Nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Tài liệu Nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay: LỜI MỞ ĐẦU Qua hơn 20 năm đổi mới của Đảng, Nhà nước, nước ta đã đạt được thành tựu đáng kể, đó là thành công bước đầu của quá trình đổi mới ở Việt Nam. Đại hội VII và đại hội VIII của Đảng, Nhà nước đã chủ trương đổi mới toàn diện và kết hợp hài hoà giữa đổi mới kinh tế và dổi mới chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là bàn đạp để đổi mới chính trị. Có thể nói sau đại hội toàn quốc lần thứ VII nhà nước ta đã có chủ trương đường lối về đổi mới nền kinh tế thật đúng đắn và sáng suốt, đặc biệt l... Ebook Nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1590 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à sau đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ VIII, Đảng ta đã xác định con đường đi lên của nền kinh tế nước ta là “phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” thì trong dư luận và giới nghiên cứu lý luận không ít ý kiến hoài nghi sự tồn tại nền kinh tế thị trường trong xã hội chủ nghĩa. Cá biệt cho rằng kinh tế thị trường là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Song thực tế nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã xây dựng và phát triển đem lại những thành tựu vô cùng to lớn. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có mặt trái của nó. Vậy, chúng ta phải làm thế nào để nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là vấn đề rất quan trọng cho các nhà nghiên cứu kinh tế. Từ vấn đề nhận thức trên, sau một thời gian nghiên cứu và tiếp cận với bộ môn kinh tế - chính trị, em đã chọn đề tài cho bài tiểu luận của mình là “Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay” nhằm củng cố kiến thức đã học và làm tiền đề cho việc học tập, công tác sau này. NỘI DUNG CHÍNH I. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 1.Kinh tế thị trường và các loại hình của nó a.Khái niệm về kinh tế thị trường Thị trường là một phạm trù của kinh tế hàng hóa.ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa là ở đó có thị trường. Thị trường theo nghĩa hẹp là nơi diễn ra quan hệ mua bán hàng hóa hay một măt hàng được mua bán. Ví dụ: thị trường Hồng Kông hay thị trường gạo, hoặc kết hợp cả hai: thị trường chè Luân Đôn… Theo nghĩa rộng, thị trường là lĩnh vực trao đổi, mua bán hàng hóa,phản ánh phân công lao động xã hội. Hễ ở đâu và khi nào có phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa thì ở đó và khi ấy có thị trường. Quy mô của thị trường gắn chặt với trình độ chuyên môn hóa của lao động xã hội. Khi thị trường phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và là một thể thống nhất thì xuất hiện kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu ra” và “đầu vào” của sản xuất đều thông qua thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế giữa các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua quan hệ mua bán hàng hóavà dịch vụ trên thị trường.Thái độ cư xử của từng thành viên tham gia thị trường là hướng vào tìm kiếm lợi ich cho chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường, hay “bàn tay vô hình”. b.Các loại hình kinh tế thị trường Kinh tế thị trường từ khi ra đời đến nay có thể khái quát thành ba loại hình: -Kinh tế thị trường tự do cạnh tranh. Kinh tế thị trường tự do cạnh tranh là nền kinh tế chịu sự điều tiết tự phát của các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế này, nhà nước không trực tiếp can thiệp vào phát triển kinh tế, mà chỉ tạo môi trường thuận lợi cho sự tự do cạnh tranh lành mạnh, nhất là môi trường pháp lý. -Kinh tế chỉ huy mà điển hình là kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1933 đã chứng tỏ rằng, khi tính chất xã hội hóa sản xuất đã phát triển tới một trình độ nhất định thì kinh tế thị trường tự do cạnh tranh không thể phát triển một cách hài hòa, ổn định, bởi vậy, cần phải có sự điều tiết của nhà nước để hạn chế tác hại của sự tự phát vô chính phủ của nền kinh tế thị trường tự do. Nhưng sự can thiệp thái quá của nhà nước đến mức gần như triệt tiêu tính năng động của kinh tế thị trường đã dẫn đến ra dời mô hình kinh tế chỉ huy, điển hình là nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp ở Liên Xô và Đông Âu trước đây. Mô hình này có ưu điểm là tập trung được nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu, nhưng nó thủ tiêu cạnh tranh nên đã kìm hãm tiến bộ kĩ thuật và khi chuyển từ phát triển kinh tế theo bề rộng sang phát triển kinh tế theo chiều sâu là chủ yếu thì nó lại cản trở lực lượng sản xuất, dẫn đến trì trệ. -Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Thực tiễn phát triển kinh tế thế giới đã chứng tỏ trong thời đại ngày nay, cả hai loại hình kinh tế kể trên đều kém hiệu quả, vì thế hầu hết các nước trên thế giới đều chuyển sang loại hình kinh tế hỗn hợp, nghĩa là kết hợp kinh tế thị trường tự do cạnh tranh với sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Khái niệm kinh tế thị trường nói lên trạng thái tồn tại, vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường: -Cơ chế thị trường Cơ chế thị trường là cơ chế thông qua thị trường để xác định: (về mặt giá trị sử dụng) sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai? và (về mặt giá trị) phải tính hao phí bao nhiêu lao động? (lao động quá khứ và lao động sống). Mặt thứ nhất đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người mua, người tiêu dùng, mặt thứ hai phù hợp vơi khả năng thanh toán của họ, nói tóm lại là đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Tín hiệu của cơ chế thị trường là giá cả thị trường. Giá cả thị trường phụ thuộc vào các nhân tố: giá trị thị trường của hàng hóa, giá trị (hay sức mua) của tiền, cung cầu và cạnh tranh. Giá cả là yếu tố có các chức năng: thông tin, điều tiết sản xuất, lưu thông và phân bổ tài nguyên, thúc đẩy tiến bộ kĩ thuật. Cơ chế thị trường tự do có nhiều tác động tích cực, nhưng cũng có những tác động tiêu cực như: phân hoá giàu nghèo, tính tự phát vô chính phủ có thể dẫn đến những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân, hoặc gây ra khủng hoảng kinh tế chu kỳ. Cơ chế thị trường tự do là môi trường làm nảy sinh và gia tăng các tệ nạn xã hội, lối sống chạy theo đồng tiền , huỷ hoại môi trường, thậm chí cả tội ác… Bởi vậy, theo đà phát triển của trình xã hội hoá sản xuất, tất yếu nảy sinh yêu cầu có sự điều tiết của nhà nước. Từ đó, hình thành khái niệm kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Chính vì vậy mà người ta gọi đó là cơ chế hỗn hợp. Như vậy, nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. - Đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước: + Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế hay chủ thể thị trường (cá nhân hay tổ chức tham gia hoatl động trao đổi trên thị trường). Các chủ thể kinh tế được tự chủ về tài chính, tự lựa chọn hình thức sở hữu, tự lựa chọn ngành nghề mà luật pháp không cấm, tự đưa ra quyết định kinh doanh và chịu trách nhiệm về rủi ro của những quyết định này. + Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Thị trương có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương thức tổ chức sản xuất – kinh doanh, từ nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường mà xây dựng kế hoạch sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai, hao phí bao nhiêu lao động… Trên tầm vĩ mô, nhà nước cũng dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường mà lập kế hoạch mang tính định hướng và điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp. + Tiền tệ hoá hay thương mại hoá mọi hoạt động kinh tế, tức là mối quan hệ kinh tế giữa các cá nhân, các doanh nghiệp…đều biểu hiện thông qua quan hệ hàng - tiền. + Sự điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm phát huy tác động tích cực và han chế tác động tiêu cực của thị trường. Sự điều tiết vĩ mô của nhà nước biểu hiện trên các mặt sau đây: Một là, nhà nước tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể thị trường được tự chủ, nhưng quyền tự chủ được thể chế hóa thành pháp luật và mọi hành vi đều tuân theo đúng pháp luật. Do đó nhà nước ban hành hệ thống pháp luật kinh tế đồng bộ bao trùm mọi hoạt động kinh tế. Hai là, nhà nước tạo môi trường kinh tế - xã hộiổn định bằng cách xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng sản xuất (mà quan trọng nhất là giao thông vận tải, thing tin liên lạc), kết cấu hạ tầng xã hội (trong đó, quan trọng hàng đầu là giáo dục đào tạo) và các dịch vụ công cộng khác như đảm bảo an ninh, dịch vụ tài chính, tín dụng… Ba là, nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể kinh tế thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và các chương trình bằng cách sử dụng các đòn bẩy kinh tế như ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những ai đầu tư vào những ngành, những vùng mà nhà nước cần ưu tiên phát triển. Bốn là, nhà nước sử dụng những biện pháp hành chính khi cần thiết. Ví dụ: cấm xuất khẩu gỗ để bảo vệ rừng, phạt những hành vi gây ô nhiễm môi trường… Tóm lại, trong thời đại ngày nay, các nền kinh tế thị trường cần có sự quản lý của nhà nước. Điều khác nhau ở đây là, tuỳ thuộc bản chất của nhà nước – nhà nước tư bản chủ nghĩa hay nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân và do Đảng cộng sản lãnh đạo, bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. 2. Sự cấn thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, sự tồn tại của kinh tế hang hoá là một tất yếu khách quan. Bởi vì, trong nền kinh tế nước ta, lực lượng sản xuất xã hội còn rất thấp, đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sự phân công lao động xã hội gắn liền với sự tồn tại nhiều chủ thể kinh tế khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập. Trong những điều kiện đó, việc trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể sản xuất với nhau được thực hiện bằng sự trao đổi hàng hóa, thông qua thị trường. Sản xuất càng xã hội hoá, chuyên môn hoá thì càng đòi hỏi sự hợp tác và trao đổi hoạt động trong xã hội càng phải thông qua sự trao đổi giữa các đơn vị sản xuất để đảm bảo nhu cầu cần thiết của các loại hoạt động sản xuất khác nhau. Phát triển của sản xuất hang hóa dưới tác động của quy luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh sẽ buộc người sản xuất phải chịu trách nhiệm về hàng hóa do mình làm ra. Mỗi người sản xuất đều phải chịu sức ép buộc phải quan tâm đến sự tiêu thụ trên thị trường, sao cho sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận và cũng từ đó mới có thu nhập. Phát triển kinh tế hàng hóa là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, là sự phát triển sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi người. Ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế hang hóa và việc tăng tỉ lệ hang hóa nông sản đã làm cho hang hóa bán ra của nông dân nhiều lên, đồng thời các ngành nghề ở nông thôn ngày cũng ngày một phát triển, tạo ra cho nông dân nhiều việc làm. Phát triển kinh tế hàng hóa sẽ góp phần đào tạo ngày càng nhiều nhà kinh doanh, các cán bộ quản lý… và nâng cao trình độ của những người lao động. Tóm lại, phát triển kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản ở nước ta là một tất yếu kinh tế, đồng thời cũng là một nhiệm vụ kinh tế to lớn của thời kỳ quá độ. Phát triển kinh tế hàng hóa là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng kinh tế của đất nước, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn chỉ ra rằng: ‘‘Sản xuất hang hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã xây dựng xong’’ Thực tiễn những năm đổi mới kinh tế ở nước ta cho thấy, việc chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước… là đúng đắn, nhờ đó mà khai thác được tiềm năng kinh tế trong nước, đi đôi với thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ nước ngoài, giải phóng và phát triển lực lượng xã hội, góp phần quyết định đảm bảo tăng trưởng GDP và cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân. II. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa a. Quá trình nhận thức đi tới kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (tháng 3/1986) đã đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuât nhỏ đi lên CNXH. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1991 – 2000 được thông qua tại Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Do đó một mô hình mới về xây dựng CNXH ở Việt Nam đã chính thức được xác định. Công cuộc đổi mới đã đưa nhân dân ta bước vào một thời kì mới - thời kỳ đi lên CNXH bằng kinh tế thị trường vói những đặc trưng cơ bản như sau: Chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội lam thước đo chủ yếu mọi thành tựu của quá trình phát triển kinh tế. - Thực hiện nhát quán và lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ chính sách kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. - Thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế, chủ động từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. - Trên cơ sở sự phát triển của LLSX để tiến hành từng bước việc xác lập QHSX phù hợp cả về tính chất và trình độ của LLSX. Coi trọng xã hội hóa LLSX, chống mọi biểu hiện quan liêu, hình thức, nóng vội trong việc xử lý các vấn đề về mối quan hệ giữa LLSX và QHSX. Đại hội đại biẻu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001) cũng đã chỉ rõ: “… thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN; đó là nền kinh tế thị trướng định hướng XHCN” Nói kinh tế thị trường địng hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế nươc ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan lieu, bao cấp; nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường như ở các nước TBCN và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN, bởi vì nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có, vừa chưa có đầy đủ các yêú tố của CNXH. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được sự dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. b. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Nếu so với kinh tế thị trường TBCN thì kinh tế thị trường định hướng XHCN có những điểm khác nhau cơ bản sau: Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường Kinh tế thị trường TBCN phục vụ lợi ích trước hết cho tư bản độc quyền, xây dựng cơ sơ kinh tế cho CNTB, bảo vê chế độ TBCN. Việt Nam xây dựng và phát triển kinh tế thụ trường định hướng XHCN trong điều kiện LLSX còn yếu kém nhằm phát triển LLSX, phục vụ và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo từng bước xây dựng thành công CNXH. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, vận dụng cơ chế thị trường, sử dụng các hình thức và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy CNH – HĐH, tiến lên CNXH, thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. - Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế. Nền kinh tế TBCN dựa trên nền tảng của chế độ sở hữu tư nhân TBCN về TLSX, với sự đa dạng các hình thức sở hữu. Ở nước ta, trong nền kinh tế thị trường cũng có sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu, nhưng dựa trên cơ sở chế độ công hữu XHCN về các TLSX chủ yếu. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay có nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả kinh tế tư bản tư nhân, nhưng do nhà nước XHCN quản lý, kinh tế nhà nước giư vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. - Về chế độ quản lý. Trong thời đại ngày nay, kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường định hướng XHCN đều cần có sự quản lý của nhà nước, không thể để bàn tay vô hình của cơ chế thị trường chi phối. Điều khác nhau ở đây là bản chất hai nhà nước. Nhà nước tư sản, dân chủ tư sản, bảo vệ lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản, trước hết là của các đầu sỏ tài chính. Ở nước ta, nhà nước cũng quản lý nền kinh tế thị trường, nhà nước XHCN thực sự của thật sự của dân, do dân và vì dân, do Đảng cọng sản lãnh đạo, bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Xu thế của kinh tế thị trường TBCN vẫn là cạnh tranh vô chính phủ, vẫn là “cá lớn nuốt cá bé”, hình thành các công ty xuyên quốc gia, siêu quốc gia, các tập đoàn lớn cạnh tranh nhau quyết liệt. Ở nước ta, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trườngtheo nguyên tắc kết hợp tính định hướng và cân đối của kế hoạch với tính năng động nhạy cảm của thị trường và kinh tế thị trường. Bởi vì, kế hoạch và thị trường đều là công cụ, phương tiện để phát triển kinh tế. Kế hoạch và thị trường, mỗi thứ đều có ưu điểm và hạn chế… Sự quản lý của nhà nước là để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. - Về chế độ phân phối. Cả hai nền kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường định hướng XHCN đều có nhiều hình thức phân phối khác nhau: kinh tế thị trường TBCN phân phối chủ yếu theo sở hữu tư bản, phuc vụ tối đa lợi ích của các nhà tư bản, còn kinh tế thị trường định hướng XHCN lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo tài năng… đóng góp vào sản xuất),vừa khuyến khích lao động, vừa đảm bảo phúc lợi cơ bản. - Về chính sách xã hội. Kinh tế thị trường TBCN thời kỳ hoang sơ ra đồi bằng tước đoạt, tích tụ ruộng đất, dồn dân. Các Mác nói: “Tư bản ra đời thấm đầy máu và nước mắt đến tận lỗ chân long của nó”. Ngày nay, CNTB tuy có sự điều chỉnh nhất định về phân phối giá trị thặng dư, về giải quyết một số chính sách xã hội, nhưng CNTB không thể giải quyết tốt và triệt để các vấn đề kinh tế - xã hội. Sự điều chỉnh đó không giải quyết được mâu thuẫn cơ bản, bắt nguồn từ chế độ sở hữu TBCN; đây chỉ là sự điều chỉnh buộc các nhà tư bản phải làm để bảo vệ, duy trì, kéo dài sự tồn tại của CNTB. Thực tế , đại đa số nhân dân lao động vẫn sống khổ sở. Trên thế giới, 20% người giàu nhất đang chiếm giữ 80% của cải, 80% số người còn lại chỉ có 20%... Ở nước ta, kinh tế thị trường định hướng XHCN phải kết hợp giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “nước dâng thuyền lên”. Sản xuất với đời sống của nhân dân như nước với thuyền, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xoá đói, giảm nghèo. 2. Thực trạng của kinh tế thị trường ở nước ta Qua nhiều năm đổi mới, nước ta đã thành công trong việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tuy vậy, nền kinh tế thị trường của nước ta mới ở giai đoạn sơ khai, chưa đạt đến trình độ một nền kinh tế thị trường hiện đại, thể hiện ở những điểm sau: - Trình độ phát triển của sản xuất hang hoá còn thấp. Dophân công lao dộng xã hội kém phát triển: gần 80% dân cư sống ở nông thôn, trên 60% số người đang độ tuổi lao động làm nghề nông. Do cơ cấu kinh tế lạc hậu và chuyển dịch chậm, sản xuất lương thực vẫn là ngành sản xuất chính chiếm phần lớn diện tích đất canh tác, tỷ suất hàng hóa lương thực thấp; chăn nuôi chưa trở thành ngành sản xuất chính; công nghiệp chế biến nông sản còn nhỏ yếu; ở vùng núi, vùng sâu vẫn còn kinh tế tư nhiên. Trong nền kinh tế, các ngành có hàm lượng trí tuệ, kỹ thuật cao còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Do kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển thấp, trình độ công nghệ của nền kinh tế thua kém nhiều lần so với mức trung bình của thế giới. - Ở nước ta hiện nay, có nhiều thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng hóa và tham gia vào thị trường. Các thành phần kinh tế này tuy có bản chất kinh tế khác nhau, nhưngg chúng đều là một bộ phận của một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất với các quan hệ cung - cầu, tiền tệ, giá cả chung… Bởi vậy, chúng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh nhau. Mỗi đơn vị kinh tế là một chủ thể độc lập, tự chủ và tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. Do đó, còn có nhiều loại hình sản xuất còn tồn tại (sản xuất hàng hóa giản đơn, sản xuất hàng hóa theo lối TBCN và sản xuất hàng hóa theo định hướng XHCN), trong đó sản xuất hàng hóa nhỏ còn phổ biến. Thị trường dân tộc thong nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ. Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hóa thống nhất. Thị trường hàng hóa - dịch vụ đã hình thành nhưng còn han hẹp và nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu…) Thị trường hàng hóa sức lao động mới manh nha. Thị trường tiền tệ, thị trường vón đã có nhiều tiến bộ, song vẫn còn trắc trở và chưa thực sự đảm bảo an toàn cho sản xuất – kinh doanh. - Sự hình thành thị trường trong nước gắn với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta thua xa so với hầu hết các nước khác. Do đó, vẫn còn những thách thức gay gắt đối với nước ta như: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và ngành hàng còn thấp… - Quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta nhận định vấn đề này như sau: “Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm” Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính… đổi mới chậm, thương nghiệp nhà nước bỏ sót một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu đối với sản xuất, chế độ phân phối thu nhập còn nhiều bất hợp lý. Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn, lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa vũng chắc. III. Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN Để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, cần thực hiện những giải pháp chủ yếu sau: - Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, nâng cao hiệu quả của kinh tế nhiều thành phần, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác để kinh tế nhà nước vươn lên đóng vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế thuộc tất cả các thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa, dịch vụ trong mọi ngành kinh tế quốc dân, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước và phát triển các hình thức kinh tế tập thể mới. - Đẩy mạnh CNH – HĐH nền kinh tế quốc dân, tạo sức mạnh cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. - Tiếp tục tạo lập các yếu tố thị trường bao gồm: thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, thị trường bất động sản, kể cả trong nước và ngoài nước. Hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế, tăng cường sự kiểm tra giám sát của nhà nước, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự trong môi trường cạnh tranh lành mạnh. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh, chống buôn lậu và gian lận thương mại. - Hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Phát huy những yếu tố ích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiêp cạnh tranh và hơp tác phat triển, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, khai thác hợp lý nguồn nhân lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật. - Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước như: nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong dự báo; kiểm tra tình hình thực hiện ở cấp vĩ mô và doanh nghiệp. Bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi ngân sách nhà nước. Tăng tỷ lệ chi ngân sách theo tốc độ tăng trưởng kinh tế và hiệu quả quản lý kinh tế, tài chính. Tăng chi ngân sách cho các mục tiêu xã hội trọng điểm. Nâng cao hiệu quả các chương trình trọng điểm. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế, đơn giản hóa các sắc thuế; từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước và nước ngoài. Xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước thành những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín, đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. Thực hiện chính sách tỷ giá theo cung - cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự do hóa tỷ giá hối đoái trong sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Tách tín dụng ưu đãi của nhà nước khỏi tín dụng thương mại, thành lập các ngân hàng chính sách xã hội. - Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện nước ta. - Nhà nước thực hiện các chính sách, biện pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội: thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân lam giàu hợp pháp và đi đôi với thực hiện các chương trình xoá đói, giảm nghèo. KẾT LUẬN Sau khi nghiên cứu kinh tế - chính trị, chúng ta nhận thấy: tư tưởng Mác - Lênin có vai trò vô cùng to lớn đối với đời sống xã hội. Trước hết đó là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận cho giai cấp công nhân trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Đó là khách quan toàn diện lịch sử cụ thể có quan điểm toàn diện phát triển và gắn bó với thực tiễn, vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể để xem xét quá trình xây dựng và phát triển nề kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng ta thấy được việc Đảng ta xác định đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam là vô cùng đúng đắn và sáng tạo hoàn toàn phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam. Có thể nói đây là một hoạt động thực tiễn hoàn toàn mới mẻ có giá trị cao trong việc khái quát bổ xung cho lý luận của chủ nghĩa Mac - Lênin. Nền kinh tế thị trường vừa tạo ra động lực mới cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và góp phần xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đem lại nhiều thành tựu vô cùng to lớn. Quá trình vận hành nó vừa tuân thủ quy luật chung của nền kinh tế thị trường, vừa có những biểu hiện đặc thù do hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam chi phối, đặc biệt là sự chi phối quản lý vĩ mô của Nhà nước XHCN, dưới sự quản lý của nó đã phát huy được ưu điểm của nền kinh tế thị trường là phát triển năng động với tốc độ cao, đem lại nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vì mục tiêu: ”dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Phù hợp với nguyện vọng ngàn đời của nhân dân Việt Nam, song song với việc phát huy ưu điểm, Nhà nước ta còn chủ động hạn chế mặt trái do nền kinh tế thị trường mang lại bằng nhiều biện pháp có hiệu quả. Trong thời gian qua, thành tựu kinh tế của Việt Nam là rất to lớn nhưng chúng ta không được phép bằng lòng với những gì đã làm được, mà phải tích cực phấn đấu hơn nữa, đẩy mạnh nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển vì hạnh phúc của nhân dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế chính trị Mác-LêNin - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Giáo trình triết học Mác - LêNin - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia . Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế – Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Nhà xuất bản giáo dục –1993. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - VII - VIII - IX Giáo trình Kinh tế học vi mô - Nhà xuất bản giáo dục 1997 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10922.doc