Năng lực cạnh tranh của gạo Việt Nam

Lời mở đầu 1. Tính tất yếu của đề tài. Việt Nam là một nước nông nghiệp, với 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lực lượng lao động xã hội đang làm việc trong nông nghiệp. Nông nghiệp giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nói chung, trong nông thôn nói riêng. Sản phẩm nông nghiệp đóng góp 24% GDP và 50% tổng giá trị xuất khẩu của nền kinh tế. Trong nông nghiệp, lúa gạo là ngành lớn nhất và then chốt nhất. Sản xuất lúa gạo chiếm 64,4% diện tích đất canh tác và 76,5% lực lượng lao động n

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2063 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Năng lực cạnh tranh của gạo Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông thôn. Trong quá trình phát triển, tuy tỉ trọng lúa gạo trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp cũng như trong GDP có xu hướng giảm, nhưng lúa gạo vẫn là một trong những ngành sản xuất chủ yếu của kinh tế Việt Nam, và thị trường lúa gạo vẫn có vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống thị trường quốc gia. Với việc xóa bỏ chính sách “ngăn sông cấm chợ ” và thực hiện “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới ” hệ thống thị trường của Việt Nam nói chung, thị trường lúa gạo nói riêng đã được mở ra khá mạnh mẽ và nhanh chóng. Ở trong nước, mọi miền, mọi tầng lớp dân cư đều có thể tiếp cận một cách dễ dàng với lúa gạo, ở ngoài nước lúa gạo của Việt Nam đã đến với nhiều châu lục và nhiều quốc gia-Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới. Việc chú trọng nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo sẽ tạo điều kiện để giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa những người sản xuất, chế biến, kinh doanh, lương thực với lợi ích của nhà nước; điều đó làm cho việc khuyếch trương và nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo trở thành một trong các điểm mút quan trọng của tiến trình phát triển kinh tế, ngoài tác dụng kích thích sản xuất lương thực trong nước phát triển mạnh mẽ, nó còn kéo theo sự phát triển đồng bộ trên nhiều lĩnh vực, nhiều ngành kinh tế khác có liên quan, tức là trực tiếp góp phần tạo ra nền tảng vững chắc cho công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đề tài của chúng tôi giúp đem đến cho các bạn những cái nhìn cận cảnh về tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo của nước ta để từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam, thúc đẩy xuất khẩu gạo Việt Nam, và sau cùng là góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài Mục đích chính của việc nghiên cứu đề tài “Năng lực cạnh tranh của gạo Việt Nam” là đề xuất ý kiến góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý ngành lương thực để thúc đẩy tăng quy mô và trình độ sản xuất, chế biến lúa gạo vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia , vừa tăng quy mô và hiệu quả xuất khẩu gạo, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới trong tương lai. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ngành trồng lúa, chế biến và sản xuất gạo Việt Nam; công tác thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gạo. Phạm vi nghiên cứu là tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa gạo trong nước và quốc tế. Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu đề tài chúng em đã kết hợp và sử dụng nhiều phương pháp: phương pháp quan sát, thống kê, phỏng vấn chuyên gia, cân đối, dự báo bằng công cụ kinh tế lượng, phân tích và tổng hợp, diễn dịch và qui nạp. Bố cục của đề tài Gồm có 3 phần: Chương 1: nêu lên những thuận lợi và khó khăn tác động đến sản xuất lúa gạo. Chương 2: Thực trạng về tình hình sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo Việt Nam. Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của gạo Việt Nam Chương 1: Những điều kiện thuận lợi và khó khăn đối với sản xuất lúa gạo ở Việt Nam 1.1. Thuận lợi 1. 1.1. Tài nguyên thiên nhiên 1.1.1.1. Vị trí địa lý Lãnh thổ nước ta kéo dài suốt sườn đông và sườn nam của bán đảo Đông Dương, chiếm phần lớn diện tích của bán đảo này và nằm ở vị trí gần trung tâm của khu vực Đông Nam Á. Giúp cho nước ta có thể liên hệ kinh tế, văn hóa với nhiều nước châu Á một cách thuận lợi, có thể xây dựng những trục giao thông có ý nghĩa quốc tế. 1.1.1.2. Việt Nam là nước nhiệt đới gió mùa Nước ta nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu và nằm vào khu vực gió mùa Đông Nam Á. Đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa là nhiều nắng, lắm mưa, độ ẩm trung bình cao, là điều kiện rất thuận lợi cho sự sinh trưởng của các loài thực vật, là điều kiện tốt để xen canh, gối vụ, tăng nhanh vòng quay ruộng đất, thâm canh tăng năng suất. Miền khí hậu Nam rất thích hợp cho việc trồng lúa gạo. Lượng nhiệt trung bình cao lại được sự kết hợp với độ ẩm trung bình lớn là một thuận lợi đáng kể cho sự phát triển các loại cây nhiệt đới, trong đó có lúa nước. Lượng mưa trung bình hàng năm hầu khắp các vùng trong nước từ 1500-2000mm, khiến cho độ ẩm cao (85%), mưa nhiệt đới không chỉ cung cấp nước cho đất mà còn tác dụng điều hòa khí hậu và cung cấp cho đất một lượng đạm vô cơ đáng kể. 1.1.1.3. Đất đai Đất là tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp, là tài sản quý của mỗi quốc gia, toàn bộ quỹ đất đai của nước ta có trên 33 triệu ha (đứng thứ 58 trên thế giới). Do nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nên các quá trình trao đổi vật chất xảy ra mạnh mẽ, mưa nhiều, nhiệt độ không khí cao nên đất đai của nước ta rất đa dạng và phức tạp về loại hình, được chia thành 13 nhóm gồm 64 loại với những đặc điểm phát sinh và nông học khác nhau, do đó hướng sử dụng cũng khác nhau. 1.1.2. Tài nguyên nhân văn Việt Nam là một nước đông dân, hiện đứng thứ 12 trong số 220 quốc gia và tổ chức lãnh thổ kinh tế-xã hội trên thế giới. Tỷ lệ gia tăng tự nhiên của dân số qua các thời kỳ ở nước ta rất cao, khiến cho tốc độ tăng nguồn lao động cũng rất cao. Dẫn đến nguồn lao động dồi dào phục vụ cho ngành nông nghiệp. 1.2. Khó khăn 1.2.1. Lợi tức nông dân và hạ tầng cơ sở nông thôn Hiện nay phần lớn đầu tư nước ngoài chỉ nhằm vào dịch vụ, du lịch, khách sạn, công nghiệp nhẹ và dầu khí. Còn đầu tư vào nông nghiệp chỉ chiếm 11%. Với 1 hecta lúa, một gia đình nông dân 6 người thu lợi tức được 570 USD ở ĐB sông Cửu Long, khoảng 95 USD/người cho mỗi vụ lúa. Ở ĐB sông hồng, mỗi người thu hoạch lợi tức độ 169 USD/1ha/1 vụ. 1.2.2. Thiên nhiên - Bão lụt và hạn hán: nằm trong vùng ảnh hưởng của gió mùa, miền Bắc và miền Trung hàng năm thường trải qua bình quân 10 trận bão lớn nhỏ gây thiệt hại vật chất và con người đáng kể. Các trận hạn hán cũng thường xảy ra ở giữa mùa hay gần cuối vụ mùa ở những nơi thiếu hệ thống thuỷ lợi tốt. Theo dự báo, Việt Nam sẽ thiếu nước trong 30 năm tới, đặc biệt vào mùa nắng. Trong khi đó ở đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam thường bị lũ lụt do lượng nước sông Cửu Long dâng lên trong hai thập niên vừa qua. Năm 2000 mực nước sông Cửu Long lên cao quá mức bình thường, gây lụt lớn. Vì nhiều nơi trong nước chưa có đủ hệ thống tưới tiêu tốt nên hạn hán hay lũ lụt giữa mùa hay cuối vụ lúa thường xảy ra. Phèn mặn ở những vùng đất khó khăn như vùng ven biển bị nước mặn lấn át. - Sâu bệnh: Vấn đề chuyển đổi hệ thống trồng trọt hiện nay đã làm thay đổi sự xuất hiện của một số sâu bệnh mà ngày trước còn ít xuất hiện. Các loại sâu bệnh quan trọng: bệnh đạo ôn, bạc lá, đốm vằn, đặc biệt là đốm nâu (còn gọi là “bệnh nhà nghèo”). Sự xuất hiện thường xuyên của bệnh đốm nâu cho biết sự sử dụng phân vào lúa còn rất yếu kém. Sâu đục thân, sâu cuốn lá, bọ rầy, bù lạch thường xuất hiện. Nỗ lực trong công tác cải tiến di tryền bằng phương pháp tạo giống thông thường và công nghệ sinh học, và biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp cần đặc biệt ưu tiên hàng đầu để khắc phục các vấn đề khó khăn vật lý và sinh học còn tồn tại. 1.2.3. Cung cấp vật tư và tín dụng nông nghiệp Khả năng sản xuất phân hoá học của nước ta còn chưa đủ, đặc biệt là phân ure còn phải nhập khẩu hàng năm. Về bảo vệ mùa màng: bình quân dùng thuốc sát trùng tại Việt Nam còn kém so với các nước khác nhưng cũng có một số vùng sử dụng thuốc quá độ. Bảng 1:Sử dụng thuốc sát khuẩn, diệt cỏ và sát trùng 1994-1997 Năm Sử dụng chất hoá học nông nghiệp Thuốc sát khuẩn Thuốc diệt cỏ Thuốc sát trùng 1994 3,139 2,574 15,226 1995 3,465 4,979 16,452 1996 8,188 7,205 17,352 1997 7,684 6,710 17,851 - Hạt giống: hệ thống sản xuất hạt giống còn yếu kém, chưa cung cấp thoả mãn nhu cầu quá lớn của nông dân. - Tín dụng: đa số nông dân còn quá nghèo, không đủ khả năng kinh tế để mua đầy đủ vật tư nhằm áp dụng đúng kỹ thuật. 1.2.4. Ruộng đất phân mảnh Ruộng đất thường bị phân chia thành từng mảnh nhỏ do đất hẹp và người đông nên gây khó khăn cho vấn đề hiện đại hoá và cải thiện hiệu năng ngành canh tác lúa, nhất là làm kém đi hiệu suất của lao động và vốn đầu tư trong nước. 1.2.5. Ảnh hưởng môi trường - Phân hoá học: được sử dụng ngày càng nhiều, nhưng ảnh hưởng đến môi sinh chưa được báo cáo trong canh tác lúa ở ruộng nước. - Chất khí nhà kính: Trong nông nghiệp, hai loại khí thoát nhà kính quan trọng là mathane và nitrous oxide. Mathane gây ảnh hưởng nhà kính gấp 20 lần CO2. Nitrous oxide làm ảnh hưởng tới gia tăng sức nóng toàn cầu, nó mạnh gấp trăm lần CO2. Ngoài ra, nông nghiệp cung cấp số lượng ammonia, làm nguy hại đến môi trường. 1.2.6. Chất lượng nguồn lao động Đa số lực lượng trong nông nghiệp là xuất phát từ một nền nông nghiệp lúa nước lạc hậu, có trình độ thấp, tay nghề và khả năng tiếp thu trình độ khoa học công nghệ không cao nên ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Chương 2: Thực trạng về sản xuất lúa gạo và năng lực cạnh tranh của gạo Việt Nam Tình hình sản xuất lúa gạo 2.1.1.Sản xuất lúa gạo trên thế giới 2.1.1.1. Nhu cầu lúa gạo thế giới Để sống và làm việc, con người tất yếu phải được cung cấp lương thực từ khẩu phần ăn đa dạng hàng ngày, trong đó lương thực giữ vị trí hết sức quan trọng. Theo phân loại của Tổ chức Nông lâm Thế giới (FAO) thì có 5 loại lương thực chủ yếu: Lúa gạo (rice), lúa mỳ (wheat), ngô (maize), kê (sorghum), lúa mạch (barly). Lúa gạo và lúa mỳ là hai loại quan trọng và cơ bản nhất, được con người sử dụng nhiều nhất. Lúa mỳ được sử dụng chủ yếu ở Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc và một phần Châu Phi. Còn lúa gạo dùng phổ biến ở các nước Châu Á, một phần Châu Phi và Châu Mỹ. Các nước có truyền thông lâu đời trong việc sản xuất và sử dụng lúa gạo là Trung Quốc, Ấn Độ, Myanma, Việt Nam, Cămpuchia, Thái Lan, Philippin, Băng la đét... Tuy lúa gạo chủ yếu được tiêu thụ ở một châu là Châu Á, song nhu cầu của khu vực này rất lớn và càng có xu hướng tăng lên. Bởi vì: Châu Á là khu vực có dân số đông nhất thế giới, có tốc độ tăng dân số lớn nhất. Theo thống kê năm 2007, dân số thế giới là 6.625.000.000 người, trong đó Châu Á chiếm 4.009.000.000 người (60,5%). Với dân số đông như vậy, đương nhiên để nuôi sống được họ, Châu Á cần một lượng lương thực (chủ yếu là lúa gạo) rất lớn. Cứ tính bình quân mỗi người một tháng tiêu thụ 10kg gạo, một năm cần 120kg, thì với dân số là 4.009.000.000 người cần một lượng lương thực là hơn 480 triệu tấn. Chúng ta đều biết, sản xuất lương thực trước hết phải dựa vào đất đai mà đất đai có giới hạn nhất định. Vì vậy việc tạo ra nhiều lương thực để thỏa mãn cho nhu cầu ngày càng tăng của con người không phải đơn giản. Cùng với nhu cầu tăng lên nhanh chóng của khu vực châu Á, trong những năm gần đây người dân của các châu lục khác cũng bắt đầu ưa thích tiêu dùng lúa gạo, nhất là người dân Châu Mỹ, Châu Phi. Cho nên nhu cầu lúa gạo của thế giới ngày càng lớn. Bảng 2:Tình hình tiêu thụ lúa gạo của các châu lục Châu lục 1995 2000 2007 Toàn cầu 376,0 403,3 420,6 Châu Á 342,9 366,7 Châu Mỹ 18,3 19,7 Châu Phi 11,1 12,3 Châu Âu 3,1 3,8 Châu Đại Dương 0,6 0,8 Bên cạnh việc dùng cho nhu cầu ăn của con người, gạo còn được nhiều nước trên thế giới dùng vào việc phát triển chăn nuôi. Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội và nhất là khoa học công nghệ thì đời sống vật chất con người không ngừng được cải thiện, nâng cao. Mức tiêu dùng lương thực của bản thân từng con người sẽ được giảm xuống và tiêu thụ thịt, trứng, sữa sẽ ngày một tăng lên. Để có nhiều thịt, trứng, sữa cung cấp cho con người thì con đường duy nhất hiện nay là tập trung phát triển mạnh chăn nuôi. Gia súc, gia cầm,... ngoài thức ăn thô, chúng rất cần có thức ăn tinh, trong đó có gạo. Chính vì vậy lượng gạo dùng cho chăn nuôi cũng ngày một tăng lên. Theo tính toán thì lượng gạo dùng cho chăn nuôi hàng năm chiếm khoảng từ 3-4% tổng lượng gạo thế giới. Ngoài ra, hàng năm các nước trên thế giới còn tiêu dùng một lượng gạo khá lớn để dùng cho công nghiệp chế biến như chế biến các loại rượu, cồn cao cấp, chế biến một số loại dược liệu, đặc biệt là chế biến các loại bánh, mứt, kẹo. Chiếm khoảng 1-2 % tổng lượng gạo toàn thế giới. Tóm lại, có thể khẳng định nhu cầu của con người đối với gạo rất lớn, và có xu hướng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. 2.1.1.2. Sản xuất lúa gạo trên thế giới: Bảng 3:Tình hình sản xuất lúa gạo của các khu vực trên thế giới Khu vực 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Toàn thế giới 553,3 563,7 574,2 585,4 607,3 595,1 Châu Á 505,5 512,8 524,0 530,8 543,7 539,3 Châu Mỹ 14,5 15,7 16,0 15,1 16,8 16,9 Châu Phi 28,7 26,8 25,9 30,1 30,1 30,0 Châu Âu 2,3 7,1 7,0 7,3 6,9 6,2 Châu Đại Dương 1,2 1,4 1,3 1,4 1,1 1,2 Sản xuất lúa gạo của toàn thế giới và các châu lục hầu như đều tăng qua cá2c năm. Trong đó, châu Á góp một phần lớn vào lúa gạo thế giới chiếm khoảng 90%. Vụ lúa gạo 2007 được xem như đạt giai đoạn đỉnh điểm vì một số nước sản xuất chính đang trong mùa thu hoạch vụ chính. Dự kiến, sản lượng lúa toàn cầu đạt khoảng 643 triệu tấn (tương đương với 429 triệu tấn gạo), cao hơn so với năm 2006 nhờ áp dụng nhiều giống cải tiến và nhận được sự hỗ trợ của chính phủ với năng suất ổn định ở mức 4,1 tấn/ha. Sản lượng lúa của châu Á dự kiến đạt 584 triệu tấn, chỉ cao hơn 3 triệu tấn so với năm 2006. Nguyên nhân chính là do thời tiết thay đổi với tác động của hạn hán, lũ lụt và ảnh hưởng của sâu bệnh. Sản lượng lúa tăng ở các nước như Bănglađét, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Myanmar trong khi đó lại có chiều hướng giảm ở Nhật Bản, Philipin, Sri Lanka, Thổ Nhĩ Kỳ. Trong vụ lúa gạo năm 2007, phần lớn các vùng của châu Phi thời tiết đều ẩm ướt song còn quá sớm để đưa ra những đánh giá về thiệt hại cũng như lợi ích do thời tiết đem lại đối với lúa mùa. Dự kiến, sản lượng lúa của châu Phi năm 2007 đạt 22,2 triệu tấn, tương đương với vụ trước. Sản lượng chủ yếu tăng ở Madagascar, Môdămbíc, Nigeria, Senegal và Tanzania nhưng lại giảm ở Ai Cập, Bờ biển Ngà và Mali. Mặc dù mùa mưa bão năm nay đến sớm song sản lượng lúa ở Trung Mỹ và Caribe dự kiến giữ ở mức 2,5 triệu tấn của 2006. Tại Nam Mỹ, vụ lúa mùa đã kết thúc với sản lượng đạt 21,6 triệu tấn, thấp hơn năm 2006 4% do giá thấp và thời tiết có mưa muộn trong thời kỳ cây lúa sinh trưởng. Tại các nơi khác như Ôxtraylia và Liên minh châu Âu, sản lượng lúa ước giảm thấp vì ảnh hưởng của hạn hán. Ngược lại, sản xuất lúa gạo của Mỹ tăng mạnh. Theo dự kiến mới nhất, sản lượng lúa của Mỹ năm 2007 ước đạt 8,956 triệu tấn tăng 1,9% so với năm trước, năng suất đạt cao 8,1 tấn/ha. Sản lượng Diện tích Triệu tấn Triệu ha Biểu đồ 1:Diện tích và sản lượng lúa thế giới Diện tích lúa thế giới từ năm 1999 đền 2002 giảm nhanh, từ năm 2002-2007 tăng đều. Diện tích lúa thế giới năm 2007 khoảng 156 triệu ha. Cùng với sự giảm xuồng của diện tích trồng lúa thì sản lượng lúa năm 1999 – 2002 cũng giảm dần, nhưng sau năm 2002 sản lượng lúa lại tăng lên. Bảng 4: Sản lượng thóc thế giới Đơn vị: triệu tấn 2005 2006 (ước) 2007 (dự kiến) THẾ GIỚI 635.2 641.2 644.5 Các nước đang phát triển 609.3 616.4 620.2 Các nước phát triển 25.9 24.7 24.3 CHÂU Á 574.5 581 586.2 Băngladesh 39.8 40.3 39 Cămpuchia 6 6.3 6 Trung Quốc 182.1 184.1 185.5 trong đó Đài Loan 1.5 1.6 1.5 Ấn Độ 137.7 139.1 140 Indonesia 54.2 54.5 57 Iran 2.7 3.3 3.5 Nhật Bản 11.3 10.7 11 Hàn Quốc 6.4 6.3 5.9 Myanmar 27.7 30.6 31.5 Pakistan 8.3 8.2 8.2 Philipin 15.1 15.5 15.9 Sri Lanka 3.2 3.3 3.1 Thái Lan 30.3 29.6 29.9 Việt Nam 35.8 35.8 35.9 CHÂU PHI 20.4 21.9 21.6 Bắc Phi 6.2 6.8 6.6 Ai Cập 6.1 6.8 6.5 Cận Sahara 14.2 15.1 15.1 Tây Phi 8.8 9.3 9.1 Bờ Biển Ngà 1.2 1.1 1 Guinea 1.3 1.3 1.4 Mali 0.9 1 1 Nigeria 3.6 4 3.9 Trung Phi 0.4 0.4 0.4 Đông Phi 1.3 1.6 1.7 Tanzania 1 1.2 1.2 Nam Phi 3.7 3.8 3.9 Madagascar 3.4 3.5 3.6 Modămbíc 0.2 0.2 0.2 TRUNG MỸ 2.3 2.5 2.3 Cuba 0.4 0.4 0.4 CH Dominica 0.6 0.7 0.7 Mehico 0.3 0.3 0.3 NAM MỸ 24.1 22.4 21.8 Argentina 1 1.2 1.1 Braxin 13.4 11.7 11.3 Colombia 2.5 2.3 2.4 Peru 2.5 2.4 2.4 Urugoay 1.2 1.3 1.1 BẮC MỸ 10.1 8.8 9 Mỹ 10.1 8.8 9 CHÂU ÂU 3.4 3.4 3.5 EU* 2.7 2.6 2.6 CHÂU ĐẠI DƯƠNG 0.3 1.1 0.2 Ôxtrâylia 0.3 1 0.2 * EU-25 năm 2005-2006 và EU-27 cho năm 2007 Nguồn: FAO Các nước đang phát triển đóng góp khoảng 96% sản lượng thóc của thế giới. Châu Á là châu lục có sản lượng thóc nhiều nhất chiếm khoảng 91% sản lượng của thế giới. 2.1.2. Tình hình sản xuất ở trong nước 2.1.2.1. Diện tích gieo trồng Nhờ đầu tư khai khoang, tăng vụ mà diện tích gieo trồng lúa của nước ta đã tăng liên tục và khá đều đặn suốt hơn 20 năm qua. Năm 1990, tổng diện tích gieo trồng lúa của Việt Nam là 6.042.800 ha, đến năm 2000 là 7.666.300 ha. Diện tích lúa cả năm 2005 đạt 7.331,2 nghìn ha, năm 2006 đạt 7.324,8 nghìn ha. Năm 2007, diện tích gieo cấy lúa cả nước đạt 7.183,8 nghìn ha, bằng 98,1% và giảm 141 nghìn ha so năm 2006, trong đó lúa đông xuân bằng 99,8% giảm 6,9 nghìn ha so với năm 2006. Trong đó lúa đông xuân đạt 2.988,5 nghìn ha bằng 99,8% (giảm 7 nghìn ha), lúa hè thu 2.204,8 nghìn ha bằng 94,9% (giảm 112,6 nghìn ha), lúa mùa 1.987,4 nghìn ha bằng 98,8% (giảm 24,5 nghìn ha). Diện tích gieo cấy lúa giảm ở cả 3 vụ trong năm và chủ yếu giảm lúa hè thu; nguyên nhân chính do chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở các vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, giảm mạnh diện tích lúa thu đông ở đồng bằng sông Cửu Long theo chỉ đạo của ngành để né tránh rầy nâu và do ảnh hưởng của yếu tố thời tiết như hạn hán, mưa bão. Biểu đồ 2: Diện tích lúa Nhìn vào đồ thị trên, ta thấy trong những năm 1990 – 2000 nhờ những nỗ lực khai khoang, tăng vụ mà diện tích tăng lên đều, tăng 1.623.500 ha, bình quân mỗi năm tăng 162.350 ha. Nhưng sau năm 2000 trở đi do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa mà diện tích đất trồng lúa giảm dần chỉ còn 7183.8 nghìn ha năm 2007. 2.1.2.2. Về năng suất Nhờ có những đổi mới hết sức quan trọng trong việc đầu tư cho thông tin, cho giống cây trồng và cho phân bón, nhờ người nông dân tích cực, hăng say trong sản xuất nên năng suất bình quân 1 ha/ vụ liên tục tăng và Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia có năng suất lúa cao của khu vực và thế giới. Bảng 5: Năng suất lúa của một số nước trên thế giới Năng suất (Tạ/ha) 1995 2000 2001 2002 Toàn thế giới 36.6 39.2 39.5 39.2 Châu Á 37.3 39.8 40.1 40 Asean 32.8 35.5 36.1 38.1 Brunây 16.4 16.7 15.2 15.0 Campuchia 17.9 21.2 20.7 19.0 Inđônêxia 43.5 44.0 43.9 44.3 Lào 25.3 30.6 31.3 34.9 Malaixia 31.6 30.6 31.4 30.9 Mianma 39.8 33.8 35.3 35.3 Philipin 28.0 30.7 31.9 32.8 Thái Lan 24.2 26.2 27.0 26.0 Việt Nam 36.9 42.4 42.9 45.5 Tuy những số liệu đã hơi cũ nhưng nhìn vào bảng trên ta vẫn thấy được Việt Nam có năng suất lúa cao, cao hơn năng suất lúa của khu vực và trên thế giới. Có được năng suất lúa cao như vậy có lẽ là vì Việt Nam có rất nhiều điều kiện về đất đai và khí hậu: đất đai màu mỡ, khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều rất thích hợp với cây lúa nước. Năm 2005, năng suất lúa cả nước đạt 48,91 tạ/ha, năm 2006 đạt 48,94 tạ/ha, tăng 0,05%. Năm 2007, năng suất lúa cả năm ước đạt 49,8 tạ/ha tăng 0,9 tạ/ha so với năm trước; trong đó, năng suất lúa đông xuân cả nước đạt 57 tạ/ha giảm 1,8 tạ/ha (các địa phương miền Bắc giảm 5,4 tạ/ha) do thời tiết không thuận ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của lúa, sâu bệnh phát sinh trên diện rộng ở các vùng đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ; chậm thay đổi giống mới, giống kháng bệnh thay thế giống thoái hóa, dễ bị nhiễm bệnh; năng suất lúa hè thu ước đạt 46 tạ/ha, tăng 4,1 tạ/ha, nhờ yếu tố thuận lợi về thời tiết so với vụ lúa hè thu năm 2006. Nhiều tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long năng suất lúa hè thu tăng cao, như: Long An tăng 10,2 tạ/ha, Kiên Giang tăng 9,4 tạ/ha, Trà Vinh tăng 6,1 tạ/ha, Bến Tre tăng 6,1 tạ/ha, Hậu Giang tăng 3,8 tạ/ha,...; năng suất lúa mùa ước đạt 43,5 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha. Biểu đồ 3: Năng suất lúa Do áp dụng khoa học công nghệ và sinh học nên sản lượng lúa đều tăng qua các năm. 2.1.2.3. Sản lượng lúa Diện tích gieo trồng tăng nhanh, năng suất lúa tăng nhanh đã góp phần làm cho sản lượng lúa của Việt Nam đạt được tăng nhanh chóng. Năm 2005 sản lượng lúa cả nước đạt 35,86 triệu tấn, năm 2006 đạt 35,8 triệu tấn. Sản lượng lúa cả năm 2007 ước đạt 35,87 triệu tấn, tăng 68,4 nghìn tấn và bằng 100,2% so cùng kỳ năm trước; trong đó sản lượng lúa đông xuân đạt 17,02 triệu tấn bằng 96,8% (-564,2 nghìn tấn), sản lượng lúa hè thu đạt 10,14 triệu tấn tăng 4,6% (+441,2 nghìn tấn) và sản lượng lúa mùa đạt 8,73 triệu tấn tăng 1,9% (+191,4 nghìn tấn). Tuy nhiên, do ảnh hưởng của bão lụt nên sản lượng lúa mùa của một số vùng giảm nhiều, như: các tỉnh miền Trung giảm 26 nghìn tấn (-6%), Tây nguyên giảm 15,4 nghìn tấn (- 4,1%) so vụ mùa năm 2006. Sản lượng lúa năm 2008 khoảng 38,6 triệu tấn. Biểu đồ 4: Sản lượng lúa Sản lượng lúa tăng đều qua các năm. Năm 2008 sản lượng tăng nhiều, tăng khoảng 2,7 triệu tấn so với năm 2007. Đặc biệt sản lượng lúa của đồng bằng sông Cửu Long đạt khoảng 20 triệu tấn, tăng hơn 1,6 triệu tấn so với năm trước. Các tỉnh có diện tích trồng lúa nhiều nhất đồng bằng sông Cửu Long như An Giang đạt gần 3,5 triệu tấn, tăng 340 ngàn tấn so với năm 2007; Đồng Tháp đạt 2,7 triệu tấn, cao nhất từ trước đến nay... Theo các chuyên gia nông nghiệp sở dĩ năm 2008 sản lượng lúa ở các tỉnh có diện tích trồng lúa nhiều đồng bằng sông Cửu Long tăng cao là do trúng mùa và do vụ đông - xuân trước đó, lúa được giá đã kích thích bà con nông dân tăng diện tích trồng lúa ở vụ tiếp theo. 2.2. Chính sách của nhà nước 2.2.1. Chính sách thương mại + Trong nước: - Hạn chế việc chuyển lúa gạo giữa các vùng của khu vực tư nhân và các công ty lương thực Nhà nước đã làm giảm đáng kể luồng gạo giao dịch từ miền Nam ra miền Bắc. Việc điều tiết này trước kia nhằm hạn chế tình trạng buôn lậu lúa gạo vẫn còn ảnh hưởng lớn đến thương mại giữa các vùng cũng như giữa hai quốc gia. Do đó hàng rào thương mại lúa gạo trong nước vẫn hoạt động như một loại thuế tiềm ẩn tác động lên quá trình vận chuyển lúa gạo. B ảng 6 : Ảnh hưởng của hạn chế thương mại trong nước Vùng Thay đổi trong giá lúa gạo Thay đổi trong sản xuất lúa gạo Thay đổi trong tiêu dùng lúa gạo I -10,5 -6,1 8,3 II -8,0 -5,0 6,3 III -4,8 -2,8 3,5 IV 5,2 2,6 -4,4 V 2,3 0,9 -1,9 VI 6,8 3,1 -7,0 VII 6,9 3,8 -6,1 Nguồn: “Rice Market, Agricultural Growth and Policy in Viet Nam”-Goletti.F and Minot.N (1997) Chú thích : Vùng I: Vùng núi và trung du Bắc Bộ. Vùng II: Đồng băng sông Hồng. Vùng III: Bắc Trung Bộ. Vùng IV: Duyên hải Nam Trung Bộ. Vùng V: Tây Nguyên. Vùng VI: Đông Nam Bộ. Vùng VII: Đồng bằng sông Cửu Long. + Quốc tế: Giá lúa gạo trong nước thấp, hạn ngạch sẽ làm tăng thu nhập thực tế của những người tiêu dùng có thu nhập thấp ở thành thị và những người phi nông nghiệp ở nông thôn. Dẫn đến việc tăng tiêu dùng gạo. Mặt khác, hạn ngạch xuất khẩu gạo cũng có ảnh hưởng tiêu cực lên thu nhập của người sản xuất lúa gạo và những người nghèo ở nông thôn, đặc biệt là ở đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Nếu không quyết định hạn ngạch sẽ làm tăng giá lúa gạo trong nước, làm tăng lượng gạo xuất khẩu và làm tổn hại đến an toàn lường thực quốc gia. Việc hạn chế thương mại lúa gạo ở Việt Nam là nguyên nhân gây ra những tổn thất cho toàn bộ nền kinh tế. Những hạn chế này được coi như một loại thuế tiềm ẩn trong thương mại lúa gạo. Bảng 7 : Ảnh hưởng của việc xóa bỏ hạn ngạch lên các vùng Vùng Thay đổi trong giá Thay đổi trong sản xuất lúa gạo Thay đổi trong tiêu dùng lúa gạo I 12,4 6,7 -6,6 II 13,4 7,5 -7,3 III 15,9 8,5 -8,6 IV 17,5 7,8 -12,8 V 26,6 11,0 -18,9 VI 29,6 13,9 -24,8 VII 30,2 14,7 -22,4 Nguồn: “Rice Market, Agricultural Growth and Policy in Viet Nam”-Goletti.F and Minot.N (1997) Bảng 8 : Phân chia ảnh hưởng của việc xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu % thay đổi trong của cải Bình quân cả nước 4,9 Khu vực thành thị 1,3 Nhóm nghèo -0,4 Nhóm không nghèo 1,6 Khu vực nông thôn 5,7 Nhóm nghèo 5,5 Nhóm không nghèo 6,1 Hộ nông nghiệp 6,5 Hộ phi nông nghiệp -1,7 Nguồn: “Rice Market, Agricultural Growth and Policy in Viet Nam”-Goletti.F and Minot.N (1997) Tuy nhiên, trong những năm gần đây, để khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ đã thực hiện thuế suất 0% đối với nông sản xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và không thu thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt với hầu hết nông sản hàng hóa, Chính phủ đã ban hành nghị định 05 ngày 24/05/2001 nêu rõ : khuyến khích thương nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa mà pháp luật không cấm, không phụ thuộc vào ngành nghề đã đăng ký kinh doanh. Khuyến khích các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài (kể cả đại diện thương mại) thực hiện môi giới xuất khẩu và được thưởng hoa hồng thông qua sử dụng quỹ hỗ trợ xuất khẩu theo quy định số 195/1999/QĐ-TTg ngày 27/09/1999 của Thủ tướng Chính phủ. Ngày 29/06/2001, Bộ Tài chính ban hành quyết định 65/2001/QĐ-BTC về việc thưởng theo kim ngạch xuất khẩu cho các mặt hàng gạo, cà phê... và đối tượng được thưởng theo kim ngạch xuất khẩu trong năm 2001 bao gồm doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước, luật Doanh nghiệp, luật Hợp tác xã và luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có xuất khẩu các mặt hàng nông sản trên (kể cả trường hợp Doanh nghiệp nhận xuất khẩu ủy thác). 2.2.2. Tỷ giá hối đoái: Thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, công cụ tỷ gá hối đoái vẫn được Ngân hàng Nhà nước điều hành chủ động, linh hoạt, thích ứng với diễn biến vĩ mô của nền kinh tế trong nước cũng như tình hình tài chính, thương mại của khu vực và quốc tế. Việc tiếp tục gia tăng tỷ giá hối đoái đã ảnh hưởng bất lợi đến sức cạnh tranh hàng hóa nói chung của Việt Nam cũng như lúa gạo xuất khẩu nói riêng. Việc tăng tỷ giá hối đoái cũng là hoạt động như đánh thuế người xuất khẩu gạo. 2.2.3. Chính sách thuế và trợ cấp Luật thuế mới về sử dụng đất nông nghiệp được Quốc hội thông qua vào tháng 7/1993 và bắt đầu có hiệu lực từ tháng 1/1994. Nghị định số 73 và 74 của Chính phủ đã đưa ra hướng dẫn để thực hiện. Luật thuế thương mại đã thay thế những quy định về thuế nông nghiệp cũ. Hàng loạt những điều chỉnh về đất đai đã được phân loại nhằm mục đích đánh thuế và tỉ lệ thuế sử dụng đất quy thóc được thu bằng tiền. Làm giảm đáng kể các khoản phải nộp của người nông dân, làm tăng thu nhập của họ. Việc quy định tỷ lệ thuế dựa trên phân loại đất đai đã giảm 25-30% so với mức thuế trước đây. Trong thời gian qua, Nhà nước đã áp dụng hàng loạt các chính sách ưu đãi về thuế của các hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, chủ yêu là thuế sử dụng đất nông nghiệp. Cụ thể: - Cho phép xóa nợ đọng thuế sử dụng đất nông nghiệp từ năm 1999 về trước đối với các hộ khó khăn không có khả năng nộp thuế. - Giảm, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp khi gặp rủi ro về thị trường và giá cả nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và tiêu thụ sản phẩm, miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho vùng lũ lụt, hộ nghèo, xã đặc biệt khó khăn. Chỉ tính riêng năm 2001, Chính phủ cho phép miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp như: miễn thuế cho các hộ nghèo, hộ ở các xã thuộc chương trình 135 và giảm 50% thuế sử dụng đất nông nghiệp cho diện tích trồng lúa và cà phê, và số thuế miễn giảm trong năm 2001 lên trên 700 tỉ đồng. Ngày 28/12/2001, Thủ tướng Chính phủ cho phép miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ nghèo, hộ có diện tích đất sản xuất nông nghiệp tại xã thuộc chương trình 135, các hộ sản xuất không thuộc diện tích miễn thuế sẽ được giảm 50% thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với phần diện tích sản xuất nông nghiệp trong hạn mức. Thuế xuất khẩu gạo được thực hiện với thuế suất 0%, nhằm đẩy mạnh khâu lưu thông nông sản hàng hóa. Đã có nhiều chính sách tài chính ưu đãi được ban hành như miễn giảm thuế VAT trên khâu lưu thông nông sản hàng hóa, thực hiện thuế suất 0% đối với nông sản xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và không thu thuế xuất khẩu đối với hầu hết nông sản xuất khẩu. 2.2.4. Can thiệp trực tiếp Tại Việt Nam, Chính phủ can thiệp vào thị trường lúa gạo thông qua giá sàn. Quỹ bình ổn lương thực Việt Nam được thành lập từ năm 1993 đã đạt được doanh thu từ việc đánh thuế những hàng hóa chịu sự kiểm soát của Chính phủ thông qua các doanh nghiệp Nhà nước như sản phẩm xăng, dầu, xi măng, kim loại… Năm 1997, để khắc phục tính không hiệu quả của thị trường lúa gạo, Thủ tướng chính phủ đã ban hành 2 sắc lệnh nhằm điều chỉnh thương mại lúa gạo. Bao gồm: - Xóa bỏ tất cả những hạn chế thương mại lúa gạo trong nước và tự do vận chuyển lúa gạo giữa các vùng. - Thay đổi phương thức phân bố hạn ngạch xuất khẩu gạo. Toàn bộ hạn ngạch vẫn do Bộ Thương mại kết hợp với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quy định nhưng việc phổ biến sẽ mở rộng ra đối với từng doanh nghiệp và phổ biến đến từng địa phương. Các công ty địa phương và hai công ty lớn của Nhà nước (VINAFOOT I và VINAFOOT II) có quyền xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, việc thực hiện không thống nhất và không hoàn chỉnh đã làm nảy sinh ra ba hạn chế sau: - Số lượng người mua đã ủy thác mua cho xuất khẩu chỉ tăng từ 16 lên 20 doanh nghiệp và phần lớn trong số đó vẫn là các doanh nghiệp Nhà nước và địa phương. - Tính ưu tiên của công ty lương thực Nhà nước (VINAFOOT I) vẫn tồn tại trong một số thị trường đặc thù, làm mất đi cơ hội thị trường lúa gạo chất lượng cao do kinh nghiệm kém trong thương lượng và giao dịch. - Người thương nhân nhỏ vẫn phải chịu những chi phí vận chuyển lớn trong khi những công ty lương thực Nhà nước vẫn hoàn toàn được miễn giảm. Do vậy người dân vẫn phải chịu những chi phí vận chuyển lớn trong hệ thống marketing và xuất khẩu trong khi các công ty lương thực Nhà nước gần như có sức mạnh độc quyền đối với việc kinh doanh và xuất khẩu lúa gạo và người nông dân ít có cơ hội tham gia vào thị trương lúa gạo trong nước và quốc tế, hơn nữa những biến động bất lực luôn đè nặng lên họ. Để giảm thiệt hại cho người nông dân, Chính phủ đã áp dụng quy định giá sàn đối với hoạt động thu mua thóc, đồng thời năm 2000 v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22582.doc
Tài liệu liên quan