MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam có nhiều bước chuyển biến mạnh mẽ, nền kinh tế hội nhập quốc tế nên môi trường kinh doanh sẽ phức tạp hơn, mức độ cạnh tranh cũng khắc nghiệt hơn bởi có sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước nữa mà phải cạnh tranh với các đối thủ nặng ký từ nước ngoài mạnh về tài chính và phương thức quản lý hiện đại…Không đứng ngoài xu thế đó các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đ
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong khi đó thời điểm mở cửa thị trường đang đến gần. Thua kém các doanh nghiệp nước ngoài về mọi mặt, từ cơ sở vật chất, đến cung cách phục vụ, hoạt động quản lý…các doanh nghiệp bán lẻ trong nước đang từng bước tìm chỗ đứng cho mình trên thị trường để có thể tồn tại được. Các doanh nghiệp không ngừng mở rộng hệ thống kênh phân phối của mình để tiếp cận thị trường đầy tiềm năng khi tốc độ tiêu dùng của người dân tăng cao qua các năm. Không để thua trên sân nhà các doanh nghiệp bán lẻ trong nước cần nỗ lực xây dựng hệ thống các kênh thương mại hiện đại phát triển một cách bền vững, luôn luôn coi trọng yếu tố con người là hàng đầu. Xây dựng tính chuyên nghiệp trong toàn bộ hệ thống: chuyên nghiệp trong bán hàng, chuyên nghiệp trong phục vụ, chuyên nghiệp trong quản lý…từng bước cải thiện vị trí kinh doanh của mình trên thị trường nhằm từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh. Không chỉ vậy việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng trong doanh nghiệp là nhu cầu bức thiết hiện nay, đời sống được nâng cao nên nhu cầu tiêu dùng cũng tăng theo, hàng hóa không chỉ đáp ứng nhu cầu mà còn phải đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì vậy lấy chất lượng làm đầu sẽ giúp cho doanh nghiệp đứng vững trong điều kiện cạnh tranh hiện nay. Nếu doanh nghiệp đứng ngoài xu hướng đó, doanh nghiệp sẽ không tồn tại được cho nên các doanh nghiệp bán lẻ trong nước không ngừng cải thiện, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để có thể tồn tại nếu không sẽ bị đào thải khỏi thị trường.
Không nằm ngoài mục tiêu trên bài viết “Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam” đánh giá năng lực cạnh tranh hiện nay của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam so với các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay và đưa ra giải pháp, phương hướng phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước. Được sự hướng dẫn của thầy là PGS.TS Nguyễn Ngọc Huyền bài viết của em đã hoàn thành. Bài viết còn nhiều hạn chế rất mong thầy góp ý giúp em để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn thầy!
PHẦN 1. BÁN LẺ VÀ CẠNH TRANH BÁN LẺ
1. Hệ thống bán lẻ
1.1. Thương mại bán lẻ
Thương mại bán lẻ là hình thức phân phối sản phẩm háng hóa từ nhà sản xuất tới khách hàng thông qua khâu trung gian.
Hay nói cách khác thương mại bán lẻ là cung cấp dịch vụ bán hàng cho khách hàng nhằm tạo tiện ích cho khách hàng.
Các hình thức của thương mại bán lẻ:
- Phân phối từ nhà sản xuất → thương mại hiện đại ( siêu thị, trung tâm thương mại, đại lý...) → người tiêu dùng
- Nhà sản xuất → chợ truyền thống → người tiêu dùng
1.2. Qúa trình hình thành của thương mại bán lẻ
Do sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhu cầu trao đổi hàng hóa của con người tăng lên do vậy con người cần một thị trường để có thể trao đổi hàng hóa, thông thương buôn bán với nhau và dần dần các chợ hàng hóa được hình thành, ban đầu chỉ do tự phát họp thành nơi tập trung gọi là các “ chợ cóc” sau đó hình thành các ban quản lý các “chợ” này.
Kinh tế phát triển, đời sống được nâng cao, nhu cầu của con người tăng lên, không chỉ đòi hỏi có hàng hóa mà còn yêu cầu về chất lượng hàng hóa dịch vụ, sự đa dạng về chùng loại dẫn đến sự ra đời của thương mại bán lẻ hiện đại, các siêu thị, đại siêu thị, các trung tâm thương mại…
Theo kết quả điều tra của TNS cho thấy, tính đến tháng 6/2008, thương mại hiện đại ở Việt Nam đã chiếm 18%. Các cửa hàng trên phố chiếm 61%, hình thức chợ chiếm 13%, các hình thức còn lại chiếm 7%. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, người ta cho rằng đến 2009 thương mại hiện đại sẽ tăng trưởng nhanh và chiếm gấp đôi so với hình thức chợ.
Do cuộc sống bận rộn, đời sống được nâng cao, người dân có dần có thói quen đi mua sắm cuối tuần dùng cho nhu cầu cả tuần của gia đình để tiết kiệm thời gian bằng cách mua sắm ở siêu thị mà không đi chợ. Khi mức thu nhập được nâng lên, cuộc sống hiện đại bận rộn hơn, thay vì mua tại các chợ truyền thống, họ thích mua hàng tại các siêu thị và trung tâm thương mại – nơi có hàng hóa phong phú, phong cách phục vụ chuyên nghiệp. Do vậy hình thức chợ và bán hàng truyền thống có thể gặp khó khăn trong thời gian tới. Các cửa hàng tạp hóa truyền thống có thể cũng tồn tại nhưng sẽ không phải là sự lựa chọn của người tiêu dùng khi mua sắm, Người Việt Nam đang dần chuyển đổi thói quen mua sắm tại các chợ sang các hình thức thương mại hiện đại như siêu thị và cửa hàng tự chọn.
Trong thời gian tới, thị trường Việt Nam sẽ có những thay đổi rất lớn trong thói quen mua sắm của người tiêu dùng, chuyển từ mua sắm truyền thống (tại các cửa hàng tạp hóa, nhỏ lẻ, chợ) sang mua sắm-giải trí. Người tiêu dùng sẽ dần đến các siêu thị, cửa hàng tiện ích để xem hàng và so sánh, chọn lựa khi các mặt hàng của nước ngoài tràn vào ngày càng phong phú và cạnh tranh. Trong vòng 4 năm từ 2003 đến 2007 tăng từ 41,7% lên 50,8%. Trong số đó có 30% đi mua sắm ở siêu thị, 12% dùng hình thức siêu thị bán sỉ, 8% ở trung tâm thương mại, 2% ở siêu thị nhỏ. Chính sự phát triển của thương mại hiện đại đã làm cho người tiêu dùng thay đổi thói quen mua sắm, khi đó sẽ có nhiều hình thức mua sắm hơn để lựa chọn. Người tiêu dùng không chỉ mua các đặc tính vốn có của sản phẩm mà họ có thể trả cho sự phục vụ, cho tiện ích mà họ nhận được. Các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hoạt động bán hàng của mình, cùng với phát triển về quy mô mà cả về số lượng và chất lượng. Như vậy tính cạnh tranh sẽ cao hơn, thương mại hiện đại ngày càng phát triển, doanh nghiệp không chỉ làm sao thu hút được khách hàng đến nhiều mà còn làm sao thỏa mãn được nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất, đem đến sự tiện ích cho khách hàng.
Không chỉ tăng trưởng mạnh về quy mô, trong vòng 4 năm qua giá trị của thương mại hiện đại cũng tăng gấp đôi, chi tiêu của thương mại hiện đại thường xuyên gia tăng 17%/ năm và chỉ tiêu/ lần là 87 nghìn đồng/ lần. Như vậy thương mại hiện đại đang phát triển mạnh mẽ đang từng bước nâng cao nhu cầu sống cho người dân, có thể nhận thấy thương mại hiện đại đã làm cho cuộc sống của người dân dễ dàng hơn: 83% thích chất lượng sản phẩm; 83% thích sự đa dạng; 82% đổi mới và khuyến mại; 76% thoải mái và sạch/an toàn. Tuy nhiên nhiều người tiêu dùng không thích thương mại điện tử bởi vì họ cho rằng giá đắt hơn và họ không biết rằng neus mua hàng với khối lượng lớn giá cả sẽ rẻ hơn 8% so với hình thức mua hàng truyền thống. Chính vì vậy để thương mại hiện đại phát triển hơn nữa, đi thực sự vào đời sống của người dân, khi đó sẽ không còn các hình thức bán hàng truyền thống nữa mà thay vào đó là hệ thống thương mại hiện đại. Đó sẽ là xu thế tất yếu của xã hội hiện nay
Một bất lợi khác nữa được 47% khách hàng phản ánh là khó mang về; 40% ít nhận được tư vấn từ khách hàng; 34% xa nhà. Bên cạnh đó, hình thức thương mại truyền thống ở Việt Nam dù sao vẫn có một lợi thế là đã hoạt động rất nhiều năm nên người tiêu dùng quen sử dụng, và vì gần nhà họ.
2. Cạnh tranh và cạnh tranh trong thương mại bán lẻ
2.1. Cạnh tranh
Cạnh tranh nói chung là sự phấn đấu , vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu quả cao nhất
Trong kinh tế cạnh tranh là đấu tranh để giành lấy thị trường tiêu thụ sản phẩm ( hàng hóa và dịch vụ ) bằng các phương pháp và các biện pháp khác nhau như kỹ thuật, kinh tế, chính trị, quân sự, tâm lí xã hội…
2.2. Cạnh tranh trong thương mại bán lẻ
Đối với các doanh nghiệp để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh đầy khó khăn và khắc nghiệt của môi trường toàn cầu hóa thì vấn đề cạnh tranh lẫn nhau lại càng quan trọng. Các doanh nghiệp không chỉ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài đặc biệt là với các doanh nghiệp của các tập đoàn lớn mạnh trên thế giới, họ không chỉ mạnh về tài chính mà còn chuyên nghiệp trong mọi lĩnh vực:
Cơ sở hạ tầng
Chất lượng hàng hóa
Phương thức phân phối
Chất lượng dịch vụ
Hệ thống kho tàng
Xúc tiến thương mại
Công tác hậu cần
Vấn đề nguồn nhân lực
Quản lý chuyên nghiệp
Thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp
Vì vậy cạnh tranh trong bán lẻ cũng giống như cạnh tranh trong các doanh nghiệp khác để có thể tồn tại được trong xu thế toàn cầu như hiện nay thì cạnh tranh là yếu tố không thể tránh khỏi, doanh nghiệp phải xây dựng được hình ảnh, vị trí của mình trên thị trường. Để có thể cạnh tranh tốt doanh nghiệp không ngừng tạo ra lợi thế cạnh tranh cho mình ở mọi quá trình, mọi khâu.
3. Năng lực cạnh tranh của thương mại bán lẻ
3.1. Năng lực cạnh tranh
3.1.1. Năng lực cạnh tranh
Có rất nhiều khái niệm về năng lực cạnh tranh được đưa ra:
Theo OECD ( Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ) đưa ra định nghĩa: Năng lực cạnh tranh là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp, các ngành, các địa phương, các quốc gia và khu vực phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh chóng trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên cùng thị trường. Hay nói cách khác năng lực sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó, năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng của nó, tốc độ cung ứng, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu quảng cáo, điều kiện mua bán…
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững trong thời gian dài…
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
3.1.2. Tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác. Vần đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Những điểm mạnh và điểm yếu bên trong một doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp như marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị, hệ thống thông tin…Tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, cần phải xác định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm:
giá cả sản phẩm và dịch vụ: đây là yếu tố đầu tiên tao lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, doanh nghiệp tiết kiệm chi phí trong thu mua hàng hóa sẽ giảm thiểu được chi phí cho hàng hóa khi đó sẽ có giá cả dịch vụ thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh;
chất lượng sản phẩm và bao gói: vấn đề chất lượng sản phẩm hiện nay tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp nào có chất lượng tốt, tạo nên hình ảnh của doanh nghiệp trong tâm trí khách hàng, là lợi thế cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển bền vững trong điều kiện môi trường kinh doanh biến động;
kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng: đây là biện pháp mà doanh nghiệp tiếp cận khách hàng,hệ thống kênh phân phối thuận tiện, nhanh chóng đem đến lợi ích cho khách hàng một cách nhanh nhất, thuận tiện cho khách hàng, kênh phân phối hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp nhanh chóng chiếm được thị phần, đưa hình ảnh của doanh nghiệp gần vời người tiêu dùng hơn;
thông tin và xúc tiến thương mại: trong xu thế phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, doanh nghiệp nào có thông tin nhanh sẽ nắm bắt được cơ hội trước, khả năng xúc tiến nhanh tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình;
năng lực nghiên cứu và phát triển: chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp, doanh nghiệp nào đầu tư tốt cho nghiên cứu và phát triển doanh nghiệp đó sẽ phát triển bền vững trong tương lai;
thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp: tạo dựng được thương hiệu và uy tín trong tâm trí khách hàng thì doanh nghiệp đó có chỗ đứng vững chắc trên thị trường, để làm được điều đó doanh nghiệp phải thực hiện cả quá trình tạo dựng;
trình độ lao động: trình độ lao động phản ánh sự phát triển của doanh nghiệp, nếu một doanh nghiệp có lao động thấp kém thì doanh nghiệp đó không thể tồn tại được, với các doanh nghiệp bán lẻ thì nhân viên bán hàng có vị trí sống còn của doanh nghiệp, cách phục vụ của người bán hàng cho khách sẽ đưa hình ảnh của doanh nghiệp tới khách hàng, kéo khách hàng với doanh nghiệp lại gần nhau hơn, một doanh nghiệp có đội ngữ lao động mạnh sẽ là một doanh nghiệp mạnh bới yếu tố con người là quan trọng trong mọi doanh nghiệp;
thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị phần: thể hiện khả năng chiếm lĩnh thị phần của doanh nghiệp đến đâu, thị phận càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp lớn mạnh có năng lực cạnh tranh lớn hơn so với các đối thủ cạnh tranh;
vị thế tài chính: đây là yếu tố chính để doanh nghiệp phát triển mở rộng quy mô hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp cả hiện tại và tương lai;
năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp: đây là yếu tố quyết định sự lớn mạnh của doanh nghiệp.
3.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của thương mại bán lẻ Việt Nam
Theo cam kết WTO, đến ngày 1/1/2009 sẽ mở của hoàn toàn thị trường bán lẻ khi đó Việt Nam sẽ cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực phân phối và bán lẻ được hoạt động trên thị trường VN. Cạnh tranh trên thị trường phân phối bán lẻ VN tăng cao khi xuất hiện nhiều tập đoàn quốc tế. Nhận định hoạt động phân phối và bán lẻ tại thị trường VN sẽ phát triển mạnh sau năm 2009. Các doanh nghiệp nước ngoài vào sẽ là thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Trong khi đó đây là thị trường rất tiềm năng trong năm 2008, hiện nay Việt Nam đứng thứ 1 trong bảng xếp hạng có môi trường hấp dẫn, hàng năm dịch vụ phân phối bán lẻ chiếm 15% GDP. Điều đó cho thấy thị trường này như một cái bánh ngọt chưa được khai thác hết và dường như cái bánh này sẽ được chia nhỏ trong thời gian tới khi có sự xuất hiện của các tập đoàn lớn trên thế giới vào Việt Nam đặc biệt là tập đoàn bán lẻ khổng lồ Wal-mart. Do vậy để tồn tại được các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong mọi lĩnh vực để không chỉ chiếm lĩnh được chiếc bánh ngọt đó mà còn có thể làm cho cái bánh đó to thêm. Khi đó doanh nghiệp Việt Nam mới có thể đứng vững và phát triển được trong môi trường cạnh tranh toàn cầu như hiện nay.
Trong khi đó, các doanh nghiệp nội địa còn rất nhiều yếu kém.Vấn đề về vốn cho mở rộng hoạt động kinh doanh còn rất nhiều hạn chế, vấn đề chất lượng dịch vụ chưa được quan tâm một cách xác đáng, chưa thấy được vị trí quan trọng của việc xây dựng hệ thống dịch vụ khách hàng một cách chuyên nghiệp làm lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đội ngũ bán hàng chưa chuyên nghiệp, chưa được đào tạo bài bản và doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa thấy được tầm quan trọng của đội ngũ bán hàng để có những chính sách đào tạo cần thiết. Một trong những yếu tố thành công của nhà bán lẻ khổng lồ Wal-mart chính là xây dựng được một hệ thống hậu cần chuyên nghiệp, trong khi đó các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam thì chưa trang bị được các hệ thống cung ứng hàng hiện đại, chưa có mối liên hệ giữa nhà bán lẻ với nhà cung cấp nên hay xảy ra các tình trạng thiếu hàng trong các dịp lễ Tết…Đó là những yếu kém của các doanh nghiệp bán lẻ nội địa cần khắc phục để nâng cao năng lực cạnh tranh cho mình để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trước thời điểm 1/1/2009 sắp tới gần.
PHẦN 2. THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA THƯƠNG MẠI BÁN LẺ VIỆT NAM
1. Thực trạng môi trường kinh doanh
Mặc dù toàn cầu hóa làm các nền kinh tế trên thế giới xích lại gần nhau, nhưng ở mỗi nền kinh tế vẫn tồn tại sự khác nhau. Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, đời sống dân cư được từng bước nâng cao, khoảng cách giàu nghèo ngày càng được rút ngắn. Do vậy môi trường kinh doanh của ngành bán lẻ tăng trưởng rất nhanh qua các năm gần đây đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì mức độ tăng này lại càng lớn.
Thứ nhất, thị trường bán lẻ Việt Nam là thị trường tiềm năng, có sức hấp dẫn lớn. Tốc độ tăng trưởng của thị trường bán lẻ trung bình các năm đều đạt 20% riêng năm 2007 tăng 25-27%. Trong năm 2008 tốc độ tăng trưởng thị trường lên đến 30,9% tuy nhiên lạm phát lại rất cao nên tốc độ tăng thực của thị trường chỉ vào khoảng 10% đó cũng là con số tích cực của thị trường bán lẻ trong điều kiện hiện nay. Bên cạnh đó theo kết quả đánh giá mức độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ trong 30 nền kinh tế mới nổi đối với các tập đoàn bán lẻ do hãng tư vấn Mỹ A.T.Kearney tiến hành khảo sát, mức độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam đã tăng 5 bậc so với năm 2005, 2006 Việt Nam đứng vị trí số 3 đứng sau Ấn Độ, Nga, trên bảng xếp hạng và đến năm 2007 Việt Nam đã tụt một bậc đứng vị trí thứ 4 sau Ấn Độ, Nga, Trung Quốc. Năm 2008 này lần đầu tiên Việt Nam vươn lên ngôi vị thị trường hấp dẫn nhất thế giới vượt qua Ấn Độ. Đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc phát triển hoạt động kinh doanh và chiếm lĩnh thị trường nhưng cũng là thách thức không nhỏ khi thị trường mở cửa áp lực cạnh tranh lớn từ các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới tham gia vào thị trường.
Thứ hai, một trong các yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của thị trường bán lẻ đó chính là nhu cầu tiêu dùng tăng nhanh chóng và tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các năm đạt trên 8% cụ thể như sau:
Tốc độ tăng GDP năm 2005 : 8,43%
2006 : 8,17%
2007 : 8,5%
Và 2008 : 6,23% do sự ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nhưng điều đó cũng không làm cho nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm đi thậm chí còn tăng thể hiện qua: năm 2006 số người tiêu dùng đã tăng 20% so với năm 2005, và đến năm 2007 tỉ lệ tăng trưởng này chỉ là 11,2% nhưng mức tiêu dùng của người dân tăng khoảng 23%, một con số đầy hấp dẫn đối với các doanh nghiệp bán lẻ. Nhu cầu tiêu dùng tăng lên nhanh chóng 80% các hộ gia đình ở thành thị đã mua sắm ở các trung tâm thuộc kênh thương mại hiện đại trong vòng 12 tháng qua. Thống kê của Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam cho thấy, tỷ lệ mua sắm tại các siêu thị, trung tâm thương mại của người Việt Nam đã tăng từ 9% năm 2005, lên 14% năm 2007 và dự kiến sẽ tăng lên 24% vào năm 2010. Riêng tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ tương ứng là 15%; 24% và 37%.Với mức tiêu dùng như hiện nay thì đây là một môi trường rất tiềm năng cho các doanh nghiệp phát triển.
Thứ ba, là một nước dân số trẻ, người tiêu dùng thuộc hàng trẻ nhất Châu Á với hơn 79 triệu người ở tuổi dưới 65, dân cư có độ tuổi dưới 30 chiếm trên 50% dân số cả nước tiêu thụ tăng 75% trong giai đoạn 2000-2007.
Thứ tư, chưa bao giờ thị trường bán lẻ lại sôi động như hiện nay.Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam không chỉ đối mặt với các đồi thủ trong nước mà còn phải cạnh tranh rất lớn đối với doanh nghiệp nước ngoài. Sắp tới 1/1/2009 sẽ có một cuộc thay đổi lớn đối với thị trường bán lẻ Việt Nam. Theo đó, các tập đoàn, nhà đầu tư quốc tế sẽ có thể thành lập công ty bán lẻ 100% vốn nước ngoài thay vì phải xin phép hoặc liên doanh như trước. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp trong nước phải đối mặt trực tiếp với các tập đoàn đa quốc gia mạnh về tài chính, nguồn lực, cung cách quản lý hiện đại và tiềm lực vượt trội về thị trường.
Hàng loạt các siêu thị mọc lên, rất nhiều “ đại gia” bán lẻ trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam như Big C, Metro Cash & Carry (Đức), Bourbon (Pháp), Diary Farm, Parkson thuộc tập đoàn Lion (Malaysia), Zen Plaza (Nhật Bản), Diamond Plaza ( Hàn Quốc)… và theo như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện đã có thêm nhiều tập đoàn đa quốc gia khác có kế hoạch xâm lược thị trường Việt Nam như Carefour (Pháp), Tesco (Anh), Lotte Shopping, South Asia Investment (Singapore) và đặc biệt là sự xuất hiện của tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới Wal-Mart ( Mỹ ) sẽ làm cho mức độ cạnh tranh trong ngành tăng lên thậm chí là khốc liệt ở đó chỉ có doanh nghiệp nào mạnh thì tồn tại còn doanh nghiệp yếu không trụ vững được sẽ phải rút lui.
Thứ năm, Việt Nam có nền chính trị ổn định tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng bền vững. Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp, các thể chế chính sách đang cải thiện theo hướng thân thiện với các nhà đầu tư nước ngoài.
Chính những đặc điểm trên của môi trường kinh doanh đã tạo cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam những cơ hội và thách thức sau:
Cơ hội:
- Thị trường bán lẻ hấp dẫn sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tăng trưởng doanh thu, mở rộng quy mô hoạt động
- Tạo điều kiện cho doanh nghiệp cải thiện vị trí của mình trên thị trường
- Giúp doanh ngiệp trong nước chủ động hơn trước xu thế cạnh tranh hiện nay
Thách thức:
- Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam phải san sẻ thị phần với các doanh nghiệp nước ngoài
- Mức độ cạnh tranh khốc liệt, không chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước mà còn phải cạnh tranh với các tập đoàn lớn nước ngoài có thế mạnh về vốn, nguồn lực, và quản lý…
Tóm lại, để tồn tại trong môi trường kinh doanh này các doanh nghiệp Việt Nam cần phải biết nắm bắt tận dụng các cơ hội để có thể phát triển bên cạnh đó cần có các chiến lược hoạt động thích hợp, đổi mới phương thức quản lý để thích ứng mới có thể tồn tại được.
2. Kinh doanh của thương mại bán lẻ Việt Nam
2.1. Quá trình phát triển của thương mại bán lẻ
Đời sống được nâng cao kéo theo nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng lên dẫn đến thương mại bán lẻ nhanh chóng phát triển. Ban đầu chỉ là các “ chợ cóc ” nhỏ lẻ họp một cách tự phát không có sự quản lý do nhu cầu mua bán hàng hóa phát sinh. Sau đó phát triển thành các quầy bán lẻ, siêu thị, đại siêu thị và trung tâm thương mại như hiện nay và hiện nay thương mại bán lẻ trở thành một lĩnh vực kinh doanh đầy tiềm năng và không ngừng lớn mạnh.
Mô hình siêu thị xuất hiện tại Việt Nam những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, nhưng chỉ dừng ở mức độ tương đối sơ khai của một mô hình bán hàng hiện đại. Tức là mới chỉ có các siêu thị hoặc chuỗi siêu thị, cửa hàng tiện ích mà chưa có đại siêu thị, tổng kho phân phối.
Theo thống kê của Hiệp hội Bán lẻ Việt Nam, năm 1995 cả nước mới có 10 siêu thị và và 2 trung tâm thương mại thì đến 2007 cả nước có trên 140 siêu thị và đại siêu thị, 20 trung tâm thương mại đang hoạt động và gần 1 triệu m2 mặt bằng kinh doanh bán lẻ đang được đầu tư phát triển.
Cho đến năm 2005, theo thống kê của Bộ Công thương, cả nước mới có khoảng 200 siêu thị, 30 trung tâm thương mại và gần 1.000 cửa hàng tiện ích họat động tại 30/64 tỉnh thành. Đến tháng 4.2008 này, con số đã tăng gấp đôi, và dự kiến đến 2010 sẽ có khoảng 700 - 750 siêu thị, 150 trung tâm thương mại qui mô lớn và hàng chục ngàn cửa hàng tiện ích.
Tháng 7/2006 vừa qua, Saigon Coop đã đồng loạt khai trương 12 cửa hàng Coopmart. Ngày 5/8, Cty G7Mart đã tạo một cuộc đổi mới thị trường bán lẻ bằng việc ra đời 500 cửa hàng do G7 trực tiếp quản lý, 9.500 cửa hàng G7 thành viên và 70 trung tâm phân phối. Tại thị trường HN, lớn nhất vào thời điểm này là Fivimart mở ra được 5 siêu thị, Intimex có 2, còn lại là các siêu thị nhỏ lẻ. Theo hội siêu thị Hà Nội đến cuối năm 2007 trên địa bàn thành phố có khoảng 100 siêu thị ( gồm các siêu thị, trung tâm thương mại, của hàng tiện ích) nhiều gấp 4 lần so với năm 2000 chiếm 38% tổng số siêu thị cả nước. Từ cuối năm 2007 đến nay, hàng loạt các siêu thị mới của Saigon Co.op, Maximax, Citimart được đưa vào hoạt động. Chỉ trong mấy tháng đầu năm 2008, Liên hiệp hợp tác xã Thương mại Sài Gòn (Saigon Co.op) đã khai trương 2 siêu thị tại quận Bình Tân (TP.HCM) và TP. Vũng Tàu. Nếu tính cả năm 2007, Saigon Co.op đã đưa vào hoạt động 9 siêu thị mới với tổng vốn đầu tư trên 500 tỷ đồng. Trong năm nay, dự kiến Saigon Co.op sẽ khai trương tiếp các Co.op mart tại Biên Hoà (Đồng Nai), Tam Kỳ (Quảng Nam), thị xã Vị Thanh (Hậu Giang)…
Tính đến tháng 5.2008, không kể các hệ thống do nước ngoài đầu tư như Metro, Big C; tại Việt Nam hiện có hơn 10 hệ thống siêu thị do các doanh nghiệp trong nước làm chủ, đang “ăn nên làm ra” với tốc độ tăng trưởng 30-45%/năm, có mạng lưới từ 5 đến 30 điểm kinh doanh như Co-opmart, Citimart, Bài Thơ Mart, Hapro, Vinatexmart, Fivimart…Các hệ thống này đang gia tăng tốc độ “phủ sóng” ở các địa phương. Mạng lưới rộng và có doanh thu lớn nhất Việt Nam hiện nay là hệ thống Co-opmart với 30 siêu thị và gần 100 cửa hàng tự chọn. Ông Nguyễn Ngọc Hoà, tổng giám đốc Sài Gòn Co-op cho biết: đến năm 2010 Co-opmart sẽ mở rộng hệ thống thành 50 siêu thị và đến 2015 là 100 siêu thị trên toàn quốc.
Kế đến là Vinatexmart có 45 siêu thị đang kinh doanh. Bà Nguyễn Thị Hồng Hương, tổng giám đốc Vinatexmart khẳng định: từ nay đến năm 2010 sẽ lập 80 siêu thị. Hệ thống Hapro đã có 11 siêu thị, 16 cửa hàng tiện ích và sẽ nâng lên thành 5 đại siêu thị, trung tâm thương mại, 70 siêu thị, 800 cửa hàng tiện ích trong thời gian từ nay đến 2010. Tập đoàn bán lẻ Phú Thái cũng sẽ phát triển lên 100 siêu thị, 5.000 đại lý bán buôn, 50.000 cửa hàng bán lẻ trên toàn quốc...
Không chỉ các doanh nghiệp Việt Nam ráo riết mở rộng hoạt động kinh doanh để tiếp cận thị trường dễ dàng hơn, các doanh nghiệp nước ngoài cũng không chịu ngồi yên. Cuối tháng 9, Tập đoàn Metro (Ðức) khai trương Trung tâm phân phối thứ tám và đầu tháng 10, Tập đoàn Dairy Farm (Hồng Công) ra mắt siêu thị đầu tiên. Trước đó là Bic C (Pháp) và tiếp theo là Wal-Mart (Mỹ), Parson (Malaysia)... những tên tuổi lớn trong ngành phân phối thế giới và khu vực đang gấp rút chuẩn bị cuộc "đổ bộ" vào thị trường nước ta.
Trước tình trạng phát triển mạnh mẽ như một “ cuộc cách mạng mới ” trong ngành bán lẻ hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam không nên phát triển một cách ồ ạt mà nên có quy củ, liên kết với nhau để phát triển lớn mạnh cả về số lượng cũng như chất lượng tạo ra sức mạnh cạnh tranh chứ không nên chỉ chạy theo số lượng như hiện nay.
2.2. Thực trạng kinh doanh của thương mại bán lẻ hiện nay
Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài “ bành trướng thế lực” của mình thì các doanh nghiệp trong nước cũng đang ráo riết chuẩn bị kế hoạch “ chạy đua ” theo. Hiện nay “ cuộc cách mạng ” trong ngành bán lẻ đang diễn ra hết sức sôi động.
Thứ nhất, hệ thống phân phối bán lẻ của Việt Nam phát triển rất nhanh trong mấy năm gần đây nhưng chủ yếu là hệ thống nhỏ lẻ chưa có sự liên kết. Các doanh nghiệp đua nhau đẩy mạnh phát triển mạng lưới kinh doanh nhưng lại mang tính rời rạc, thiếu sự liên kết để tạo nên một hệ thống lớn mạnh. Hiện nay hệ thống phân phối của cả nước bao gồm: 900 chợ truyền thống, hơn 200 siêu thị, 300 trung tâm thương mại và hàng chục ngàn của hàng, đại lý. Không ngừng lớn mạnh về quy mô các doanh nghiệp đang dần đưa kênh bán lẻ hiện đại này đến gần với người tiêu dùng. Như với Saigon Co.op để mở rộng hệ thống phân phối của mình đã thực hiện chiến lược xây các siêu thị của mình bên cạnh các địa ốc, Saigon Co.op kết hợp với Công ty VLXD và xây lắp thương mại BMC sử dụng mặt bằng tại các dự án cao ốc của BMC để mở siêu thị. Bên cạnh đó, Saigon Co.op còn đưa ra những mô hình phân phối mới như chợ kết hợp với siêu thị, nhượng quyền thương mại những cửa hàng Co.op mart cho các hộ kinh doanh cá thể.
Bên cạnh đó, các siêu thị liên doanh nước ngoài đang chiếm ưu thế hơn hẳn. Tuy có vị trí nằm cách xa trung tâm thành phố nhưng các siêu thị đó vẫn thu hút một lượng khách đông đảo chưa kể đến những thời điểm cuối tuần, dịp lễ tết thì tình trạng quá tải là chuyện bình thường. Ở Metro, Big C… rõ ràng không chỉ nổi trội về quy mô nguồn hàng mà giá cả thấp hơn các siêu thị trong nước 10-15%, tốc độ tăng trưởng doanh thu những năm qua luôn đạt trên 40%/ năm, đặc biệt chính sách hậu mãi khách hàng, xúc tiến thương mại hơn hẳn so với các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy nơi đây vẵn là điểm có sức thu hút hơn so với các siêu thị trong cả nước. Trong khi đó các doanh nghiệp bán lẻ trong nước cũng đẩy mạnh hoạt động phân phối, mở rộng quy mô, thiết lập hệ thống chuỗi cửa hàng… nhanh chóng tiếp cận người tiêu dùng.
Thứ hai, doanh thu bán lẻ tăng nhanh chóng
Theo số liệu từ tổng cục thống kê
Bảng 1: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
2003
2004
2005
2006
2007
2008 (dự kiến )
Doanh thu
333809.3
398524.5
480293.5
596207.1
726113
867226
Từ bảng số liệu trên cho chúng ta thấy được tổng mức bán lẻ tăng lên nhanh chóng. Riêng 6 tháng đầu năm 2008 tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt 450 ngàn tỷ đồng tăng 30% so với cùng kì năm ngoái. Với mức tiêu dùng tăng từ 20-24% thì đây là thị trường tiềm năng vẫn chưa được khai thác hết.
Thứ ba, vấn đề chiều sâu vẫn còn nhiều bất ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22373.doc