Tài liệu Ngân hàng thương mại và bảo lãnh của Ngân hàng thương mại: ... Ebook Ngân hàng thương mại và bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2321 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Ngân hàng thương mại và bảo lãnh của Ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ BẢO LÃNH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm, chức năng và vai trò của Ngân hàng thương mại
1.1. Sự ra đời của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng ra đời gắn liền với sự phát triển của sản xuất, trao đổi hàng hoá và sự xuất hiện của tiền tệ. Khi có sự giao lưu hàng hoá giữa các vùng, các quốc gia với các loại tiền khác nhau đã gây ra khó khăn trong việc mua bán, thanh toán, chuyển đổi và bảo quản tiền. Vì vậy, trong số các thương gia thời bấy giờ, một số người đã từ bỏ việc buôn bán hàng hoá để trở thành các thương gia tiền tệ thực hiện công việc đổi tiền. Đó chính là việc đổi các loại tiền của các vùng, các nước khác nhau giúp cho việc giao lưu hàng hoá trở nên thuận tiện hơn.
Khi các thương gia thực hiện việc buôn bán hai chiều, sẽ xuất hiện những khoảng thời gian trễ giữa lúc bán hàng hoá này và mua tiếp hàng hoá khác, mặt khác trong thời gian này họ không sử dụng đến số tiền này, để đảm bảo an toàn, họ muốn nhờ ai đó đáng tin cậy bảo quản hộ. Và để đáp ứng nhu cầu đó, các thương gia tiền tệ đã thực hiện công việc thứ hai là nhận gửi và bảo quản hộ tài sản có thu phí.
Khi nhận gửi, các thương gia tiền tệ viết cho khách hàng giấy chứng nhận và sau nhiều lần gửi và rút tiền một cách thuận tiện, các thương gia tiền tệ được tín nhiệm. Để cho việc mua bán diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và an toàn, người mua thanh toán tiền hàng cho người bán bằng giấy chứng nhận, sau đó người bán sẽ tới rút tiền tại chỗ các thương gia tiền tệ. Như vậy các thương gia tiền tệ đã thực hiện công việc chi trả hộ cho khách hàng.
Trong quá trình nhận gửi và chi trả hộ, các thương gia tiền tệ nhận thấy luôn có một số lượng tiền tồn đọng ở chỗ của minh. Điều này đã làm nảy sinh các khả năng sử dụng số tiền này. Trong khi đó, các thương gia khác khi hoạt động kinh doanh luôn có nhu cầu hàng đột xuất cũng như cần những khoản đầu tư lớn cho phát triển. Từ đó các thương gia tiền tệ bắt đầu hoạt động cho vay đối với nền kinh tế.
Trong quá trình cho vay, các thương gia tiền tệ lại thu được lãi nhiều hơn thu lệ phí nhận gửi. Và để tăng thêm lợi nhuận qua lãi vay, các thương gia tiền tệ không những không thu phí tiền gửi mà còn trả lãi cho tiền gửi với mục đích thu hút được số lượng lớn tiền gửi để tăng các hoạt động cho vay. Lúc này các thương gia tiền tệ được gọi là các nhà ngân hàng, chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng. Theo thời gian và sự phát triển của kinh tế, các tổ chức ngân hàng đã không ngừng phát triển. Đối tượng khách hàng mà ngân hàng phục vụ ngày càng mở rộng ra từ người tiêu dùng (cá nhân, hộ gia đình), các cơ quan Chính quyền địa phương (thành phố, tỉnh…) đến các thương gia, nhà sản xuất. Phạm vi hoạt động của ngân hàng không chỉ giới hạn trong một vùng, một khu vực mà ở tất cả các địa phương trong một quốc gia và trên phạm vi toàn thế giới. Các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú: chiết khấu, bảo lãnh, tư vấn, uỷ thác, mua bán chứng khoán…
Chính vì vậy tiền tệ Ngân hàng là hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Nó có vai trò rất to lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Mỗi bước thăng trầm của kinh tế đều có nguyên nhân sâu xa gắn liền với chính sách tiền tệ hoạt động Ngân hàng.
Để đưa ra được một định nghĩa về Ngân hàng thương mại, người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích, đối tượng hoạt động. Tiền tệ là một công cụ vô song nhưng tự nó lại thụ động nên phải có “ Bàn tay điêu luyện của Ngân hàng “ để sử dụng nó thì tiền tệ mới đem lại kết quả cho nền kinh tế.
Vậy ngân hàng là gì ?
Trên thế giới có nhiều khái niệm khác nhau về Ngân hàng.
- Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa: “ Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của các công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác rồi dùng nó cho các nghiệp vụ chiết khấu, về tín dụng, về tài chính”.
- Tại Bỉ: “ Ngân hàng là một xí nghiệp nhận tiền của công chúng một cách thường xuyên để dùng vào các nghiệp vụ ngân hàng, tín dụng, đầu tư”.
- Hiện nay, theo luật các tổ chức tín dụng ở Việt Nam: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”.
1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
Có thể nói Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Một Ngân hàng thương mại đa năng ngày nay gồm có những chức năng cơ bản sau:
Chức năng tín dụng
Chức năng
uỷ thác
Chức năng lập kế hoạch đầu tư
Chức năng
bảo hiểm
Ngân hàng hiện đại
Chức năng thanh toán
Chức năng môi giới
Chức năng tiết kiệm
Chức năng quản lý tiền mặt
Chức năng ngân hàng đầu tư và bảo lãnh
Đối với hầu hết chúng ta, ngân hàng là một loại hình tổ chức kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng, có quan hệ sâu rộng trong nền kinh tế và có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trước hết vai trò đó thể hiện đối với doanh nghiệp và dân cư: Ngân hàng thương mại là người nhận gửi và trả lãi cho các khoản tiền gửi, là người thực hiện các hoạt động thanh toán phục vụ cho khách hàng như phát hành và bù trừ séc, cung cấp các mạng lưới thanh toán điện tử … Ngân hàng thương mại thực hiện vai trò tài trợ cho khách hàng khi có yêu cầu: giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất, kinh doanh, giúp dân cư mở rộng tiêu dùng. Và khi cần thông tin tài chính hay cần lập kế hoạch tài chính, họ thường tìm đến ngân hàng để nhận được lời tư vấn..
Đối với Nhà nước, Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước thực hiện các chính sách vĩ mô, điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế theo hướng mong muốn. Không những vậy, Ngân hàng thương mại còn là người cung cấp vốn tài trợ cho những dự án lớn cả Nhà nước nhằm chống thâm hụt ngân sách qua việc mua trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc.
Đối với nền kinh tế, Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian thu hút, tập hợp một lượng tiền nhàn rỗi lớn trong dân cư, doanh nghiệp làm kênh dẫn vốn vào nền kinh tế nhằm thoả mãn các nhu cầu vốn cho đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Và cũng qua trả lãi tiền gửi và tài trợ nền kinh tế, Ngân hàng thương mại đã khuyến khích tiết kiệm và đầu tư góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của người dân.
2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
2.1 Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng có thể tạo nguồn vốn bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu là từ tiền gửi của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế theo các loại hình khác nhau: ngắn hạn, trung và dài hạn, ngoài ra ngân hàng còn vay từ các cá nhân, tổ chức hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay các hình thức khác.
* Huy động bằng tiền gửi
Tiền gửi giao dịch:
Một trong những dịch vụ nhận tiền gửi lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay lập tức các lệnh rút tiền cho một cá nhân hay cho bên thứ ba, được chỉ rõ là người thụ hưởng. Với ngân hàng đây là nguồn vốn có chi phí thấp nhưng lại có qui mô lớn, thường là trên dưới 20% tổng nguồn huy động.
Người sử dụng tài khoản loại này phần lớn để thanh toán cho khách hàng bằng cách phát hành séc hay rút tiền mặt. Đây vừa là tài sản có của khách hàng, vừa là tài sản nợ của ngân hàng và ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả lại cho người gửi vào bất kỳ lúc nào.
Điều này không những tạo cho ngân hàng huy động được lượng vốn để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của khách hàng mà qua đó thu phí dịch vụ, cung cấp cho khách hàng những tiện ích khác. Và sử dụng tài sản này của khách hàng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng với chi phí rất thấp.
Song do phải dự trữ thường xuyên và với khối lượng lớn tiền nên nhiều khi ngân hàng bỏ qua cơ hội kinh doanh, nếu dự trữ ít sẽ không đáp ứng được nhu cầu thanh khoản bởi đây là một trong những nguồn vốn biến động nhiều nhất và kỳ hạn tiềm năng là ngắn nhất.
Nhìn chung nếu được phép tự quyết định cho bản thân mình về cơ cấu tiền gửi tối ưu, các ngân hàng sẽ hướng về một tỷ trọng cao đối với tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi phi giao dịch
+ Tiền gửi tiết kiệm: được lập ra để thu hút vốn của những người muốn dành riêng một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho một nhu cầu về tài chính được dự tính trong tương lai. Lãi suất áp dụng cho loại tiền gửi này cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch. Trong khi chi phí trả lãi cao, chi phí duy trì và quản lý đối với tài khoản tiền gửi tiết kiệm nói chung là thấp. Tiền gửi loại này có xu hướng ổn định, ít nhạy cảm với những thay đổi trong lãi suất.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có xác định số tiền gửi vào và thời gian rút ra. Về mức lãi có thể cố định hoặc dao động tuỳ theo yêu cầu của khách hàng. Có thể chia làm ba loại:
Tiền gửi có kỳ hạn ngắn (dưới 1 năm)
Tiền gửi trung hạn (từ 1 - 5 năm)
Tiền gửi dài hạn (từ 5 năm trở lên)
Tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng lớn và là nguồn mang tính ổn đinh cho hoạt động của ngân hàng, giúp ngân hàng chủ động trong ký kết hợp đồng tín dụng về lãi suất, thời hạn.
* Huy động bằng cách đi vay.
- Đầu tiên các ngân hàng thường xét đến việc đi vay các tổ chức tín dụng mà chủ yếu là các ngân hàng khác, khi mà họ cần cấp tín dụng số lượng lớn cho khách hàng.
- Vay trực tiếp bằng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu.
- Bán tín phiếu kho bạc trên thị trường mở. Hoặc vay trên thị trường liên ngân hàng bằng các chứng chỉ tiền gửi. Ngoài ra các ngân hàng còn có thể bán nợ.
- Vay ngân hàng Trung ương bằng tái chiết khấu thương phiếu.
* Nhận quĩ uỷ thác đầu tư của chính phủ, các tổ chức quốc tế để cho vay đối tượng đã được lựa chọn.
2.2 Hoạt động sử dụng vốn
* Hoạt động về ngân quĩ
Đảm bảo các khoản dự trữ tự nguyện, dự trữ bắt buộc theo qui định của ngân hàng trung ương, đảm bảo tính thanh khoản, tiền mặt trong quá trình thu.
Các hoạt động thanh toán bù trừ, tiền gửi giao dịch tại các tổ chức tín dụng khác.
Đây là hoạt động nhằm kiểm soát tình hình ngân quĩ của ngân hàng không mang tính chất sinh lời.
* Hoạt động cho vay
Tuỳ theo từng tiêu chí mà có thể phân loại ra các hình thức cho vay khác nhau, theo mục đích sử dụng, theo hình thức bảo đảm hay theo kỳ hạn… Có thể nói hoạt động cho vay là hoạt động đem lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng.
* Hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán và hoạt động uỷ thác của khách hàng
Ngân hàng sử dụng vốn huy động để mua chứng khoán có độ an toàn cao, tính lỏng cao như trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc.
Bên cạnh đó ngân hàng cũng thành lập các công ty chứng khoán hạch toán độc lập với các nghiệp vụ như: Tư vấn, môi giới, lưu ký chứng khoán, bảo lãnh….
Một hoạt động khác của ngân hàng là nhận sự uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào những lĩnh vực đem lại lợi nhuận cho khách hàng và có rủi ro thấp. Ngân hàng đều có thể cung cấp cả hai loại dịch vụ uỷ thác thông thường cho các cá nhân, hộ gia đình và uỷ thác thương mại cho các doanh nghiệp.
2.3 Hoạt động trung gian
Chuyển tiền hộ
Mua bán ngoại tệ, tiền mặt.
Lưu ký (bảo quản tài sản, kim loại quý…)
Thanh toán séc
Leasing
Bảo lãnh
Tư vấn tài chính, môi giới…
II. NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
Trước khi đưa ra khái niệm bảo lãnh trong ngân hàng, chúng ta hãy tìm hiểu về khái niệm bảo lãnh ở một số lĩnh vực khác .
Trong pháp luật dân sự nước ta khái niệm bảo lãnh được nêu trong điều 366 Bộ luật Dân Sự: “ Bảo lãnh là việc người thứ ba ( gọi là người bảo lãnh ) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh), nếu khi đến hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ ...”
Trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế: “ Bảo lãnh tài sản là sự bảo đảm bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết ...”
Từ đó ta đưa ra khái niệm chung về bảo lãnh như sau:
“ Bảo lãnh là sự cam kết của người nhận bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và quyền lợi nếu người xin bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng với bên yêu cầu bảo lãnh “.
* Khái niệm bảo lãnh ngân hàng: Theo điều 2 trong Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng ( ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ- NHNN14 ngày 25 tháng 08 năm 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ):
“ Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. .
2. Các yếu tố trong bảo lãnh .
2.1 Các bên trong bảo lãnh.
Một giao dịch bảo lãnh bao giờ cũng liên quan đến ba bên: Bên bảo lãnh, Bên được bảo lãnh, và Bên thụ hưởng. Quan hệ giữa các bên được quy định bởi các hợp đồng khác nhau, độc lập với nhau.
Bên bảo lãnh: Dùng uy tín của mình để đứng ra cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Bên được bảo lãnh: là các khách hàng yêu cầu được bảo lãnh, và là bên được ngân hàng cam kết thực hiện thay nghĩa vụ khi vi phạm hợp đồng . Bên nhận bảo lãnh: khi bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng thì bên nhận bảo lãnh sẽ được thanh toán khi có yêu cầu.
Các hợp đồng liên quan đến các bên trong bảo lãnh :
+ Hợp đồng cơ sở giữa bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng.
+ Hợp đồng bảo lãnh giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh.
+ Hợp đồng giữa bên bảo lãnh với bên thụ hưởng ( được gọi là thư bảo lãnh của ngân hàng - bên bảo lãnh ).
2.2 Phí bảo lãnh.
Phí bảo lãnh là chi phí mà người được bảo lãnh phải trả cho ngân hàng do sử dụng dịch vụ này. Phí bảo lãnh phải đảm bảo bù đắp các chi phí bỏ ra của ngân hàng có tính đến rủi ro mà ngân hàng có thể phải gánh chịu. Nếu xét bảo lãnh dưới góc độ một sản phẩm dịch vụ thì phí bảo lãnh chính là giá cả của dịch vụ đó.
Phí bảo lãnh có thể được tính bằng một số tiền cụ thể hoặc tính bằng một tỷ lệ (tỷ lệ này tính trên số tiền được bảo lãnh). Khi tính bằng tỷ lệ thì phí bảo lãnh được tính như sau:
Phí bảo lãnh = Tỷ lệ phí * Số tiền bảo lãnh * Thời gian bảo lãnh.
Trong đó:
+ Tỷ lệ phí (%): được quy định cụ thể tuỳ thuộc vào loại bảo lãnh và tuỳ vào từng bên bảo lãnh là khác nhau.
+ Số tiền bảo lãnh: là số tiền mà ngân hàng cam kết trả thay khi bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng
+ Thời gian bảo lãnh: Là thời hạn mà bên được bảo lãnh xin bảo lãnh.
III. ĐẶC ĐIỂM, CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA BẢO LÃNH NGÂN HÀNG.
1. Đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng.
1.1 Bảo lãnh là một mối quan hệ nhiều bên, phụ thuộc lẫn nhau:
Một thư bảo lãnh là một hợp đồng giữa 2 bên, thường là giữa Ngân hàng và Người thụ hưởng. Hợp đồng này độc lập với mối quan hệ trong hợp đồng cơ sở. Tuy nhiên để hiểu cơ chế hoạt động của những công cụ này, cần thiết phải hiểu rằng bảo lãnh không chỉ là mối quan hệ hai bên. Bảo lãnh là một quan hệ tạo thành trong mối quan hệ nhiều bên, bao gồm:
- Mối quan hệ hợp đồng giữa Người được bảo lãnh và Người thụ hưởng.
- Mối quan hệ hợp đồng giữa Người được bảo lãnh và Ngân hàng.
Hợp đồng bảo lãnh sẽ không tồn tại nếu không có hai hợp đồng trên. Dù có sự phân chia, ba mối quan hệ này liên hệ lẫn nhau và các quan hệ này có ảnh hưởng đến nhau.
1.2 Sự độc lập của thư bảo lãnh;
Đặc điểm quan trọng của thư bảo lãnh là sự độc lập của nó đối với hợp đồng cơ sở. Dù rằng mục đích của thư bảo lãnh là để đền bù cho Người thụ hưởng những tổn thất do việc Người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng cơ sở gây ra, nhưng Người thụ hưởng chỉ được đòi tiền theo thư bảo lãnh nếu việc đòi tiền đó phù hợp với những điều khoản, điều kiện đã được quy định trong thư bảo lãnh. Ngân hàng không thể viện cớ do những vấn đề phát sinh từ hợp đồng cơ sở để từ chối nghĩa vụ của mình.
Vấn đề “Liệu trong thực tế Người được bảo lãnh thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với Người hưởng thụ hay không? Hoặc liệu người thụ hưởng có được quyền đòi tiền bồi thường như đã quy định trong hợp đồng cơ sở hay không?” không phải là vấn đề đặt ra đối với Ngân hàng khi xem xét yêu cầu đòi tiền của Người thụ hưởng. Theo đó, một khi những điều khoản, điều kiện của thư bảo lãnh được thỏa mãn, Người thụ hưởng về mặt pháp lý được quyền yêu cầu đòi tiền và không cần thiết phải chỉ ra các vi phạm của Người được bảo lãnh bằng cách nào khác ngoài cách quy định trong thư bảo lãnh. Tuy nhiên, qui tắc độc lập này cũng loại trừ những trường hợp lừa đảo.
Đối với Ngân hàng, qui tắc độc lập cũng có những thuận lợi. Khi người thụ hưởng có yêu cầu đòi tiền theo thư bảo lãnh, ngân hàng chỉ có trách nhiệm xem xét, kiểm tra xem những điều khoản, điều kiện của thư bảo lãnh có được thỏa mãn hay không. Nhiệm vụ này được thực hiện một cách khá dễ dàng bởi thực tế các điều kiện trả tiền thường được lập dưới dạng chứng từ. Ví dụ; việc xuất trình các chứng từ đòi tiền bằng văn bản thường đính kèm một tuyên bố đơn phương của người thụ hưởng về việc vi phạm của ngưòi được bảo lãnh (đối với trường hợp bảo lãnh trả tiền theo yêu cầu đầu tiên) hoặc việc xuất trình các văn bản xác nhận của bên thứ 3 về việc vi phạm hợp đồng cơ sở (đối với trường hợp bảo lãnh chứng từ) hoặc việc xuất trình phán quyết của tòa án, trọng tài. Do vậy, ngân hàng không liên quan đến các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng cơ sở giữa Người được bảo lãnh và Người thụ hưởng nên cũng không liên quan đến những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cơ sở giữa hai bên.
Tuy nhiên tính chất độc lập của bảo lãnh cũng làm tăng rủi ro phải thanh toán hộ khi không có sự trung thực của bên yêu cầu bảo lãnh.
2. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng.
2.1 Chức năng bảo đảm.
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng. theo chức năng này người thụ hưởng sẽ nhận được sự bồi thường về mặt tài chính trong trường hợp người được bảo lãnh vi phạm cam kết. Tuy nhiên, người thụ hưởng chỉ được phép đòi tiền theo thư bảo lãnh nếu xuất trình được những chứng từ cần thiết theo đúng các điều khoản, điều kiện của thư bảo lãnh. Bằng việc chấp nhận phát hành thư bảo lãnh, ngân hàng coi như đó là nghĩa vụ của chính mình vì lợi ích của người được bảo lãnh. Nhưng trong thực tế khả năng xảy ra nghĩa vụ bồi thường của ngân hàng là rất nhỏ.
Mặt khác bảo lãnh thường được sử dụng cho các thoả thuận phi mua bán như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng ... Do đó bảo lãnh không có chức năng thanh toán mà có chức năng bảo đảm.
2.2 Chức năng tài trợ.
Ngân hàng phát hành bảo lãnh như một công cụ tài trợ giúp cho nhà thầu tham gia thay vì mang tiền đến đặt cọc thì chỉ cần bảo lãnh của ngân hàng. Trong trường hợp người thi công công trình hay thực hiên một hợp đồng mua bán có thể sẽ phải dùng đến một số vốn lớn trong một thời gian dài, người thi công sẽ yêu cầu từ người chủ một khoản tiền ứng trước. Lúc này ngân hàng sẽ phát hành bảo lãnh để đảm bảo cho người chủ sẽ úng trước tiền cho người thi công. Vậy khi xét bảo lãnh ngân hàng ở những mặt này rõ ràng bảo lãnh ngân hàng mang chức năng tài trợ.
2.3 Chức năng đôn đốc hoàn thành hợp đồng.
Bảo lãnh cho phép người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng cam kết trong suốt thời gian có hiệu lực của bảo lãnh và khi ngân hàng phải thực hiện việc trả tiền thì ngân hàng có quyền đòi số tiền này từ bên được bảo lãnh. Do đó người được bảo lãnh luôn luôn có một áp lực thúc đẩy họ hoàn tất hợp đồng đã ký kết một cách nhanh chóng. Mặc dù người thụ hưởng sẽ được nhận khoản tiền bồi thường khi có trục trặc xảy ra nhưng cái họ muốn là hợp đồng sẽ hoàn thành nên bảo lãnh mang ý nghĩa đốc thúc hoàn thành hợp đồng hơn là việc bồi hoàn.
2.4 Chức năng đánh giá năng lực nhà thầu.
Trong giao dịch khi người bán yêu cầu đối tác phải có bảo lãnh cuả ngân hàng thì mới ký kết hợp đồng do nhiều nguyên nhân như : không hiểu rõ về nhau, chưa từng làm ăn lần nào... Nếu đối tác không có được bảo lãnh của ngân hàng và họ đưa ra các lý do để từ chối điều kiện phải có bảo lãnh thì người bán có thể đánh giá được ngay rằng đối tác của mình là người không đủ tin cậy để thực hiện giao dịch.Trong trường hợp đó người bán sẽ chấm dứt ngay quan hệ làm ăn với đối tác vì họ hiểu khi ngân hàng không đồng ý bảo lãnh cho đối tác của họ, tức là đối tác là người không có đủ uy tín và năng lực để thực hiện hợp đồng.
3.Vai trò của bảo lãnh ngân hàng.
Trong giao dịch bảo lãnh, mỗi một chủ thể tham gia đều được hưởng lợi ích khác nhau từ dịch vụ này. Như vậy bảo lãnh có vai trò khác nhau với các bên tham gia.
3.1 Vai trò của bảo lãnh ngân hàng đối với doanh nghiệp:
Trong các quan hệ kinh tế không phải lúc nào các đối tác cũng tin tưởng nhau do rất nhiều nguyên nhân. Vì thế để đảm bảo an toàn quan hệ làm ăn, bên cung cấp thường yêu cầu bên kia phải có bảo lãnh của ngân hàng thì giao dịch mới được thực hiện. Do đó bảo lãnh ngân hàng đôi khi là yêu cầu bắt buộc để bước đầu giúp cho doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận tới hợp đồng.
Một vai trò nữa của bảo lãnh ngân hàng cũng rất quan trọng đối với doanh nghiệp là khi doanh nghiệp sử dụng dịch vụ này của ngân hàng giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được khoản vốn đáng kể, có thêm nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp trong khi đó doanh nghiệp chỉ phải trả một khoản phí bảo lãnh tương đối thấp.
Vai trò thứ ba của bảo lãnh ngân hàng là giúp tăng thêm uy tín của doanh nghiệp với các đối tác. Bởi vì một doanh nghiệp được ngân hàng bảo lãnh chắc chắn sẽ đáng tin cậy hơn một doanh nghiệp không được ngân hàng bảo lãnh.
3.2 Vai trò bảo lãnh đối với ngân hàng :
Đối với ngân hàng bảo lãnh là một trong các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế hay nói cách khác là ngân hàng “ bán” dịch vụ bảo lãnh. Vậy việc “ bán” này đem lại gì cho ngân hàng?
Bảo lãnh đem lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng đó là phí bảo lãnh . Phí bảo lãnh đóng góp vào lợi nhuận ngân hàng một khoản không nhỏ, nó chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng phí dịch vụ của các ngân hàng hiện nay. Một ưu điểm của bảo lãnh ngân hàng là không phải trả chi phí huy động như hoạt động cho vay, không mất chi phí cơ hội cho mục đích kinh doanh khác... Và mỗi khi thực hiện bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chắc chắn thu được khoản phí này.
Không chỉ đóng góp vào lợi nhuận, bảo lãnh còn làm đa dạng hoá các loại hình dịch vụ trong ngân hàng và giúp làm giảm sự phụ thuộc lợi nhuận vào hoạt động tín dụng tức là đã giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro mất vốn.
Mặt khác thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh giúp ngân hàng làm tốt hơn chính sách khách hàng, vừa đáp ứng nhu cầu của khách hàng truyền thống, điều này giúp ngân hàng gắn bó hơn nữa với khách hàng truyền thống , vừa thu hút các khách hàng mới. Như vậy không chỉ giúp ngân hàng tăng thêm lợi nhuận từ hoạt động này mà còn thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng: huy động vốn, thanh toán, tín dụng ...
Ngoài ra bảo lãnh nâng cao uy tín và tăng cường quan hệ của ngân hàng đặc biệt là trên trường quốc tế. Thông qua bảo lãnh ngân hàng tạo được thế mạnh, uy tín giúp tăng khách hàng và lợi nhuận.
2.3 Vai trò bảo lãnh đối với nền kinh tế.
Sự tồn tại bảo lãnh ngân hàng là một khách quan đối với nền kinh tế, đáp ứng nền kinh tế ngày một phát triển. Nó tồn tại được như là do vai trò to lớn của nó đối với nền kinh tế.
Bảo lãnh ngân hàng có vai trò như một chất xúc tác làm điều hoà và xúc tiến hàng loạt các quan hệ trong hợp đồng kinh tế. Nhờ có bảo lãnh mà các bên có thể yên tâm tham gia ký kết các hợp đồng kinh tế và có trách nhiệm với hợp đồng mình đã ký kết. Bảo lãnh đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia và là công cụ để thúc đẩy trao đổi buôn bán giữa các bên do đó có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế.
Bảo lãnh có vai trò quan trọng trong việc tăng thêm nguồn vốn cho các doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế. Nhất là đối với những nước như nước ta hiện nay đang tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá thì vốn đầu tư là vô cùng quan trọng. Nhưng để có được vốn đầu tư của nước ngoài thì các doanh nghiệp nước ta chưa đủ uy tín do đó phải cần đến ngân hàng đứng ra bảo lãnh để các đối tác cho vay nước ngoài yên tâm bỏ vốn cho các doanh nghiệp nước ta sản xuất kinh doanh. Như vậy nhờ vào uy tín của ngân hàng bảo lãnh, bảo lãnh trở thành công cụ tiếp cận tới các nguồn vốn của nước ngoài. Nguồn vốn này thường được tập trung vào sản xuất tạo điều kiện cho doanh nghiệp mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ từ đó giúp doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngoài ra sản xuất phát triển kéo theo các lợi ích vế kinh tế xã hội như: giảm thất nghiệp, tăng GDP... tức là giúp nền kinh tế phát triển một cách đồng bộ .
Bảo lãnh ngân hàng còn góp phần tăng cường mối quan hệ thương mại quốc tế giữa các quốc gia.
IV. PHÂN LOẠI BẢO LÃNH NGÂN HÀNG .
Những rủi ro khác nhau trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng là lý do sinh ra nhiều loại bảo lãnh khác nhau. Dù rằng về cơ bản, chúng được phát hành với cùng mục đích chung-bảo vệ người thụ hưởng đối với những rủi ro xảy ra do người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ.
Có thể phân loại bảo lãnh theo nhiều tiêu thức khác nhau.
1. Các loại bảo lãnh ngân hàng .
1.1 Phân loại theo mục đích của bảo lãnh
Đây là cách phân loại thông dụng nhất và cách này cho biết mục dích sử dụng của từng loại bảo lãnh, theo điều 5 quy chế bảo lãnh ngân hàng (Ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 28/08/2000 của thống đốc ngân hàng nhà nước) bao gồm các loại bảo lãnh sau:
1.1.1 Bảo lãnh dự thầu.
Bảo lãnh dự thầu là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên mời thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Mục đích của bảo lãnh dự thầu là khẳng định việc tham gia đấu thầu là nghiêm túc và người dự thầu chắc chắn sẽ ký hợp đồng nếu trúng thầu hay nói cách khác việc phát hành bảo lãnh dự thầu bảo đảm bảo cho chủ thầu về khả năng tài chính của người dự thầu.
Nếu ngân hàng đồng ý bảo lãnh thì ngân hàng sẽ phát hành một thư bảo lãnh dự thầu. Trong thư bảo lãnh này sẽ nghi rõ số tiền bảo lãnh và thời hạn bảo lãnh khớp đúng với yêu cầu của chủ thầu nhưng không trái với quy chế đấu thầu.
Trong các trường hợp sau chủ thầu sẽ được phép đòi tiền theo thư bảo lãnh dự thầu:
+ Nhà thầu (người dự thầu) rút hồ sơ dự thầu trong thời gian còn hiệu lực được nêu trong đơn dự thầu .
+ Nhà thầu khi được chủ thầu thông báo trúng thầu trong thời gian còn hiệu lực của đơn dự thầu mà:
* Không ký hợp đồng theo phần chỉ dẫn khi được chủ thầu yêu cầu hoặc:
* Không nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho chủ thầu .
Các loại bảo lãnh dự thầu:
- Bảo lãnh dự thầu xây lắp
- Bảo lãnh dự thầu cung ứng máy móc, thiết bị, hàng hoá (dự thầu cung ứng).
1.1.2 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh đảm bảo việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết .
Đây là loại bảo lãnh được dùng phổ biến nhất và có thể không phải yêu cầu một loại bảo lãnh nào khác ngoài nó trong quá trình mua bán hàng hoá hoặc dự thầu xây dựng.
Số tiền bảo lãnh và thời hạn bảo lãnh do chủ thầu và nhà thầu quy định trong các hợp đồng. Số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến độ hợp đồng. Thời hạn trong thư bảo lãnh được kéo dài đến khi hoàn thành hợp đồng như: hàng hoá đã giao xong, máy móc thiết bị đã được vận hành, công trình được đưa vào sử dụng ; sau đó chuyển sang giai đoạn bảo hành.
Các loại bảo lãnh thực hiện hợp đồng:
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng xây lắp
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng cung ứng máy móc, thiết bị (hợp đồng cung ứng).
1.1.3 Bảo lãnh hoàn thanh toán (bảo lãnh tiền ứng trước).
Bảo lãnh hoàn thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh.
Mục đích của bảo lãnh tiền ứng trước có thể rộng hơn bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Vì giả sử khi hai bên thoả thuận huỷ bỏ hợp đồng hay hợp đồng không được thực hiện do lý do khách quan thì thư bảo lãnh tiền ứng trước vẫn sẽ bị đòi tiền bởi vì việc trả tiền theo thư bảo lãnh tiền ứng trước được xem như là trả lại số tiền chủ thầu đã ứng cho nhà thầu trong khi bảo lãnh thực hiện hợp đồng lại chỉ đảm bảo những tổn thất do vi phạm hợp đồng.
Số tiền bảo lãnh và thời hạn bảo lãnh được quy định trong hợp đồng.Số tiền bảo lãnh có giá trị bằng toàn bộ số tiền ứng trước của hợp đồng và sẽ được giảm dần theo tiến độ thực hiện công việc.
Các loại bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước.
- Bảo lãnh tiền ứng trước thi công công trình.
- Bảo lãnh tiền ứng trước sản xuất máy móc thiết bị.
1.1.4 Bảo lãnh thanh toán
Bảo lãnh thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn.
Mục đích của bảo lãnh thanh toán là nhằm tránh tổn thất cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán hoặc không thanh toán đủ số tiền theo đúng hợp đồng.
Số tiền bảo lãnh và thời hạn bảo lãnh phù hợp với số tiền và thời hạn thanh toán trong hợp đồng cơ sở.
Các loại bảo lãnh thanh toán:
- Bảo lãnh thanh toán tiền xây lắp công trình.
- Bảo lãnh thanh toán tiền đặt máy móc, thiết bị.
1.1.5 Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm theo hợp đồng.
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh . Trong trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đún._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH460.doc