Mục lục
lời mở đầu
"Từ nay đến năm 2010 phải xây dựng nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu, công cụ thô sơ, lao động thủ công là chủ yếu trở thành một nước cơ khí hoá, hiện đại hoá với trang thiết bị máy móc hiện đạI, dân giàu, nước mạnh, an ninh vững chắc.. " Đó là mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH- HĐH) mà Đảng ta đặt ra.
Đặc biệt nước ta đang phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, xây dựng nền kinh tế hàng hoá, một mặt nâng cao đời sống người dân, đẩy
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Ngân hàng với chức năng huy động vốn trong quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế .. mặt khác đảm bảo theo định hướng XHCN.
Để đạt được những mục tiêu trên, hoàn thành quá trình CNH-HĐH đất nước là cả một và nhiệm vụ nặng nề. Vì vấn đề đặt ra ở đây là Việt nam xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, cơ sở vật chất thấp kém, ngân sách hạn hẹp.. thế nhưng việc chuyển từ công cụ thô sơ thành trang thiết bị, máy móc hiện đại cần phải có vốn, việc đầu tư từ kỷ thuật lạc hậu sang KH-CN hiện đại cũng cần có vốn, việc đầu tư phát triển cũng cần có vốn. Như vậy, để hoàn thành quá trình CNH-HĐH, để đạt được các mục tiêu trên cần có vốn, vốn là vấn đề hết sức cấp thiết. Vậy vốn từ đâu ra ?
Tại nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIIi đã chỉ rỏ "Để CNH-HĐH cần huy động nhiều nguồn vốn gắn với sự sử dụng có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn trong nước là quan trọng". Nguồn vốn nước ngoài là quan trọng nhưng lịch sử cho thấy không có một nước nào phát triển nhờ vào nguồn vốn nước ngoài. Do đó, phải huy động nguồn vốn trong nước là chủ yếu, phát huy nội lực, khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rổi trong xã hội.
ở Việt nam hiện nay đã hình thành hai kênh huy động vốn, đó là qua thị trường chứng khoán và qua hệ thống Ngân hàng. Song, thị trường chứng khoán ở Việt nam mới thành lập, còn mới mẻ và chưa thực sự trở thành một kênh huy động vốn (HĐV) lớn. Do vậy, HĐV qua hệ thống Ngân hàng là quan trọng và chủ yếu.
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính, thực hiện huy động nguồn vốn nhàn rổi trong xã hội, đáp ứng nhu cầu cho đầu tư và phát triển trong nước.
Như vậy, làm thế nào để huy động được nguồn vốn tối đa, hiệu quả an toàn nhất , đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng là vấn đề nóng bỏng trong quá trình đổi mới hệ thống Ngân hàng đã đang và tiếp tục thực hiện.
Trong bài viết này, em xin nghiên cứu chuyên đề "Ngân hàng với chức năng huy động vốn trong quá trình CNH-HĐH đất nước" Ngân hàng hàng đã huy động vốn như thế nào, dưới hình thức gì, vai trò của Ngân hàng trong hệ thống huy động vốn ? ở nước ta việc huy động vốn của Ngân hàng đã đạt được những kết quả gì ? Những khó khăn cần giải quyết và biện pháp để khắc phục nhằm huy động vốn ngày càng có hiệu quả hơn, đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng cao của đất nước.
Để việc được thuận lợi em chủ yếu phân tích chức năng HĐV vì thể hiện bản chất Ngân hàng là huy động vốn và cho vay vốn, lại chiếm số lượng và nguồn vốn huy động vốn.
Bài viết của em còn có nhiều sai sót, mong cô giáo góp ý và bổ xung thêm cho em.
Em xin chân thành cảm ơn!
chương i :
tổng quan về ngân hàng và chức năng huy động vốn
I. Sự hình thành và phát triển của hệ thống Ngân hàng gắn với chức năng huy động vốn (HĐV)
Ngân hàng hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dàI, bắt đầu từ những nghiêp vụ Ngân hàng sơ khai sau đó Ngân hàng ngày càng phát triển, đặc biệt trong nền kinh tế hàng hoá Ngân hàng phát triển trở thành Ngân hàng hiện đại.
Nguồn gốc Ngân hàng bắt nguồn từ những thợ kim hoàn, những thợ đúc vàng, họ chuyên làm công việc cất giử những vật quí giá, đồ trang sức, cất giử tiền, thanh toán hộ vho khách để hưởng một khoản thù lao nhất định. Nhưng sau đó họ phát hiện ra tính chất "vô danh" của đồng tiền và tất cả những người gửi tiền đều không rút tiền ra cùng một lúc, vì vậy luôn luôn có khoản tiền dư thừa có thể đem cho vay và lấy lải. Nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay bắt đầu được hình thành.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển,thúc đẩy Ngân hàng phát triển, sự cạnh tranh giửa các Ngân hàng càng tăng thì các tổ chức này thay bằng thu phí tiền gửi họ khuyến khích gửi tiền bằng cách không thu phí và hơn nửa Ngân hàng sẻ được trả một phần lợi tức gọi là lải suất tiền gửi.
Cùng với quá trình phát triển các Ngân hàng thực hiện nhiều đa dạng hoá các hình thức HĐV, ứng dụng Kỉ thuật - Công nghệ hiện đại, đẩy mạnh chức năng huy động vốn của Ngân hàng.
Như vậy, Ngân hàng đã huy động nguồn vốn nhàn rổi trong xã hội, và dùng nguồn vốn huy động được để cho vay.
Ngân hàng trở thành cầu nối trung gian giữa người thừa vốn và người thiếu vốn, giữa người tiết kiệm và người đầu tư, giữa người đi vay và người cho vay.
Kết luận: Ngân hàng là tổ chức tài chính, nhận tiền gưỉ và cho vay tiền.
Vậy, chức năng huy động vốn của Ngân hàng thể hiện như thế nào ta sẻ đi phân tích sâu về vấn đề này
II. Lý luận cơ bản chức năng huy động vốn của Ngân hàng
Ngân hàng là con đẻ, là sản phẩm tất yếu khách quan của nền kinh tế hàng hoá. Khi ra đời Ngân hàng lại thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. Do đó, đối với hình thái kinh tế nào, đặc biệt là nền kinh tế thị trường, hoạt động ngân hàng là không thể thiếu được nó giử vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế.
Do vậy muốn phát triển nền kinh tế thị trường thì đIều đầu tiên là phát triển hoạt động ngân hàng.
Nếu coi cơ chế thị trường là cơ thể sống thì ngân hàng là huyết mạch của cơ thể sống đó.
Lật lại lịch sử phát triển, chúng ta có thể thấy, sự ra đời và phát triển của hệ thống Ngân hàng gắn với tư bản hoá tiền tệ, mà tiền thân của nó là tư bản cho vay nặng lải đã từng tồn tại trong thời kì phân rả của chế độ nguyên thuỷ. Sự phát triển mạnh của quan hệ hàng hóa-tiền tệ đã đòi hỏi khách quan sự ra đời của các tổ chức và họat động Ngân hàng . Lúc này tư bản tiền tệ nhàn rổi đã bắt đầu xuất hiện phục vụ tư bản công nghiệp với lải suất thấp.
Như vậy, tư bản công nghiệp đã trả một phần lợi thu được cho người cho vay do việc sử dụng vốn vay vào sản xuất dưới hình thức lợi tức. Cơ chế phân chia lợi tức và lợi nhuận lúc đàu kinh doanh là ngẩu nhiên, nhưng khi tư bản hoạt động và tư bản sở hửu được phân định rỏ ràng thì cơ chế phân chia được đIều chỉnh, một nhóm tư bản nhận lợi tức và bên kia nhận lợi nhuận. Sự phát triển trong quan hệ hàng-tiền trong công nghiệp tạo điều kiện cho phát triển Ngân hàng, tư bản trong thương nghiệp. Tư bản trong thương nghiệp là tiền thân của tư bản có khả năng đem lại lải xuất. Tuy buôn bán tiền tệ là chức năng chủ yếu, các chức năng khác của ngân hàng được bổ sung dầnvới sự phát triển của quan hệ hàng-tiền và của nền kinh tế hàng hoá.
Theo Mác, các bộ phận cấu thành tư bản Ngân hàng bao gồm: vàng, giấy bạc và các chứng khoán. Đến lược mình ngân hàng lại phân thành vốn tự có và vốn đi vay. Chính vì lí do đó mà có thể kết luận rằng tiền gửi là yếu tố cấu thành nghiệp vụ tín dụng-ngân hàng. Các thành phần của nền tảng trên bao gồm:
- Vốn nhàn rổi
- Các loại quỉ được huy động
- Thanh toán trung gian cho khách hàng trên tài khoản
- Vốn tự có của ngân hàng
Hoạt động huy động vốn từ tiền của công chúng là đặc trưng cơ bản nhất của hoạt động Ngân hàng, là tiêu thức để đánh giá và phân biệt Ngân hàngvới các tổ chức tài chính khác. Do đặc trưng này mà chức năng cơ bản của Ngân hàng là đi vay và cho vay. Vì thế vốn huy động chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vốn hoạt động của Ngân hàng. Như vậy vốn tự có của Ngân hàng sẻ ít hơn rất nhiều so với vốn huy động nhưng nó rất quan trọng.
Ngân hàng ra đời thúc đẩy nền kinh tế phát triển, với chức năng huy động vốn, Ngân hàng thực hiện chức năng phân phối và tái phân phối vốn, tiền tệ xã hội, tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế hàng hoá nhất là trong nền cơ chế thị trường mọi hàng hoá đều được biểu thị bằng giá cả thông qua tiền tệ. Vốn huy động và vốn cho vay của Ngân hàng cũng là một loại hàng hoá. Nó cũng được biểu hiện bằng tiền và giá cả trong quá trình sử dụng vốn. Giá cả đó chính là lải suát tiền vay mà Ngân hàng phải trả cho người cho vay và đòi lại ở người vay vốn từ Ngân hàng. Chúng ta biết rằng, việc phân chia lợi nhuận thành lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận công nghiệp và lải xuất là quá trình phân phối lại lợi nhuận xã hội đối với người trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất.
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, khái niệm " tiền đẻ ra tiền " được xem như là một qui luật. Chính vì vậy, nhờ qui luật này mà nó tác động vào những người có vốn nhàn rổi muốn có khoản thu tiền lớn hơn (thu nhập từ tiền nhàn rổi của mình) sẻ đem đàu tư trực tiếp vào quá trình sản xuất, kinh doanh hoặc gửi tiền tiết kiệm vào Ngân hàng, để sau một khoảng thời gian nhất định thu dược một số lợi tức nào đó. Đây là cơ sở và nguồn gốc để các Ngân hàng thực hiện được các chức năng cơ bản của mình, đó là huy động vốn nhàn rổi từ các lớp dân cư và các tổ chức trong nền kinh tế. Qua đó Ngân hàng đã thực hiện được vai trò rất quan trọng của mình với tư cách là một trung gian tài chính, góp phần vào quá trình chu chuyển vốn nằm rải rác trong dân cư để trở thành khoản vốn lớn mà nhu cầu đầu tư trong nền kinh tế đòi hỏi.
Tính tất yếu của Ngân hàng trong vai trò trung gian tài chính được thể hiện theo chu kì khép kín:
Huy động vốn- Trung gian tài chính-Sử dụng vốn.
Trong đó Ngân hàng đóng vai trò chủ yếu trong mối quan hệ ràng buộc giữa người vay tiền, người gửi tiền và Ngân hàng. Đồng thời, Ngân hàng còn có ý nghĩa quyết định việc kích thích tăng trưởng nguồn vốn huy động vào Ngân hàng thông qua giải quyết tốt mối quan hệ và quyền lợi của cả ba bên
Người gửi tiền
Người vay tiền
Ngân hàng
III. Ngân hàng -Huy động vốn gắn liền với việc sử dụng vốn ( chức năng trung gian tín dụng )
Huy động vốn của Ngân hàng là nhằm mục đích cho vay hay nói cánh khác là sử dụng vốn.
Thông qua việc huy động các khoản tiền tệ tạm thời nhàn rổi trong nền kinh tế, Ngân hàng hình thành nên quỷ cho vay của nó rồi đem cho đối với nền kinh tế, bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn. Với chức năng nàyNgân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
1. Cơ sở hình thành chức năng
Thứ nhất, do yêu cầu hoàn vốn trong xã hội, có chủ thể tạm thời nhàn vốn. Ví dụ: tiền dùng để mua nguyên vật liệu nhưng chưa mua, tiền trích khấu hao nhưng chưa sử dụng để mua sắm tài sản cố định, tiền lương chưa đến kì trả,.. Ngược lại có nhiều chủ thể lại cần có vốn để bổ sung cho sản xuất. Mâu thuẩn này cần được giải quyết để tăng hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu sản xuất, đẩy nhanh quá trình chuyển vốn.
Thứ hai, do nhu cầu tiết kiệm và đầu tư.
Thứ ba, do hạn chế tín dụng trực tiếp, tức là rất khó để chủ thể thừa vốn gặp chủ thể thiếu vốn, hoặc nhu cầu vốn và khả năng cho vay vốn không gặp nhau, hay đòi hỏi phải có một sự tin tưởng lẩn nhau mà không có vật thế chấp nên rủi ro rất lớn..
Vì vậy, Ngân hàng đứng ra với tư cách là một tổ chức trung gian tài chính, thực hiện chức năng huy động vốn và sử dụng vốn, là cầu nối trung gian giửa người thừa vốn và người thiếu vốn.
Huy động vốn và sử dụng vốn là hai hoạt động gắn liền với nhau, thể hiện bản chất của Ngân hàng. Huy động vốn càng nhiều thì sử dụng vốn càng tốt, đáp ứng nhhuh cầu đàu tư và phát triển. Ngược lạI, sử dụng vốn có hiệu quả là là cơ sở để huy động vốn được thuận lợi.
2. Vai trò quan trọng của huy động vốn qua Ngân hàng
2.1. Góp phần tiết kiệm chi phí xã hội, tạo những đIều kiện thuận lợi cho cá nhân và tổ chức xã hội
Quá trình huy động vốn của Ngân hàng chính là quá trình tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong xã hội, sau đó cho vay đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất, đầu tư và phát triển kinh tế. Như vậy, huy động vốn là kịp thời đã tiết kiệm thời gian, chi phí nguồn lực, đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Mặt khác, những người tiết kiệm thu thêm được một phần lải từ tiền gửi của mình, tức đồng tiền của họ từ chổ dư thừa đã có khả năng sinh lời. Ngược lạI, những người thiếu vốn thì có vốn kịp thời cho sản xuất, tăng lợi nhuận.
2.2. Huy động vốn làm gia tăng vốn trong nước, kích thích huy động vốn nước ngoài.
Nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại, ngoài nguồn vốn huy động trong nước còn nguồn vốn huy động từ nước ngoài. Trong đó vốn trong nước là yếu tố quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng.
Vậy trò quyết định của nguồn vốn trong nước thể hiện:
Thứ nhất, tạo tính chủ động trong quá trình huy động vốn, chi phí huy động vốn thấp, hiệu quả kinh tế đối với xã hội cao.
Thứ hai, tạo các đIều kiện thuậnlợi để hấp thụ và khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, hình thành và tạo lập sức mạnh hồi sinh cho nền kinh tế, hạn chế các tiêu cực phát sinh về kinh tế -xã hội do đầu tư nước ngoài mang lại. Nhờ vậy tính độc lập tự chủ của đất nước được bảo đảm, tránh lệ thuộc nước ngoài do quan hệ vay mượn.
Xét về bản chất, huy động vốn của các NHTM là trực tiếp làm cho qui mô tích luỹ trong nước ngày càng tăng chuyển tối đa nguồn vốn đang nhàn rổi thành nguồn vốn hữu ích có khả năng sinh lời. Còn huy động vốn nước ngoài có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt trong đIều kiện kinh tế còn nghèo, thiếu vốn mà nhu cầu đầu tư pháp triển lại cao.
Việc huy động vốn nước ngoài qua các NHTM mà tổ chức khác không có như: khả năng tính toán các điều kiện và lợi ích cho vay trả, khả năng quản lý có hiệu quả vốnvay và vai trò quản lý ngoại tệ để thực hiện chính sách ngoại hối của một quốc gia.
2.3. Huy động vốn góp phần thực hiện chính sách tài chính và chính sách tiền tệ quốc gia.
Hoạt động huy động vốn qua Ngân hàng góp phần kiềm chế và kiểm soát mức lạm phát thông qua việc đIều chỉnh lượng tiền tham gia vào quá trình lưu thông, ổn định giá trị đồng tiền. Chẳng hạn: Ngân hàng luôn là nơi cung cấp một lượng vốn tín dụng lớn, đsản phẩm ứng các khoản chi têu và đầu tư của chính phủ cho các dự án về sản xuất kinh doanh và những dự án thực hiện chính sách xã hội, bù đắp những sự thiếu hụt tạm thời của ngân sách thông qua hình thức vay nợ giữa ngân sách với Ngân hàng.
2.4. Huy động vốn quyết định sự tồn tại của các Ngân hàng thương mại.
ở nước ta hiện nay, thị phần hoạt động của tín dụng chiếm khoảng 90%. Con số này khá cao chứng tỏ hoạt động tín dụng là chủ yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của mổi NHTM.
Mà muốn có hoạt động tín dụng phải có vốn,muốn có vốn phải huy động vốn và chủ yếu từ nền kinh tế. Như vậy huy động vốn phải là bước khởi đầu quan trọng nhất để có được bước khởi động tiếp theo trong quá trình thực hiện hoạt động tín dụng.
Qua quá trình huy động vốn, Ngân hàng sẻ có vốn để cho vay và thu lợi nhuận, góp phần thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
IV. Các hình thức huy động vốn.
Để tạo nguồn vốn cho hoạt động, Ngân hàng huy động vốn dưới các hình thức chủ yếu sau:
1. Vốn tiền gửi:
1.1. Tiền gửi không kì hạn
Khái niệm: Tiền gửi không kì hạn là tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào.
Đối với loại tiền gửi này, Ngân hàng đóng vai trò "thủ quỷ" vừa thực hiện trích tiền từ tài khoản ra để chi trả cho hàng hoá, dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng, vừa nhập khoản tiền mà khách hàng được hưởng vào tài khoản. Loại tiền gửi này được gọi là tiền gửi có phát hành séc hay tiền gửi thanh toán.
Mục đích của người gửi tiền: an toàn và thuận tiện cho thanh toán qua Ngân hàng.
Đồng thời, đối với Ngân hàng thì Ngân hàng thu được một khoản phí rất lớn từ khách hàng, tạo nguồn thu và tăng cường vốn cho Ngân hàng.
1.2. Tiền gửi có kì hạn
Khái niệm: Tiền gửi có kì hạn là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra sau một thời gian nhất định, có thể vài tháng đến vài năm .
Tiền gửi có kì hạn gồm 3 loạI: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Mục đích của khách hàng là gửi tiền để hưởng lải. Còn đối với Ngân hàng, tiền gửi có kì hạn tạo ra nguồn vốn lớn cho Ngân hàng và Ngân hàng có thể chủ động cho vay kiếm lời.
Đây là nguồn vốn lớn và rất quan trọng, cốt yếu của Ngân hàng.
1.3. Tiền gửi tiết kiệm
Khái niệm: Tiền gửi tiết kiệm là tiền để dành cho dân cư được gửi vào Ngân hàng nhằm mục đích hưởng lải.
Hình thức phổ biến nhất của tiền gửi tiết kiệm co sở. Cụ thể là: Ngân hàng sẻ cấp cho khách hàng một cuốn sổ, dùng để ghi số tiền gửi vào và rút ra của khách hàng.
Mục đích: Người gửi tiền tiết kiệm nhằm hưởng lải
Ngân hàng nhận tiền gửi đã làm tăng nguồn vốn huy động lên, phục vụ tốt hơn cho vay tiền, thể hiện bản chất Ngân hàng: đi vay và cho vay
2. Vốn đi vay
Ngân hàng có thể huy động vốn từ NHTW, các NHTM khác hoặc từ các tổ chức nước ngoài.
2.1. Vay của Ngân hàng trung ương (NHTW)
Bất kì Ngân hàng nào dược phép thành lập của NHTW đều có quyền vay của NHTW.
Vay của NHTW dưới hình thức: chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá, vay có các giấy tờ có giá ngắn hạn đảm bảo...
NHTM vay nhằm mục đích chi trả, thiếu hụt trong thanh toán.
Tuy nhiên, không phải lúc nào NHTW cũng cho vay mà có những đIều kiện nhất định, cụ thể: NHTW là người cho vay cuôí cùng nhằm cứu vản cả hệ thống Ngân hàng khỏi nguy cơ sụp đổ.
2.2. Vay của các Ngân hàng hay tổ chức tín dụng trên thị trương Ngân hàng
Ngân hàng có thể đi vay của các Ngân hàng hay tổ chức tín dụng để bảo đảm dự trử theo qui định của NHTW, bù đắp khả năng thanh toán, khả năng chi trả..
2.3. Vay nước ngoài
Ngân hàng cũng có thể vay Ngân hàng hay tổ chức nước ngoài bằng cách phát hành các phiếu nợ, làm tăng vốn ngoại tệ của Ngân hàng.
2.4. Một nguồn vốn hết sức quan trọng của Ngân hàng là vốn tự có
Vốn tự có của Ngân hàng bao gồm:
+Vốn cố định: là vốn qui định trong văn bản để Ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động.
Tuỳ vào từng loại Ngân hàng mà vốn pháp định cũng khác nhau, cụ thể: Ngân hàng quốc doanh do ngân sách cấp, Ngân hàng cổ phần do các cổ đông đóng góp..
+Thứ hai là các quỷ gồm: quỷ dự phòng rủi ro, quỷ dự trử đặc biệt, phần lợi nhuận chưa được chia, các quỷ khác chưa sử dụng..
Vốn tự có của Ngân hàng mang tính chất ổn định, nó chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn Ngân hàng nhưng chiếm một vị trí rất quan trọng, quyết định quy mô hoạt động của Ngân hàng, là cơ sở Ngân hàng tiến hành kinh doanh, thể hiện uy tín của Ngân hàng, đảm bảo chống rủi ro trong thanh toán Ngân hàng.
Nói tóm lạI, nguồn vốn huy động Ngân hàng là rất quan trọng, Ngân hàng có thể sử dụng nhiều hình thức đa dạng, trong đó vố tiền gửi là chủ yếu và chiếm tỉ trọng lớn. Vốn tự có rất nhỏ nhưng rất quan trọng, quyết định qui mô hoạt động của doanh nghiệp.
V. Các nhân tố ảnh hưởng huy động vốn qua Ngân hàng
Nguồn vốn huy động qua Ngân hàng tăng hay giảm, phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau
1. Lãi suất ảnh hưởng rất lớn đến huy động vốn
Lãi suất trên thị trường ảnh hưởng rất lớn đến huy động nguồn vốn, cụ thể :
Lãi suất tiền gửi tăng, nhu cầu gửi tiền tiết kiệm tăng, tiêu dùng giảm, nguồn vốn huy động Ngân hàng tăng.
Lãi suất tiền gửi giảm thì ngược lại.
Lải suất(i ) i
i2 i2
i1 i1
C2 C1 Tiêu dùng (C ) S1 S2 Tiết kiệm(S)
2. Tình trạng nền kinh tế
Nền kinh tế đang ở tình trạng lạm phát, đồng thời tiền mất giá, tiêu dùng giảm, nhu cầu gửi tiền vào Ngân hàng tăng, nguồn vốn huy động tăng, nhưng lại gây ra tổn thất cho Ngân hàng. Vốn huy động nhiều nhưng lại không sử dụng được, cho vay được.
Nền kinh tế tăng trưởng, nhu cầu đầu tư tăng, sử dụng cho vay vốn rất thuận lợi, tạo nguồn thu cho Ngân hàng, là cơ sở để huy động vốn được thực hiện tốt hơn.
3. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nếu NHTW sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm bớt lượng tiền cung ứng trong lưu thông,bằng cách giảm bớt hạn mức tín dụng, tăng tỉ lệ dự trử bắt buộc hay tăng lải suất chiết khấu, tái chiết khấu của NHTM tại NHTW, dẩn đến khả năng huy động vốn giảm, khả năng cho vay giảm, giảm khả năng tạo tiền dẩn đến giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông.
Ngược lại, NHTW sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng, sẻ dẩn đến khả năng huy động nguồn vốn qua Ngân hàng giảm.
Chính sách tiền tệ của NHTW ảnh hưởng rất lớn, ảnh hưởng vĩ mô đến kết quả huy động vốn, sử dụng vốn của NHTM.
4. Thu nhập và tài sản của dân cư
Nền kinh tế phát triển, thu nhập dân cư tăng, ngoài nhu cầu tiêu dùng, còn dôi ra gửi vào các tổ chức tiết kiệm, nguồn vốn huy động tăng khả năng cho vay Ngân hàng tăng.
Nếu thu nhập dân cư thấp, tiền gửi tiết kiệm vào tổ chức Ngân hàng giảm, nguồn vốn huy động của Ngân hàng giảm.
5. Dự tính cơ hội đầu tư
Nền kinh tế phát triển, các nhà đầu tư dự tính trong tương lai sẻ rất nhiều cơ hội đầu tư, họ sẻ vay vốn để đầu tư phát triển, thu nhập tăng, cơ sở để các Ngân hàng huy động vốn từ các tổ chứckinh tế này.
Nếu trong tương lai nền kinh tế có vấn đề, các nhà đầu tư thấy không thể liều lỉnh,rút lui đầu tư, họ sẻ gửi tiền vào các Ngân hàng để đảm bảo an toàn và hưởng lải suất, do đó nguồn vốn huy động của các Ngân hàng tăng.
Trên đây là tất cả các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng nguồn vốn huy động qua Ngân hàng, nguồn vốn có thể tăng hay giảm, lớn hay bé, phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố và sự biến động của thị trường.
Nói tóm lại, qua chươngi ta đã hiểu được nguồn gốc ra đời và phát triển chức năng huy động vốn qua Ngân hàng, các hình thức huy động vốn, ảnh hưởng của các nhân tố đến việc huy động vốn, vai trò quan trọng của việc huy động vốn qua Ngân hàng đối với nền kinh tế. Vậy công tác huy động vốn qua Ngân hàng ở Việt nam ra sao ? Đạt được kết quả gì ? Những tồn tại và biện pháp để khắc phục. ta sẻ tiếp tục tìm hiểu qua chươngII.
chương II:
thực trạng huy động vốn qua ngân hàng thương mại
trong những năm qua
Việt nam phát triển đi lên theo nền kinh tế thị trường đảm bảo theo định hướng XHCN, thực hiện CNH-HĐH đất nước, nhằm đưa đất nước ta trở thành một đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh. Ngân hàng đóng một vai trò rất quan trọng, là nhân tố ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của một đất nước.
" Sự nghiệp CNH-HĐH đất nước đòi hỏi Ngân hàng phải trở thành những trung gian tài chính hiệu quả để có thể huy động được nhiều nguồn lực cả trong và ngoài nước, mở rộng đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Vậy ngoài nghiệp vụ Ngân hàng truyền thống, phải đa dạng hoá các nghiệp vụ để phát triển sức mạnh và tiềm lực cho hệ thống Ngân hàng, đó là yêu cầu cấp thiết cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước".
Trong quá trình đổi mới, công tác huy động vốn qua Ngân hàng đã đạt được những kết quả đáng kể.
I. Những kết quả đạt được trong công tác huy động vốn qua Ngân hàng
1.1. Huy động vốn ngày càng tăng với sự đa dạng hoá về hình thức sở hữu, mở rộng mạng lưới Ngân hàng.
Hiện nay hệ thống NHTM Việt nam rất đa dạng bao gồm: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, các quỉ tín dụng các tổ chức tài chính khác, cụ thể:
+ Có 6 NHTM,trong đó: 4 NHTM quốc doanh ( Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt nam, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam, Ngân hàng Công thương Việt nam, Ngân hàng ngoại thương Việt nam )
Ngân hàng phục vụ người nghèo
Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng Sông Cửu Long
+ Có 31 chi nhánh của 26 Ngân hàng nước ngoàI
+ Có 4 Ngân hàng liên doanh
+ Có 47 NHTM cổ phần
+ Có 595 Qủi tín dụng nhân dân và một số công ty tài chính
( Theo báo tạp chí Ngân hàng số 3-2001 )
Với số lượng ngân hàng ngày càng tăng đã huy động được nguồn vốn nhàn rổi trong dân, tạo nguồn vốn đáng kể đáp ứng nhu cầu đầu tư và phát triển kinh tế.
1.2. Nguồn vốn huy động qua Ngân hàng ngày càng tăng
Theo báo thường niên các NHTM về huy động vốn trong nước, nếu phân theo loại hình NHTM, ta có số liệu sau:
( Đơn vị: nghìn tỷ đồng )
Các loại hình NHTM
1991
1992
1993
1994
1995
1996
NHTM Quốc doanh
18,1
25,9
32,6
58,2
75,1
99,2
NHTM Cổ phần, Quỉ tín dụng
1,7
2,1
16,1
11,8
12,9
18,2
Chi nhánh NHNN và NH liên doanh
_
0,7
2,1
11,8
20,1
26,8
Như vậy, từ năm 1991, khi nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường, hệ thống Ngân hàng Việt nam đã nhanh chóng phát triển mạng lưới và thực hiện biện pháp tích cực để thu nguồn vốn nhàn rổi của mọi thành phần kinh tế đáp ứng nhu cầu cho vay. Số vốn huy động dược của các NHTM tăng từ 4 đến 7 lần so với vốn của Ngân hàng trong những năm 1990 - 1999.
Xét về cơ cấu huy động vốn trong những năm qua cũng có nhiều biến động, ta có số liệu cụ thể sau:
Thị phần huy động vốn các Ngân hàng
( Đơn vị: % )
Loại hình Ngân hàng
1995
1999
NHTM Quốc doanh
81,8
79,1
NHTM Cổ phần
11,5
10,4
Chi nhánh NH nước ngoài
4,4
7,9
NH liên doanh
2,3
1,2
Hiện nay, ở nước ta không chỉ tồn tại các Ngân hàng quốc doanh là chủ yếu, mà các Ngân hàng nước ngoài đã đầu tư và phát triển với thị phần ngày càng tăng.
Theo số liệu đIều tra mới nhất trên tạp chí Ngân hàng, kết quả huy động vốn như sau:
Tính đến ngày 06/05/2001.
Huy động vốn tăng gấp trên 1000 lần so với năm 1986, gấp khoảng 21 lần so với 1990.
Cho vay vốn tăng trên 1000 lần so với 1986, trên 28 lần so với 1990.
Như vậy, từ khi đổi mới sang cơ chế thị trường ( Kể từ năm 1986 ) và từ khi có hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời năm 1990 nguồn vốn huy động của Ngân hàng tăng và tăng rất nhiều lần đsản phẩm ứng ngày càng tăng nhu cầu đầu tư và phát triển đất nước.
1.3. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn.
Trong công tác huy động vốn các NHTM đã đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cụ thể:
Huy động vốn bằng cánh gửi tiết kiệm ngắn, trung và dài hạn, đay là nguồn vốn lớn, chủ yếu của hệ thống Ngân hàng.
Thứ hai, là phát hành các giấy tờ có giá như: kì phiếu Ngân hàng, nhằm huy đoọng dược tối đa các nguồn vốn nhàn rổi trong dân. Đặc biệt vay các tổ chức nước ngoàI, như vón từ các tổ chức ODA, FDI, WB, người Việt nam ở nước ngoài gửi tiền về. Đây là những nguồn ngoại tệ rất quan trọng, góp phần tăng nguồn vốn ngoại tệ trong Ngân hàng.
Vừa qua, Việt nam đã kí kết một hiệp định thu hút nguồn ngoại tệ lớn, cụ thể: Vào ngày 05/07/2001 , kí kết 3 hiệp định tín dụngvới ngân hàng thế giới, trị giá: 526 triệu USD. Tổng vốn đầu tư của Ngân hàng thế giới vào Việt nam tăng 629 triệu, lớn nhất từ trước đến nay.
Theo dự tính, vốn vay ưu đải của WD cam kết dành cho Việt nam là 3,2 tỷ USD, cho 31 dự án và chương trình đầu tư, 81 khoản hổ trợ không hoàn lại trị giá 91 triệu USD.
Thứ tư, Ngân hàng nhận tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân,thực hiện mở các tài khoản Ngân hàng, làm trung gian thanh toán cho các tổ chức này.
Qua đây Ngân hàng cũng thu dược một nguồn phí, góp phần tăng phí Ngân hàng.
Ngân hàng đã sử dụng nhiều hình thức huy động vốn, nhưng nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng vẩn là tiền gửi, tỷ trọng tiền gửi vẩn tiếp tục tăng qua hàng năm.
( Đơn vị : %)
Năm
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
Tốc độ tăng trưởng năm sau so với năm trước
82
19
9,1
34,9
37
34
25
34,5
31
34
II. Mục tiêu và kết quả huy động vốn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế năm 2000.
"Nhiệm vụ trọng tâm năm 2000 là phải tiếp tục thực hiện hiệu quả chiến lược huy động vốn trong nước và tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài để đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế, đẩy mạnh cho vay khắc phục tình trạng ứ động vốn trong hệ thống Ngân hàng,đồng thời phải tập trung giảm thấp nợ quá hạn và kiểm soát chất lượng tín dụng ".
Quán triệt nhiệm vụ trên, ngay từ đầu năm các tổ chức tín dụng tích cực nắm bắt thị trường và tình hình tiền tệ trong nước và thế giới, có nhiều giải pháp như đIều chỉnh lải suất huy động nội, ngoại tệ để đảy mạnh huy động vốn đáp ứng cho nền kinh tế. sản phẩm dụng các hình thức đa dạng như phát hành trái phiếu Ngân hàng để nâng cao tỷ lệ huy động dài hạn.
Tổng số dư tiền gửi tại các tổ chức tín dụng đến 30/11/2000 là 185.000 tỷ đồng tăng 28,7% so với đầu năm, trong đó tiền gửi bằng đồng Việt nam tăng 16,2%, tiền gửi bằng ngoại tệ tăng 52,1%, vốn huy động có kì hạn từ 12 tháng trở lên chiếm 18,4% trong tổng nguồn vốn huy động, cao hơn so với cùng kì năm trước 15%, ước đến 31/12/2001 số dư tiền gửi tăng 30% so với đầu năm, cao hơn nhiều so với mức tăng của năm 1999 cũng như kế hoặch đề ra là 25%.
Bên cạnh việc huy động vốn trong nền kinh tếcủa các tổ chức tín dụng, với vay trò là cơ quan đầu mối trong quan hệ với các tổ chức tài chính, tiinè tệ quốc tế, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều cố gắng phát huy mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Nhà nước, qua đó tranh thủ nguồn vốn bên ngoài.
Trong năm 2000, Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các bộ, nghành hữu quan để đàm phán và kí kết với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, các chương trình tài trợ với số tiền gần 800 triệu USD và nhiều khoản hổ trợ kỷ thuật khác. Trong bối cảnh đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam đang giảm sút, việc tranh thủ các khoản vay của các tổ chức quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng để duy trì động lực phát triển đất nước.
Trên đây là một số kết quả đạt được trong công tác huy động vốn của Ngân hàng trong năm 2000.
Những vấn đề còn tồn tại hay những khó khăn cần khắc phục để huy động vốn có hiệu quả.
Bên cạnh công tác thu được, công tác huy động vốn còn có những vấn đề cần khắc phục:
Thứ nhất, " Thị trường tài chính còn sơ khai, các công cụ tài chính còn chưa phát huy đầy đủ, làm khả năng huy động vốn và phân bổ nguồn lực tài chính trong nước chưa được thực hiện có hiệu quả, công nghệ và nghiệp vụ Ngân hàng chưa theo kịp trình độ tiến tiến trong khu vực và quốc tế ". Thực tế mà nói thì trương tài chính của ta chưa thực sự phát triển mạnh, nhiều đIều chưa rỏ ràng, bất cập, nên công tác huy động vốn chưa thực sự tạo kết quả cao, huy động tối đa nguồn vốn nhàn rổi trong dân cư.
Thứ hai, năng lực tổ chức và quản lý còn hạn chế nên khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới và hội nhập quốc tế là rất khó khăn. Mà hiện nay các NHTM đã mỡ chi nhánh tại Việt nam và đang chiếm tỷ trọng ngày càng tăng.
Thứ ba, trình độ các bộ Ngân hàng chưa cao, số các bộ trình độ đại học chiếm số lượng ít, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, sự canh tranh ngày càng gay gắt hiện nay.
Thứ tư, bộ máy còn rườm rà, lắm thủ tục chưa gọn nhẹ nên việc huy động vốn và cho vay vốn chưa thuận tiện, do đó Ngân hàng chưa huy động được tối đa nguồn vốn nhàn rổi trong dân.
Thứ năm, hình thức huy động vốn chưa đa dạng, chủ yếu vẩn là nhận tiền gửi tiết kiệm của cá nhân và các công tổ chức kinh tế, chưa phát huy được các hình thức huy động vốn khác.
Thứ sáu, một vấn đề và đang được tỏ chức trong hệ thống Ngân hàng. đó là công nghệ Ngân hàng. Hiện nay mạng lưới thông tin computer, nối mạng trên thị trường Ngân hàng đã dược thực hiện, các kỉ thuật - công nghệ hiện đại được đầu tư. Tuy nhiên, nó vẩn chỉ được hạn chế trong các trung tâm, thành phố lớn, mặt khác lại mang tính chất sơ khai, do đó so với Ngan hàng thế giới thì còn thua kém rất nhiều, đó cũng chính là hạn chế lớn ảnh hưởng đến công tác huy động vốn qua Ngân hàng.
Thứ bảy, các dịch vụ, sản phẩm qua Ngân hàng còn hạn chế. Vậy các nghiệp vụ sán phẩ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0962.doc