thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau xảy ra tình trạng thông tin không cân xứng. Ngân hàng thường không có đầy đủ thông tin về khách hàng như: quan hệ bạn hàng, kế hoạch sản xuất kinh doanh, quan hệ thanh toán, tình hình tài chính, tiêu thụ sản phẩm…
Khách hàng không có đầy đủ thông tin về ngân hàng: quy mô, các dịch vụ đáp ứng, phương thức tài trợ phù hợp, giá cả thực tế…
Việc thiếu thông tin trong các giao dịch này sẽ đưa đến lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Do thông tin không cân xứng do vậy thay vì sự lựa chọn những khách hàng có khả năng trả nợ cho ngân hàng thấp, gây rủi ro cho ngân hàng.
- Còn đối với rủi ro đạo đức, người vay sau khi nhận được khoản tiền vay thực hiện những hoạt động trái với cam kết đưa đến khó có thể hoàn trả vốn vay, gây rủi ro cho ngân hàng.
- Nguyên nhân bất khả kháng: ở đây có thể kể đến những thiên tai, hoả hoạn, người vay đột tử… nó có thể tác động trực tiếp tới hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của khách hàng, làm cho hoạt động kinh doanh khách hàng giảm sút, gặp khó khăn. Từ nguyên nhân đó dẫn đến khả năng trả nợ cho ngân hàng sẽ giảm và có thể dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Việc ứng dụng những thành tựu công nghệ đã đem lại nhiều thành công cho Ngân hàng, trong đó bao gồm cả hoạt động cho vay.
Phát hành thẻ tín dụng, cấp các khoản tín dụng thông qua máy cho vay tự động, sử dụng những phần mềm quản lý khách hàng (MIS), cho phép khách hàng được nối mạng với máy tính Ngân hàng để ra lệnh mở thư tín dụng …thực sự đã góp phần tạo ra một diện mạo mới trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng. Tuy nhiên nhiều rủi ro tín dụng cũng phát sinh từ đây:
- Rủi ro cạnh tranh: Khi một công nghệ dịch vụ tài chính ra đời, các công ty phi tài chính có thể mua nó dễ dàng. Sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các đối thủ mới này góp phần khiến Ngân hàng dường như vội vã hơn trong các hoạt động cho vay. Điều này đặc biệt nghiêm trọng khi Ngân hàng tăng cường cho vay tiêu dùng trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng để rồi không thu hồi được nợ khi kinh tế suy thoái. Nhật Bản là chứng minh cho rủi ro này;
- Việc phát triển của các máy cho vay tự động ( thông qua hệ thống chấm điểm tín dụng tự động ) làm thay đổi quy trình một cách tích cực. Tuy nhiên những thông tin từ phía người vay rất có thể không chính xác mà hệ thống máy móc không thể nhận ra được. Ví dụ: người vay có thể bị giảm sút trong thu nhập mà hệ thống thông tin của Ngân hàng chưa cập nhật được. Để có được khoản vay, người vay sẽ che giấu thông tin trên, và hệ thống máy tính của Ngân hàng thông qua việc chấm điểm tín dụng và trên cơ sở chiết xuất thông tin từ (MIS) sẽ chấp nhận đơn xin vay trên mà không hề biết rằng rủi ro tín dụng đang chờ đợi Ngân hàng;
- Sự bùng nổ thẻ tín dụng cũng làm tăng rủi ro tín dụng. Điều này lý giải vì sao cho vay tiêu dùng ngày càng là một loại hình cấp tín dụng vô cùng rủi ro.
4.2. Nguyên nhân từ phía người vay
Khách hàng của NHTM có thể chia thành 4 loại: Cá nhân, hộ sản xuất và doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác và chính phủ. Với mỗi loai khách hàng này, do có những đặc tính khác nhau nên việc tạo ra rủi ro tín dụng từ họ cũng khác nhau. Sau đây chúng ta chỉ xem xét hai đối tượng phổ biến nhất của Ngân hàng đó là cá nhân và doanh nghiệp.
4.2.1. Khách hàng là cá nhân
- Người vay bị thất nghiệp nên không đảm bảo được mức thu nhập như đã dự kiến ban đầu.
- Người vay gặp những sự cố bất thường trong cuộc sống cũng là một nguyên nhân gây rủi ro tín dụng cho Ngân hàng.
- Do người vay hoạch định ngân quỹ không chính xác, không dự tính hết được các khoản chi tiêu dẫn đến xác định sai thu nhập có thể sử dụng để trả nợ Ngân hàng.
4.2.2. Khách hàng là các hộ sản xuất, doanh nghiệp
a. Rủi ro phi tài chính: Phản ánh mục đích sử dụng vốn và việc khách hàng có thiện chí trong việc vay trả nợ Ngân hàng cũng như những biến động bất ngờ ảnh hưởng đến hoạt động bất ngờ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh:
- Rủi ro đạo đức: khách hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích;
- Khách hàng có “tính ăn cắp tại tâm” cũng gây thiệt hại đáng kể cho Ngân hàng. Nhiều vụ lừa đảo, lập hồ sơ giả, dự án giả để vay vốn Ngân hàng đã, đang và sẽ còn diễn ra.
- Do những thay đổi bất ngờ, ngoài ý muốn của các điều kiện sản xuất kinh doanh, chẳng hạn như biến động về giá cả, thị hiếu,…từ các thị trường cung cấp và thị trường tiêu thụ.
b. Rủi ro tài chính: phản ánh khả năng thực hiện các nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi vay cho chủ nợ.
Các hộ sản xuất kinh do._.anh chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện tự nhiên, vì vậy khi gặp những biến động xấu về tự nhiên, thời tiết thì dễ bị thiệt hại. Các hộ còn sản xuất kinh doanh trên cơ sở kinh nghiệm là chính. Vì thế còn gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh và nó biểu hiện cụ thể ở các khía cạnh sau:
- Khách hàng trong việc tận dụng các nguồn lực để tạo ra doanh thu yếu;
- Khả năng tiêu thụ sản phẩm suy giảm;
- Khả năng trang trải các chi phí tài chính có thể biểu hiện xấu;
- Khả năng thanh toán của khách hàng có vấn đề;
- Tình hình biến động về khả năng sinh lợi về thu nhập theo thời gian có chiều hướng suy giảm;
- Quy mô nợ đòn bẩy (nợ so với vốn cổ phần) không hợp lý, doanh nghiệp sử dụng vốn vay quá nhiều để tài trợ cho hoạt động kinh doanh thì rủi ro tài chính sẽ tăng lên.
- Khách hàng phải đối mặt với những khoản trả bất thường làm gia tăng nhu cầu thanh toán tiềm năng trong tương lai.
Tất cả 8 yếu tố trên, cán bộ tín dụng có thể đánh giá thông qua việc phân tích, tìm hiểu phương án kinh doanh của hộ.
4.3. Nguyên nhân do bản thân Ngân hàng
- Chính sách tín dụng không hợp lý. Ngoài ra, trong thể lệ cho vay có những sơ hở để khách hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn của Ngân hàng.
- Cán bộ Ngân hàng không chấp hành đúng quy trình cho vay, quyết định cho vay thiếu thông tin sát thực.
- Thiếu sự giám sát tín dụng – một phần vì thiếu kiến thức về hoạt động của người vay.
- Sự cạnh tranh (Ngân hàng mong muốn có tỷ trọng cho vay nhiều hơn các Ngân hàng cạnh tranh. Điều này có thể dẫn đến cho vay quá mức, tức là cho vay quá khả năng có thể chi trả của người vay)
- Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh, như thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn rồi vay ké, xâm tiêu khi giải ngân hay khi thu nợ.
4.4. Nguyên nhân từ các bảo đảm tín dụng
4.4.1. Trường hợp có bảo đảm bằng tài sản
- Có 3 yêu cầu đối với các bảo đảm tài sản là: Dễ định giá; dễ cho Ngân hàng quyền được sở hữu hợp pháp; dễ tiêu thụ hay thuận tiện.
- Với các Ngân hàng nói chung dù cho vay có tài sản bảo đảm nhưng vẫn có rủi ro. Chẳng hạn một ngôi nhà được đưa ra thế chấp nhiều khi không thể thoả mãn được các yêu cầu trên.
- Ở Việt Nam còn có rủi ro là Ngân hàng gặp khó khăn trong việc tiếp cận, nắm giữ các tài sản bảo đảm để xử lý chúng.
4.4.2. Trường hợp bảo đảm đối nhân (bảo lãnh)
Bảo lãnh là sự bảo đảm gián tiếp có 3 bên tham gia, trong đó bên thứ ba, tức là bên bảo lãnh, đồng ý chịu trách nhiệm về khoản nợ cho bên thứ hai là khách hàng của Ngân hàng nếu người này không trả được nợ cho bên thứ nhất là Ngân hàng. Vấn đề chủ yếu của người bảo lãnh là dù Ngân hàng có cố gắng giải thích về trách nhiệm trả nợ tiềm tàng đến đâu,người bảo lãnh không bao giờ chờ đợi là sẽ được gọi để trả tiền. Nếu việc đó xảy ra thì có thể quan hệ giữa người bảo lãnh và Ngân hàng sẽ trở nên căng thẳng; có thể khó thuyết phục họ trả tiền nếu không kiện họ ra toà, mà việc này Ngân hàng chỉ tiến hành khi không còn cách nào khác.
5. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
5.1.Xây dựng chính sách tín dụng hiệu quả
Chính sách tín dụng của NHTM là một hệ thống các biện pháp nhằm mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay của một NHTM, nhằm các mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận cao, sự an toàn và lành mạnh. Đây là cơ sở quản lý cho vay, đảm bảo hiệu quả vốn tín dụng, chính sách cho vay cần quy định cụ thể trong việc xem xét các loại khách hàng có thể cho vay, tiêu chuẩn Ngân hàng có thể cho vay.
Nếu một Ngân hàng quá quan tâm đến chính sách tăng trưởng tín dụng thì rủi ro tín dụng sẽ cao vì khi đó mục tiêu tăng trưởng tín dụng sẽ nới lỏng điều kiện vay vốn, việc lựa chọn khách hàng không chặt chẽ. Ngược lại với chính sách tín dụng thắt chặt thì việc lựa chọn khách hàng sẽ khắt khe và chỉ cho vay các khoản tín dụng an toàn, đảm bảo chắc chắn.
Thông qua chính sách tín dụng, các Ngân hàng cũng định hướng cho mình lĩnh vực khuyến khích cho vay và lĩnh vực hạn chế cho vay, đồng thời xây dựng cơ cấu dư nợ một cách hợp lý để phát triển bền vững.
5.2.Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng
Các Ngân hàng cần bố trí, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định có năng lực, trình độ, am hiểu về kiến thức kỹ thuật – kinh tế –xã hội, có khả năng tổng hợp, phân tích, đánh giá được thông tin để đưa ra các quyết định tín dụng đúng đắn.
Bên cạnh việc thẩm định cán bộ làm công tác thẩm định cũng cần tham gia tìm hiểu và tư vấn cho khách hàng đang hoạt động.
5.3.Nâng cao chất lượng giám sát tín dụng và xếp loại khách hàng
Giám sát tín dụng trong đó là một quá trình thu thập, xử lý những thông tin tài chính cũng như phi tài chính của khách hàng và đưa ra các giải pháp(nếu cần).
Đối với cán bộ tín dụng, những thông tin tài chính nói chung dễ tiếp cận hơn ( qua các báo cáo tài chính, qua diễn biến thị trường – thị trường cổ phiếu, thị trường đầu vào, dầu ra của doanh nghiệp, qua các phương tiện thông tin đại chúng…). Tuy nhiên, vấn đề sẽ được nhấn mạnh ở đây là giám sát tín dụng thông qua thu thập các thông tin phi tài chính.
Việc cán bộ tín dụng đi khảo sát, nghiên cứu tại cơ sở của người vay sẽ giúp ích rất nhiều trong việc thu thập thông tin có tính chất định tính về khách hàng, không thể hiện được những cơ số cụ thể nhưng lại giúp hình dung khá rõ ràng về tình trạng hiện thời của khách hàng. Có những mẹo nhỏ tưởng chừng đơn giản, nhưng hiệu quả mang lại rất lớn, nếu cán bộ tín dụng có khả năng và óc phân tích tốt, chẳng hạn:
- Quan sát tình hình hoạt động ở kho bãi, văn phòng: mọi người có vẻ vội vã hay không? Nhà kho có lộn xộn không? Các loại hàng hoá có bị phủ bụi như thể nằm trên giá hàng năm trời không?…
- Chú ý chỗ làm việc của nhân viên kế toán: Có gì chứng tỏ nhân viên kế toán ở đay được kiểm soát chặt chẽ không?; phương tiện làm việc của họ là gì, máy tính hay một đống giấy tờ?
- Quan sát thật kỹ văn phòng của người chủ doanh nghiệp, ông chủ có quan tâm đến mọi sự vụ trong doanh nghiệp, từ việc đặt hàng với người cung ứng tới việc xuất kho bán ra cho khách hàng hay không? Thái độ của nhân viên ra vào văn phòng thoải mái, kính cẩn hay sợ sệt? Hồ sơ tài liệu xếp trong tủ kính có khoá, chất đống lên bàn làm việc hay được bố trí ngăn nắp trong tầm với?
- Tiếp xúc với cả những cán bộ thuộc lớp lãnh đạo kế cận: Đánh giá xem khả năng kế thừa trong quản trị điều hành doanh nghiệp như thế nào? vì một nhà lãnh đạo giỏi có thể ốm đau, về hưu nên không thể tiếp tục đảm nhiệm vai trò lãnh đạo doanh nghiệp nữa, trong khi ngân hàng đang muốn xây dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài.
- Rất nhiều cán bộ tín dụng chỉ đến thăm qua loa nơi làm việc của khách hàng và do vậy, đã bỏ qua những cơ hội ngàn vàng để nắm bắt những thông tin về doanh nghiệp mà hoàn toàn không thể tìm thấy trong các báo cáo tài chính và nghiên cứu thị trường, từ những thông tin này có thể đánh giá tư cách người vay; khả năng lãnh đạo tình hình kinh doanh hiện tại cũng như tương lai phát triển của doanh nghiệp.
Sau khi thu thập được các thông tin về khách hàng thì bước tiếp theo là phải sử lý chúng. Với vác thông tin thu thập được cán bộ tín dụng sẽ phân tích rõ điểm mạnh và yếu hiện tại của doanh nghiệp. Từ đó có thể tư vấn hoặc có những biện pháp cần thiết để giảm thiểu rủi ro tín dụng nếu nó có nguy cơ xuất hiện và có thể gây thiệt hại cho ngân hàng.
Xếp hạng khách hàng: Thông qua tiêu thức xếp loại khách hàng, ngân hàng có chính sách tín dụng thích hợp. Đối với những khách hàng xếp loại cao, có uy tín ngân hàng sẽ có chính sách tín dụng ưu đãi ( lãi suất, tài sản bảo đảm,…) ngược lại loại khách hàng xếp loại thấp ngân hàng cần thắt chặt các điều kiện tín dụng.
5.4. Xây dựng và sử dụng hiệu quả quỹ dự phòng rủi ro tín dụng
Trích lập quỹ dự phòng rủi ro được coi là một trong những biện pháp quan trọng để hạn chế rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng. Do rủi ro là điều tất yếu xảy ra trong kinh doanh của các NHTM, các NHTM không thể giảm nó xuống bằng không, do vậy để giảm bớt tổn thất khi rủi ro xảy ra các NHTM cần trích lập một quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Việc sử dụng các quỹ đó như sau:
- Quỹ dự phòng rủi ro đặc biệt: Dùng để bù đắp các khoản rủi ro khi ngân hàng làm ăn thua lỗ do những nguyên nhân khách quan mang lại.
- Quỹ dự phòng tổn thất tín dụng: Dùng để bù đắp các khoản tổn thất tín dụng do khách hàng gây nên.
5.5. Giải pháp phân tán rủi ro
“ Không được đặt quá nhiều trứng vào một rổ” là câu châm ngôn luôn được nhắc đến trong hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Cụ thể phương châm cho vay của ngân hàng sẽ bao gồm:
Không nên tập trung cho vay một lĩnh vực;
NHTM không nên dồn vốn đầu tư vào một hoặc vài khách hàng;
Cho vay hợp vốn;
Đa dạng hoá danh mục tài sản sinh lời.
5.6. Áp dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
Trong phần trước chúng ta đã chứng minh rằng bằng việc đa dạng hoá hoạt động cho vay, ngân hàng có thể giảm thiểu phần lớn rủi ro cá biệt của danh mục cho vay. Tuy nhiên loại rủi ro hệ thống, ví dụ như chu kỳ kinh tế, lạm phát… thì không thể phân tán được vì chúng ảnh hưởng đến danh mục cho vay của ngân hàng. Khi nền kinh tế đi vào suy thoái, nhiều khoản cho vay rơi vào tình trạng không trả được nợ, ngược lại, trong thời kỳ tăng trưởng, kinh doanh tăng trưởng sản xuất và phần lớn các khoản nợ được thanh toán đầy đủ. Từ những lý do trên, các ngân hàng hiện đại thường sử dụng các hợp đồng tương lai và quyền chọn để phòng ngừa các rủi ro mang tính hệ thống trên.
PHẦN II
THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNN&PTNT HUYỆN ĐÔNG SƠN
TỈNH THANH HOÁ
1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN, CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỦA NHNO&PTNT HUYỆN ĐÔNG SƠN TỈNH THANH HOÁ
1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên – xã hội trên địa bàn huyện Đông Sơn tác động đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
1.1.1. Điều kiện tự nhiên - xã hội
Huyện Đông Sơn là Huyện trọng điểm lúa nằm trong Vùng Đồng bằng của tỉnh Thanh Hoá, kề cận với Thành phố Thanh Hoá, cách Trung tâm thành phố Thanh Hóa 5 km về phía Tây. Có 21 đơn vị hành chính gồm: 19 xã và 2 Thị trấn.
Có diện tích tự nhiên: 106,35 km2, bằng 0,95% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Dân số 112.952 người (dân số trung bình năm 2007), chiếm 3,16% dân số cả tỉnh; mật độ dân số: 1.028 người/km2, là một trong 7 huyện, thị xã, có mật độ dân số cao nhất toàn tỉnh (gấp trên 3,1 lần mật độ dân số trung bình cả tỉnh), với tổng số hộ là 27.800 hộ trong đó có 5.674 hộ nghèo, chiếm20,4% số hộ trên địa bàn. Hộ gia đình ở khu vực nông thôn được cấp giấy phép kinh doanh là 872 hộ, chiếm 3,1% số hộ trên địa bàn. Hộ gia đình sản xuất theo làng nghề là 95 hộ. Trong đó số hộ có quan hệ tín dụng với ngân hàng là7.957 hộ chiếm 28,6% tổng số hộ trên địa bàn
Đông Sơn là huyện trọng điểm lúa của tỉnh Thanh Hoá, có tổng diện tích gieo trồng là 13.680 ha tăng 0,7% so với cùng kỳ năm 2006, trong đó đất nông nghiệp là 6.080 ha, đất lâm nghiệp là 16 ha. Diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 221,65 ha tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2006 Đông Sơn là một huyện được thiên nhiên ưu đãi về nguồn tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là tài nguyên khoáng sản từ đá và đất.
Khoáng sản từ đá được phân bố trên tổng số 10/21 xã, có ở các xã Đông Hưng, Đông Quang, Thị trấn Nhồi, Đông Nam… với trữ lượng khá lớn và có chất lượng cao đáp ứng cho nhu cầu sản xuất vật liệu xây dựng và đồ mỹ nghệ xuất khẩu.
Tài nguyên khoáng sản từ đất được sử dụng làm vật liệu xây dựng như: gạch, ngói, gốm, sứ… có ở nhiều xã như Đông Phú, Đông Văn, Đông Vinh, Đông Quang…
Nguồn tài nguyên dồi dào này đã tạo điều kiện cho phát triển ngành nghề khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng, bên cạnh đó cũng tạo điều kiện cho các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ có điều kiện phát triển.
1.1.2. Điều kiện về kinh tế
* Sản xuất nông nghiệp
Là huyện thuần nông chiếm tỷ trọng cao, đã chỉ đạo đổi mới cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ, cải tiến kĩ thuật canh tác, xây dựng thêm cơ sở phục vụ cho sản xuất, chăn nuôi tiếp tục phát triển. Đến năm 2007 có nhiều chỉ tiêu đã đạt được và vượt kế hoạch được giao, cụ thể:
- Tổng sản lượng lương thực đạt được là 61.834 tấn.
- Tổng đàn trâu 630 con giữ mức ổn định.
- Tổng đàn bò 12.950 con tăng 42,44% so với cùng kì năm 2006.
- Tổng đàn lợn 40.516 con giảm 11% so với cùng kì năm 2006.
* Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Đã chú trọng tập trung quy hoạch khu công nghiệp, làng nghề, hướng các doanh nghiệp vào sản xuất tập trung, ổn định lâu dài. Giá trị hàng hóa hàng năm có tốc độ tăng trưởng khá, đạt 126.030 triệu đồng đến năm 2007 tăng lên 25.000 triệu đồng. Giá trị xuất khẩu 3,726 triệu USD dến năm 2007 đã đạt được 8 triệu USD, trên địa bàn đã xây dựng nhà máy gạch Tuynen vào năm 2003 đã tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần vào sự phát triển kinh tế trên địa bàn.
* Về đầu tư cơ sở hạ tầng
Huyện đã chỉ đạo các xã , thi trấn huy động vốn cho xây dựng trường học cao tâng, trạm y tế, đường giao thông, kien cố kênh mương với tổng giá trị đầu tư cơ bản năm 2003 là 55.889 triệu đồng đến năm 2007 đã tăng lên đến 225.575 triệu đồng.
* Về thu chi ngân sách
Tổng ngân sách đạt được trong năm 2007 là 33.538 triệu đồng, bằng 113% Kế hoạch.
Nhìn chung Đông Sơn vẫn là huyện thuần nông, tỷ trọng sản xuất nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế còn lớn, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển song còn chậm, không đều, sản phẩm làm ra tiêu thụ chậm, giá cả vật tư đầu vào cho sản xuất và tiêu dùng tăng cao, giá đầu ra cho sản phẩm không ổn định, tính cạnh tranh thấp gây khó khăn cho người sản xuất.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của NHNN&PTNT Huyện Đông Sơn - Tỉnh Thanh Hoá
NHNo & PTNT Đông Sơn – Thanh Hoá được thành lập năm1951 với tên gọi ban đầu là Chi điếm ngân hàng Nhà nước Đông Sơn. Thời kỳ này ngân hàng Đông Sơn là một ngân hàng cơ sở, đảm nhận nhiệm vụ huy động vốn tiết kiệm và thực hiện chức năng cung ứng vốn tiền mặt cho toàn bộ cơ quan hành chính sự nghiệp và đơn vị sản xuất trên địa bàn huyện. Lúc này ngân hàng thực chất là thay ngân sách Nhà nước cấp phát vốn tiền mặt cho các đơn vị theo kế hoạch.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì nền kinh tế nước ta bắt đầu có sự chuyển biến lớn. Từ đây hoạt động của ngân hàng cũng có sự thay đổi, phát triển mạnh mẽ về quy mô, số lượng. Ngày 26/03/1988 Hội đồng bộ trưởng ra Nghị định 53/HĐBT về việc tổ chức bộ máy ngân hàng Nhà nước. Đây là sự kiện lớn làm thay đổi căn bản hệ thống tổ chức và hoạt động của ngân hàng Nhà nước ta kể từ ngày được thành lập. Kể từ đây hệ thống ngân hàng từ thành phố tới quận, huyện một mặt chuyển dần sang hoạt động hạch toán kinh doanh, mặt khác tiến hành các công việc để đổi mới mô hình, tổ chức bộ máy của ngân hàng. Ngày 01/09/1988 chi nhánh NHNo và PTNT Đông Sơn chính thức đi vào hoạt động theo mô hình tổ chức và chức năng nhiệm vụ mới như quy định của nghị định 53/HĐBT và chi nhánh là đơn vị trực thuộc ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Những năm đầu, Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn bởi lúc này nền kinh tế có lạm phát cao, tổ chức mô hình chưa ổn định, xây dựng các cơ chế, quy chế,quản lý kinh doanh của từng hệ thống Ngân hàng còn chưa đồng bộ, còn nhiều mâu thuẫn chồng chéo, cộng thêm sự khó khăn về cơ sở vật chất, kỹ thuật nghèo, lạc hậu, trình độ quản lý và kinh doanh còn nhiều hạn chế.
Đứng trước thực trạng đó, Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn phải đối mặt với những khó khăn không dễ vượt qua, nhưng thực tế cho thấy, không phải vì thế mà hoạt động của Ngân hàng kém hiệu quả, trái lại nhờ sự cố gắng, không ngừng phấn đấu vươn lên làm công tác huy động vốn, đầu tư tín dụng có hiệu quả cuă mọi thành viên trong Ngân hàng, đã nâng vị thế Ngân hàng và có được Ngân hàng kinh doanh theo chiều hướng tốt như ngày hôm nay.
Để làm được điều đó thật không dễ và cần phải có một quá trình, mục tiêu, phương hướng… chuẩn xác thì mới thành công, cụ thể: Ngân hàng luôn luôn xác định muốn tồn tại và phát triển được thì phải đổi mới về cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất phải được nâng cấp phải được trang bị đầy đủ và hoàn thiện hơn, áp dụng công nghệ tin học vào Ngân hàng, hơn nữa các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu và đem lại sự thuận tiện, an toàn cho khách hàng, đổi mới phong cách làm việc của cán bộ nhân viên Ngân hàng, nâng cao chất lượng phục vụ.
Cùng với sự nỗ lực đó, Ngân hàng đã tích cực huy động vốn để cho vay tăng dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn, mở rộng tỷ trọng cho vay trung dài hạn, đa dạng hoá các loại hình đầu tư, nhằm xác định thu lợi nhuận, giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo của địa phương, đồng thời ổn định kinh tế xã hội.
1.3. Cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn
1.3.1.Cơ cấu tổ chức
Từ việc xây dựng hướng đi, lấy nông nghiệp nông thôn làm thị trường chính, lấy đơn vị kinh tế hộ, doanh nghiệp vừa và nhỏ làm đối tượng khách hàng chủ yếu, Ngân hàng đã mở rộng mạng lưới hoạt động rộng khắp taọ điều kiện thuận lợi cho công tác huy động vốn và cho vay của Ngân hàng.
Mỗi thành công mà Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn đạt được cần phải kể đến vai trò trong bộ máy quản lý Ngân hàng trong việc bố trí người lao động để phát huy tối đa năng lực của từng người, muốn hiểu rõ hơn ta sẽ tìm hiểu cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn.
Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên trong Ngân hàng có 36 thành viên, trong đó:
- Cán bộ nhân viên làm tín dụng có 19 thành viên;
- Cán bộ nhân viên làm kế toán, ngân quỹ, hành chính 14 thành viên;
Ban lãnh đạo có 3 thành viên; 1 giám đốc, 2 phó giám đốc.
Cơ cấu phòng ban của Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn được thể hiện qua sơ đồ sau:
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
PHÒNG TÍN DỤNG (KINH DOANH)
PHÒNG KẾ TOÁN NGÂN QUỸ
TỔ
HÀNH CHÍNH
PHÓ GIÁM ĐỐC
Sơ đồ cơ cấu tổ chức NHNo và PTNT Đông Sơn:
Mỗi phòng có một chức năng nhiệm vụ riêng nhưng có cùng tinh thần đoàn kết, ý thức trách nhiệm cao bảo đảm cho hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn mỗi ngày một ổn định và vững chắc, đời sống nhân viên ngày càng được nâng cao.
Như vậy, với bộ máy gọn nhẹ, đội ngũ cán bộ nhân viên Ngân hàng có trình độ, Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn chiếm lĩnh một thị trường đáng kể trên địa bàn, xây dựng mối quan hệ gắn bó với khách hàng truyền thống, tạo cơ sở vững chắc cho Ngân hàng phát huy sức mạnh tổng hợp tạo niềm tin đối với khách hàng.
1.3.2. Chức năng nhiệm vụ chung của Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn
Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn là một chi nhánh cấp hai của NHNo&PTNT Việt Nam, do vậy mọi hoạt động của chi nhánh đều phải tuân thủ điều lệ hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam. Theo quyết định của hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam ban hành quy chế về tổ chức và hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam. Chi nhánh cấp hai của NHNo&PTNT Việt Nam có các chức năng nhiệm vụ sau:
- Huy động vốn;
- Cho vay;
- Cung ứng các dịch vụ thanh toán ;
- Kinh doanh các dịch vụ Ngân hàng khác được Ngân hàng Nhà nước và NHNo & PTNT Việt Nam cho phép.
Các dịch vụ Ngân hàng khác bao gồm: thu phát tiền mặt; mua bán vàng bạc, máy rút tiền tự động; dịch vụ thẻ, két bạc, nhận bảo quản cất giữ, chiết khấu các thương phiếu và các lo.....
2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHỦ YẾU TẠI NHNN&PTNT HUYỆN ĐÔNG SƠN
2.1. Công tác huy động vốn
Nguồn vốn của NHTM là cơ sở để tổ chức mọi hoạt động kinh doanh, quyết định đến quy mô hoạt động của ngân hàng nói chung và quy mô của tín nói riêng, do vậy nó quyết định đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Ngân hàng có nguồn vốn kinh doanh lớn sẽ có ưu thế trên thị trường.
Nếu nguồn vốn của NHTM lớn thì ngân hàng có thể thõa mãn tối đa nhu cầu vay vốn của khách hàng trên thị trường mà vẫn có đủ dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả thì ngân hàng có uy tín trên thị trường, cũng như giúp cho việc giữ vững giá trị đồng tiền, đảm bảo tình hình lưu thông tiền tệ ổn định. Ngược lại nếu nguồn vốn NHTM hạn hẹp thì quy mô cho vay của ngân hàng đó không thể lớn và lợi nhuận thu được sẽ ít, kết quả kinh doanh bị hạn chế,ngân hàng không có khả năng cạnh tranh và không có uy tín trên thị trường.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh NHNNo & PTNT Huyện Đông Sơn đã tìm mọi biện pháp để nâng nguồn vốn đảm bảo cho sự cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.
Là Huyện nằm sát thành phố Thanh Hóa nên việc huy động vốn chịu sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng khác hệ thống. NHNNo & PTNT Huyện Đông Sơn vận dụng linh hoạt công cụ lãi suất với nhiều hình thức huy động vốn không kỳ hạn, các loại tiền gửi có kỳ hạn với nhiều loại kỳ hạn khác nhau,phát hành các loại giấy tờ có giá để thu hút khách hàng.
NHNNo & PTNT Huyện Đông Sơn duy trì hình thức tiết kiệm truyền thống bên cạnh đó còn sử dụng các biện pháp tuyên truyền quảng cáo trên các thông tin đại chúng về tình hình tiết kiệm mới như : tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm dự thưởng, sử dụng các biện pháp khuyến mại tặng quà cho khách hàng cho khách hàng. Giao chỉ tiêu cụ thể cho cán bộ công nhân viên trong từng bộ phận,phát động phong trào thi đua, khen thưởng kịp thời cho các cá nhân,tổ chức có thành tích trong việc huy động vốn.
Từ những biện pháp trên cùng với sự nỗ lực của các cá nhân chi nhánh NHNNo & PTNT Huyện Đông Sơn đã đạt được những khả quan trong việc huy động vốn. Chúng ta có thể thấy sự tăng trưởng nguồn vốn huy động thông qua bảng sau:
Bảng 2.1: Cơ cấu nguồn vốn huy động tại chi nhánh NHNNo & PTNT Huyện Đông Sơn
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
1.TG không kì hạn
48.439
39.4
50.158
31,3
51.473
28,6
2.TG có kì hạn < 12T
24.290
19,7
29.465
18,6
33.279
18,5
3. TG có kì hạn >12T
50.393
40,9
79.215
49,9
95.119
52,9
Tổng nguồn vốn huy động
123.122
100
158.838
100
179.871
100
Nguồn kết quả hoạt động kinh doanh năm 2005_2007
Qua bảng số liệu trên ta có thể ngay được tổng nguồn vốn huy động tăng qua các năm từ 123.122 triệu đồng năm 2005 đến năm 2006 tăng lên 158.838 triệu đồng, tăng 35.716 triệu đồng, với tốc độ tăng 29%. Năm 2007 vốn huy động tiếp tục tăng lên là 179.871 triệu đồng, so với năm 2006 tăng 21.033 triệu đồng.
Năm 2006, 2007 được xem là thành công của công tác huy động vốn của chi nhánh NHNNo & PTNT Huyện Đông Sơn. Bên cạnh các hình thức huy động truyền thống, ngân hàng đã đưa ra các hình thức dự thưởng, khuyến mãi làm tăng sức hấp dẫn đối với khách hàng. Làm tăng tổng nguồn vốn huy động lên 179.871 triệu đồng năm 2007.
Ngoài ra một thành công nữa của ngân hàng cần đó là việc thay đổi tỷ trọng khai thác nguồn vốn từ dân cư. Về mặt tuyệt đối thì tất cả các nguồn vốn huy động đều có xu hướng tăng. Tuy nhiên về tỷ trọng thì nguồn vốn kjông kỳ hạn có xu hướng giảm từ 39,4% năm 2005 xuống còn 28,6% năm 2007. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho thấy ngân hàng đã thực sự chú ý vấn đề an toàn trong công tác sử dụng vốn. Bởi vì nguồn vốn không kỳ hạn mang lại lợi ích về mặt tài chính do lãi suất huy động thấp, tuy nhiên nó thường biến động thường xuyên gây khó khăn trong việc cân đối vốn và đảm bảo an toàn trong thanh toán. Và ngân hàng đã chú trọng đến việc huy động các nguồn vốn trung và dài hạn trong dân cư. Cụ thể như sau:
- Nguồn vốn TG có kì hạn <12T tăng 8.989 triệu đồng; với tốc độ tăng 37%; chiếm 18,5% trong tổng nguồn vốn huy động năm 2007.
- Nguồn vốn TG có kì hạn >12T tăng 44.726 triệu đồng, với tốc độ tăng 88.7%; chiếm 52,9% tổng nguồn vốn huy động năm 2007.
Điều này cho thấy chi nhánh NHNNo & PTNT Huyện Đông Sơn đã thực sự chú trọng đến công tác huy động vốn trung và dài hạn, khuyến khích các tổ chức kinh tế gửi tiền có kì hạn nên nguồn vốn trung và dài hạn tăng nhanh, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động, làm tổng nguồn vốn huy động của NH tăng.
Tóm lại, tốc độ và quy mô tăng trưởng nguồn vốn khá cao, cơ cấu vốn huy dộng hợp lý. Với nguồn vốn huy động đạt được chi nhánh NHNN & PTNT Huyện Đông Sơn đã đáp ứng phần lớn cho sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế trên địa bàn, góp phần điều hòa vốn, cho phép các đơn vị được vay vốn dài hạn, góp phần thúc đẩy họ đầu tư công nghệ, mở rộng sản xuất.
2.2. Tình hình sử dụng vốn
Đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngân hàng là đi vay để cho vay. Để thực hiện vai trò này NHNNo & PTNT Huyện Đông Sơn đã đưa ra phương châm chất lượng an toàn và hiệu quả, coi trọng chất lượng hơn là số lượng để thực hiện vai trò trung gian đi vay để cho vay, với mục tiêu hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng. NHNNo & PTNT Huyện Đông Sơn đã chỉ đạo cho cán bộ tín dụng bám sát cơ sở để tìm kiếm khách hàng làm ăn hiệu quả, có dự án sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng tài chính lành mạnh. Đồng thời ngân hàng Đông Sơn thực hiện chiến lược khách hàng thông qua điều tra, phân loại hàng năm để tăng số lượng khách hàng và từng bước mở rộng cho vay. Mở rộng cho vay theo hạn mức tín dụng và dự án đầu tư đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các hộ sản suất kinh doanh. Phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương trong việc chọn phương án cho vay, mức vốn cho vay phù hợp với phương án, dự án kinh doanh của khách hàng.Tập trung cho vay vùng sản xuất vật liệu xây dựng và mở mang ngành nghề, cho vay để chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp. Với chiến lược đó NHNNo & PTNT Huyện Đông Sơn đã đạt được những thành quả đáng khích lệ.
Vốn tín dụng của chi nhánh NHNNo & PTNT Huyện Đông Sơn đã thực sự thúc đẩy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển sản xuất kinh doanh, tạo môi trường giúp các cơ sở phát huy năng lực cạnh tranh, đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường. Để xem xét tình hình sử dụng vốn trong thời gian qua ta xem xét bang sau:
Bảng 2.2: Cơ cấu dư nợ theo thời gian
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Tổng dư nợ
181.336
100
198.838
100
256.073
100
1.Chovayngắn hạn
106.630
58,8
125.388
63
160.087
62,5
2.Cho vay trung và dài hạn
55.168
30,4
66.444
33,4
88.194
34,4
3.Dư nợ bằng vốn uỷ thác
19.538
10,8
7.006
3,6
7.792
3,1
Nguồn kết quả hoạt động kinh doanh năm 2005-2007
Qua biểu đồ ta thấy, dư nợ ngắn hạn tăng nhanh qua các năm và chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ. Năm 2006 đạt 125.388 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 63%, tăng so với năm 2005 là17.502 triệu đồng với tốc độ tăng 16,4%. Sang năm 2007 đạt 160.087triệu đồng, chiếm 62,5%, tăng 34.699 triệu đồng so với năm 2006; với tốc độ tăng là 27,7%. Điều này chứng tỏ ngân hàng mới chỉ tập trung cho vay đối với các đơn vị thiếu vốn tạm thời mà chưa tập trung cho vay các dự án dài hạn đầu tư chiều sâu nhằm tạo điều kiện đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất cho các đơn vị. Cụ thể nguồn vốn trung và dài hạn qua các năm tăng không đáng kể từ 55.168 triệu năm 2005 lên 88.194 triệu năm 2007, và chỉ chiếm 34,4% trong tổng dư nợ.
Bên cạnh đó chi nhánh NHNNo & PTNT Huyện Đông Sơn đã có những biện pháp thích hợp trong việc cho vay đối với từng thành phần kinh tế. Ngân hàng đã kết hợp hài hòa giữa việc thực hiện chiến lược lợi nhuận của ngân hàng với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước trong sự nghiệp đổi mới. Cơ cấu cho vay đối với từng thành phần kinh tế được áp dụng một cách linh hoạt tạo động lực phát triển cho kinh tế Huyện, điều này được thể hiện trong cơ cấu cho vay đối với từng thành phần kinh tế như sau:
Bảng 2.3: Dư nợ theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
1. DNQD
0
0
0
0
0
0
2. DNNQD
99.122
54,8
116.377
58,6
155.641
60,8
3. Kinh tế tập thể (HTX)
7.219
3,9
9.191
4,6
4.358
1,7
4. Hộ sản xuất kinh doanh cá thể
74.995
41,3
73.270
36,8
96.074
37,5
Tổng dư nợ
181.336
100
198.838
100
256.073
100
Nguồn kết quả họat động kinh doanh 2005-2007
Thực hiện phương châm tạo mọi điều kiện tối đa để phục vụ cho sự nghiệp CNH_HĐH đất nước, trong những năm qua ngân hàng Đông Sơn đã tập trung chủ yếu cho vay các DNNQD và các hộ sản xuất kinh doanh, còn kinh tế tập thể (HTX) chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ( 1,7% năm 2007) trong tổng dư nợ . Trong đó xét về độ tăng tuyệt đối thì cả hai đối tượng trên đều tăng.Cụ thể: từ năm 2005_2007, dư nợ DNNQD tăng 56.519 triệu đồng, và chiếm tỷ trọng 60,8% trên tổng dư nợ. Còn dư nợ hộ sản xuất tăng 21.079 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 37,5% trong tổng dư nợ.
3. THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT – KINH DOANH Ở CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐÔNG SƠN
3.1. Thực trạng diễn biến dư nợ tín dụng hộ sản xuất – kinh doanh ở chi nhánh ngân hàng Đông sơn
Trong những năm qua chi nhánh NHNNo & PTNT Huyện Đông sơn đã từng bước chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế đầu tư theo hướng thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước, đáp ứng các nhu cầu của thực tiễn cuộc sống đặt ra. Đặc biệt là CNH_HĐH nông nghiệp nông thôn. Vì vậy ngân hàng đã mở rộng và đẩy mạnh việc cho vay đến các hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất cũng như đáp ứng được xu hướng phát triển chung của các hộ, hình thành nên các hộ sản xuất hàng hoá, phát triển các hộ làng nghề, các trang trại,....nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo công ăn việc làm cho người dân. Để hiểu rõ được tình hình ta xem xét diễn biến dư nợ theo từng loại vay và đối tượng vay cụ thể như sau:
3.1.1. Kết quả dư nợ theo loại cho vay
Bảng 2.6: Bảng dư nợ theo loại vay
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Dư nợ
Tỷ trọng
%
Dư nợ
Tỷ trọng
%
Dư nợ
Tỷ trọng
%
I.TD toàn chi nhánh
181.336
100
198.838
100
256.073
100
II.TD hộ SX
Tổng cộng
74.995
100
73.270
100
96.074
100
-Ngắn hạn
30.547
40,7
32.863
44,9
48.724
50,7
-Trung, dài hạn
44.448
59,3
40.407
55,1
47.350
49,3
Tính đến năm 2007 dư nợ hộ sản xuất chiếm 37,5% trong tổng dư nợ của toàn chi nhánh. Trong đó qua bảng số liệu trên ta thấy tong 3 năm gần đây tín dụng hộ sản xuất đang có xu hướng giảm tỷ trọng đối với những đối tư._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33451.doc