Lời nói đầu
Chi phí - những nhân tố ảnh hưởng đến chi phí luôn là một vấn đề quan trọng cho bất kỳ một doanh nghiệp nào, để đảm bảo được hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả thì phi phí cần phải được quan tâm đúng mức và giám sát thường xuyên. Bởi rằng mục tiêu của mỗi doanh nghiệp trong bất kỳ thời đại nào là tối đa hoá lợi nhuận hoặc cực tiểu hoá chi phí. Từ việc tìm hiểu và phân tích chi phí của doanh nghiệp thay đổi như thế nào qua các năm, xem xét nó có tuân theo quy luật nào? Những n
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm ứng dụng mô hình chi phí Ngân hàng với sự trợ giúp của phần mềm EVIEWS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân tố nào có ảnh hưởng đến sự thay đổi của chi phí và cuối cùng là có thể mô hình hoá được nó hay không? Việc mô hình hoá sẽ giúp chúng ta biết được những nhân tố nào có ảnh hưởng thực sự và mức độ ảnh hưởng của chúng. Những câu hỏi trên sẽ được trả lời trong báo cáo này với sự trợ giúp của phần mềm Eviews.
Ngân hàng là một tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Là một trong những mắt xích quan trọng của bất kỳ một nền kinh tế nào, trung gian tài chính, một nhân vật không thể thiếu trong nền kinh tế quốc dân. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, một doanh nghiệp đặc biệt, nên mục tiêu ngân hàng luôn theo đuổi cũng là cực đại hoá lợi nhuận, hay tối thiểu hoá chi phí. Xuất phát từ mục tiêu trên, nên khi được tạo điều kiện thực tập tại ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm em đã có ý tưởng muốn thành lập mô hình chi phí của ngân hàng, ước lượng mô hình nhờ sự trợ giúp của phần mềm Eviews. Để xây dựng mô hình chi phí cho ngân hàng phải dựa trên mô hình chi phí của các doanh nghiệp kinh doanh, hay chính là lý thuyết về hàm chi phí. Tuy nhiên chi phí của ngân hàng ở đây khác với mô hình chi phí của các doanh nghiệp, do đối tượng kinh doanh của nó là tiền tệ và các chứng từ có giá nên nó sẽ phát sinh các chi phí khác so với chi phí thông thường của các doanh nghiệp.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp được trình bày qua hai chương:
Chương 1: Ngân hàng và chi phí hoạt động của ngân hàng
Chương 2: Ngân hàng CTHK - Ứng dụng mô hình chi phí ngân hàng với sự trợ giúp của phần mềm Eviews
Em xin chân thành cám ơn Phó giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Quang Dong và các thấy cô trong khoa Toán kinh tế đã tận tình giúp đỡ em hoàn thiện đề tài này. Em cũng xin chân thành cám ơn các cô chú trong ban lãnh đạo Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm – Phòng kế toán tài chính đã tào điều kiện thuận lợi cho em trong công việc tại ngân hàng và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Chương 1: NGÂN HÀNG VÀ CHI PHÍ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
I. KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆN VỤ CHỦ YẾU CỦA NGÂN HÀNG
1. Khái niệm về ngân hàng
1.1. Khái niệm
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong các ngân hàng thương mại thường chiếm tỉ trọng lớn nhất về tổng quy mô tài sản, thị phần và số lượng ngân hàng.
Luật tổ chức tín dụng của nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động của ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Như vậy, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng; đến lượt mình sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Ngân hàng được ra đời từ rất lâu, hình thức đầu tiên của ngân hàng là ngân hàng của các thợ vàng hoặc ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi. Hình thức cho vay chủ yếu là cho vay thấu chi - tức là cho phép khách hàng chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân hàng, một hình thức cho vay chứa đựng nhiều rủi ro. Và chính vì thế, thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản, gây khó khăn cho các hoạt động thanh toán, ảnh hưởng tới hoạt động buôn bán. Hơn nữa lãi suất cao nên những nhà buôn không thể sử dụng nguồn vay này. Trước tình hình này nhiều nhà buôn đã góp vốn lập thành ngân hàng, với chức năng chủ yếu là tài trợ ngắn hạn và thanh toán hộ... Ngân hàng này được gọi là ngân hàng thương mại.
Sau này sự phá sản của các ngân hàng thương mại đã gây tổn thất cho người gửi tiền là nguyên nhân dẫn đến hình thành ngân hàng tiền gửi... Và ngân hàng Trung ương ra đời với chức năng điều tiết hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
Quá trình phát triển của ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa chúng. Các hoạt động ngân hàng xuyên quốc gia đã và đang thúc đẩy hình thành các hiệp hội, các tổ chức liên kết các ngân hàng nhằm tạo ra các chính sách chung, hoặc tương thích để kiểm soát chung, để kết nối và tạo sự thống nhất trong điều hành và vận hành hệ thống ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế.
Lịch sử hình thành và phát triển của các ngân hàng cũng đã chứng kiến nhiều khủng hoảng và hoảng loạn ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và thế giới, gây tổn thất rất lớn cho nền kinh tế và mất ổn định chính trị. Có thể nói, các vụ sụp đổ ngân hàng cũng là một khâu tất yếu trong tiến trình phát triển của ngân hàng. Các nhà quản lý đã và đang không ngừng cải tiến chính sách quản lý để hạn chế sự sụp đổ và mới đường cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng.
2. Chức năng của ngân hàng
2.1. Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn. Các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá và dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Vấn đề trên đòi hỏi phải hình thành một tổ chức đứng ra là trung gian tài chính đó là ngân hàng. Ngân hàng sẽ nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân hay các doanh nghiệp đang cần nguồn vốn kinh doanh. Trung gian tài chính này có thể hoạt động hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
2.2. Tạo phương tiện thanh toán
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể mua hàng hoá hoặc dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.
2.3. Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới. Thay vì khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá dịch vụ. Để thanh toán nhanh chóng thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng.
II. TÍN DỤNG - HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NGÂN HÀNG
1. Tín dụng và phân tích tín dụng của ngân hàng
1.1. Khái niệm tín dụng
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của ngân hàng thương mại, một hoạt động rất phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Nó là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn được gọi là tín dụng ngân hàng).
Tất cả các lý do trên đã cho thấy rằng tín dụng là một hoạt động cung cấp dịch vụ cho vay, theo nghĩa đơn giản, của ngân hàng cho khách hàng. Khách hàng ở đây là các cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp... Khi ngân hàng cung cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng thường xem xét đến các vấn đề như: nhân tố con người và quản lý, tình trạng hay khả năng tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ, đảm bảo tín dụng, mục đích vay. Đó là những vấn đề rất cơ bản trước khi tiến hành hoạt động cho vay.
Nói đến tín dụng, ngân hàng sẽ xem xét vấn đề khả năng tài chính của khách hàng vay. Đây là vấn đề quan trọng và nó tác động trực tiếp đến quyết định cho vay. Mỗi người vay phải có vốn tự có đủ lớn để đảm bảo cho ngân hàng có thể thu hồi vốn của mình thông qua việc bán tài sản. Nếu việc hoàn trả tiền vay bằng hiện vật không đủ để trả nợ món vay theo dự tính thì người vay sẽ kém hấp dẫn đối với ngân hàng. Tuy nhiên khó khăn chỉ xuất hiện trong việc trả nợ, ngân hàng muốn đảm bảo bằng vốn tự có tương xứng trong tài sản của người vay trong trường hợp không trả nợ được. Ngân hàng phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp bằng cách xem xét bảng tổng kết tài sản. Trong đó vốn tự có của doanh nghiệp chính là nhân tố quan trọng nhằm bù đắp cho những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tăng vốn tự có là một biểu hiện của sự tiến bộ về tài chính của doanh nghiệp. Một mức tăng về vốn tự có của doanh nghiệp có thể đạt được bằng ba cách cơ bản sau: Lợi nhuận của doanh nghiệp được giữ lại không chia, tăng giá trị tài sản bằng quà tặng hoặc thừa kế, bán cổ phần hay góp thêm vốn từ các đối tác. Vốn tự có là thước đo tốt nhất về “hiện trạng sức vóc” của một doanh nghiệp và cam kết của chủ doanh nghiệp.
Thêm vào đó, vấn đề góp phần không nhỏ vào quyết định của ngân hàng, đó là khả năng trả nợ của doanh nghiệp đi vay. Lý do đơn giản là: sự khác nhau cơ bản giữa một khoản cho vay tốt và một khoản cho vay kém chất lượng được thể hiện trước hết ở việc hoàn trả khoản vay. Nếu một khoản vay được trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn, mặc dù có thể gặp khó khăn, thì đối với ngân hàng khoản vay đó vẫn được đánh giá là khoản vay tốt. Vì vậy, sự đánh giá chính xác của ngân hàng về năng lực trả nợ của người vay cũng quan trọng như sự đánh giá về tính cách năng lực quản lý của người vay. Thường thì ngân hàng xem xét hồ sơ hoạt động sản xuất kinh doanh trước đây của doanh nghiệp, chủ yếu là báo cáo thu nhập hàng năm. Thêm vào đó, ngân hàng nghiên cứu đề án thực hiện trong tương lai dưới hình thức dự toán luồng tiền. Thông tin từ báo cáo thu nhập đưa ra một bức tranh về khả năng tạo thu nhập trong quá khứ của doanh nghiệp, và nhờ đó cung cấp một cơ sở vững chắc tương đối cho dự toán thu nhập, chi phí và trả nợ trong tương lai của doanh nghiệp.
Nói đến quyết định của ngân hàng không thể không nói đến vấn đề bảo đảm tín dụng. Định chế tài chính là một trung gian tài chính không cho vay tiền của bản thân mình, mà là đi vay để cho vay, nên trách nhiệm hàng đầu là bảo vệ lợi ích của người gửi tiền. Mặc dù phần lớn các ngân hàng đều dự tính trước các rủi ro có thể có, những rủi ro này phải được kiểm soát một cách chặt chẽ để bảo vệ số tiền gửi của khách hàng. Chính vì vậy, sự an toàn là một vấn đề cần xem xét trước tíên đối với mọi khoản vay. Do đó, một ngân hàng thường sẽ vay trên cơ sở có đảm bảo để giảm thiểu rủi ro.
Một chi tiết cuối cùng được bàn luận ở đây là mục đích vay. Mục đích vay có ảnh hưởng lớn tới chất lượng của khoản vay. Hầu như bất kỳ một ngân hàng nào cũng thích cấp một khoản tín dụng đúng đắn. Ngân hàng sẽ xem xét mục đích vay bằng cách xếp loại các yêu cầu vay thành: các nhu cầu thiết yếu, nhu cầu và mong muốn. Các nhu cầu thiết yếu là những thứ cần thiết như chi phí hoạt động, hàng dự trữ, nguyên vật liệu, sửa chữa và thuế. Quyền ưu tiên trước hết phải dành cho việc tài trợ các nhu cầu thiết yếu và các nhu cầu của người vay, nếu muốn việc kinh doanh hoạt động được thực hiện hết công suất. Trong nhiều trường hợp, điều này có nghĩa là phải giới hạn hoặc hoãn tài trợ cho các nhu cầu mong muốn. Thường thì ngân hàng phải giúp doanh nghiệp lập các quyền ưu tiên, điều đòi hỏi sự tư vấn đáng kể để giúp doanh nghiệp tránh khỏi việc vay vượt quá mức cho những nhu cầu không cần thiết. Mục đích khoản vay phải được phân tích về hiệu quả đối với khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Liệu khoản vay có tài trợ cho sự mở rộng mạnh mẽ hay hoạt động có hiệu quả hơn từ đó tăng lợi nhuận, hay nó sẽ gây ra thêm một gánh nặng về nợ nần mà không tạo ra một chút lợi nhuận nào? Về ý nghĩa, một khoản vay đúng sẽ giúp doanh nghiệp tăng thu nhập ở mức cao đáng kể so với chi phí trả lãi vay. Hơn nữa mục đích của một khoản vay ảnh hưởng không chỉ tới lợi nhuận mà còn cả tình hình tài chính của toàn bộ doanh nghiệp.
1.2. Phân tích tín dụng
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho ngân hàng thương mại. Rủi ro này, có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn chủ, đẩy ngân hàng đến chỗ phá sản. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Đó chính là quá trình phân tích rủi ro tín dụng
Quan hệ tín dụng phần lớn được xác lập thông qua phân tích tín dụng với trọng tâm là xác định khả năng và ý muốn của người nhận tín dụng trong việc hoàn trả đúng hạn. Do đó mục tiêu của phân tích tín dụng là xác định rủi ro và biện pháp hạn chế rủi ro.
2. Các loại hình tín dụng trong ngân hàng
Xét về tín dụng ngân hàng, ta thấy có nhiều loại tín dụng được đưa ra để đáp nhu cầu của các doanh nghiệp. Ta có thể kể ra một số loại hình tín dụng như sau:
Thứ nhất, tín dụng vốn lưu động ngắn: là loại tín dụng luôn dựa trên cơ sở dưới một năm, tài trợ cho sự tăng trưởng từng kỳ về hàng hoá dự trữ và các khoản phải thu, hoặc trang trải một nhu cầu ngắn hạn về tiền mặt cho sản xuất, thanh toán. Loại tín dụng này thường sẽ được thanh toán bằng việc bán hàng, dự trữ và thu các khoản phải thu.
Thứ hai, tín dụng vốn cố định: là một khoản vay để mua tài sản cố định như thiết bị, đồ đạc, bất động sản, phương tiện giao thông và trong một số trường hợp, nhà cửa hoặc những cải tạo nâng cấp bất động sản. Một khoản vay có thời hạn có thể được lập trong thời gian từ 1-10 năm, dựa vào thời gian khấu hao tài sản được hình thành bằng vốn vay và thường được bảo đảm bằng quyền được hưởng các tài sản đó.
Thứ ba, tín dụng luân chuyển dành cho các khoản phải trả hoặc hàng hoá dự trữ: loại tín dụng này thường không có kế hoạch trả nợ đều đặn. Các khoản nợ đi từ giấy nhờ thu các khoản phải thu theo khoản vay, số giải ngân mới được thực hiện khi bán hoặc mua hàng dự trữ. Số cho vay lớn nhất luôn được xác định bằng cách dựa trên số hàng hoá dự trữ hoặc số phải thu trên sổ sách của người vay vào một ngày nhất định.
Thứ tư, tín dụng dự phòng: là một khoản vay sử dụng trước khi bán một tài sản trước khi thực hiện tái tài trợ. Loại tín dụng này luôn là ngắn hạn, mặc dù nhiều khi thời hạn dài khoảng vài năm và xoá một nguồn trả nợ được xác định một cách rõ ràng – các khoản thu bán hàng hoặc tái tài trợ. Một khoản vay xây dựng, tài trợ thanh toán định kỳ cho chủ thầu xây dựng trong một dự án xây dựng và được thanh toán bằng khoản thu từ việc tài trợ cầm cố lâu dài theo việc hoàn thành dự án là một dạng tín dụng tạm thời.
Thứ năm, tín dụng vốn hoạt động dài hạn: là loại tín dụng mà phần lớn ngân hàng tiến hành liên tục, mặc dù nó thường không được hiểu đúng bản chất. Một khoản vay thuộc loại này trở nên rất giống với vốn kinh doanh và nói chung phải được trả từ lợi nhuận trong một thời gian. Loại tín dụng này rủi ro có thể tương đối cao, vì việc trả nợ dựa vào các khoản thu nhập được tạo ra trong một thời gian dài trong vài năm. Nhìn chung, một yêu cầu vay thuộc loại này cho thấy tình trạng vốn tự có của doanh nghiệp tương đối yếu hoặc doanh nghiệp đang phát triển nhanh.
III. CHI PHÍ – CHI PHÍ CỦA NGÂN HÀNG
1. Khái niệm chi phí
1.1. Chi phí sản suất kinh doanh nói chung
Chi phí cho sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Hay nói khác đi, chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong kỳ để thực hiện quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Đứng trên góc độ ngân hàng, chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà ngân hàng phải bỏ ra trong kỳ để thực hiện quá trình kinh doanh của mình.
1.2. Phân loại chi phí ngân hàng
Chí phí cho ngân hàng bao gồm: chi phí lãi và chi phí không lãi. Chi phí lãi gồm có: chi phí trả tiền gửi, trả lãi tiền vay, trả lãi phát hành chứng từ có giá, chi trả lãi trong hệ thống... Chi phí không lãi gồm có: chi phí cho cán bộ công nhân viên, chi phí về tài sản, chi phí nộp thuế GTGT. chi phí bảo toàn vốn và dự phòng bảo hiểm tiền gửi, chi phí khác trong hệ thống…
Tóm lại chí phí của ngân hàng bao gồm những chi phí cơ bản sau:
Chi phí giao dịch: chi trả lãi cho dân cư và các tổ chức tín dụng
Chi phí cho tài sản: chi mua tài sản cố định và các tài sản khác phục vụ cho hoạt động của ngân hàng.
Chi phí cho tiền lương : chi trả lương công nhân viên chức của ngân hàng
Chi phí khác: các chi phí khác phát sinh trong các hoạt động của ngân hàng
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí của ngân hàng
2.1. Lãi xuất đi vay
Trong tổng chi phí của ngân hàng thì chi phí cho hoạt động huy động vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Chi phí này cụ thể là chi phí trả lãi cho các hộ gia đình và các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, một nhân tố ảnh hưởng tới chi phí này là lãi suất đi vay của ngân hàng thương mại.
Khi lãi suất đi vay tăng dẫn đến khoản tiền chi trả của ngân hàng đối với các tổ chức gửi tiền và các tổ chức tín dụng khác tăng, điều này làm tăng chi phí giao dịch của ngân hàng.
2.2. Tính thanh khoản của ngân hàng
Khi ngân hàng kém trong khả năng thanh khoản (lượng tiền mặt trong két không đủ thanh toán cho khách hàng, không đủ chi trả lãi cho khách hàng...) cũng có thể làm phát sinh chi phí và làm tăng chi phí giao dịch của ngân hàng. Khi ngân hàng bị rơi vào tình trạng này, việc huy động thêm vốn trên thị trường liên ngân hàng, đi vay các tổ chức tín dụng khác là điều kiện bắt buộc nếu muốn duy trì sự tồn tại cũng như uy tín của ngân hàng không bị giảm sút. Việc huy động vốn trong trường hợp này ngân hàng sẽ phải trả một khoản tiền rất cao vì lãi suất cho các món vay này thường rất cao. Tính thanh khoản một phần được thể hiện ở số dư tiền mặt tại ngân hàng và ở các máy ATM.Vì vậy, tính thanh khoản của ngân hàng cũng có thể ảnh hưởng tới chi phí của ngân hàng.
2.3. Chính sách của ngân hàng Nhà nước
Các quyết định của ngân hàng Trung ương là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến ngân hàng thương mại. Ngân hàng Trung ương thường dùng chính sách lãi suất để điều chỉnh hoạt động nền kinh tế, trong đó có ngân hàng thương mại. Chính sách này ảnh hưởng đến lãi suất cân bằng trên thị trường.
Sự tác động của ngân hàng Trung ương đến sự cân bằng lãi suất trên thị trường có thể ảnh hưởng đến chi phí của ngân hàng.
2.4. Các nhân tố khác ảnh hưởng tới chi phí của ngân hàng
Lượng tiền cho vay
Một chi phí không lãi trong hoạt động của của ngân hàng là chi phí cho các quỹ dự phòng về các rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Bên cạnh việc tăng lợi nhuận từ việc cho vay để thu được các khoản lãi, nhưng nó cũng phát sinh những rủi ro có thể dẫn đến những thiệt hại và có khi là sự phá sản của ngân hàng. Vì khi các khoản cho vay tăng thêm thì ngân hàng phải làm việc thận trọng hơn, biểu hiện ở chỗ là ngân hàng sẽ phải tăng chi phí bảo quản vốn và dự phòng bảo hiểm tiền gửi và một số chi phí khác sao cho vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh khi món vay đó trong tương lai do một rủi ro nào đó có thể nằm trong diện nợ khó đòi, hay có nguy cơ mất trắng nợ gốc.
Hoạt động đầu tư của ngân hàng
Khi ngân hàng nhận lượng tiền gửi từ phía khách hàng thì số tiền đó không thể nằm mãi trong két sắt của ngân hàng mãi, mà số tiền đó phải được xử lý một cách hữu hiệu càng nhanh càng tốt, sao cho nó có thể sinh ra số tiền lãi nhiều nhất có thể, thời gian lưu kho đối với loại hàng hoá đặc biệt này phải ngắn nhất có thể. Hay nói một cách chính xác hơn là ngân hàng sẽ gửi khoản tiền đó vào một ngân hàng khác, hoặc có thể cho vay, đầu tư vào các danh mục đầu tư có lãi...Khi đầu tư tăng thêm, thì vấn đề chi trả lãi cho khách hàng gửi tiền sẽ được thực hiện dễ dàng hơn bởi lý do lãi suất chi trả cho tiền gửi bao giờ cũng bé hơn lãi suất mang lại từ 20
20đầu tư. Do vậy, việc tăng đầu tư có thể làm giảm chi phí của ngân hàng. Mặt khác, nó cũng có thể phát sinh những rủi ro tiềm tàng làm tăng chi phí của ngân hàng. Nhưng thường thì ngân hàng sẽ thận trọng trong việc đầu tư để thu được hiệu quả cao nhất.
VI. MÔ HÌNH CHI PHÍ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Bài toán chung của các công ty
Bài toán chung của công ty, là bài toán cực đại lợi nhuận với ràng buộc về công nghệ cho trước. Lợi nhuận bằng doanh thu trừ chi phí; doanh thu là mức đầu ra nhân với giá của đầu ra; chi phí là tổng trên tất cả các đầu vào của mức đầu vào nhân với tiền công của mỗi đầu vào. Trong lý thuyết tân cổ điển, công nghệ được biểu diễn bằng hàm sản xuất, một mối quan hệ kỹ thuật trên cơ sở những xem xét vật lý hoặc công nghệ chỉ đầu ra (cực đại) có thể đạt được đối với các tổ hợp khác nhau của tất cả các yếu tố sản xuất đầu vào có thể có. Trong trường hợp một công ty sản xuất một đầu ra đơn lẻ từ hai đầu vào, hàm sản xuất có thể là:
Y= f(x1,x2) (1)
Trong đó y là mức cực đại có thể của đầu ra, còn x1 và x2 là các mức của đầu vào và hàm f là hàm được giả định là khả vi liên tục, do đó có các đạo hàm riêng liên tục.
Hàm sản xuất này chỉ ra mức đầu ra y gắn với một tổ hợp bất kỳ của các đầu vào (x1,x2).
Bài toán của công ty trong trường hợp một đầu ra và hai đầu vào có thể phát biểu như bài toán chọn đầu ra và các đầu vào để cực đại lợi nhuận:
= py- w1x1- w2x2
Với ràng buộc y = f(x1,x2) (2)
Trong đó là lợi nhuận, bằng doanh thu (py) trừ chi phí (w1x1+ w2x2), p là giá của đầu ra w1 và w2 là giá của đầu vào. Khi ràng buộc hàm sản xuất được thế vào biểu thức lợi nhuận, bài toán này có thể phát biểu như bái toán không có ràng buộc:
=p.f(x1,x2)- w1x1- w2x2 (3)
Trong trường hợp cạnh tranh hoàn hảo, khi tất cả ba giá trị p, w1 và w2 là những tham số cho trước được xác định trong các thị trường sản phẩm và thị trường yếu tố tương ứng, các điều kiện cần đối với cực đại là:
(4)
(5)
Các điều kiện này đòi hỏi rằng:
(6)
Ở đây các đạo hàm riêng của các sản phẩm cận biên MPj, được định nghĩa xấp xỉ trong trường hợp rời rạc là lượng tăng trong đầu ra trên một đơn vị tăng trong đầu vào khi đầu vào kia được giữ cố định. Các điều kiện này phát biểu rằng sản phẩm biên của mỗi đầu vào phải bằng giá đầu vào thực của nó, tức là giá đầu vào chia cho giá đầu ra. Hai điều kiện sản phẩm cận biên trong (6) cộng với hàm sản xuất trong (1) tạo thành hệ ba phương trình đồng thời, xác định đầu ra cực đại lợi nhuận y và các đầu vào x1 và x2.
Hai điều kiện trong (6) cho biết tỷ lệ của các sản phẩm biên phải bằng tỷ lệ các giá đầu vào:
(7)
Ở đây MRTSjk là tỷ suất thay thế kỹ thuật cận biên giữa các đầu vào j và k, được định nghĩa là tỷ số giữa các sản phẩm biên của đầu vào. Trong trường hợp hai đầu vào, (7) cho điều kiện – là MRTS12 bằng w1/w2.
Cân bằng của công ty có thể được chỉ ra bằng hình học như trong hình a). Các đường thẳng là các đường đồng phí, được định nghĩa là quỹ tích của các tổ hợp đầu vào (x1,x2) mà đối phó với nó chi phí C, tổng chi trả cho cả hai đầu vào, là hằng số:
C = (w1x1+ w2x2) = hằng số (8)
Lấy vi phân toàn phần đồng nhất thức này ta có:
w1dx1 + w2dx2 = 0 (9)
Do đó độ dốc của các đường đồng phí là tỷ lệ của các tiền công:
(10)
Mỗi mức (dương) của hằng số trong (10) xác định một đường đồng phí, và mỗi đường đồng phí có độ dốc bằng âm của tỷ số giữa giá của các đầu vào (hình a)
Các đường cong trong hình là các đường đồng lượng, mỗi trong chúng là quỹ tích của các tổ hợp đầu vào mà đối xứng với chúng đầu ra là cố định, nghĩa là các đường mức của hàm sản xuất định nghĩa bởi:
Y = f(x1,x2) = hằng số (11)
Mỗi đường cong tương ứng với một hằng số riêng biệt trong phương trình. Lấy vi phân toàn phần (11) ta được:
(12)
Cho nên độ dốc của đường đồng lượng bất kỳ tại một điểm bất kỳ được cho bởi:
(13)
x2
Dải mở rộng
MRTS12 =
X2 A3
y
x2 = x2
a) Các dải mở rộng đối với công ty
Như vậy, độ dốc của đường đồng lượng là âm của tỷ suất thay thế cận biên, nói chung nó thay đổi khi đầu vào thay đổi như chỉ ra bởi sự thay đổi độ dốc của một đường đồng lượng bất kỳ khi một đầu vào được thay thế cho một đầu vào khác.
Cân bằng của công ty ở dài hạn khi cả hai đầu vào có thể thay đổi tự do, xảy ra tại điểm tiếp xúc của một đường đồng phí với một đường đồng lượng. Chỉ tại một điểm như thế, đầu ra đạt cực đại với một chi phí cho trước. Mệnh đề thứ nhất suy từ việc di chuyển dọc theo một đường đồng phí bất kỳ: nếu tại một điểm bất kỳ, nó cắt một đường đồng lượng thì có thể tăng đầu ra mà không cần thêm một chi phí nào - bằng cách di chuyển về phía tiếp xúc. Tương tự, khi di chuyển dọc theo một đường đồng lượng bất kỳ, nếu tại một điểm bất kỳ nó cắt một đường đồng phí thì có thể giảm chi phí trong khi giữ đầu ra không đổi - bằng cách di chuyển về phía điểm tiếp xúc. Quỹ tích của các tiếp điểm tiếp xúc của các đường đồng lượng và các đường đồng phí là tập hợp các điểm cân bằng có thể có đối với công ty; nó được gọi là dải mở rộng.
Các điểm cân bằng A1,A2,A3,A4,... có thể có dọc theo dải mở rộng trong hình a). chi ra tại mỗi điểm như vậy một đầu ra y từ đường đồng lượng và mức chi phí C từ đường đồng chi phí. Tập hợp tất cả các cặp có thể có của đầu ra và chi phí dọc theo dải mở rộng xác định đường chi phí:
C = C(y) (14)
Trong trường hợp này là đường tổng chi phí dài hạn, vì nó biểu thị tổng chi phí trong bối cảnh dài hạn trong đó tất cả các yếu tố đầu vào có thể thay đổi tự do:
C = (w1x1+ w2x2) (15)
Ta định nghĩa một đường chi phí ngắn hạn, sử dụng một dải mở rộng khác phản ánh việc có những yếu tố bất kỳ nào đó cố định ở một tầm ngắn hạn. Một ví dụ khi dải mở rộng định nghĩa bởi đường nằm ngang tại x2, ở đây đầu vào thứ hai là cố định tại mức này và đầu vào thứ nhất thay đổi tự do. Đường chi phí ngắn hạn định nghĩa bởi đầu ra và chi phí dọc theo một giả mở rộng như vậy Cs(y) phải thoả mãn.
Cs(y) C(y) tại mỗi y (16)
Vì tại mọi điểm ngoài các điểm mà đối với nó hai dải mở rộng cắt nhau, trong ngắn hạn kéo theo việc sản sinh một mức riêng của đầu ra y với chi phí cao hơn.
Các đường chi phí trung bình ở dài hạn và ngắn hạn được định nghĩa như sau:
(17)
(18)
Các đường chi phí khác nhau giới thiệu ở đây được minh hoạ trong hình b). Đồ thị ở phía trên chỉ ra các đường (tổng) chi phí ở dài hạn và ngắn hạn, và đồ thị ở phía dưới chỉ ra các đường chi phí trung bình và chi phí biên tương ứng ở dài hạn và ngắn hạn. Bởi vì tất cả các đầu vào có thể thay đổi tự do ở dài hạn, chi phí tại đầu ra là O là 0.
C Cs(y)
C(y)
Ms Đường tổng CP
FC Is M
0 Y Ys YL Y
C
y
P
0 Y Ys YL Y
Hình b). Các đường chi phí và các mức cân bằng của đầu ra
C(0) = 0 (19)
Tuy nhiên, ở ngắn hạn có một số các yếu tố cố định, và do đó sẽ có một chi phí nào đó tại đầu ra 0 – chi phí cố định nghĩa bởi:
Cs(0) = FC>0 (20)
Ví dụ, nếu Cs(y) biểu thị đường chi phí ngắn hạn tưng ứng với dải mở rộng ngắn hạn thì FC = w2x2. Cả đường chi phí dài hạn lẫn ngắn hạn phải tăng khi đầu ra tăng và thoả mãn bất đẳng thức (16). Hai đường này sẽ tiếp xúc nhau tại mức đầu ra tương ứng với điểm cắt nhau của giải mở rộng ngắn hạn và dài hạn (VD, y trong hình a) cũng được chỉ ra trong hình b). Hình dạng của các đường chi phí phản ảnh những giả thiết đằng sau liên quan tới công nghệ - rằng đầu tiêu chi phí tăng với tốc độ giảm dần, tương ứng với sự chuyên môn hoá tăng lên và phân công lao động, trong khi tại các mức đầu ra cao hơn chi phí tăng với tốc độ tăng dần, tương ứng với sự không kinh tế về mặt quản lý trong doanh nghiệp lớn.
Các đồ thị ở phía dưới của hình b) chỉ ra các đường chi phí trung bình và chi phí biên, vì thứ nguyên của cả hai đều là chi phí chia cho đầu ra, khác với tổng chi phí. Về mặt hình học, chi phí trung bình là độ dốc của tia nối gốc toạ độ và một điểm trên đường tổng chi phí, trong khi chi phí biên là độ dốc của chính đường tổng chi phí. Như vậy, chi phí trung bình đạt cực tiểu tại điểm tia nối tiếp xúc với đường cong - tại M và Ms – nên tại điểm này chi phí biên và chi phí trung bình bằng nhau. Các đường chi phí biên đạt các mức cực tiểu tương ứng với điểm uốn của các đường tổng chi phí tại I và Is. Tại điểm y, mà tại đó các đường tổng chi phí tiếp xúc nhau, cả hai đường chi phí trung bình và cả hai đường chi phí biên cho các giá trị đồng nhất.
Cân bằng cạnh tranh y của công ty cũng được chỉ ra trong hình b). Một giá p cho trước của sản phẩm được chỉ ra trong đồ thị ở phía dưới là đường nằm ngang; nó ở trong đồ thị dưới bởi vì p có thứ nguyên chi phí trên một đơn vị. Cân bằng tìm thấy được tại mức đầu ra mà đối với nó đường thẳng giá cắt đường chi phí biên và chi phí biên đang tăng - tại ys ở ngắn hạn là yL ở dài hạn.
Vì (21)
Nên cực đại lợi nhuận từ việc lựa chọn đầu ra dẫn tới việc chọn y sao cho:
(22)
Như vậy điều kiện cấp một cực đại lợi nhuận là:
P = Mc (y) (23)
Điều kiện cấp hai là:
(24)
Do đó
(25)
Các phương trình (23) và (25) cho, các điều kiện là giá bằng chi phí biên mà tại đó chi phí biên đang tăng, như tại ys và yL trong hình b).
Khi đã cho đầu ra tối ưu (cực đại lợi nhuận), việc chọn các đầu vào được cho tại điểm mà đường đồng lượng tương ứng cắt giải mở rộng thích hợp trong hình a). Các đầu vào tối ưu tưng ứng là x1 và x2 mà ở đó đầu ra được cho là:
Y = f(x1,x2) (26)
Các đầu vào tối ưu nói chung phụ thuộc cả tiền công lẫn giá đầu ra:
(27)
Hệ phương trình này được gọi là hệ thống các hàm cầu yếu tố. Chúng cũng được gọi là các hàm cầu dẫn xuất bởi vì chúng được dẫn xuất từ cầu đối với các sản phẩm sản xuất của công ty đó.
(28)
Ở đây wj là gi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0097.doc