MỤC LỤC
A Lời mở đầu
B.Nội dung
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang vững bước trên con đường phát triển kinh tế thị trườngđịnh hướng XHCN. Và đã thu được nhiều thành tựu đáng kể làm thay đổi toàn bộ mặt kinh tế .Nền kinh tế nước ta thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, luôn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức độ khá cao.Với những thành tựu đã đạt được phần nào đã làm rõ bản chất của nền kinh tế thị trườngđịnh hướng XHCN. Như vậy, phát triển nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan đồi với nền kinh tế
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1405 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa: Bản chất đặc trưng, Thực trạng & Giải pháp xây dựng nó ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của nước ta, là nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác hiệu quản tiềm năng của đất nước và sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bên cạnh những thành tựu trên, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của chúng ta cũng còn rất nhiều khó khăn phải giải quyết. Đó có thể tạm xem là thành công bước đầu trong việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Nhưng để tiếp tục phát triển lên nữa chúng ta cấn phải có rất nhiều bài học. Chúng em - những người con của đất nước, hơn ai hết cần biết rõ đặc điểm, tình trạng của nền kinh tế nước nhà. Đặc biệt nhưng sinh viên đang học tập trên mái trường Đại học kinh tế quốc dân lại càn phải nắm rõ hơn về sự phát triển kinh tế của đất nước. Phải biết được tình trạng, bản chất đặc trưng và giải pháp xây đựng nền kinh tế định hướng XHCN. Với những kiến thức đã học đươc trong trường và ngoài xã hội làm tiền đề để sau này khi chúng em ra trường sẽ vững vàng hơn, hiểu biết hơn trong sự nghiệp của mình cũng như góp phần trong việc xây dựng đất nước vững mạnh.
Chính vì những lý do trên em đã chọn đề tài “ Nền kinh tế thị trườngđịnh hướng xã hội chủ nghã : Bản chất đặc trưng, thực trạng và giải pháp xây dựng nó ở nước ta hiện nay ”. Cũng nhờ đề tài này em có thể hiểu sâu sắc hơn về quá trình chuyển đổi từ bao cấp lên kinh tế thị trườngdiễn ra ở nước ta mà những người hậu sinh như chúng em có lé khi ấy còn rất nhỏ để có thể hiểu được.Để hoàn thành bài luận này em xin chân thành cảm ơn nhà giáo ưu tú – PGS.TS Phan Thanh Phố đã tận tình giúp đỡ em. Trong quá trình thực hiện, nếu có điều gì thiếu sót xin thầy giúp đỡ để em có thể hoàn thành và đạt kết quả cao. Em xin chân thành cảm ơn!
B.NỘI DUNG
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN KTTT.
1. Quá trình hình thành kinh tế thị trường
1.1 Lịch sử hình thành kinh tế thị trường
Để bắt kịp và phù hợp với lịch sử phát triển của loài người , nền kinh tế thế giới nói chung, kinh tế mỗi quốc gia nói riêng cũng có những bước biến đổi rõ rệt. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển của hàng hóa, trong đó các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hóa vá kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển và lịch sử hình thành ( khái niệm kinh tế hàng hóa xất hiện trước khái nệm kinh tế thị trường). Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất, sự vận động của hàng hóa tiền tệ trong hai khái nệm này đều chứa đựng sự chi phối của lưu thông tiền tệ , quy luật cung cầu, quy luật giá trị,... Kinh tế hàng hóa ra đời từ nền kinh tế tự nhiên thay thế và đối lập với nền kinh tế tự nhiên. Trong lịch sử nó đã phát triển qua các loại hình kinh tế hàng hóa giải đơn, kinh tế thị trườngtự do và kinh tế thị trường hỗn hợp gắn liền với 3 bước chuyển biến sau:
Bước chuyển biến từ nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc lên kinh tế hàng hóa giản đơn:
Bước chuyển biến này gắn liền vơi sự phát triển của phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Trong suốt quá trình tồn tại của nền kinh tế hàng hóa giản đơn đã diễn ra 3 lần phân công lao động xã hội lớn : Lần 1 ngành chăn nuôi tách khỏi nông nghiệp, lần 2 công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, lần 3 thương nghiệp tách khỏi các ngành sản xuất vật chất khác. Như vậy phân công lao động xã hội đã tách sự lệ thuộc của người lao động sản xuất với tự nhiên và chuyển thành sự phụ thuộc giữa con người và con người trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Đặc trưng cơ bản của giai đoạn sản xuất hàng hóa giản đơn là dựa trên cơ sở kĩ thuật thủ công tương ứng với văn minh nông nghiệp, tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, cơ cấu kinh tế là nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, tính chất hàng hóa của sản phẩm chưa hoàn toàn phổ biến, tỷ suất hàng hóa thấp, chế độ tư hữu ở quy mô nhỏ, cơ chế thị trường còn sơ khai.
Bước chuyển từ nền kinh tế đơn giản lên nền kinh tế thị trường tự do :
Từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII ở nước Anh và một số nước Châu Âu diễn ra quá trình quá độ từ chủ nghĩa phong kiến sang CNTB. Đó là thời kỳ tích lũy cơ bản của CNTB Châu Âu thương nghiệp và đặc biệt là ngoại thương phát triển mạnh. Các lý thuyết kinh tế của trường phái trọng thương đã góp phần quan trọng vào quá trình chuyển nền kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường dân tộc theo nguyên tắc tự do. Sau khi tích lũy được một khối lượng tiền của các nhà kinh doanh tập trung sức phát triển thị trường dân tộc theo nguyên tắc tự do kinh tế .Trong thời kỳ này vốn được đầu tư phát triển các lĩnh vực công nghiệp nhẹ, nông nghiệp và công nghiệp nặng nhằm tạo ra tiềm lực của nền kinh tế thị trường. Việc tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí, kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất, tín dụng đã phát triển ở một trình độ nhất định các thị trường đất đai và thị trường lao động được xác lập ...là chỗ dựa vững chắc cho sự phát triển kinh tế thị trường. Điều này có thể minh chứng bằng một ví dụ lịch sử theo Mac vào thế kỷ XVII Hà lan là nước tư bản điển hình nhưng bước sang thế kỷ XVIII Hà Lan đã phải nhường lại vị trí nền kinh tế phát triển nhất cho Anh. Nguyên nhân chính là ở chỗ các nhà kinh doanh Hà lan chủ trương phát triển kinh tế bằng con đường buôn bán đầu cơ, không chú trọng vào phát triển nền công nghiệp. Trong khi đó ở nước Anh các nhà kinh doanh đã biết kết hợp vốn tích lũy từ nước ngoài với điều kiện tài nguyên, lao động trong nước vào phát triển công nghiệp nhẹ và cuối cùng là phát triển công nghiệp nặng nhanh chóng tạo ra nền đại công nghiệp đại cơ khí. Vì vậy khi nước Anh trở thành một cường quốc công nghiệp thì Hà Lan vẫn chỉ là một nước cộng hòa thương nghiệp. Kinh tế hàng hóa tự do mang nhiều đặc điểm như hàng hóa mang tính phổ biến, nhà nước chưa can thiệp vào nền kinh tế thị trường, quy mô tư hữu lớn.Kinh tế thị trường cần điều kiện chín muồi.
Bước chuyển chuyển từ nền kinh tế thị trường tự do lên kinh tế thị trường hỗn hợp.
Kinh thế thị trường hỗn hợp là hình thức phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa ở đó các chức năng cơ bản của nền kinh tế là sản xuất cái gì? bằng cách nào ? cho ai? đều được sử lý trên nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Sự phát triển của kinh tế thị trường hỗn hợp diễn ra từ những năm 40-50 của thế ký XX đến nay nó gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của cuộc Cách Mạng khoa học – kĩ thuật và công nghệ hiện đại. Cho đến nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều hoạt động theo nền kinh tế thị trường hỗn hợp gắn liền với các điều kiện : Sự xuất hiện của sở hữu nhà nước, thị trường chứng khoán tham gia phân công lao động quốc tế, đặc biệt là sự xuất hiện vai trò mới của nhà nước – vai trò quản lý vĩ mô đối với kinh tế thị trường. Sự xuất hiện hình thức sở hữu tư bản và khu vực kinh tế tư bản là đặc điểm nổi bật của giai đoạn này. Ngoài ra còn thấy rằng không phải sở hữu một chủ mà là nhiều chủ trở thành cơ sở kinh tế cho nền kinh tế thị trường. Nhà nước đã can thiệp vào quá trình kinh tế , cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Đặc trưng của nền kinh thế thị trường là dựa trên kĩ thuật điện tử tin học gắn liền với nền văn minh hậu công nghiệp hay nền văn minh trí tuệ, tồn tại các hình thức sở hữu nhà nước, sở hữu cổ phần, sở hữu quốc tế, dựa trên cơ cấu kinh tế công nghiệp – dịnh vụ - nông nghiệp vận động theo cơ chế hỗn hợp, cơ chế thị trường và sự quản lý vĩ mô của nhà nước .
Từ trước đến nay kinh tế thị trường tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn vinh trong các nước Tư bản chủ nghĩa phát triển. Tuy nhiên kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng bên cạnh những mặt tích cực của nó còn có khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế độ tư hữu tư nhân Tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất , ngày càng mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc không giải quyết được các vấn đề xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, nó còn ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ “ trung tâm- ngoại vi”. Có thể nói, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn hay là một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo.
1.2 Logic hình thành kinh tế thị trường.
Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường gắn liền với quá trình xã hội hóa sản xuất và nó được thể hiện thông qua 4 quá trình : Quá trình tổ chức, phân công lại lao động xã hội; quá trình đa dạng hóa các loại hình sở hữu; quá trình tiến hành cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật công nghệ; sự phân công và trao đổi quốc tế.
a) Quá trình tổ chức, phân công và phân công lại lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành nghề khác nhau của nền sản xuất xã hội. Sự phát triển của phân công lao động xã hội gắn liền với quá trình phát triển của lịch sử loài người. Thật vậy, trong giai đoạn đầu của xã hội loài người, ta thấy vẫn chưa có sự phân công lao động xã hội. Con người sống thành bầy đàn cùng nhau kiếm thức ăn, lo chỗ ở . Cuộc sống của họ hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Họ không tiến hành hoạt động sản xuất , do vậy trong xã hội không có ngành nghề nào, nhưng dần dần, do nhu cầu của cuộc sống, con người đã phải tiến hành các hoạt dộng sản xuất, tạo ra của cải, lúc này trong xã hội bắt đầu xuất hiện các ngành kinh tế, đó là ngành trồng trọt và chăn nuôi, sau đó thì lại xuất hiện ngành thủ công nghiệp cho đến ngày nay sản xuất xã hội bao gồm các ngành chình là nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng cơ bản, ngành dịch vụ cùng với hàng trăm ngành nghề khác nhau.
Như vậy sự phân công lao động đã tạo ra sự chuyên môn hóa trong lao động. Đó là chuyên môn hóa sản xuất thành những ngành nghề khác nhau. Do sự phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất chủ tạo ra một vài loại sản phẩm nhất định. Song cuộc sống của mỗi con người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau, để thoả mãn nhu cầu đó đòi hỏi mỗi người sản xuất phải phụ thuộc vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau. Từ đó hình thành nên các thị trường và nền kinh tế thị trường phải gắn liền với tổ chức phân công và phân công lại lao động xã hội sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế hiện tại, nền kinh tế cần phát triển ở trình độ cao càng đòi hỏi phân công lao động một cách tỉ mỉ, chặt chẽ, không chỉ ở một quốc gia nào mà phải trên phạm vi toàn cầu.
b) Quá trình đa dạng hóa các loại hình sở hữu tư liệu sản xuất
Mỗi một mô hình hay một cơ chế kinh tế đều được dựa trên một chế độ sở hữu nhất định. Và nền kinh tế thì trường cũng không thể tách ra khỏi quy luật chung ấy. Tuy nhiên, nền kinh tế thì trường tồn tại trong hình thái kinh tế - xã hội khác nhau thì nó cũng mang bản chất sở hữu khác nhau. Và nền kinh tế thị trường phát triển ở mức cao thì nó cũng đòi hỏi sự đa dạng hóa cao về các loại hình sở hữu tư liệu sản xuất.
c) Quá trình tiến hành cuộc Cách Mạng khoa học – kỹ thuật- công nghệ
Cùng với quá trình phân công lại lao động và nhu cầu phát triển sản xuất ngày càng cao, đòi hỏi con người không ngừng phát minh, sáng chế ra những công cụ, nguyên nhiên vật liệu.. mới. Chính vì lẽ đó các cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đã ra đời. Nhờ những phát minh sáng chế đó không chỉ trên lĩnh vực cơ khí, luyện kim mà còn trên cả lĩnh vực công nghệ thông tin, trên lĩnh vực các ngành khoa học cơ bản như vật lý, toán học, sinh học,... và đặc biệt lý luận mới trên lĩnh vực kinh tế chính trị.
d) Sự phát triển của phân công và trao đổi quốc tế
Nền kinh tế thị trường luôn luôn gắn liền với các chính sách mở cửa cả bên trong lẫn bên ngoài, khuyến khích tự do sản xuất, buôn bán công khai hợp phát hơn thế nữa, do nhu cần của sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hàng hóa cũng như việc thu lợi nhuận mà việc buôn bán và trao đổi hàng hóa đã vượt qua phạm vi một quốc gia và vươn tới toàn cầu. Do vậy, đối với nền kinh tế thị trường thì sự phân công và trao đổi quốc tế là rất cần thiết và quan trọng. Sự phân công và trao đổi quốc tế sẽ diễn ra ngày càng chi tiết, sâu sắc và rộng khắp tất cả các quốc gia sẽ không thể tách khỏi quy luật chung đó, từ đó hình thành nên quá trình toàn cầu hóa. Nhờ đó nền kinh tế thị trường sẽ phát triển trên phạm vi toàn cầu.
2. Các phạm trù kinh tế và các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường
2.1 Các phạm trù kinh tế của kinh tế thị trường
- Hàng hóa dịch vụ : Hàng hóa là những sản phẩm được làm ra để thỏa mãn nhu cầu của con người. Đời sống con người càng được nâng cao thì nhu cầu về hàng hóa của con người cũng tăng.
Trước kia nền kinh tế thị trường do trình độ khoa học kĩ thuật còn lạc hậu năng suất lao động thấp, do đó khối lượng hàng hóa nhỏ bé, chủng loại hàng hóa còn nghèo nàn, chất lượng hàng hóa thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.
Trong nền kinh tế thị trường do sự cạnh tranh mà các doanh nghiệp luôn áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật mới nhất. Do đó các sản phẩm được đưa ra thị trường với chất lượng cao, chủng loại phong phú, khối lượng hàng lớn và giá cả thấp. Người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn các sản phẩm hàng hóa – dịch vụ mà mình mong muốn.
Cùng với sự phát triển của các loại hàng hóa, các ngành dịch vụ cũng không ngừng được phát triển nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Nghị quyết Đại hội IX đã nhấn mạnh “ Phát triển thị trường hàng hóa, dich vụ phát huy vai trò nòng cốt định hướng và điều tiết của kinh tế nhà nước trên thị trường” , “Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh ” . Đây là những định hướng cơ bản đối với sự phát triển của thị trường hàng hóa dịch vụ. Kinh tế nhà nước chỉ nên giữ vai trò nòng cốt và định hướng đốii với các loại hàng hòa và dịch vụ công, có vai trò thiết yếu đối với đời sống kinh tế xã hội an ninh, quốc phòng, điện nước (hạ tầng), giáo dục. Những loại hàng hóa dịch vụ khác nên để cho thị trường quyết định.
-Thị trường tiền tệ : Tiền tệ là một lại hàng hóa đặc biệt được tách ra trong thế giới hàng hóa làm vật ngang giá chung thống nhất; nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Lịch sử phát triển của tiền tệ là lịch sử phát triển các hình thái giá trị từ thấp tới cao, từ hình thái giái trị giản đơn cho đến hình thái đầy đủ của tiền tệ, nó đã trải qua những hình thức :
+ Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên.
+ Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.
+ Hình thái chung của giá trị.
+ Hình thái tiền tệ
Bản chất của tiền tệ được thể hiện qua năm chức năng sau : (Theo Mác)
+ Thước đo giá trị
+ Phương tiện lưu thông.
+ Phương tiện cất trữ.
+ Phương tiện thanh toán.
+ Tiền tệ thế giới.
Trong nền kinh tế hàng hóa cũng như trong nền kinh tế thị trường năm chức năng này của tiền tệ có quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền tệ phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nhờ có tiền tệ mà lưu thông hàng hóa trở nên dễ dàng hơn, nâng cao sản xuất kinh doanh, xúc tiến giao lưu kinh tế, khoa học kỹ thuật với bên ngoài, góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế....
-Thị trường giá cả : Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường của hàng hóa. Giá cả thị trường có những chức năng chủ yếu sau:
+ Chức năng thông tin: Chức năng thông tin về giá cả cho người sản xuất biết được tình hình sản xuất trong các ngành, biết được tương quan cung-cầu, biết được sự khan hiếm của hàng hóa, nhờ đó các nhà sản xuất có những quyết định thích hợp.
+ Chức năng phân bổ nguồn lực kinh tế :sự biến đổi về giá cả sẽ dẫn đến sự biến động của cung cầu, sản xuất và tiêu dùng và dẫn đến biến đổi trong phân bổ các nguồn lực kinh tế.
+ Chức năng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật: Để có thể cạnh tranh được cả về giá cả, buộc những người sản xuất phải giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Do đó thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học công nghệ và sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ngoài ra giá cả còn thực hiện chức năng phân phối lại.
+ Giá cả thị trường phụ thuộc vào các nhân tố:
Đầu vào thấp và bán hàng với giá cao nhất để khi trừ đi các chi phí còn dư dôi để mở rộng và phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường địa vị của mình trên thị trường.
+ Khi tham gia vào thị trường các nhà sản xuất luôn tìm mọi cách để tối thiểu hóa chi phí sản xuất, làm chi phí cá biệt của mình nhỏ nhất để giành ưu thế trên thị trường và thu được lợi nhuận tối đa. Để đạt được điều đó các nhà sản xuất đầu tư nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới nhất, Chính điều đó góp phần thúc đẩy khoa học phát triển.
Như vậy lợi nhuận là một trong những nhân tố quan trọng của kinh tế thị trường mà nếu thiếu nó kinh tế thị trường sẽ không thể ra đời và phát triển được.
2.2 Các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường
a. Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất quy luật giá trị phải phù hợp với mức lao động làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phải phù hợp với mức hao phí xã hội cần thiết, có như vậy họ mới có thể tồn tại được. Còn trong trao đổi hay lưu thông phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Hai hàng hóa phải trao đổi với nhau, khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi mua bán hàng hóa phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.
Cơ chế tác động của quy luật giá trị được thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng giá trị.
Tác động của quy luật giá trị
Trong nền sản xuất hàng hóa quy luật giá trị có 3 tác động sau :
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:
Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và có lãi cao những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác nhau cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này do đó tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên quy mô sản xuất ngày càng mở rộng.
Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị sẽ bị lỗ vốn hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi ở ngành khác lại có thể tăng lên. Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuât mặt hàng này .
Như vậy quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỉ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác do nhu cầu xã hội.
Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá trị thấp đến nơi có giá cả cao và do đó góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
(+) Kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hòa sản xuất tăng năng xuất lao động hạ giá thành sản phẩm.
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuât hàng hóa nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động cần thiết thì sẽ được lãi nhiều và càng thấp hơn càng có lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hóa cải tiến kĩ thuật , hợp lí hóa sản xuất, cải tiến quản lí , thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng xuất lao động , hạ chi phí sản xuất.
Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng xuất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
(+)Phân hóa những người sản xuất hàng hòa thành giàu nghèo.
Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức lao động hao phí xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí xã hội cần thiết sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm trí thuê lao động trở thành ông chủ. Ngược lại những người sản xuất hàng hóa nào có mức lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thu lỗ , nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện trong quan hệ sản xuất XHCN, cơ sở ra đời của CNTB. Như vậy quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực. Do đó đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
b. Quy luật cung-cầu.
-Cạnh tranh:
Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ đề thể hiện trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi năng xuất tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể diễn ra giữa những người sản xuất và người tiêu dùng . Trong cuộc cạnh tranh này người ta có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau.
Cạnh tranh có vai trò quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải thường xuyên năng động nhạy bén , thường xuyên hoàn thiện kĩ thuật, áp dụng khoa học vào sản xuất, công nghệ nâng cao tay nghề hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng xuất chất lượng và hiệu quả kinh tế. Đó chính là cạnh tranh lành mạnh. Thực tế cho thấy ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì ở đó thường trì trệ bảo thủ, kém phát triển.
Bên cạnh mặt tích cực cạnh tranh cũng có mặt tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như dùng những thủ đoạn vi phạm đạo đức hoặc vi phạm pháp luật nhằm thu được nhiều lợi ích nhất cho mình, gây tổn hại đến lợi ích của tập thể, xã hội cộng đồng như làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, ăn cắp bản quyền tung tin phá hoại uy tín đối thủ, hoặc cạnh tranh làm tăng sự phân hóa giàu nghèo hoặc tổn hại đối với môi trường sinh thái...
- Quan hệ cung cầu và giá cả hàng hóa
(+) Cầu là nhu cầu có khả năng thanh toán.
Như vậy cầu là nhu cầu nhưng không phải nhu cầu bất kì mà là nhu cầu được đảm bảo bằng số lượng tiền tương ứng gọi là nhu cầu có khả năng thanh toán. Quy mô của cầu phụ thuộc vào các nhân tố chủ yếu như: thu nhập, sức mua của đồng tiền, giá cả hàng hóa, lãi xuất thị hiếu của người tiêu dùng.. trong đó giá cả là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
(+) Cung là tổng số hàng hóa có ở thị trường hoặc có khả năng thực tế cung cấp cho thị trường. Cung biểu hiện kết quả sản xuất dưới hình thức hàng hóa.Ví dụ : những sản phẩm sản xuất để tự tiêu thụ hoặc không có khả năng đưa tới thị trường thì không nằm trong cung. Cụ thể lượng cung cầu phụ thuộc chủ yếu vào số lượng ,chất lượng các yếu tố sản xuất, chi phí sản xuất, giá cả hàng hóa trong đó cũng như cầu giá cả là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng.
Cung và cầu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu. Cầu xác định khối lượng, cơ cấu của cung về hàng hóa nào tiêu thụ được nhiều, nghĩa là có cầu lớn sẽ được cung ứng nhiều và ngược lại. Đến lượt mình cung tác động đến cầu, kích thích cầu: những hàng hóa được sản xuất cung ứng phù hợp với nhu cầu, thị hiếu sở thích của người tiêu dùng sẽ được ưa thích hơn, bán chạy hơn, làm cho cầu về chúng tăng lên. Vì vậy người sản xuất hàng hóa phải thường xuyên nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu, sở thích của người tiêu dùng, dự đoán sự thay đổi của cầu, phát hiện các nhu cầu mới.. để cải tiến chất lượng, hình thức mẫu mã cho phù hợp; đồng thời phải quảng cáo để kích thích cầu...
Cung – cầu không chỉ có mối quan hệ với nhau mà còn ảnh hưởng tới giá cả:
Khi cung= cầu, thì giá cả= giá trị.
Khi cung > cầu, thì giá cả < giá trị
Khi cung giá trị
Đồng thời giá cả cũng có tác động đến cung và cầu. Nhìn chung trong cơ chế thị trường không có sự nhất trí giữa cung và cầu, thì giá cả có tác động điều tiết đưa cung và cầu trở về xu hướng cân bằng nhau. Ví dụ : khi cung > cầu, giá cả sẽ giảm xuống, khi giá cả giảm thì cầu sẽ tăng và ngược lại cung sẽ giảm dần và như vậy cung và cầu lại trở về xu thế cân bằng. Đó cũng chính là cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế hàng hóa.
Như vậy chúng ta thấy rằng : cạnh tranh, cung cầu ,giá cả, giá trị là những yếu tố luôn đi liền với nhau và cùng tác động đến sản xuất và lưu thông hàng hóa..
c. Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kì nhất định.
Khi tiền mới chỉ thực hiện được chức năng là phương tiện lưu thông, thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được tính theo công thức :
M=
Trong đó:
M : là lượng tiền cần thiết cho lưu thông
P : là mức giá cả
Q : khối lượng hàng hóa đem ra lưu thông
V : số vòng luân chuyển trung bình của một đơn vị tiền tệ
Khi tiền vừa làm chức năng phương tiện lưu thông, vừa làm chức năng phương tiện thanh toán thì lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau:
M=
Trong đó:
PQ : tổng số giá trị hàng hóa và dịch vụ đem lưu thông
PQb : tổng giá cả hàng hóa bán chịu
PQk : tổng giá cả hàng hóa khấu trừ nhau
PQd : tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh toán
3. Sự cần thiết khách quan tồn tại kinh tế thị trường ở Việt Nam
3.1 Nền kinh tế kế hoach hóa tập trung và hạn chế của nó.
Khi mà kinh tế phát triển ở mức thấp ,cơ cấu kinh tế giản đơn, quy mô xây dựng nhỏ, mục tiêu phát triển đơn thuần, kinh tế kế hoạch đã được đặt ra và thu được những thành công nhất định của nó.
Nhưng sau khi điều kiện kinh tế - xã hội có sự thay đổi, đặc biệt là khi mức phát triển kinh tế tăng, cơ cấu kinh tế ngày càng phức tập thì thiếu sót bên trong kinh tế kế hoạch ngày càng bộc lộ rõ và mắc phải những sai lầm và hạn chế:
- Coi chế độ quốc hữu là mục tiêu theo đuổi
- Bài trừ hoặc hạn chế sự phát triển kinh tế không phụ thuộc sở hữu của nhà nước
- Kiềm chế cạnh tranh, làm cho kinh tế khó có thể sống dậy
- Theo phương châm phân phối đầu ngưới
- Kiềm chế tình tích cự và sáng tạo của người sản xuất và nhà kinh doanh
- Nhà nước quản lý hành chính mệnh lệnh
- Không tách rời chính quyền và xí nghiệp, đầu tư nhiều sản xuất ít
Tất cả đã trở thành căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thì trường tất nhiên có mặt tiêu cực của nó nhưng nó có thể thích ứng với điều kiện kinh tế, xã hội không ngừng thay đổi đang diễn ra.
3.2 Những điều kiện khách quan cho sự phát triển kinh tế thì trường ở nước ta
- Phân công lao động là cơ sử chung của sản xuất hàng hóa chẳng những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
- Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh doanh độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ được thể hiện bằng quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
- Thành phần kinh tế nhá nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kĩ thuật – công nghệ, về trình độ quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
Quan hệ hàng hóa – tiền tệ còn rất cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt là người sở hữu đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải tuân theo nguyên tắc ngang giá. Như vậy khi kinh tế thị trường tồn tại ở nước ta la một tất yếu khách quan thì không thể lấy ý chí chủ quan mà xóa bỏ được.
- Đồng thời Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam.. Nhưng đi lên CNXH bằng cách nào? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình CNXH kiểu Xô – Viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về CNXH không còn đúng với thực tế Việt Nam.
- Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về CMXN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Đaị hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam ( tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đã đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng CNXH, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa XHCN trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hoạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tò._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0303.doc