MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, là một trong những biện pháp quan trọng để tạo ra đột phá tăng trưởng cao, chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Xuất khẩu được đẩy mạnh sẽ góp phần giải quyết công ăn việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, kích thích đầu tư, đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH đất nước. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu thì việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chủ lực
122 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2018 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và thị trường nhập khẩu tiềm năng lớn là hết sức quan trọng.
Thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, trong hơn một thập kỷ qua kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của mặt hàng này đã gia tăng một mức đáng kể. Năm 1995, KNXK thủy sản mới ở mức 550,5 triệu USD thì đến năm 2005, KNXK thủy sản đã đạt 2,6 tỷ USD, tỷ lệ bình quân mỗi năm tăng 14,5%. Hiện nay thị trường xuất khẩu thủy sản (XKTS) của Việt Nam đã được mở rộng tới trên 105 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Thủy sản Việt Nam ngày càng có chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới và hàng thủy sản của Việt Nam đã thâm nhập được một số thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU…
Quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ bắt đầu phát triển từ sau khi Mỹ bỏ chính sách cấm vận đối với nước ta. Hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ (BTA) được ký kết và có hiệu lực vào ngày 10/12/2001, đã đánh dấu bước đột phá và cơ hội lớn để đẩy mạnh và mở rộng quan hệ thương mại giữa hai quốc gia, đặc biệt tạo điều kiện cho việc mở rộng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị trường lớn và nhiều tiềm năng, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa nói chung và hàng thủy sản nói riêng sang thị trường Mỹ là hết sức cần thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình CNH, HĐH của Việt Nam.
Trong bối cảnh khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến mọi quốc gia, tính chất cạnh tranh về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng gay gắt thì hoạt động xuất khẩu nói chung, xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ nói riêng vừa có những cơ hội to lớn, đồng thời cũng có những thách thức không nhỏ. Hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ phải đáp ứng được những quy định rất khắt khe của thị trường này, mặt khác phải cạnh tranh gay gắt với hàng thủy sản của những nước khác như Trung Quốc, Thái Lan… Hàng thủy sản Việt Nam không thể thâm nhập và đứng vững được trên thị trường Mỹ nếu không có năng lực cạnh tranh cao.
Qua các vụ kiện liên quan đến xuất khẩu cá tra, cá ba sa và tôm của Việt Nam ở Mỹ vừa qua đã xuất hiện nhiều câu hỏi: phải chăng hàng thủy sản Việt Nam có sức cạnh tranh cao trên thị trường Mỹ nên mới bị các chủ trang trại nuôi trồng thủy sản của Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá? Hàng thủy sản của Việt Nam đã đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) (rào cản kỹ thuật) của thị trường Mỹ hay chưa? Tại sao thị trường Mỹ rất rộng lớn nhưng hàng thủy sản của Việt Nam rất khó vào?
Mặc dù đã có khá nhiều nghiên cứu tìm câu trả lời cho các vấn đề trên nhưng cho tới nay vẫn chủ yếu là các bài viết dưới dạng báo có tính thông tin, ít nghiên cứu có tính hệ thống. Một số nghiên cứu đã đề cập đến năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ nhưng chưa sâu hoặc thiếu tính cập nhật. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài để làm rõ các cơ sở lý luận, thực tiễn và thực trạng của năng lực cạnh tranh hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ là rất cần thiết. Đây chính là lý do để tác giả chọn đề tài "Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ" làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những chủ đề được nhiều người nghiên cứu ở nước ta. Các nghiên cứu đã được xuất bản (sách) có một số nội dung liên quan đến đề tài như: "Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế" (GS. Chu Văn Cấp chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003); "Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế" (TS. Lê Thị Vân Anh, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003); "Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ", (GS. Võ Thanh Thu, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003); "Đánh giá tác động kinh tế của hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ" (Dự án STAR Việt Nam và Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003). "Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ" (Đề tài Bộ Thương mại, năm 2000)... Các nghiên cứu này đã khái quát được khá đầy đủ thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta hiện nay và nêu các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, hàng xuất khẩu Việt Nam nói riêng tới các thị trường trên thế giới, trong đó có thị trường Mỹ. Các nghiên cứu này cũng đã nêu được các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của quốc gia, công ty và sản phẩm. Một số tài liệu cũng đã nghiên cứu và đưa ra các giải pháp tổng quát nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, những đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hàng thủy sản xuất khẩu vào Mỹ nói riêng, còn khá mờ nhạt.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu đã nêu, cũng có khá nhiều các nghiên cứu dưới dạng dự án (sản phẩm nghiên cứu chưa được xuất bản), có nội dung liên quan đến đề tài, trong đó tiêu biểu như: "Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông lâm thủy sản" (Dự án của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 4/2003); "Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa và dịch vụ Việt Nam" (Đề án của Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế phối hợp với các Bộ/ngành, 10/2001), "Phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ" (Đề tài của Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại); "Chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản đến năm 2010 và tầm nhìn 2020" (Dự thảo lần 4 của Ban chỉ đạo chương trình phát triển XKTS của Bộ Thủy sản, năm 2006). Các nghiên cứu này đã phân tích khá kỹ và có tính hệ thống về lý thuyết và thực tiễn của thực trạng năng lực cạnh tranh các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, trong đó đặc biệt là hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam hiện nay. Tuy vậy, các nội dung về năng lực cạnh tranh hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ còn ít được đề cập tới.
Ngoài các công trình nghiên cứu có tính học thuật như đã nêu, còn có khá nhiều các bài báo, thông tin về xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Mỹ, trong đó phần nhiều là các thông tin liên quan đến các vụ kiện về xuất khẩu cá tra, các basa và tôm của Việt Nam vào thị trường này.
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu tiêu biểu có nội dung liên quan đến đề tài cho thấy, việc làm rõ năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ vẫn còn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống và cập nhật. Do đó, luận văn sẽ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Làm rõ năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản của Việt Nam trên thị trường Mỹ, trên có sở đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường quan trọng này trong thời gian tới.
Nhiệm vụ của đề tài:
+ Hệ thống một số vấn đề lý luận về cạnh tranh, sức cạnh tranh của hàng hóa, các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ;
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
- Phạm vi nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản của Việt Nam trên thị trường Mỹ từ giai đoạn hai bên bình thường hóa quan hệ ngoại giao đến nay và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ đến năm 2010. Do mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu, luận văn không đi sâu nghiên cứu những vấn đề thuộc về kỹ thuật, nghiệp vụ của ngành thủy sản mà định hướng nghiên cứu vào các vấn đề có tính vĩ mô.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống được sử dụng trong nghiên cứu kinh tế, luận văn sẽ sử dụng thêm hai phương pháp phân tích cạnh tranh hiện đại là SWOT, GAP.
Lợi thế cạnh tranh hàng thủy sản xuất khẩu được phân tích theo từng phương pháp riêng biệt hoặc kết hợp giữa các phương pháp phân tích cạnh tranh khác nhau. Phương pháp phân tích SWOT sẽ được áp dụng như là phương pháp cơ bản nhất trong phân tích cạnh tranh của sản phẩm thủy sản xuất khẩu sang Mỹ. Phương pháp phân tích này dựa vào thống kê các điểm mạnh, yếu, cơ hội, thách thức trong tất cả các khía cạnh ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của sản phẩm thủy sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ ở từng thời điểm cụ thể. Các khía cạnh này thuộc về các yếu tố: điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân công, số lượng, chất lượng, chủng loại, giá cả, công nghệ chế biến, bảo quản công tác xúc tiến thương mại, hệ thống phân phối, quan hệ thương mại Việt - Mỹ, hệ thống cơ sở hạ tầng, hàng rào thuế quan và kỹ thuật của Mỹ...
Phương pháp phân tích GAP là so sánh mức độ cạnh tranh giữa các yếu tố đã nêu của sản phẩm thủy sản tiêu thụ tại thị trường Mỹ (bao gồm tất cả các nguồn gốc xuất xứ - trong và ngoài nước Mỹ)… So sánh tất cả các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh giữa các sản phẩm thủy sản ở Mỹ là việc làm rất khó, do đó chỉ một số yếu tố cơ bản và nguồn cung cấp chủ yếu được lựa chọn để phân tích so sánh. Các yếu tố này thường bao gồm các chỉ số quan trọng là thị phần xuất khẩu, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, điều kiện sản xuất chế biến, phân phối sản phẩm, giá cả... Các nước được lựa chọn là Mỹ, Thái Lan, Trung Quốc.
Mỗi phương pháp phân tích có ưu điểm và hạn chế riêng, bởi vậy việc kết hợp giữa các phương pháp phân tích đã nêu sẽ mang lại đánh giá chính xác hơn về lợi thế cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống được cơ sở lý luận và thực tiễn của năng lực cạnh tranh hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ.
- Làm rõ thực trạng năng lực cạnh tranh hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
- Đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của phân tích năng lực cạnh tranh hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH HÀNG THỦY SẢN VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm, vai trò của cạnh tranh
Khái niệm về cạnh tranh: Ở mỗi thời kỳ lịch sử có quan niệm khác nhau về khái niệm, phạm vi và các cấp độ của cạnh tranh. Từ lâu, lý luận về cạnh tranh đã được nhiều nhà kinh tế nổi tiếng trên thế giới nghiên cứu. Adam Smith được coi là người có công đầu trong việc đưa ra lý luận cạnh tranh một cách có hệ thống. Theo ông, thuộc tính cơ bản của kinh tế thị trường là tự do cạnh tranh, không có cạnh tranh thì không có kinh tế thị trường đích thực. Cạnh tranh được thực hiện thông qua thị trường và giá cả. Trong tự do cạnh tranh các cá nhân phải ganh đua, thậm chí chèn ép nhau để đạt được mục đích của mình và điều đó buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm việc của mình một cách chính xác. Cạnh tranh khơi dậy sự nỗ lực chủ quan của con người trong sản xuất ra hàng hóa, tìm kiếm lợi nhuận, từ đó làm tăng của cải cho nền kinh tế quốc dân.
Các Mác không xây dựng lý luận riêng về cạnh tranh trong các nghiên cứu của ông, nhưng lý luận về cạnh tranh cũng được ông đề cập đến nhiều khi nghiên cứu về lý luận giá trị, lý luận về tư bản và giá trị thặng dư. Theo C. Mác, điều kiện dẫn đến sự ra đời và tồn tại của cạnh tranh là phân công lao động xã hội và quyền sở hữu độc lập của chủ thể. Phân công lao động xã hội theo nghĩa rộng tức là sự phân công lao động xã hội trong một đơn vị kinh tế, giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành trong một nền kinh tế quốc dân và giữa các nền kinh tế trong khu vực hay phạm vi thế giới. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể có quyền sở hữu độc lập đều theo đuổi lợi ích kinh tế riêng và chính điều đó tạo nên động lực của cạnh tranh. Cạnh tranh có khả năng điều tiết sự phân phối tư bản và các nguồn lực xã hội giữa các ngành sản xuất khác nhau. Cạnh tranh làm thúc đẩy sự phát triển của kỹ thuật sản xuất, làm thay đổi kết cấu tổ chức kinh tế và thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế xã hội. Cạnh tranh diễn ra dưới ba hình thức: Một là, cạnh tranh giữa các nhà tư bản nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch, ở hình thức này các nhà tư bản cạnh tranh trực tiếp với nhau thông qua hạ giá thành bằng cách đua nhau áp dụng công nghệ tiến bộ, kỹ thuật mới để nâng cao năng suất lao động cá biệt và hạ thấp chi phí cá biệt của từng doanh nghiệp; hai là, cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau để hút được một số lượng người tiêu dùng lớn về phía mình, áp lực cạnh tranh buộc họ phải thường xuyên nâng cao chất lượng của hàng hóa thông qua việc nâng cao giá trị sử dụng, cải thiện độ bền, tính năng, tác dụng của sản phẩm hàng hóa; ba là, cạnh tranh giữa các ngành nhằm phân chia nhau giá trị thặng dư, đây là hình thức có tác dụng nhằm gia tăng tính lưu động của tư bản, làm cho các năng lực tư bản trong xã hội có thể điều tiết một cách linh hoạt vào các ngành sản xuất khác nhau.
Như vậy, theo C.Mác cạnh tranh kinh tế là hệ quả tất yếu của nền sản xuất hàng hóa, là sự đối chọi của những người sản xuất hàng hóa dựa trên cơ sở thực lực kinh tế của họ.
Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đề cập đến cạnh tranh ở những khía cạnh khác nhau. Theo Michael E. Porter:
Cạnh tranh là tăng trưởng bền vững của GDP và được quyết định bởi hiệu quả sử dụng các yếu tố vốn, lao động, các nguồn lực tự nhiên, nhờ đó cải thiện được điều kiện sống của mọi người dân trong xã hội. Ở phạm vi ngành, theo Markusen, một ngành công nghiệp là cạnh tranh nếu nó có một mức chi phí đơn vị bằng hoặc thấp hơn mức chi phí so với các ngành tương tự trên phạm vi toàn cầu. Theo E. Siggel và J. Cocburn, ở phạm vi doanh nghiệp thì cạnh tranh được quan niệm là việc cung ứng hàng hóa hoặc dịch vụ chất lượng tốt với giá rẻ [18, tr. 7].
Các khái niệm, định nghĩa khác về khả năng cạnh tranh của ngành, của doanh nghiệp đều đề cập khả năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận cao, phát triển bền vững và được đo bằng tỷ trọng thị phần của sản phẩm hoặc dịch vụ trên thị trường.
Ở Việt Nam, đề cập đến "cạnh tranh" một số nhà khoa học cho rằng, cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa - dịch vụ (mua và bán) Mục đích trực tiếp của hoạt động cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể kinh tế là giành lợi thế để hạ thấp giá cả của các yếu tố "đầu vào" trong chu trình sản xuất - kinh doanh và nâng cao giá "đầu ra", sao cho giành được mức lợi nhuận cao nhất với mức chi phí hợp lý nhất. Như vậy, trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó nó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, đồng thời với tối đa hóa lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là yếu tố thúc đẩy quá trình tích lũy và tập trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp. Cạnh tranh còn là môi trường phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với các điều kiện thị trường, đào thải các doanh nghiệp ít khả năng thích ứng, dẫn đến quá trình tập trung hóa trong từng ngành, vùng, quốc gia...
Có thể khái quát định nghĩa về cạnh tranh như sau:
Cạnh tranh là một quá trình tranh đấu mà trong đó, các chủ thể kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp (kể cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn kinh doanh) để đạt được mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình) như: chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng, cũng như đảm bảo tiêu thụ hàng hóa có lợi nhất, nhằm nâng cao vị thế của mình. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích: đối với người kinh doanh là lợi nhuận, còn đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng [44, tr. 7]
Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế: Trên bình diện nền kinh tế quốc gia, cạnh tranh có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất thông qua việc kích thích các doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực tối ưu, góp phần phân phối lại thu nhập một cách hiệu quả hơn và đồng thời góp phần nâng cao phúc lợi xã hội.
Trên bình diện doanh nghiệp, bằng sự hấp dẫn của lợi nhuận từ việc đi đầu về chất lượng, mẫu mã cũng như áp lực phá sản, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải luôn cải tiến, nâng cao công nghệ, phương pháp sản xuất, quản lý nhằm nâng cao uy tín của mình. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải mở rộng, tìm kiếm thị trường với mục đích tiêu thụ, đầu tư huy động nguồn vốn, lao động, công nghệ, trình độ quản lý trên thị trường quốc tế. Thông qua cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp thấy được lợi thế so sánh, cũng như các điểm yếu kém của mình để hoàn thiện, xây dựng các chiến lược kinh doanh trên thị trường quốc tế. Dưới góc độ lợi ích người tiêu dùng, cạnh tranh giúp cho người tiêu dùng có được sự lựa chọn rộng rãi hơn, buộc người sản xuất không thể áp đặt giá cả tùy tiện. Với khía cạnh đó, cạnh tranh là yếu tố điều tiết thị trường, giá cả, quan hệ cung cầu.
Kinh tế thị trường là tiền đề cơ bản của cạnh tranh bởi một số đặc trưng cơ bản của nó. Các quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường (KTTT) như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật giá cả tạo điều kiện để cạnh tranh hình thành, vận hành và phát triển. Trong nền KTTT tồn tại nhiều thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau cùng hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chủ thể kinh tế với khả năng về vốn, lao động, công nghệ, trình độ quản lý khác nhau đều có mục đích tiến tới tối đa hóa lợi ích. Do vậy, để tối đa hóa lợi nhuận và không bị đào thải buộc các chủ thể kinh tế chỉ có cách duy nhất là cạnh tranh.
Cạnh tranh trong cơ chế thị trường tự do ở nhiều trường hợp chưa thực sự vận hành hiệu quả, thậm chí có thể bị tắc nghẽn do những thất bại của thị trường. Do vậy, phải có sự can thiệp hợp lý của Nhà nước để đảm bảo cơ chế cạnh tranh vận hành một cách hiệu quả, giảm thiểu thất bại của thị trường. Điều cốt lõi là Nhà nước phải thực hiện, xây dựng chính sách cạnh tranh hiệu quả, môi trường cạnh tranh, bình đẳng, lành mạnh nhằm tránh thất bại của thị trường gây tổn hại đến năng lực cạnh tranh doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
1.1.1.2. Phân loại các loại hình cạnh tranh
Trong nền KTTT, đứng từ các góc độ khác nhau để xem xét, các nhà nghiên cứu đã chia thành các loại cạnh tranh:
Xét theo chủ thể cạnh tranh có cạnh tranh giữa những người sản xuất với nhau, cạnh tranh giữa những người bán với nhau; cạnh tranh giữa những người mua với nhau; cạnh tranh giữa người bán và người mua.
Xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể thì có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành mà các nhà kinh tế học chia thành hai hình thức là: "cạnh tranh dọc" và "cạnh tranh ngang".
Cạnh tranh dọc: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất khác nhau. Cạnh tranh dọc làm cho thay đổi giá bán và doanh nghiệp sẽ có "điểm dừng". Sau một thời gian nhất định sẽ hình thành một giá thị trường thống nhất và doanh nghiệp nào có chi phí bình quân cao sẽ bị phá sản, còn các doanh nghiệp có chi phí bình quân thấp nhất sẽ thu được lợi nhuận cao và phát triển.
Cạnh tranh ngang: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất như nhau. Do đặc điểm này nên sẽ không có doanh nghiệp nào bị loại ra khỏi thị trường song giá cả thấp ở mức tối đa, chỉ có người mua hưởng lợi nhiều nhất còn lợi nhuận doanh nghiệp giảm dần. Sau một thời gian nhất định sẽ xuất hiện khuynh hướng: hoặc liên minh với nhau bán hàng giá cao, giảm lượng bán - tiến tới độc quyền, hoặc tìm cách giảm chi phí bằng cách nâng cao năng lực quản lý, tổ chức và hiện đại hóa công nghệ..., tức là chuyển sang cạnh tranh dọc, như nêu trên.
Xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh thì có cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Trong cạnh tranh, các chủ thể kinh tế sẽ dùng tất cả các biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn, để đạt được mục tiêu kinh tế của mình. Có những biện pháp cạnh tranh hợp pháp hay cạnh tranh lành mạnh (Healthy Competition). Ngược lại, có những thủ đoạn phi pháp, nhằm tiêu diệt đối phương chứ không phải bằng nỗ lực vươn lên của mình, gọi là cạnh tranh bất hợp pháp hay cạnh tranh không lành mạnh (Unfair Competition).
Xét theo hình thái cạnh tranh, thì có: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo.
Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Competition) hay gọi là cạnh tranh thuần túy (Pure Competition) là tình trạng cạnh tranh mà giá cả của một loại hàng hóa là không đổi trong toàn bộ các nơi của thị trường do có nhiều người bán và người mua, họ có đủ thông tin về các điều kiện của thị trường. Trên thực tế đời sống kinh tế, ít tồn tại hình thái cạnh tranh hoàn hảo này.
Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition) là hình thái chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất kinh doanh. Ở đó, các nhà sản xuất bán hàng đủ mạnh để chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường hoặc từng nơi, từng khu vực cụ thể. Trong cạnh tranh không hoàn hảo lại phân ra hai loại là: độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính chất độc quyền. Độc quyền nhóm là một ngành chỉ có một số ít người sản xuất và họ đều nhận thức được giá cả của mình không chỉ phụ thuộc vào sản lượng của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động cạnh tranh của những đối thủ quan trọng trong ngành đó. Cạnh tranh mang tính độc quyền là một ngành có nhiều người bán, sản xuất ra những sản phẩm dễ thay thế cho nhau, mỗi hãng chỉ có thể hạn chế ảnh hưởng tới giá cả sản phẩm của mình ở mức độ nhất định.
Xét theo các công đoạn của quá trình kinh doanh hàng hóa thì có cạnh tranh trước khi bán hàng, trong khi bán hàng và cạnh tranh sau khi bán hàng.
Ngoài các loại hình cạnh tranh đã nêu trên, người ta còn xét theo một số tiêu chí khác nữa: điều kiện không gian, lợi thế tài nguyên, nhân lực, đặc điểm tập quán sản xuất, tiêu dùng, văn hóa... ở từng dân tộc, khu vực, từng quốc gia khác nhau mà phân loại thành cạnh tranh giữa các nước và các khu vực trên thế giới; cạnh tranh trong và ngoài nước, cạnh tranh giữa cộng đồng, các vùng có bản sắc dân tộc và tập quán sản xuất tiêu dùng khác nhau.
1.1.1.3. Năng lực cạnh tranh, các cấp độ của năng lực cạnh tranh
Khái niệm về năng lực cạnh tranh (sức cạnh tranh)
Năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh (Competitive Power) là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp [43, tr. 349].
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa về năng lực cạnh tranh trên cơ sở kết hợp cho cả doanh nghiệp, ngành và quốc gia như sau: Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.
Các cấp độ của năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành ba cấp độ: Năng lực cạnh tranh quốc gia; năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa.
- Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia:
Năng lực cạnh tranh quốc gia là một chỉ tiêu tổng hợp, bao gồm nhiều nhóm yếu tố khác nhau: chất lượng và trình độ phát triển của thể chế nhà nước, vai trò quản lý của nhà nước, các thể chế của kinh tế thị trường, độ mở của nền kinh tế, trình độ quản lý của doanh nghiệp, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, chất lượng và số lượng lao động và khoa học - công nghệ là những yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia.
Năng lực cạnh tranh của một quốc gia được quyết định bởi sự lành mạnh của các môi trường kinh tế vĩ mô, vi mô, chất lượng chiến lược và hiệu quả kinh doanh của các công ty (theo Goger H. Ford, 2003). Còn theo A.Warner, năng lực cạnh tranh của quốc gia là khả năng đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh GDP/đầu người trong suốt thời gian dài.
Diễn đàn Kinh tế Thế giới WEF năm 1997 định nghĩa năng lực cạnh tranh quốc gia là "năng lực của nền kinh tế quốc dân đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế và các đặc trưng kinh tế khác tương đối vững chắc" [44, tr. 9].
Như vậy, tuy có sự khác nhau trong các khái niệm, định nghĩa nhưng tất cả đều có điểm chung cơ bản là cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của một quốc gia được quyết định bởi năng suất các thành tố, nhờ đó duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững của GDP và cải thiện được điều kiện sống của người dân.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực tồn tại, duy trì và gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh (hay năng lực cạnh tranh) và được đánh giá là có thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác, khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh doanh một hàng hóa hay một dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp.
Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp được xác định trên cơ sở bốn nhóm yếu tố chủ yếu sau:
Nhóm yếu tố thứ nhất bao gồm các yếu tố liên quan đến chất lượng, khả năng cung ứng các yếu tố đầu vào của sản xuất hàng hóa: tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực; nguồn vốn; kết cấu hạ tầng kỹ thuật; thông tin; các yếu tố về khoa học và công nghệ; hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước…
Nhóm yếu tố thứ hai liên quan đến các ngành công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ có liên quan để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Nhóm yếu tố thứ ba liên quan đến nhu cầu của thị trường đối với các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, yêu cầu của khách hàng về chất lượng của sản phẩm, dịch vụ. Phân tích những yếu tố thuộc nhóm này giúp doanh nghiệp các thông tin về dung lượng, sức mua, mức độ đàn hồi của thị trường, nhu cầu và thị hiếu của khách hàng đối với sản phẩm.
Nhóm yếu tố thứ tư phản ánh trực tiếp mức độ cạnh tranh ở lĩnh vực mà doanh nghiệp kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương quan so sánh với các doanh nghiệp khác (về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, thương hiệu, kinh nghiệm quản lý..).
Nhìn chung trong chiến lược phát triển của mình, các doanh nghiệp đều phải tính toán đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, doanh nghiệp tập trung đầu tư vào những yếu tố phù hợp và từng bước nâng trình độ phát triển lên mức cao hơn. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ được quyết định bởi quy mô sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu tiêu thụ, khuyến mại, nghiên cứu thị trường.
- Năng lực cạnh tranh của hàng hóa:
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ là cơ sở tạo nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và thể hiện tập trung ở các yếu tố: giá cả, chất lượng, hệ thống phân phối và thương hiệu của doanh nghiệp.
Một hàng hóa được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì.... hơn hẳn so với những sản phẩm hàng hóa cùng loại. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa lại được quyết định bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Không thể có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa cao trong khi doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó có năng lực cạnh tranh thấp.
Cạnh tranh về giá cả là một công cụ quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa. Nếu hai hàng hóa cùng loại và có chất lượng như nhau, thì hàng hóa nào được bán với giá thấp hơn sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn. Giá cả hàng hóa được quyết định bởi giá thành của nó. Muốn hạ giá thành sản phẩm thì doanh nghiệp phải cải tiến tổ chức quản lý sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, khai thác nguồn nguyên liệu đầu vào với chi phí thấp...
Cạnh tranh về chất lượng là nội dung thứ hai có tính then chốt trong các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa. Hàng hóa có công dụng như nhau, giá cả bằng nhau thì người tiêu dùng sẽ mua hàng hóa có chất lượng cao hơn. Ngày nay hàng hóa có sức cạnh tranh cao phải là những hàng hóa "xanh và sạch", đáp ứng được những yêu cầu khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm, về bảo vệ môi trường của các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật, EU… Việc xây dựng thương hiệu tốt cũng giúp doanh nghiệp thu hút ngày càng nhiều khách hàng và thâm nhập thành công thị trường các nước nhập khẩu. Thương hiệu là một tài sản vô hình có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Thương hiệu nổi tiếng sẽ ăn sâu vào trí nhớ người tiêu dùng và với sức mạnh của thương hiệu, sản phẩm tạo ra giá trị gia tăng (GTGT) không chỉ ở giá mà còn ở niềm tin người tiêu dùng.
Cạnh tranh về hệ thống phân phối, dịch vụ bán hàng ngày càng đóng vai trò quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế tất yếu trong nền kinh tế thế giới hiện nay. Khâu phân phối sản phẩm có ý nghĩa quan trọng, là cầu nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng. Trong điều kiện hàng hóa được sản xuất từ nhiều doanh nghiệp với các chủng loại đa dạng và phong phú như hiện nay, thì công tác tiếp cận thị trường, giới thiệu sản phẩm phải được chú trọng đúng mức. Hệ thống phân phối được thiết kế hợp lý, phân định được kênh phân phối chủ lực và các kênh phân phối phụ trợ có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm chi phí tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường.
Mối quan hệ giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh ở các cấp độ phân biệt trên đây (cấp độ quốc gia, cấp độ doan._.h nghiệp, cấp độ hàng hóa) có mối tương quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung, của doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng cần thiết phải đặt nó trong mối tương quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh nêu trên.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa có được do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra. Ngược lại, mặc dù năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hóa mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa có ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tổng số năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp của một nước tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế nếu năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa thấp. Năng lực cạnh tranh quốc gia thể hiện qua môi trường kinh doanh, khả năng cạnh tranh quốc tế và trong nước. Sự ổn định về hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của sản phẩm hàng hóa trong quốc gia đó.
Các cấp độ cạnh tranh có mối liên hệ hữu cơ với nhau, trong đó năng lực cạnh tranh của hàng hóa dịch vụ là kết quả của năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trên thị trường phản ánh một cách tổng quát nhất khả năng cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của một quốc gia thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ở quốc gia đó và năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa lại phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa chịu tác động của các yếu tố vĩ mô, được thể hiện ở năng lực cạnh tranh quốc gia và các yếu tố vi mô là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy các giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa bao gồm các giải pháp ở cả cấp độ quốc gia và cấp độ doanh nghiệp. Để đánh giá được năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong một giai đoạn nhất định cần đánh giá năng lực cạnh tranh đó trong bối cảnh vận động của nền kinh tế trong nước và quốc tế, so sánh nó với các sản phẩm cùng loại của các nước ở từng thời điểm nhất định.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh hàng thủy sản xuất khẩu
Cũng như các thuật ngữ kinh tế khác, khái niệm xuất khẩu hàng hóa được phân tích dưới các góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, khái quát về xuất khẩu hàng hóa được hiểu là việc bán hàng hóa cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh toán. Mục đích của hoạt động xuất khẩu hàng hóa là khai thác lợi thế của các quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hóa là sự trao đổi lao động kết tinh vào hàng hóa giữa các quốc gia. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia phát huy được thế mạnh của mình để sản xuất những mặt hàng có lợi thế so sánh để bán ra thị trường quốc tế và nhập khẩu về những sản phẩm phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng mà trong nước không có thế mạnh sản xuất.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế ngày càng mở rộng và có tác động mạnh mẽ đến tất cả các nền kinh tế trên thế giới như hiện nay, quá trình phân công lao động trên phạm vi quốc tế ngày càng trở nên sâu sắc. Điều đó dẫn đến các quốc gia, các doanh nghiệp ngày càng có nhiều cơ hội để tham gia vào thị trường thế giới, tập trung sản xuất và xuất khẩu ra thế giới những mặt hàng mình có lợi thế. Nhưng mặt khác, tính gay gắt trong cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp trong xuất khẩu những chủng loại hàng hóa tương tự nhau ra thị trường thế giới, cũng ngày càng tăng lên. Để hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp thâm nhập và đứng vững trên thị trường quốc tế, tất yếu phải nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng, từ đó có các biện pháp thích hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Mỗi chủng loại hàng hóa xuất khẩu có những đặc điểm riêng, do vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh của một chủng loại hàng xuất khẩu, thì một mặt phải chú ý đến các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung, mặt khác phải hết sức chú trọng đến các yếu tố đặc thù đối với chủng loại hàng hóa đó.
Thủy sản là một ngành sản xuất nông nghiệp chuyên môn hóa hẹp, với các sản phẩm chủ yếu phục vụ cho nhu cầu ăn - một nhu cầu thiết yếu của con người, các sản phẩm của ngành thủy sản rất đa dạng như các loài tôm, cá, nhuyễn thể và các loại thủy sản đặc biệt khác. Xuất khẩu thủy sản là việc bán ra nước ngoài những hàng hóa thủy sản được khai thác, nuôi trồng, chế biến ở trong nước. Cũng như việc xuất khẩu các hàng hóa khác, xuất khẩu thủy sản có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, mang lại nguồn thu ngoại tệ, góp phần tăng tích lũy vốn cho người sản xuất, người xuất khẩu và cho nền kinh tế nói chung. Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu chịu ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến hàng hóa xuất khẩu nói chung và những nhân tố riêng có, phù hợp với đặc thù của ngành thủy sản. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu có thể được chia thành hai nhóm chủ yếu đó là các yếu tố thuộc môi trường cạnh tranh và các yếu tố thuộc về hàng hóa.
1.1.2.1. Các yếu tố thuộc môi trường cạnh tranh
- Điều kiện tự nhiên: Các yếu tố về điều kiện tự nhiên thuận lợi như vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh.Vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí vận chuyển dẫn tới giảm giá bán hàng hóa. Hoặc tài nguyên thiên nhiên phong phú giúp doanh nghiệp có được khối lượng hàng hóa đầu vào ổn định với giá thấp. Đối với hàng thủy sản xuất khẩu, yếu tố về điều kiện tự nhiên có tác động rất quan trọng đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Một quốc gia có bờ biển dài, hệ thống sông hồ thuận lợi cho việc nuôi trồng, đánh bắt thủy sản với những chủng loại sản phẩm đa dạng, phong phú, có GTGT cao thì quốc gia đó có những lợi thế rất lớn để phát triển ngành thủy sản nói chung, hàng thủy sản xuất khẩu nói riêng. Thủy sản là một ngành kinh tế gắn chặt với điều kiện tự nhiên không chỉ trong khâu đánh bắt, chế biến mà còn ở cả việc nuôi trồng, tạo nguồn giống và việc vận chuyển đến các thị trường tiêu thụ.
- Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa nói chung và hàng thủy sản nói riêng. Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống điện, nước, viễn thông, đường, cầu, bến cảng đường sông, đường biển, đường hàng không, kho tàng, bến bãi… Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hóa, từ đó góp phần giảm chi phí đầu vào, hạ thấp giá thành sản phẩm. Ngược lại, nếu cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu, chất lượng dịch vụ thấp, giá cả đắt thì sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và xuất khẩu hàng hóa. Cản trở nghiêm trọng nhất từ cơ sở hạ tầng đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hệ thống dịch vụ độc quyền, áp đặt giá quá cao với chất lượng dịch vụ thấp, năng suất lao động và hiệu quả sử dụng phương tiện kém. Tỷ trọng chi phí về cơ sở hạ tầng trong một đơn vị sản phẩm có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nếu chi phí về điện, nước, viễn thông, thông tin liên lạc cao quá mức so với các nước trong khu vực và trên thế giới nó sẽ làm giảm các lợi thế cạnh tranh khác như điều kiện tự nhiên, lao động, sự ổn định chính trị xã hội v.v... Hệ thống cơ sở hạ tầng lạc hậu và yếu kém sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả đầu vào và do đó ảnh hưởng đến giá bán sản phẩm.
- Kinh tế: Trước hết, tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế của một quốc gia có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của những chính sách kinh tế của Chính phủ, do vậy các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với các chính sách kinh tế để nâng cao hiệu quả hoạt động. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của Chính phủ được sử dụng để điều tiết nền kinh tế, có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để tăng tổng cầu và tạo ra sự cạnh tranh cho các doanh nghiệp, Chính phủ có thể tăng chi tiêu hoặc giảm thuế, hoặc Chính phủ có thể dùng chính sách mở rộng tài chính và nới lỏng tiền tệ. Chính sách thương mại "mở" hay "đóng" sẽ có tác dụng thúc đẩy hay hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Để thực hiện chính sách thương mại "mở cửa", Chính phủ cần thỏa thuận để ký các hiệp định thương mại song phương và đa phương với các nước, tham gia hội nhập thương mại quốc tế. Việc hội nhập thương mại quốc tế sẽ buộc các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, bởi vì mức độ cạnh tranh trên thị trường quốc tế gay gắt hơn rất nhiều so với cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước.
- Chính trị: Môi trường chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế đất nước nói chung, đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng. Sự ổn định về chính trị ở từng quốc gia cũng như mối quan hệ chính trị tốt với các quốc gia khác sẽ tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu. Các quan điểm, chính sách của Chính phủ tác động mạnh mẽ đến hoạt động của doanh nghiệp trong việc xác định phạm vi, lĩnh vực, mặt hàng đối với từng thị trường và các đối tác khác nhau. Sự hậu thuẫn của Chính phủ thông qua mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là nhân tố không thể không tính đến trong chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh được thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh thì việc tìm hiểu về hệ thống chính trị cũng như tình hình chính trị tại các thị trường mà doanh nghiệp đó hướng tới, là rất cần thiết. Sự can thiệp của Chính phủ các nước sẽ diễn ra với những mức độ khác nhau đối với doanh nghiệp của các quốc gia, cho nên để thành công trong kinh doanh tại nước ngoài, các doanh nghiệp phải tìm hiểu xem chính phủ nước đó được thành lập và hoạt động theo nguyên tắc nào, chính sách ngoại thương, chính sách bảo hộ ngành kinh tế, bảo vệ người tiêu dùng… sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chiến lược xuất khẩu tại thị trường đó?
- Luật pháp, văn hóa xã hội: Luật quốc tế và luật của từng quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia thương mại quốc tế. Mỗi quốc gia đều có hệ thống luật pháp riêng điều chỉnh cho các hoạt động thương mại quốc tế, do vậy để tạo điều kiện và môi trường kinh doanh thuận lợi, các nước thường tiến hành ký các hiệp định thương mại, hiệp ước. Để đưa hàng hóa xuất khẩu thâm nhập vào các thị trường trên thế giới, đặc biệt là thị trường của các nước phát triển, có sức mua lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thông hiểu chế độ luật pháp ở các quốc gia đó. Đối với hàng thủy sản xuất khẩu, việc tìm hiểu các quy định về chính sách bảo hộ ngành sản xuất, các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, đặc biệt là tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, về chính sách thuế đối với các chủng loại sản phẩm cụ thể… là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp xuất khẩu.
Đối với yếu tố văn hóa, xã hội: Các tập tục truyền thống, quan điểm sống, thói quen, tỷ lệ dân số, tỷ lệ sinh đẻ… đều là các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thị trường và do đó ảnh hưởng đến nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiệp nắm bắt tốt các thị hiếu, thói quen, tập quán tiêu dùng thì họ sẽ có cơ hội để gia tăng thị phần hàng hóa của họ. Các khu vực khác nhau có thị hiếu tiêu dùng và nhu cầu khác nhau do vậy đòi hởi doanh nghiệp phải có sự am hiểu nhất định về văn hóa của nước sở tại để từ đó có chiến lược kinh doanh phù hợp với từng hoàn cảnh của môi trường mới
1.1.2.2. Các yếu tố thuộc về hàng hóa
- Giá cả hàng hóa là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng hóa. Doanh nghiệp muốn có sức cạnh tranh cao thì doanh nghiệp đó phải xây dựng được cách thức tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả bằng cách hạ giá thành sản phẩm, giảm giá bán nhằm thu hút được nhiều người tiêu dùng. Để có thể hạ giá thành sản phẩm, doanh nghiệp phải tích cực tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào với giá thấp, nhân công rẻ, đồng thời phải đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào trong sản xuất, giảm thiểu các khoản chi phí khác. Xuất khẩu thủy sản là khâu cuối trong chuỗi các công đoạn từ nuôi trồng, đánh bắt đến chế biến, xuất khẩu. Do vậy, cạnh tranh về giá của sản phẩm thủy sản xuất khẩu phụ thuộc vào việc hạ thấp chi phí ở các công đoạn trước đó. Trong hoạt động đánh bắt thủy sản thì phải đầu tư đổi mới các phương tiện đánh bắt, các phương tiện bảo quản hiện đại nhằm giảm thiểu tỷ lệ thối hỏng sau đánh bắt. Đối với hoạt động nuôi trồng, phải chú trọng đến đầu tư thâm canh có trọng điểm, chọn giống nuôi tốt, có năng suất cao. Đối với khâu chế biến phải đầu tư các dây chuyền chế biến hiện đại, nâng cao năng suất lao động nhằm gia tăng hiệu suất thu hồi, nâng cao tỷ lệ hữu ích của sản phẩm. Đối với lưu thông hàng hóa phải có các phương án bảo quản, vận chuyển hợp lý nhằm giảm thiểu chi phí.
- Chất lượng hàng hóa: Với cùng một loại hàng hóa, nhưng hàng hóa nào có chất lượng cao hơn, có thể là giá đắt hơn cũng sẽ được người tiêu dùng ưu tiên mua. Vì vậy, chất lượng hàng hóa là yếu tố quan trọng hàng đầu để các doanh nghiệp sử dụng để cạnh tranh với những doanh nghiệp khác. Chất lượng hàng thủy sản phụ thuộc vào một số yếu tố: điều kiện tự nhiên, điều kiện kỹ thuật, trình độ công nghệ sản xuất; nếu doanh nghiệp áp dụng các quy trình sản xuất hiện đại để nuôi trồng hay chế biến thì sẽ có lợi thế hơn nhiều so với các doanh nghiệp áp dụng quy trình sản xuất lạc hậu, sản phẩm làm ra sẽ tốt hơn đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Cơ cấu hàng thủy sản phải đa dạng, phù hợp với tập quán phong tục, thị hiếu tâm lý người tiêu dùng của nước nhập khẩu. Hàng thủy sản là hàng thực phẩm, có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng, do vậy vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn đề mà các doanh nghiệp phải quan tâm hàng đầu trong việc nâng cao sức cạnh tranh về chất lượng của hàng hóa.
- Kiểu cách, mẫu mã của hàng hóa và thương hiệu sản phẩm: Sản phẩm với tư cách là hàng hóa sẽ được xem xét trên các chỉ tiêu về mức độ thỏa mãn đối với nhu cầu của người tiêu dùng về một số yêu cầu về hình thức bao bì, nhãn mác sản phẩm. Bao bì mẫu mã đẹp cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết phù hợp với thói quen tiêu dùng và văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc, phù hợp với mỗi lứa tuổi là yếu tố rất quan trọng trong cạnh tranh bằng sản phẩm, đặc biệt là đối với các sản phẩm thực phẩm, nó ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định tiêu dùng của người mua. Việc xây dựng thương hiệu tốt cũng giúp doanh nghiệp thu hút ngày càng nhiều khách hàng và thâm nhập thành công thị trường các nước nhập khẩu. Một sản phẩm thủy sản xuất khẩu chỉ có thể đứng vững và phát triển trên thị trường quốc tế khi nó có một thương hiệu mạnh, có nghĩa là hình ảnh của nó đã được nhiều khách hàng kiểm nghiệm và tin tưởng. Có thương hiệu trên thị trường doanh nghiệp sẽ dễ thu hút thêm khách hàng mới, mở rộng thêm thị trường, thu về nhiều lợi nhuận.
- Hệ thống phân phối, dịch vụ bán hàng: hệ thống phân phối được thiết kế hợp lý, đa dạng hóa các kênh phân phối tương ứng với các cơ cấu sản phẩm đa dạng, phân định được kênh phân phối chủ lực có ý nghĩa quan trọng trong việc tối thiểu hóa chi phí dành cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Một hệ thống phân phối hợp lý bao gồm mạng lưới các đại lý, các cơ sở trung tâm bán hàng giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa với các hình thức bán buôn và bán lẻ vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và phù hợp với khả năng thanh toán, vừa phù hợp với tập quán, phong tục của các địa phương. Hoạt động dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng tốt cũng là điều kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp cạnh tranh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.
Trước khi bán hàng, các doanh nghiệp cần có các biện pháp thâm nhập thị trường, tìm hiểu và nghiên cứu thị trường để có định hướng đúng đắn trong việc phát triển các loại sản phẩm. Đồng thời doanh nghiệp sử dụng các biện pháp như quảng cáo tiếp thị, trưng bầy giới thiệu sản phẩm để thu hút khách hàng. Trong khi bán hàng, doanh nghiệp phải tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng về phương tiện vận chuyển, phương thức thanh toán nhanh gọn, thực hiện chính sách khuyến mại… Sau khi bán hàng, doanh nghiệp cần có dịch vụ hậu mãi tốt, đồng thời chú trọng đến việc thu thập các thông tin, các nhận xét của khách hàng đối với sản phẩm của mình, để có sự điều chỉnh kịp thời cả về đầu tư sản xuất và chiến lược tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Thị trường hàng thủy sản ở Mỹ
1.2.1.1. Chính sách thương mại của Mỹ
Mỹ là trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới. Mỹ là quốc gia có tài nguyên phong phú, không những không bị ảnh hưởng nặng nề bởi hai cuộc đại chiến thế giới, mà ngược lại nước Mỹ làm giàu từ các cuộc chiến tranh đó.
Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế lâu dài đã tạo cho Mỹ một sức mạnh kinh tế khổng lồ và thu nhập cao cho người dân. Năm 2002, GDP của Mỹ là 10.450 tỷ USD, chiếm trên 21 % tổng thu nhập của toàn cầu. Giai đoạn 1994-1999 là thời kỳ nước Mỹ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp thấp. Song từ năm 2000 trở lại đây tốc độ tăng trưởng GDP thực tế của nước này không ổn định và thấp hơn so với mức bình quân của thập kỷ 90. Các nhà sản xuất của Mỹ có năng lực cạnh tranh lớn và tiềm lực kinh tế mạnh, nên họ đã tuyên truyền cho chính sách tự do hóa thương mại và đầu tư, cũng vì thế Mỹ đã trở thành một thị trường lớn có sức hấp dẫn các nước và các nhà đầu tư nước ngoài hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.
Người dân Mỹ có nguồn gốc từ nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới nên nhu cầu rất đa dạng, phong phú. Những đặc điểm riêng về địa lý và lịch sử đã hình thành nên một thị trường tiêu dùng khổng lồ và đa dạng nhất thế giới. Mỹ vốn có thị trường quốc nội rất lớn và đây cũng là một thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất thế giới. Do đó có thể nói, thị trường Mỹ có sức ảnh hưởng lớn đến thị trường thế giới và cả nền kinh tế các nước trên thế giới. Mỹ là một thị trường xuất nhập khẩu có dung lượng lớn, phong phú và đa dạng. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Mỹ bao gồm máy móc, thiết bị, các mặt hàng công nghiệp, thiết bị vận tải các loại, hóa chất, nông sản, các loại hàng hóa khác. Các mặt hàng tiêu dùng chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu hàng nhập khẩu của nước Mỹ. Với sức mua lớn và đa dạng về chủng loại hàng hóa, Mỹ là một thị trường lý tưởng cho tất cả các nước trên thế giới. Chất lượng hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ cũng rất linh hoạt, với nhiều phẩm cấp đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng.
Mỹ là thị trường rộng lớn và thu hút mạnh mẽ hàng hóa xuất khẩu của các nước trên thế giới. Chính vì vậy, mức độ cạnh tranh trên thị trường này diễn ra hết sức quyết liệt. Tuy được coi là thị trường mở nhưng Mỹ lại có nhiều hàng rào kỹ thuật để cản trở doanh nghiệp của nước xuất khẩu nếu họ làm ảnh hưởng đến lợi ích của người sản xuất nước Mỹ. Đồng thời, các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Mỹ cũng rất chặt chẽ. Nhìn chung, chính sách thương mại của Mỹ thể hiện tính chất hai mặt: một mặt, Mỹ muốn các nước khác mở rộng thị trường đối với hàng hóa Mỹ, mặt khác, Mỹ lại có những chính sách hạn chế đối với một số nước và khu vực xuất khẩu vào thị trường Mỹ do các mục đích kinh tế và phi kinh tế của Mỹ. Hơn thế, chính sách thương mại của nước Mỹ với các đối tác là không giống nhau, mà phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ về mặt chính trị giữa Mỹ với các khu vực, các quốc gia trên thế giới.
Mỹ có hệ thống pháp luật thuộc loại phức tạp nhất trên thế giới, bao gồm hệ thống luật liên bang, hệ thống pháp luật của mỗi bang hay khu hành chính. Mỹ luôn sử dụng pháp luật quốc tế như là một vũ khí sắc bén để duy trì và củng cố vai trò cường quốc số một trên thế giới. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa ngày càng mở rộng như hiện nay thì chính sách của Mỹ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quyết định của các tổ chức thế giới như WTO, IMF, WB. Các quan điểm của Mỹ về tự do hóa thương mại quốc tế là rất rõ ràng. Tự do hóa thương mại quốc tế được thực hiện thông qua các thỏa thuận đa phương trong khuôn khổ WTO và tạo ra nhiều ảnh hưởng có lợi đối với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, được lợi nhiều nhất trong quá trình này là Mỹ và các nước phát triển khác. Kể từ thời điểm thành lập WTO, Mỹ đã tích cực tham gia vào công việc của tổ chức này, mở rộng lĩnh vực hoạt động và gia tăng số thành viên. Mỹ cũng là nước tích cực theo đuổi chính sách đẩy mạnh quá trình tự do hóa thương mại khu vực thông qua hình thức ký kết các hiệp định thương mại khu vực. Mỹ đã ký hiệp định thương mại tự do với Canada năm 1988, với Mêhicô năm 1992. Ngày nay khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đã liên kết vùng lãnh thổ khổng lồ với 370 triệu dân và chiếm hơn 20% thị phần trong nền kinh tế thương mại thế giới [3, tr. 7]. Mỹ cũng coi việc gia nhập APEC của mình có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc thúc đẩy ngoại thương Mỹ tăng trưởng. Ngoài việc thực hiện chính sách tự do hóa thương mại thế giới trên cơ sở đa phương và khu vực, Mỹ còn tích cực sử dụng chiến lược thỏa thuận song phương để điều tiết quan hệ với các đối tác thương mại chính và có triển vọng.
Sử dụng hạn ngạch nhập khẩu hàng hóa cũng là nội dung phổ biến trong hệ thống chính sách thương mại của Mỹ. Có thể chia hạn ngạch nhập khẩu của Mỹ thành hai loại: hạn ngạch thuế quan và hạn ngạch tuyệt đối.
Hạn ngạch thuế quan quy định số lượng của mặt hàng đó được nhập vào Mỹ với mức thuế giảm trong một thời gian nhất định. Không hạn chế về số lượng nhập vào đối với mặt hàng này nhưng số lượng nhiều hơn mức quota được phân bổ trong thời gian đó sẽ bị đánh thuế xuất nhập khẩu cao hơn. Hạn ngạch tuyệt đối quy định số lượng một mặt hàng vượt quá hạn ngạch cho phép sẽ không được nhập vào Mỹ trong thời hạn của quota. Hàng nhập quá số lượng theo quota sẽ phải tái xuất hoặc lưu kho trong suốt thời hạn của quota.
Trong hệ thống chính sách thương mại của mình, Mỹ rất chú trọng đến việc sử dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (gọi tắt là GSP) như là một công cụ quan trọng trong việc cụ thể hóa chính sách ngoại thương của Mỹ đối với các nước, các khu vực khác nhau. Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập là hệ thống ưu đãi về thuế mà Mỹ dành cho các nước đang phát triển theo chế độ đơn phương, không đòi hỏi có đi có lại, mức thuế ưu đãi hơn mức quy chế tối huệ quốc (MFN). Những mặt hàng nhập của các nước đang phát triển, mặt hàng được hưởng ưu đãi GSP phải đáp ứng tiêu chuẩn mà Mỹ đề ra. Mỹ quy định rằng một nước được hưởng GSP của Mỹ khi đã phát triển đến mức đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì sẽ phải rút lui khỏi danh sách được hưởng GSP của Mỹ. Theo luật thương mại, Mỹ có quyền hạn chế sự ưu đãi vì nhu cầu cạnh tranh với mục đích là: khi một hoặc những sản phẩm của một nước đã đủ sức cạnh tranh rồi thì không cần ưu đãi thuế quan nữa, giành ưu đãi cho những nhà sản xuất khác còn non yếu trong cạnh tranh, bảo hộ người sản xuất trong nước. Mục tiêu GSP của Mỹ không chỉ nhằm hỗ trợ các nước đang phát triển, mà luôn được tính đến để bảo hộ nền công nghiệp và người tiêu dùng trong nước.
Luật chống bán phá giá và bù trừ trợ cấp là biện pháp phổ biến mà chính phủ Mỹ thường dùng để bảo hộ hàng sản xuất trong nước, chống sự cạnh tranh của hàng nước ngoài vào thị trường Mỹ. Luật này cho phép chính phủ Mỹ áp thuế chống bán phá giá, đó là loại thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu được bán ở thị trường Mỹ với mức giá thấp hơn giá trị đúng của thị trường, tức là thấp hơn giá bình thường bán ở nước sản xuất. Thuế bù trừ trợ cấp, là loại thuế được áp dụng để làm vô hiệu hóa tác động trợ cấp của Chính phủ nước ngoài dành cho hàng hóa của họ khi xuất khẩu hàng sang Mỹ. Theo lý luận của các nhà hoạch định chính sách nước Mỹ thì việc trợ cấp này làm cho giảm giá hàng xuất khẩu vào Mỹ một cách cố ý và gây thiệt hại cho các nhà sản xuất của Mỹ.
1.2.1.2. Đặc điểm thị trường hàng thủy sản Mỹ
- Về nhu cầu tiêu thụ hàng thủy sản
Mỹ là nước có nhu cầu lớn về tiêu thụ hàng thủy sản với kim ngạch nhập khẩu tăng đều qua các năm. Với thu nhập bình quân của người dân vào loại cao nhất trên thế giới và tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm là 4%, Mỹ là một thị trường có mức tiêu dùng hàng thủy sản rất cao. Các mặt hàng thủy sản được người dân Mỹ rất ưa chuộng là các loại cá rô phi, cá da trơn, tôm, cua ghẹ và các sản phẩm thủy sản có giá trị thương mại cao như cá ngừ, cá hồi….
Tại Mỹ có nhiều cơ sở chế biến phải sử dụng nguyên liệu nhập khẩu, nên nhu cầu của Mỹ về hàng thủy sản nhập khẩu từ nước ngoài là rất lớn. Hiện nay, Mỹ là nước nhập khẩu hàng thủy sản lớn thứ hai trên thế giới sau Nhật Bản.
Trong các mặt hàng nhập khẩu của Mỹ, cá là sản phẩm được tiêu dùng nhiều nhất tại Mỹ. Năm 2005, Mỹ nhập khẩu 1.240 tấn cá các loại chiếm tỷ trọng 51,8% trong tổng lượng nhập khẩu hàng thủy sản của Mỹ, trong đó các loại cá ngừ, cá da trơn, cá hồi, cá rô phi là những loại cá được nhập khẩu nhiều nhất ở thị trường Mỹ. Ngành sản xuất cá nheo Mỹ cung cấp khoảng 50% nhu cầu tiêu dùng cá da trơn cho thị trường Mỹ, còn lại Mỹ nhập khẩu cá da trơn từ các nước như Việt Nam, Ấn Độ, Bănglađét. Cá ngừ vây xanh chủ yếu nhập từ Mêhicô, Tây Ban Nha, Canada. Cá ngừ vây vàng nhập từ Việt Nam, Trinidat và Tobacgo. Theo số liệu thống kê tại thị trường Mỹ hàng năm tiêu thụ khoảng 1/3 trong tổng số 2,2 tỷ hộp cá ngừ bán ra trên toàn thế giới. Hầu như gia đình người Mỹ nào cũng có cá ngừ đóng hộp để dùng do sản phẩm này thuận lợi cho sử dụng, giàu dinh dưỡng, không đắt. Tại các siêu thị của Mỹ, doanh số bán cá ngừ tươi ngày càng tăng cho thấy người tiêu dùng Mỹ ngày càng ưa chuộng đối với sản phẩm này. Năm 2005, Mỹ nhập khẩu 287.730 tấn cá ngừ với kim ngạch là 915,68 triệu USD. Mỹ cũng là nước nhập khẩu hàng đầu sản phẩm cá rô phi chế biến. Nhập khẩu cá rô phi của Mỹ tăng từ 40,47 tấn năm 2000 lên 134,87 tấn năm 2005, trị giá 392,98 triệu USD [26, tr. 15].
Tôm là mặt hàng được tiêu dùng đứng thứ hai tại Mỹ và chiếm trên 30% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Hơn nữa do nhiều nước xuất khẩu tôm vào thị trường Mỹ nên giá tôm hạ do đó nhu cầu của người dân Mỹ ngày càng tăng. Hàng năm, Mỹ nhập khẩu một lượng lớn tôm từ các nước như Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ… Năm 2004, Mỹ nhập khẩu 518.378 tấn tôm từ các nước và năm 2005 là 532.159 tấn tôm các loại với kim ngạch nhập khẩu là 3,67 tỷ USD. Năm 2005, Mỹ nhập khẩu 120.867 tấn cua ghẹ các loại từ các nước. Các nước cung cấp cua ghẹ chủ yếu cho thị trường Mỹ là Canada, Nga, Inđônexia.
Mỹ là thị trường tương đối ổn định với số lượng và kim ngạch nhập khẩu thủy sản của Mỹ tăng đều qua các năm. Có nhiều nguyên nhân khiến cho thị trường nhập khẩu Mỹ tăng trưởng nhanh như: nền kinh tế tăng trưởng liên tục và đồng đô la vững; để bảo vệ lâu dài nguồn lợi thủy sản, Mỹ hạn chế việc khai thác ở mức độ thích hợp và tăng cường nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước
- Về sản xuất hàng thủy sản
Mỹ có nguồn lợi thủy hải sản giàu có và phong phú vào bậc nhất thế giới trong đó có nhiều loại có giá thị thương mại cao như tôm he, tôm hùm, cá hồi, cá ngừ… Mỹ là cường quốc thế giới về khai thác, nuôi trồng và chế biến các sản phẩm thủy sản, đồng thời cũng là nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Về nuôi trồng thủy sản, Mỹ chỉ tập trung nuôi trồng những loại thủy sản có nhu cầu cao và thu được nhiều lợi nhuận. Mặc dù có rất nhiều điều kiện thuận lợi trong khai thác thủy sản tự nhiên, nhưng hiện nay Mỹ đang giảm dần sản lượng khai thác và tăng sản lượng nuôi trồng do Mỹ thi hành chính sách bảo vệ nguồn lợi thủy sản lâu dài. Nhu cầu khai thác hàng năm của Mỹ là 6-7 triệu tấn thủy hải sản nhưng để bảo vệ và duy trì lâu dài nguồn lợi thủy sản, nước này chỉ hạn chế khai thác ở mức từ 4,5-5 triệu tấn/ năm [9, tr. 1].
Bảng 1.1: Tình hình nhập khẩu thủy sản của Mỹ giai đoạn 1997-2005
Năm
Khối lượng nhập khẩu (nghìn tấn)
Giá trị nhập khẩu (Triệu USD)
Tốc độ tăng so với năm trước (%)
1997
1.638,75
7.829,09
1998
1.737,54
8.228,67
105%
1999
1.848,61
9.048,39
110%
2000
1.866,17
10.086,83
111%
2001
1.934,85
9.880,70
109%
2002
2.108,43
10.209,65
103%
2003
2.270,63
11.112,97
109%
2004
2.334,98
11.379,98
102%
2005
2.393,62
12.158,48
107%
Nguồn: Cơ quan quản lý thủy hải sản Mỹ, năm 1997-2005.
- Về hệ thống các kênh phân phối hàng thủy sản:
Hệ thống phân phối hàng thủy sản ở Mỹ gồm mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ.
+ Mạng lưới bán buôn thủy sản tại Mỹ: Các công ty kinh doanh hàng đầu của nước Mỹ trực tiếp nhập khẩu thủy sản từ các nước sau đó cung cấp cho hệ thống các siêu thị và cửa hàng và cung cấp cho các nhà máy, xí nghiệp để chế biến ra các sản phẩm có GTGT. Các công ty nhập khẩu này rất quan tâm đến việc nghiên cứu thị trường, thị hiếu khách hàng để từ đó có thể nhập khẩu những mặt hàng thủy sản đáp ứng được yêu cầu của khách hàng và thu được nhiều lợi nhuận. Các công ty này cũng thường xuyên nắm bắt tình hình từ các nhà xuất khẩu thủy sản trên thế giới để đảm bảo nguồn cung cấp hàng hóa ổn định với các mặt hàng thủy sản đa dạng nhằm cung cấp cho các loại đối tượng khác nhau của thị trường Mỹ.
+ Mạng lưới bán lẻ thủy sản tại Mỹ: chiếm đến trên 50% giá trị tiêu thụ tại Mỹ. Các công ty bán lẻ độc lập, các hệ thống siêu thị, nhà hàng mua hàng từ các công ty nhập khẩu lớn.
Người tiêu dùng Mỹ chủ yếu mua thủy sản tại các cửa hàng, siêu thị, nơi họ có sự tin tưởng về chất lượng và các điều kiện vệ sinh an toàn. Các kênh tiêu thụ sản phẩm thủy sản trên thị trường Mỹ có mối quan hệ rất chặt chẽ, mang tính chuyên môn hóa cao, rất ít trường hợp các siêu thị lớn hoặc các cô._.những nước đang phát triển. Hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ phải cạnh tranh quyết liệt với những hàng hóa cùng loại của nhiều nước Châu Á. Tiêu chuẩn của Mỹ đối với những mặt hàng này rất cao, đòi hỏi phải đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng và VSATTP.
Để hàng thủy sản Việt Nam đứng vững trên thị trường Mỹ, đòi hỏi sản phẩm xuất khẩu phải tốt hơn, chất lượng cao hơn, hoặc chí ít phải có chất lượng tương đương so với hàng thủy sản xuất khẩu của các đối thủ cạnh tranh ở các nước khác trên thị trường Mỹ. Giá cả thấp cũng là yếu tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam. Thị trường thủy sản Mỹ có nhiều nhà cung cấp trong và ngoài nước Mỹ, do vậy cạnh tranh về giá giữa các nhà cung ứng hàng thủy sản ngày càng gay gắt. Việt Nam có nhiều lợi thế so sánh về điều kiện nuôi trồng, về giá nhân công… dẫn đến có điều kiện để hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, việc bán hàng giá cả thấp, trong nhiều trường hợp đã gặp phải những cản trở từ phía những nhà sản xuất thủy sản và Chính phủ Mỹ. Do vậy, biện pháp lâu dài là phải nâng cao năng lực cạnh tranh hàng thủy sản xuất khẩu qua chất lượng sản phẩm, chính sách bán hàng, cải tiến mẫu mã, bao bì sản phẩm. Để nâng cao giá trị xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thủy sản thủy sản Việt Nam cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Đây là một giải pháp quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu. Khi so sánh về chất lượng, một số sản phẩm thủy sản của Việt Nam có tính cạnh tranh thấp hơn so với các nước khác. Do vậy để nâng cao chất lượng của sản phẩm, phải thực hiện nâng cao chất lượng trong tất cả các khâu từ nuôi trồng cho đến khi chế biến.
- Lĩnh vực nuôi trồng: Đối với các cơ sở nuôi trồng thủy sản cần lựa chọn những loại giống tốt, có năng suất cao, có hương vị đặc trưng. Đa dạng hóa phương thức nuôi, đối tượng nuôi nhằm tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, có giá trị kinh tế, giá thành cạnh tranh. Các cơ sở nuôi trồng cần chủ động trong việc sản xuất và kiểm soát chất lượng con giống, áp dụng thực hành nuôi tốt (GAP) để đảm bảo vệ sinh an toàn cho sản phẩm. Tăng cường áp dụng những biện pháp kỹ thuật nuôi trồng hiện đại để lai tạo những con giống cho năng suất và chất lượng cao nhưng giá thành hạ. Các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp sản xuất thực hiện tốt việc thu hoạch và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch thì mới nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tỷ lệ hao hụt, cung cấp hàng hóa ổn định cho thị trường, đứng vững trong cạnh tranh
- Khai thác: Các doanh nghiệp thủy sản, các ngư dân cần quan tâm đầu tư tàu thuyền phục vụ cho khai thác,với công nghệ tiên tiến và hệ thống bảo quản sau thu hoạch hiện đại tránh tình trạng hao hụt về sản lượng, các sản phẩm sau khi đánh bắt không có phương tiện bảo quản tốt đã bị hạ phẩm cấp. Ngoài ra, các ngư dân cần chú trọng đầu tư trang thiết bị để khai thác những loại sản phẩm thủy sản có giá trị xuất khẩu cao. Không sử dụng những phương tiện đánh bắt bị cấm làm ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường.
- Về chế biến: Các doanh nghiệp phải tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, cơ giới hóa và tự động hóa dây chuyền chế biến nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Nâng cấp, mở rộng các nhà máy hiện có và đầu tư xây dựng một số nhà máy mới gần các vùng nguyên liệu được quy hoạch nhằm tạo đều kiện thuận lợi cho hoạt động chế biến. Đầu tư công nghệ chế biến đồng bộ giữa sản xuất nguyên liệu với bảo quản, chế biến và dịch vụ hậu cần theo tiêu chuẩn HACCP. Các doanh nghiệp chế biến phải xây dựng và áp dụng an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP và chấp hành nghiêm ngặt những quy định về VSATTP của thị trường Mỹ nhằm nâng cao chất lượng của sản phẩm, hạn chế tới mức thấp nhất việc trả lại hàng của các doanh nghiệp nhập khẩu hàng thủy sản Việt Nam.
Việt Nam có những lợi thế về tự nhiên và nuôi trồng do vậy các doanh nghiệp chế biến cần tận dụng những lợi thế này đẩy mạnh công tác nghiên cứu phát triển và đổi mới sản phẩm nhằm đáp ứng những yêu cầu của khách hàng để đa dạng hóa sản phẩm thủy sản xuất khẩu, đem lại nhiều lợi nhuận cho đất nước. Các doanh nghiệp cần mở rộng sản xuất đối với những chủng loại và khối lượng các mặt hàng thủy sản chế biến có GTGT, hàng phối chế, hàng ăn liền như tôm bao bột, tôm hấp, các sản phẩm từ thịt cua ghẹ chín, đặc biệt quan tâm sản xuất các mặt hàng mà Việt Nam đang có lợi thế ở thị trường Mỹ như tôm, cá tra, cá basa, cá ngừ.
Các doanh nghiệp cần liên kết, hợp tác với nhau để trao đổi những kinh nghiệm trong sản xuất cũng như các kinh nghiệm về thị trường nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Việc liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến sẽ giúp cho họ có thể cùng nhau thực hiện những đơn hàng lớn, với giá cả ổn định.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản cần được quan tâm. Hiện nay, ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu còn ở mức sơ khai do vậy gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi bị Bộ Thương mại Mỹ điều tra bán phá giá. Khi ứng dụng công nghệ thông tin, doanh nghiệp sẽ quản lý được quá trình sản xuất từ đầu vào, quá trình sản xuất và đầu ra của sản phẩm. Đây là mô hình có thể giúp doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu về truy nguyên nguồn gốc sản phẩm của các thị trường.
3.2.2. Cạnh tranh bằng thương hiệu - một biện pháp mang lại hiệu quả kinh tế cao khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ
Việc xây dựng thương hiệu đối với hàng hóa nói chung và hàng thủy sản nói riêng đã và đang trở thành một trong vấn đề mà các doanh nghiệp cần phải quan tâm. Trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp của Việt Nam do không quan tâm đến việc đăng ký thương hiệu nên một số sản phẩm đã bị đánh cắp thương hiệu và có thể sẽ bị mất thị trường, làm ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp. Hàng thủy sản của ta chủ yếu thâm nhập vào thị trường Mỹ thông qua các Công ty chuyên nhập khẩu, cho nên thương hiệu thủy sản Việt Nam hầu như không hiện diện trên sản phẩm mà thay vào đó là các nhãn hiệu Mỹ. Người tiêu dùng Mỹ chủ yếu biết đến sản phẩm qua các nhà phân phối của Mỹ, chứ chưa biết đến thương hiệu sản phẩm thủy sản Việt Nam. Có những mặt hàng thủy sản của Việt Nam rất có thế mạnh khi xuất sang thị trường Mỹ nhưng vẫn chưa có thương hiệu cho sản phẩm. Một sản phẩm có thương hiệu tốt sẽ thu hút được nhiều khách hàng và có sự gia tăng cao giá trị của sản phẩm. Do vậy, việc xây dựng thương hiệu là một vấn đề cấp bách để tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường Mỹ và phát triển ngành thủy sản Việt Nam. Bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu cần xây dựng thương hiệu của chính mình với những sản phẩm độc đáo riêng biệt so với các đối thủ cạnh tranh khác. Tuy nhiên, để phát triển và giữ vững được thương hiệu, bản thân các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Thị trường thủy sản Mỹ là thị trường có quá nhiều sản phẩm có chất lượng tương đương nhau, do vậy thương hiệu sản phẩm là yếu tố quan trọng để người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm hàng xuất khẩu của Việt Nam. Vấn đề thương hiệu sản phẩm không chỉ được đặt ra trên phạm vi từng chủng loại sản phẩm riêng biệt hay ở các doanh nghiệp đơn lẻ, mà cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thủy sản, giữa ngành thủy sản với các ngành khác và sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc quảng bá thương hiệu sản phẩm hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
3.2.3. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, tìm hiểu về thị trường Mỹ
Mặc dù Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực đã đánh dấu bước bình thường hóa hoàn toàn về cơ bản giữa Việt Nam- Mỹ nhưng trong quá trình thực thi Hiệp định còn những khó khăn thách thức. Mỹ là thị trường rất mở nhưng các doanh nghiệp Việt Nam muốn thâm nhập thành công thị trường Mỹ phải cạnh tranh quyết liệt với chính các nhà doanh nghiệp Mỹ và với các đối thủ cạnh tranh khác. Một trong những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải giải quyết khi kinh doanh tại thị trường Mỹ là trình độ hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về thị trường Mỹ còn rất hạn chế. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam cần chủ động tiếp cận những thông tin về thị trường để có thể chủ động trong kinh doanh. Các thông tin cần nghiên cứu:
Tìm hiểu hệ thống luật thương mại cũng như các quy chế hải quan. Hệ thống này rất phức tạp được phân loại theo các chuyên ngành rất cụ thể như Luật về nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, tiêu chuẩn kỹ thuật, thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, hạn chế nhập khẩu về lý do an ninh… đó là những hàng rào phi thuế quan thường xuyên được áp dụng triệt để để bảo hộ thị trường trong nước của Mỹ.
Các biện pháp thuế quan như các quy định về biểu thuế, thuế suất, trị giá tính thuế... cũng cần phải được tìm hiểu và nghiên cứu kỹ lưỡng. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tìm hiểu chính sách và thị trường Mỹ như chính sách thương mại, quy mô thị trường, các biện pháp quản lý nhập khẩu, các loại hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu để có những định hướng, chính sách thâm nhập thị trường Mỹ một cách đúng đắn. Các doanh nghiệp có thể tìm kiếm thông tin về thị trường Mỹ qua các ấn phẩm, tạp chí chuyên ngành về thủy sản, thương mại hoặc qua các tổ chức như Bộ Thương mại, Bộ Thủy sản, VASEP, các trung tâm xúc tiến thương mại và các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở Mỹ. Các doanh nghiệp cũng có thể tìm kiếm thông tin qua các trang Web giới thiệu về các doanh nghiệp Mỹ, tình hình tiêu thụ thủy sản thị trường Mỹ qua các trang Web của Bộ Thương mại Mỹ, Cơ quan quản lý thủy hải sản Mỹ hoặc các quy định hạn chế hoặc cấm nhập khẩu các loại hàng hóa qua trang Web của Cục Quản lý dược và Thực phẩm Mỹ…
3.2.4 Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm tại thị trường Mỹ
Như đã phân tích trong chương 2, công tác xúc tiến thương mại ở Việt Nam còn lạc hậu, mới ở những bước phát triển ban đầu, các doanh nghiệp chưa chủ động trong việc thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, năng lực tài chính bị hạn chế, hoặc không có kinh nghiệm và thiếu thông tin trong việc thực hiện các hoạt động này. Các doanh nghiệp cần xác định việc thâm nhập thị trường Mỹ là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh; hợp tác với các doanh nghiệp nhập khẩu, phân phối hàng của Mỹ để tiếp cận thị trường, tiếp cận đến các kênh phân phối nhưng đồng thời cũng là một quá trình đấu tranh, đấu tranh với các nhà sản xuất nội địa Mỹ được bảo hộ bởi hệ thống luật pháp và chính sách của chính phủ và với các đối thủ cạnh tranh khác vốn đã có những thế mạnh về kênh phân phối và kinh nghiệm kinh doanh tại thị trường Mỹ. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam cần xác định rõ đặc điểm thị trường của mình cũng như của các đối thủ để có hoạt động xúc tiến thương mại cho phù hợp.
Trong xây dựng hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường Mỹ, các doanh nghiệp nên đặc biệt chú trọng các vấn đề về giá cả, chất lượng, nhãn mác, các hình thức quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, các hình thức phân phối phù hợp với thị trường Mỹ.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc nhiều vào chiến lược tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Xây dựng một chiến lược tiêu thụ sản phẩm dài hạn trên thị trường Mỹ là nhiệm vụ rất cần thiết của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần chủ động tăng cường xúc tiến thương mại và tận dụng tốt nhất những hỗ trợ của Nhà nước, của Hiệp hội để thâm nhập thị trường: Xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, hoàn thiện cơ chế đối phó với những hành động cạnh tranh không lành mạnh. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật thương mại quốc tế để doanh nghiệp của ta sẵn sàng đối phó với các tranh chấp thương mại trên thị trường ngoài nước. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý với các Hiệp hội ngành hàng với các doanh nghiệp trong giải quyết các vụ việc, hạn chế những hậu quả bất lợi, tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp nuôi trồng, khai thác với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản dựa trên việc đảm bảo lợi ích giữa các bên là một trong những điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh, đứng vững và phát triển trên thị trường Mỹ nói riêng, thị trường thế giới nói chung.
Về chiến lược quảng cáo: Có thể sử dụng nhiều hình thức quảng cáo trên đài, tivi, trên báo; quảng cáo trên các tờ rơi, trên catalog hoặc xây dựng trang Web riêng quảng bá hình ảnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các hình thức phải được nghiên cứu kỹ cho phù hợp với tập quán của người tiêu dùng Mỹ.
Về chiến lược thu hút khách hàng: Người tiêu dùng Mỹ thích có sự lựa chọn đa dạng của sản phẩm, do vậy các doanh nghiệp cần có chính sách cập nhật sự thay đổi thị hiếu tiêu dùng để đa dạng hóa nguồn hàng, chủng loại hàng xuất khẩu với kiểu dáng, mẫu mã, tính năng... theo kịp đòi hỏi của thị trường Mỹ với giá cả cạnh tranh, chất lượng tốt nhất. Các doanh nghiệp Mỹ thường coi trọng việc thực hiện đúng thời gian giao hàng. Do vậy, ngoài vấn đề về chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần đặc biệt chú trọng về thời gian giao hàng để không làm ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Phần lớn các hợp đồng hiện nay của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu đi Mỹ được ký thông qua hội chợ, triển lãm. Các doanh nghiệp có thể thông qua các hội chợ chuyên ngành, triển lãm hoặc nghiên cứu các hệ thống siêu thị để tìm hiểu, nắm bắt kinh nghiệm thực tiễn của thị trường Mỹ. Việc tham gia hội chợ cũng là một cơ hội để hàng thủy sản Việt Nam có thể thâm nhập vào hệ thống nhà hàng của Mỹ đây là một hệ thống bán lẻ rất nhiều tiềm năng. Theo bà Elizabeth Rose Daly - đại diện văn phòng thị trưởng thành phố NewYork nói với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia buổi hội thảo về "Kinh doanh với thị trường Mỹ" do Phòng Thương mại Việt Nam phối hợp với Phòng Thương mại Mỹ thực hiện ngày 16/11/2005: Các doanh nghiệp Việt Nam muốn tránh những thất bại khi làm ăn tại thị trường Mỹ thì không còn cách nào khác là các doanh nghiệp Việt Nam phải thuê luật sư Mỹ tư vấn cho hoạt động kinh doanh của mình. Để có được đối tác tốt, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có lý lịch rõ ràng, chứng minh được năng lực tài chính của mình. Các doanh nghiệp nên mở văn phòng đại diện ở Mỹ để thuận lợi cho việc kinh doanh, nếu chi phí đắt thì có thể liên kết nhiều doanh nghiệp trong nước với nhau.
3.2.5 Phát triển hệ thống phân phối hàng thủy sản trên thị trường Mỹ
Các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu sang thị trường Mỹ theo nhiều cách: xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu qua trung gian, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp Mỹ… Hiện nay, hàng thủy sản của Việt Nam chủ yếu được bán cho các nhà nhập khẩu Mỹ, một mắt xích rất quan trọng trong hệ thống phân phối hàng thủy sản của Mỹ. Hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ có khối lượng tương đối lớn, ổn định và được nhiều người ưa chuộng nên các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam chủ động thành lập công ty con tại Mỹ để tham gia hệ thống phân phối tại thị trường này. Các công ty con này sẽ giúp các doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp và cung ứng sản phẩm cho các nhà bán buôn. Việc thành lập các công ty con sẽ ổn định giá xuất khẩu, nhất là trong điều kiện tôm đông lạnh của ta có thể còn phải chịu thuế chống bán phá giá ít nhất trong 5 năm nữa.
Hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu dưới hình thức xuất khẩu qua trung gian do các doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh nghiệm kinh doanh tại thị trường Mỹ, hơn nữa phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên kinh phí còn hạn hẹp nên không có điều kiện thâm nhập trực tiếp vào các kênh bán lẻ tại thị trường Mỹ. Hiện nay, một số mặt hàng của Việt Nam đã được nhiều người tiêu dùng Mỹ biết đến và quy mô kinh doanh của doanh nghiệp đã được mở rộng thì các doanh nghiệp này nên sử dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp. Thực hiện theo hình thức này sẽ giúp doanh nghiệp thâm nhập nhanh nhất, có chỗ đứng vững chắc trên thị trường Mỹ. Còn đối với các doanh nghiệp có quy mô không lớn, kinh nghiệm làm ăn với Mỹ chưa nhiều, các sản phẩm chưa quen thuộc trên thị trường Mỹ thì nên thực hiện theo hình thức liên doanh liên kết với các doanh nghiệp Mỹ để thông qua hệ thống phân phối của các doanh nghiệp này nhằm tiếp cận thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp cần hợp tác chặt chẽ, xây dựng mạng lưới các đối tác Mỹ để phát triển kinh doanh khi thuận lợi và đấu tranh với lực lượng bảo hộ khi cần thiết.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng tối đa lực lượng Việt kiều đang sinh sống tại Mỹ cho mục tiêu tiếp cận các kênh phân phối trên thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể liên doanh với các đối tượng này nhằm phát huy hết những lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Có thể sử dụng lao động, nhà xưởng, nguyên liệu của Việt Nam để sản xuất ra sản phẩm, còn các Việt kiều thì chịu trách nhiệm về thị trường, về đầu ra của sản phẩm. Nếu khai thác tốt mối quan hệ này thì sản phẩm thủy sản của Việt Nam sẽ có được cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường Mỹ.
Sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam phải được bán với những phương pháp phù hợp với hệ thống phân phối của thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp xuất khẩu phải xây dựng cho mình chiến lược sản phẩm. Đó là tổng thể các biện pháp từ nghiên cứu nắm bắt nhu cầu thị trường đến tổ chức sản xuất, chuẩn bị hàng hóa, xuất bán theo yêu cầu của khách hàng và các hoạt động sau bán hàng. Chiến lược sản phẩm được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu dung lượng thị trường, đánh giá khả năng của mình và các đối thủ cạnh tranh chính, để từ đó xác định được cho mình ngách thị trường phù hợp. Các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa phải xác định được thực chất khả năng, vị trí của mình trong các vấn đề: thị phần tại từng thị trường tiêu thụ và đối thủ cạnh tranh; năng lực cạnh tranh hàng hóa của mình và nhu cầu của khách hàng; các yếu tố môi trường kinh doanh, văn hóa, chính trị, xã hội có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hàng hóa của mình, để từ đó sử dụng các chiến lược cạnh tranh khác nhau đối với các phân khúc thị trường hàng thủy sản ở Mỹ.
Hệ thống phân phối trong thị trường Mỹ có vai trò quan trọng trong việc đưa hàng thủy sản nhập khẩu đến tay người tiêu dùng, do vậy việc tiếp cận các kênh phân phối của thị trường này là rất cần thiết. Trong chiến lược sản phẩm của mình, các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức chú ý đến điều kiện này. Trong xây dựng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản vào thị trường Mỹ, cần phải kết hợp với chiến lược xuất khẩu vào các thị trường khác để tạo sức mạnh tổng hợp của hàng thủy sản xuất khẩu Việt Nam. Đồng thời, phải kết hợp tốt giữa đẩy mạnh xuất khẩu với đáp ứng nhu cầu của thị trường nội địa.
KẾT LUẬN
Trong các thị trường xuất khẩu của hàng thủy sản Việt Nam thì thị trường Mỹ luôn được xác định là một trong những thị trường chủ lực và nhiều tiềm năng. Để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ, đòi hỏi hàng thủy sản Việt Nam phải có năng lực cạnh tranh cao. Qua 3 chương của luận văn, tác giả đã thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra. Luận văn đã hệ thống một số vấn đề lý luận về cạnh tranh, sức cạnh tranh của hàng hóa. Luận văn đã tập trung phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ: Điều kiện tự nhiên; cơ sở hạ tầng; điều kiện kinh tế, chính trị, luật pháp, văn hóa, xã hội; giá cả, chất lượng, kiểu cách, thương hiệu hàng hóa và hệ thống phân phối, dịch vụ bán hàng. Qua phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ cho thấy giá cả và chất lượng là hai yếu tố quan trọng hàng đầu để giúp hàng thủy sản Việt Nam có thể xâm nhập thành công và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường Mỹ. Luận văn cũng tập trung phân tích về đặc điểm thị trường thủy sản Mỹ, kinh nghiệm của Thái Lan, Trung Quốc trong nâng cao năng lực cạnh tranh hàng thủy sản xuất khẩu sang thị trường Mỹ như về giá cả, chất lượng, điều kiện sản xuất... Luận văn đã đi sâu phân tích, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của hàng thủy sản Việt Nam; phân tích và so sánh năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam với một số đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường Mỹ.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ, bản thân Nhà nước cần chú trọng đến việc thực hiện các giải pháp như: cải thiện quan hệ Việt - Mỹ, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm hiểu hệ thống luật pháp cũng như các thông tin về thị trường Mỹ, tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư cơ sở hạ tầng, kiểm soát chất lượng VSATTP, đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. Còn đối với các doanh nghiệp cần quan tâm đến các biện pháp để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, cạnh tranh bằng thương hiệu, phát triển hệ thống phân phối và tăng cường hiểu biết thông tin về thị trường Mỹ. Nếu những giải pháp trên được Nhà nước và doanh nghiệp thực hiện đồng bộ sẽ giúp cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sẽ nâng cao được chất lượng sản phẩm, vượt qua được hàng rào kỹ thuật nghiêm ngặt của thị trường Mỹ và đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu trên thị trường Mỹ nói riêng và thị trường thế giới nói chung.
Hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ hiện nay chủ yếu có khả năng cạnh tranh cao về giá, về chất lượng ở một số chủng loại sản phẩm. Tuy nhiên, do còn thiếu hiểu biết về thị trường Mỹ, về hệ thống luật pháp của Mỹ, về chính sách thương mại của Mỹ cho nên các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam mới bị các chủ trang trại nuôi trồng thủy sản của Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá. Nhìn chung, hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đã đáp ứng được các yêu cầu về VSATTP của thị trường Mỹ thể hiện ở KNXK hàng thủy sản ngày càng tăng qua các năm. Tuy nhiên, do các sản phẩm thủy sản của Việt Nam chủ yếu nuôi bằng phương pháp quảng canh, bán thâm canh và quy mô các doanh nghiệp nuôi trồng và chế biến nhỏ nên việc thực hiện các yêu cầu về VSATTP còn bị hạn chế. Thị trường Mỹ rất rộng lớn nhưng hàng thủy sản của Việt Nam rất khó vào vì hàng thủy sản Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các nước có nhiều lợi thế như Thái Lan, Trung Quốc. Ngoài ra, những vấn đề khác như cơ cấu sản phẩm còn nghèo nàn, thiếu thương hiệu nổi tiếng, khả năng tiếp cận các kênh phân phối của Mỹ còn hạn chế, kinh nghiệm đối phó với những vụ kiện từ phía các doanh nghiệp thủy sản Mỹ còn thiếu khiến cho hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa chiếm được thị phần đáng kể tại thị trường này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu luận văn và cơ bản đã đạt được mục tiêu nghiên cứu, tuy nhiên do hạn chế về nguồn thông tin, tư liệu nên số liệu phân tích, so sánh về năng lực cạnh tranh hàng thủy sản xuất khẩu một số nước chưa được sâu, cần được tiếp tục nghiên cứu. Mặt khác, do hạn chế chủ quan về phía tác giả, nên chắc chắn luận văn còn những thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý từ các nhà khoa học, các thày, cô giáo và các bạn để có thể tiếp tục hoàn chỉnh luận văn này cũng như thực hiện tốt hơn các công trình khoa học trong tương lai.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS. Lê Thị Vân Anh (2003), Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2003), Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa nông lâm thủy sản, Hà Nội.
Bộ Thương mại (2000), Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ, Hà Nội.
Bộ Thương mại (2001), Chính sách và giải pháp phát triển thị trường hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010, tầm nhìn đến 2020, Hà Nội.
Bộ Thương mại (2002), Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001 - 2010, Hà Nội.
Bộ Thương mại (2005), Rào cản trong thương mại quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Bộ Thương mại (2005), Tiếp cận thị trường Hoa Kỳ, Hà Nội.
Bộ Thủy sản (1998), Chiến lược xuất khẩu thủy sản Việt Nam thời kỳ 1996 - 2000 và 2010, Hà Nội.
Bộ Thủy sản (2002), "Nghề cá Mỹ và thị trường thủy sản Mỹ", Chuyên đề thủy sản, (4), tr. 1-16.
Bộ Thủy sản (2003), "Dự báo thị trường thủy sản Mỹ năm 2020", Thương mại, (12), tr. 14-16.
Bộ Thủy sản (2005), Chương trình phát triển giống thủy sản đến năm 2010, Hà Nội.
Bộ Thủy sản (2006), Chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, (Dự thảo lần 4), Hà Nội.
Bộ Thủy sản (2005), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 2004, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2005 của ngành thủy sản, Hà Nội.
GS.TS Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bạch Thụ Cường (2002), Bàn về cạnh tranh toàn cầu, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
David Becg, Stanley, Fischer, Rudiger Dornbush (1992), Giáo trình kinh tế học vĩ mô, vi mô, Nxb giáo dục, Hà Nội.
Dự án STARR Việt Nam và Viện quản lý kinh tế Trung ương (2003), Đánh giá tác động kinh tế của Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Lợi thế cạnh tranh của các công ty Hoa kỳ ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Giáo trình kinh tế thủy sản (2005), Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
ThS. Trần Đại Hải (2006), "Những trở ngại cho tăng trưởng xuất khẩu thủy sản, Thương mại, (14), tr. 4-6.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2004), "Sự tăng trưởng của thị trường cá ngừ tươi tại Mỹ", Thương mại thủy sản, (12), tr. 32- 33.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Sản phẩm cá rô phi giá trị gia tăng chiếm lĩnh thị trường", Thương mại thủy sản, (1), tr. 38-39.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Hồi kết của vụ kiện tôm", Thương mại thủy sản, (2), tr. 2-3.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Thủy sản Việt Nam và thị trường Mỹ năm 2004", Thương mại thủy sản, (2), tr. 23-25.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Mỹ: nhập khẩu cá rô phi tăng", Thương mại thủy sản, (7), tr. 15.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Thị trường cá ngừ vây vàng Mỹ", Thương mại thủy sản, (7), tr. 23-24.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005),"Những gì đằng sau lệnh cấm tiêu thụ cá basa", Thương mại thủy sản, (9).
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Sẽ tăng cường kiểm tra 100% số lô hàng xuất khẩu vào Hoa Kỳ và Canada", Thương mại thủy sản, (11), tr. 18.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2005), "Chương trình phát triển thủy sản 1998 - 2005: Những thành tựu, tồn tại và bài học kinh nghiệm", Thương mại thủy sản, (12), tr. 2-6.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2006), "Nhân công giá rẻ - lợi thế cạnh tranh của Trung Quốc trong chế biến thủy sản", Thương mại thủy sản, (2), tr. 38- 40.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (2006), "Tiềm năng tôm của ngành tôm Thái Lan", Thương mại thủy sản, (3), tr. 38- 40.
PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, "Xung quanh quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 và giai đoạn tiếp theo", Thủy sản, (3), tr. 31-33.
Hồ Sĩ Hưng - Nguyễn Việt Hưng (2003), Cẩm nang về xâm nhập thị trường Mỹ, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tạ Quang Ngọc (2000), "Để đưa ngành thủy sản phát triển mạnh mẽ và bền vững trong thập niên tới", Thủy sản, (1). tr. 2.
Thanh Phong (2005), "Thuế chống bán phá giá có thể làm tăng khả năng cạnh tranh của Trung Quốc", Thương mại thủy sản, (11), tr. 12.
TS. Nguyễn Việt Thắng (2005), "Ngành thủy sản và phương hướng phát triển giai đoạn 2006-2010", Thủy sản, (4), tr. 3-5.
Võ Thanh Thu (2001), Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ (2005), Quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và định hướng trong thời gian tới, Hà Nội.
Thu Trang (2005), "Xuất khẩu thủy sản năm 2004 của Trung Quốc tăng mạnh", Thủy sản, (5), tr. 31-32.
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Invest Consult (2002), Tìm hiểu Hoa Kỳ cho mục đích kinh doanh, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Thị Tú (2004), Nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Châu Âu, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Từ điển thuật ngữ kinh tế học (2001), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế (2001), Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam, Hà Nội.
TÀI LIỆU TRÊN INTERNET
http:// vinanet.com.vn (2005), Hàng hóa vào thị trường Mỹ phải có thương hiệu, ngày 19-12.
http:// vinanet.com.vn (2005), Quan hệ thương mại Việt Mỹ ngày càng phát triển, ngày 10-1.
http:// www nhandan.com.vn. (2006), giới thiệu dự luật về quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn cho Việt Nam tại Quốc hội Mỹ, ngày 15-6.
Trang Web của Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ: http:// www.fda.gov/
Trang Web của Cơ quan quản lý thủy hải sản liên bang Mỹ: http:// www.st.nmfs.gov/
Trang Web cung cấp số liệu về xuất nhập khẩu giữa Mỹ và các nước: http:// www.census.gov/ foreign-trade/balance/index.html.
Trang Web cung cấp thông tin về hoạt động thủy sản của Việt Nam: http:// www.ficen.org.vn
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
KIM NGẠCH THƯƠNG MẠI HAI CHIỀU VIỆT NAM - MỸ GIAI ĐOẠN 1994- 2004
Đơn vị tính: triệu USD
Năm
KNXK của Việt Nam sang Mỹ
KNXK của Mỹ sang Việt Nam
1994
50,5
172,9
1995
199,0
252,3
1996
331,8
616,6
1997
388,4
286,7
1998
554,1
273,9
1999
608,4
291,5
2000
821,3
367,5
2001
1.053,0
460,4
2002
2.394,8
580,0
2003
4.554,9
1.324,4
2004
5.275,8
1.163,4
2005
Nguồn: Báo cáo các năm của Bộ Thương mại (1998 - 2005).
Phụ lục 2
XUẤT NHẬP KHẨU THỦY SẢN CỦA MỸ NĂM 1994- 2005
Đơn vị tính: triệu USD
Năm
Kim ngạch xuất khẩu
Kim ngạch nhập khẩu
Thâm hụt
1994
3.127
6.644
3.517
1995
3.481
7.043
3.562
1996
3.147
7.080
3.933
1997
2.850
8.138
5.288
1998
2.400
8.578
6.178
1999
2.848
9.073
6.225
2000
3.004
10.086
7.082
2001
3.289
9.880
6.591
2002
3.208
10.209
7.001
2003
3.287
11.112
7.388
2004
3.724
11.379
7.655
2005
4.077
12.158
8.081
Nguồn: Cơ quan quản lý thủy hải Mỹ (2000 - 2005).
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVTS0090.doc