Đại học Quốc gia Hà Nội
Tr−ờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Phạm Thị Thu Hồng
Nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức
tỉnh An Giang trong công cuộc đổi mới hiện nay
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Triết học
Hà Nội -1999
Đại học Quốc gia Hà Nội
Tr−ờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Phạm Thị Thu Hồng
Nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức
tỉnh An Giang trong công cuộc đổi mới hiện nay
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 5.01.02
Luận văn thạc sĩ khoa học triết học
N
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1666 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nâng cao vai trò của đội ngũ tri thức tỉnh An Giang trong công cuộc đổi mới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g−ời h−ớng dẫn khoa học: PTS. Phan Thanh Khôi
Hà Nội - 1999
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi d−ới sự h−ớng dẫn của PTS. Phan Thanh
Khôi.
Các số liệu, kết quả nêu ra trong luận văn là trung
thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 4 tháng 10 năm 1999
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thu Hồng
Bảng các ký hiệu viết tắt
ĐH: Đại học
CĐ: Cao đẳng
Nxb: Nhà xuất bản
TS: Tiến sĩ
Th.S: Thạc sĩ
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Ch−ơng 1. Trí thức và vai trò của trí thức n−ớc ta trong sự
nghiệp đổi mới 6
1.1. Trí thức và lao động sáng tạo của trí thức 6
1.2. Trí thức n−ớc ta trong sự nghiệp đổi mới 13
Ch−ơng 2. Thực trạng đội ngũ trí thức An Giang và vai trò của
họ trong giai đoạn hiện nay
23
2.1. An Giang đất n−ớc con ng−ời 23
2.2. Thực trạng của đội ngũ trí thức An Giang 27
2.3. Những đóng góp quan trọng của trí thức An Giang cho sự nghiệp
phát triển của tỉnh 32
Ch−ơng 3. B−ớc phát triển mới của tỉnh An Giang từ 1996 - 2010 và
những giải pháp chủ yếu để nâng cao hơn nữa vai
trò đội ngũ trí thức của tỉnh
45
3.1. B−ớc phát triển mới của tỉnh An Giang từ 1996 - 2010 45
3.2. Những giải pháp chủ yếu để trí thức An Giang tiếp tục phát huy
tốt vai trò của mình trong công cuộc đổi mới của tỉnh 54
Kết luận 75
Phụ lục 78
Danh mục Tài liệu tham khảo 84
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ,
tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Vì thế, lao động "chất xám" - lao
động sáng tạo khoa học của ng−ời trí thức, có vị trí quan trọng đặc biệt đối với sự
phát triển đi lên của mỗi quốc gia, dân tộc.
Công cuộc đổi mới ở n−ớc ta, sau hơn 10 năm, đã đạt đ−ợc những thành
tựu to lớn đ−a đất n−ớc ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định
chính trị, cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại..., có thêm
nhiều thế và lực tiếp tục đi lên. Để đạt đ−ợc những thành tựu này, có những nỗ
lực lớn lao của toàn dân. Trong đó, có sự góp phần xứng đáng của đội ngũ trí
thức n−ớc ta.
Khi đất n−ớc đang b−ớc vào giai đoạn mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, vai trò lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức ngày càng đ−ợc xã hội
ghi nhận, không chỉ trong phạm vi toàn quốc, mà còn ở cả các địa ph−ơng.
An Giang là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, có những tiềm
năng to lớn về đất đai, nguồn lợi tự nhiên, đồng thời còn là mảnh đất có truyền
thống yêu n−ớc và cách mạng. Những năm qua, Đảng bộ nhân dân địa ph−ơng,
trong đó có lực l−ợng trí thức, đã phát huy thế mạnh của mình và khắc phục
những khó khăn để từng b−ớc đi lên hoà nhập với sự phát triển của đất n−ớc.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt đ−ợc của An Giang mới chỉ là b−ớc đầu.
Giai đoạn tới của tỉnh đến năm 2010, là cả một sự nghiệp đã đ−ợc xây dựng trong
đề án "Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh An Giang thời kỳ 1996
- 2010" mà ph−ơng h−ớng và nhiệm vụ cơ bản đ−ợc Nghị quyết Đại hội tỉnh
Đảng bộ (lần VI), năm 1996, nêu ra. Để đ−a sự nghiệp đó đến thành công, phải
1
có sự cố gắng nhân dân lao động nói chung và của đội ngũ trí thức An Giang nói
riêng.
Cũng tr−ớc tình hình đó, nhận thấy, trí thức An Giang, bên cạnh những −u
điểm, đã bộc lộ không ít những tồn tại và hạn chế. Vì vậy, phát huy đ−ợc vai trò
của trí thức An Giang trong công cuộc đổi mới hiện nay là yêu cầu cấp bách.
Nghiên cứu khoa học góp phần phát huy vai trò và tính tích cực của trí thức
An Giang vì sự nghiệp đổi mới tỉnh nhà là niềm quan tâm và trách nhiệm chung
của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa ph−ơng hiện nay. Xuất phát từ tình
hình trên, tác giả đã chọn đề tài "Nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh An
Giang trong công cuộc đổi mới hiện nay" làm luận văn thạc sĩ triết học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng d−ới sự lãnh đạo của Đảng,
đã đ−ợc Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, đ−ợc xác định qua nhiều văn bản của
Đảng và Nhà n−ớc ta. Gần đây, đáng chú ý có: Nghị quyết 26/BCT (khoá VI)-
"Về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới", Hà Nội, 1991; Nghị quyết
Trung −ơng 2 (khoá VIII) - "Về định h−ớng chiến l−ợc phát triển giáo dục - đào
tạo...", và "Về định h−ớng phát triển khoa học và công nghệ..." Hà Nội, 1996; Đỗ
M−ời - “Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất n−ớc". Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1996...
Trong thời gian qua cũng đã có những luận án, luận văn viết về đề tài trí
thức ở những góc độ khác nhau. Nh−: Phan Thanh Khôi - "Động lực của trí thức
trong lao động sáng tạo ở n−ớc ta hiện nay", luận án PTS triết học, 1992; Nguyễn
Thanh Tuấn - "Đặc điểm và vai trò đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới của
đất n−ớc hiện nay", luận án PTS triết học, 1995; Nguyễn Thị Hoà Bình - "Trí thức
2
ngành y tế trong quá trình cách mạng n−ớc ta", luận án thạc sĩ triết học, 1996;
Nguyễn Đình Minh - "Nâng cao vai trò của trí thức quân đội trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc", luận án thạc sĩ triết học, 1997; Nguyễn Xuân Ph−ơng - "Đổi mới
quan hệ d−ới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam với việc phát huy sáng tạo
của trí thức n−ớc ta hiện nay", luận án thạc sĩ triết học, 1997; Nguyễn Thị
Ph−ợng - "Vai trò của tầng lớp trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá", luận án thạc sĩ triết học, 1997...
Ngoài ra có khá nhiều bài viết trên báo và tạp chí Trung −ơng và cả ở tỉnh
An Giang bàn về trí thức và những vấn đề liên quan.
Các công trình và bài viết trên ch−a có điều kiện hoặc không có chủ đích
bàn riêng, nhất là ở một hình thức là luận văn trên ĐH về những vấn đề của trí
thức An Giang trong công cuộc đổi mới ở tỉnh hiện nay. Tuy nhiên, đây là những
tài liệu tham khảo quí giá giúp tác giả luận văn trong khi thực hiện đề tài của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Luận văn làm rõ thêm về đội ngũ trí thức An Giang và góp
phần tác động để lực l−ợng này thực hiện tốt hơn nữa vai trò quan trọng của mình
trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh.
- Để đạt đ−ợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Làm rõ những khái niệm cơ bản (“trí thức”, “lao động sáng tạo của trí
thức”, “trí thức n−ớc ta”...) làm cơ sở để trình bày những nội dung cụ thể tiếp
theo.
Trình bày và phân tích rõ thực trạng, cũng nh− những đóng góp quan trọng
của trí thức An Giang đối với sự phát triển của tỉnh.
3
Xác định đ−ợc ph−ơng h−ớng, mục tiêu phát triển mới của tỉnh, đồng thời
là những nhiệm vụ mới t−ơng ứng của trí thức An Giang.
Sau nữa, tập trung nêu lên và phân tích những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp
tục phát huy khả năng của trí thức An Giang vì sự thắng lợi của công cuộc đổi
mới tới đây ở tỉnh.
4. Đối t−ợng và phạm vi nghiên cứu
Đội ngũ trí thức An Giang là sản phẩm của cả một quá trình lịch sử, nh−ng
ở đây luận văn chú ý hơn cả đến lực l−ợng này trong những năm đổi mới của đất
n−ớc, nhất là từ sau Đại hội VIII lại đây.
Trí thức An Giang, mà luận văn bàn đến, là cả một đội ngũ trí thức với
những con ng−ời sinh tr−ởng ở An Giang hoặc những vùng khác trên đất n−ớc,
đang sinh sống trên địa bàn tỉnh, đang lao động sáng tạo khoa học vì sự phát
triển, đi lên của An Giang.
5. Ph−ơng pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, t− t−ởng
Hồ Chí Minh, và các quan điểm của Đảng và Nhà n−ớc ta. Đồng thời, luận văn
còn chú ý đến những văn bản của Đảng uỷ và chính quyền địa ph−ơng của tỉnh
An Giang trong những năm gần đây.
Luận văn kế thừa hợp lý những thành tựu nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn liên quan của các tác giả và các đề tài nghiên cứu khoa học.
Luận văn sử dụng ph−ơng pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có
chủ nghĩa xã hội khoa học. Về ph−ơng h−ớng cụ thể, luận văn chú ý nhiều đến
kết hợp các ph−ơng pháp lôgích và lịch sử, thống kê và phân tích, tổng hợp và so
sánh...
4
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề trí thức nói chung và đội
ngũ trí thức An Giang nói riêng - bộ phận lao động trí tuệ quan trọng của công
cuộc đổi mới hiện nay.
Luận văn góp phần làm cơ sở khoa học cho các cấp uỷ đảng, chính quyền
địa ph−ơng trong quá trình lãnh đạo, quản lý trí thức và hoạt động khoa học vì sự
nghiệp đổi mới ở tỉnh.
Đồng thời, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên
cứu, giảng dạy những chuyên đề lý luận chính trị có liên quan trong các tr−ờng
học ở tỉnh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 ch−ơng, 7 tiết:
Ch−ơng 1: Trí thức và vai trò của trí thức n−ớc ta trong sự nghiệp đổi mới.
Ch−ơng 2: Thực trạng đội ngũ trí thức An Giang và vai trò của họ trong
giai đoạn hiện nay.
Ch−ơng 3: B−ớc phát triển mới của tỉnh An Giang từ 1996 - 2010 và
những giải pháp chủ yếu để nâng cao hơn nữa vai trò đội ngũ trí thức của tỉnh.
5
Ch−ơng 1
Trí thức và vai trò của trí thức
trong sự nghiệp đổi mới
1.1. Trí thức và lao động sáng tạo của trí thức
1.1.1. Khái niệm trí thức
Khái niệm "trí thức"đ−ợc dùng ở nhiều n−ớc trên thế giới và có nguồn gốc
từ tiếng La tinh: Intelligentia (Intelligentia nghĩa là thông minh, có trí tuệ, hiểu
biết, có suy nghĩ). Khái niệm này, trở nên thông dụng từ những năm nửa sau thế
kỷ XIX, để chỉ những ng−ời có học thức, học vấn cao, chuyên lao động trí óc.
Tuy nhiên, tuỳ từng giai đoạn lịch sử cụ thể trong quá trình phát triển của
nhân loại, của mỗi quốc gia và d−ới những góc độ nghiên cứu khác nhau, mà có
nhiều định nghĩa về trí thức. Trong cuốn từ điển Triết học đã giải thích "Trí thức
là tập đoàn xã hội, gồm những ng−ời làm nghề lao động trí óc. Giới trí thức bao
gồm kỹ s−, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật s−, nghệ sĩ, thầy giáo và ng−ời làm
công tác khoa học và là một bộ phận viên chức" [4]. Từ điển Chủ nghĩa cộng sản
khoa học viết: "Trí thức là một nhóm xã hội bao gồm những ng−ời chuyên làm
nghề lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao
động đó" [46, 15]. Lênin khi nói về trí thức, Ng−ời khái quát: "Trí thức là tất cả
những ng−ời có học thức, đại diện cho những ng−ời tự do nói chung, đại diện cho
lao động trí óc (brain worker nh− ng−ời Anh vẫn nói) khác với những đại diện
cho lao động chân tay" [29].
Nhìn chung, trong nhiều định nghĩa đã cho thấy trí thức có một số đặc
tr−ng cơ bản nh− sau: Là một tầng lớp xã hội; lao động trí óc phức tạp; có học
vấn và chuyên môn cao; tạo ra những tri thức mới, tuyên truyền và ứng dụng
khoa học để đẩy nhanh sự phát triển của xã hội.
6
Trí thức là ng−ời lao động trí óc, nh−ng không phải tất cả những ng−ời lao
động trí óc đều là trí thức. Bởi vì, lao động trí óc là khái niệm rộng bao gồm tất
cả lao động trí óc ở mức độ khác nhau từ giản đơn đến phức tạp. Những ng−ời lao
động trí óc giản đơn mang tính chất thừa hành, ch−a phải là trí thức. Chỉ những
ng−ời nào lao động trí óc phức tạp, có một trình độ học vấn và chuyên môn cao,
cần thiết cho lĩnh vực lao động ấy, mới có khả năng trở thành trí thức. Trình độ
học vấn và chuyên môn cao này đòi hỏi ở mức độ nào là tuỳ thuộc vào thời điểm
lịch sử, vào điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá của mỗi n−ớc. Trong thời đại
ngày nay, ng−ời trí thức phần lớn phải có trình độ học vấn ít nhất từ CĐ, ĐH
hoặc t−ơng đ−ơng trở lên.
Tuy nhiên, trình độ học vấn chỉ là điều kiện cần chứ ch−a đủ để trở thành
trí thức. Vì có nhiều ng−ời có trình độ học vấn từ CĐ, ĐH hoặc cao hơn nữa
nh−ng vì nhiều lý do nào đó họ lại không tham dự vào lao động trí óc phức tạp.
Vì vậy, muốn trở thành trí thức cần phải có một điều kiện nữa có ý nghĩa quyết
định đó là lao động sáng tạo.
Lao động sáng tạo của trí thức sẽ đ−a lại nội dung khoa học mới, tiến bộ
hữu ích, truyền đạt nó trong xã hội và ứng dụng vào thực tiễn để nâng cao chất
l−ợng hoạt động xã hội t−ơng ứng. Lao động sáng tạo của trí thức còn có khả
năng dự đoán t−ơng lai và ph−ơng h−ớng giải quyết những vấn đề phức tạp của
đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá. Đặc tr−ng lao động sáng tạo ấy của trí thức là
cơ sở để phân biệt tầng lớp này với các nhóm xã hội khác.
Những ng−ời lao động trí óc trong nhóm xã hội "viên chức" có không ít
những ng−ời có trình độ học vấn CĐ, ĐH và sau ĐH. Nếu những ng−ời có trình
độ học vấn cao ấy chỉ dùng những tri thức khoa học của mình nhằm làm tốt hơn
nhiệm vụ hành chính mang tính chất thừa hành, thì họ hoàn toàn nằm trong nhóm
xã hội viên chức. Nh−ng nếu trong số họ, ngoài công việc viên chức của mình ra,
7
còn tham gia lao động sáng tạo (nghiên cứu khoa học, giảng dạy, tổng kết lý
luận, nghiên cứu ứng dụng khoa học...) thì đó chính là sự biểu hiện của xu h−ớng
"viên chức trí thức hoá", là sự xích lại gần nhau giữa các bộ phận lao động trong
xã hội hiện đại.
Trên thực tế, có một số ng−ời tuy không có bằng cấp cao, nh−ng nhờ chịu
khó học hỏi trong sách báo, trong thực tiễn lao động, có trí thông minh và tài
năng đặc biệt, nên đã có những phát minh khoa học, những tác phẩm văn học,
nghệ thuật có giá trị lớn. Những ng−ời đó xứng đáng là những trí thức thực thụ.
Trong nền sản xuất xã hội, tuỳ theo mối quan hệ của các giai tầng với các
t− liệu sản xuất, vai trò tổ chức xã hội đối với lao động mà các giai cấp, các tầng
lớp xã hội có vị trí, vai trò khác nhau. Trí thức không có quan hệ riêng và trực
tiếp với sở hữu t− liệu sản xuất. Cho nên, trí thức không phải là một giai cấp mà
là một tầng lớp xã hội. Mặc dù vậy, tầng lớp này không phải là "siêu giai cấp",
"đứng trên giai cấp", là "trọng tài của các giai cấp", mà chỉ là một tầng lớp luôn
"phụ thuộc" vào một giai cấp - giai cấp thống trị của nền sản xuất ấy. Vì thế
Lênin chỉ rõ: "Nếu không nhập cục với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là con số
không" [29]. Thực tế lịch sử cũng đã chứng minh rằng: trong các xã hội có giai
cấp, giai cấp thống trị luôn luôn chú trọng đến việc đào tạo, bồi d−ỡng, sử dụng
đội ngũ trí thức để phục vụ cho quyền thống trị, lợi ích thiết thực của giai cấp
mình; và bản thân tầng lớp trí thức chỉ có thể tồn tại, phát triển gắn liền với việc
phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị.
Trong chủ nghĩa xã hội, tầng lớp trí thức mới đ−ợc hình thành gắn liền với
sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Đội ngũ ấy có trình độ chuyên môn cao,
đ−ợc trang bị thế giới quan mác xít và ph−ơng pháp luận khoa học, có khả năng
đóng góp to lớn cho phát triển khoa học của đất n−ớc và tiến bộ của nhân loại.
D−ới sự lãnh đạo của Đảng, sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
8
nông dân và tầng lớp trí thức là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc cho nhà n−ớc
xã hội chủ nghĩa và toàn bộ công cuộc xây dựng xã hội mới.
ở n−ớc ta, khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức lại càng có tầm quan trọng lớn lao. Khối liên minh ấy "... là nền
tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, là một vấn đề chiến l−ợc, là nguyên tắc sống
còn của Đảng, là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam đ−ợc củng cố, giữ vững và tăng
c−ờng. Đây là một kinh nghiệm và là một truyền thống cơ bản, quí báu của Đảng
cộng sản Việt Nam, là nguồn gốc sức mạnh vô tận bảo đảm cho thắng lợi của
cách mạng n−ớc ta" [3].
1.1.2. Những đặc điểm lao động sáng tạo của trí thức
Lao động là đặc tr−ng cơ bản nhất của đời sống xã hội. Nhờ có lao động
mà con ng−ời dần hoàn thiện, xã hội tồn tại và phát triển không ngừng. Lao động
là quá trình diễn ra giữa con ng−ời với tự nhiên. Con ng−ời tác động vào tự nhiên
để biến đổi, cải tạo tự nhiên phục vụ nhu cầu của mình. Do vậy, lao động, nói
chung, là sáng tạo.
Trong các dạng thức lao động, thì lao động trí óc phức tạp của trí thức
mang tính sáng tạo rõ nét nhất. Đó là kiểu lao động sáng tạo khoa học. Lao động
sáng tạo khoa học của trí thức có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, tạo ra những tri thức khoa học mới, tiến bộ và hữu ích. Những tri
thức này góp phần làm giàu thêm kho tàng tri thức dân tộc và nhân loại. Đồng
thời, ng−ời trí thức truyền bá và ứng dụng những tri thức ấy trong thực tiễn để
nâng cao mọi mặt của đời sống xã hội.
Bản thân lao động sáng tạo là phát hiện ra những đặc tính, những mối liên
hệ bản chất mới của các sự vật, hiện t−ợng mà con ng−ời ch−a biết đến. Vì vậy,
9
trong sản phẩm lao động sáng tạo của trí thức phải bao hàm tri thức mới. Cái mới
trong sáng tạo khoa học là biểu hiện tính cách mạng của lao động sáng tạo. Cho
nên, khoa học và cách mạng, lý luận và thực tiễn trở thành nguyên tắc của nhận
thức luận chân chính, là ph−ơng châm của ng−ời trí thức tiến bộ.
Cái mới của lao động sáng tạo khoa học phải mang tính hữu ích cho xã
hội. Tính hữu ích là mục đích đạt tới của lao động sáng tạo mà ng−ời trí thức
mong muốn. Cái mới phải phục vụ nhu cầu phát triển ngày càng cao của đời sống
xã hội. Cái mới phải h−ớng tới "chân, thiện, mỹ" của nhân loại thì ng−ời trí thức
mới là ng−ời lao động chân chính.
Kết quả lao động sáng tạo khoa học phải đ−ợc phổ biến để ứng dụng trong
thực tiễn, nhằm nâng cao chất l−ợng cuộc sống thì sản phẩm ấy mới có giá trị
đích thực. Thực tiễn vừa là cơ sở cho ng−ời trí thức nhận thức đối t−ợng, để có cái
mới trong sáng tạo. Ng−ợc lại, kết quả lao động sáng tạo quay trở lại phục vụ
thực tiễn làm cho đời sống xã hội ngày càng thêm phong phú. Vì vậy, cái mới
phải đ−ợc phổ biến và ứng dụng vào thực tiễn nhằm phục vụ nhu cầu của con
ng−ời thì mới đạt tới giá trị xã hội.
Hai là, lao động sáng tạo đòi hỏi ng−ời trí thức phải có kiến thức khoa học
cơ bản, và kiến thức chuyên ngành sâu, đồng thời phải có ph−ơng pháp t− duy
khoa học thích hợp. Đây là những nhân tố có tính chất quyết định cho quá trình
lao động để giới trí thức tạo ra những tri thức mới có nội dung với mức độ cao về
khoa học. Kiến thức khoa học biểu hiện ở trình độ học vấn, còn ph−ơng pháp
khoa học là ph−ơng tiện để ng−ời trí thức đạt tới mục tiêu sáng tạo khoa học, mà
chủ yếu là nói đến kiểu t− duy khoa học, t− duy logíc. Có những ph−ơng pháp có
tính phổ biến cho các ngành khoa học, có những ph−ơng pháp đ−ợc áp dụng
riêng cho từng ngành khoa học hoặc trong từng lĩnh vực khoa học khác nhau.
Ph−ơng pháp là công cụ để sáng tạo khoa học; ng−ợc lại, trong quá trình sáng tạo
10
ng−ời trí thức cũng có thể phát minh ra những ph−ơng pháp khoa học mới. Lúc
này, ph−ơng pháp trở thành nội dung sáng tạo, thúc đẩy sáng tạo cao hơn.
Liên quan đến ph−ơng pháp khoa học là khả năng dự báo t−ơng lai của trí
thức. Ng−ời trí thức dự báo t−ơng lai dựa trên cơ sở khoa học về qui luật vận
động của lịch sử để nhìn nhận quá trình phát triển sắp tới của xã hội. Sự phát
triển của xã hội vận động theo qui luật và phải trải qua các giai đoạn lịch sử nhất
định, theo chiều h−ớng đi lên dựa vào nhau, kế thừa nhau. Trong tiến trình phát
triển của nó, ng−ời ta tìm thấy trong đó những vết tích của quá khứ, những cơ sở
của hiện đại và những mầm mống của t−ơng lai. Dự báo t−ơng lai là khả năng kỳ
diệu của con ng−ời và là −ớc mơ lâu đời của nhân loại. Ng−ời trí thức có kiến
thức, có ph−ơng pháp khoa học thì dự báo đúng. Dự báo đúng sẽ làm cơ sở khoa
học cho các quyết sách phát triển kinh tế - xã hội. Ng−ợc lại, dự báo sai, sẽ gây
tác hại rất lớn đến mọi mặt đời sống xã hội. Những ng−ời trí thức mác xít dựa
trên cơ sở ph−ơng pháp luận khoa học duy vật và biện chứng, có khả năng to lớn
cho dự báo quá trình phát triển của t−ơng lai.
Năng khiếu là một yếu tố rất cần thiết trong lao động sáng tạo khoa học.
Một số ngành khoa học nh−: hội hoạ, âm nhạc, thể thao, văn học... năng khiếu trở
thành điều kiện quan trọng. Năng khiếu đ−ợc biểu hiện rất sớm ở con ng−ời, nếu
phát hiện, bồi d−ỡng kịp thời sẽ phát huy tác dụng rất tốt. Tuy nhiên, năng khiếu
từ dạng khả năng đến phát huy tác dụng thành tài là một khoảng cách. Không
phải những ng−ời có năng khiếu đều trở thành tài năng. Từ năng khiếu đến tài
năng là một quá trình phấn đấu học tập, lao động bền bỉ, lâu dài. Trong lao động
sáng tạo, năng khiếu là nhân tố tích cực của hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi
cho nhà khoa học phát huy năng lực trí tuệ tốt hơn, khắc phục đ−ợc khó khăn
trong quá trình lao động.
11
Ba là, lao động sáng tạo của trí thức không chỉ đòi hỏi sự vận động tự duy
và sức mạnh lý trí mà còn phải có tình cảm (xúc cảm). Tình cảm hay cảm xúc đạt
đến trạng thái cần thiết sẽ tạo nên cảm hứng sáng tạo. Cảm hứng sẽ thúc đẩy nội
tâm ng−ời trí thức đến với công việc và đạt đến kết quả cao độ trong sáng tạo.
Đối với văn nghệ sĩ, cảm hứng sáng tạo đặc biệt quan trọng. "Trong nghệ thuật,
tình cảm không chỉ là động lực thúc đẩy sáng tạo (nh− các hoạt động khác) mà
còn là một bộ phận hữu cơ của tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm là sự hoà thấm
của cuộc đời và máu thịt của nhà văn" [13]. Tuy vậy, từ cảm xúc đến cảm hứng
sáng tạo là một khoảng cách. Khắc phục khoảng cách đó, đòi hỏi ng−ời trí thức
phải chủ động đi đến với đối t−ợng lao động của mình, bằng nhiều hình thức (đi
thực tế, học hỏi, tìm hiểu...), qua đó mà thổi bừng lên nhiệt huyết sáng tạo của
mình.
Bốn là, sản phẩm của lao động sáng tạo bảo đảm cái mới trên cơ sở mang
tính kế thừa nh−ng không lặp lại. Cái mới trong sáng tạo khoa học không phải là
những cái gì thật khác th−ờng, "lạ lẫm". Nó đ−ợc phát kiến dựa trên những tri
thức mà nhân loại đã tạo ra. Những tri thức này làm nền cho quá trình sáng tạo,
lúc đó, tri thức cũ là cơ sở ph−ơng pháp luận gián tiếp hoà vào tri thức mới. Sự kế
thừa đó làm cho tri thức của nhân loại nh− một dòng chảy liên tục và nhận thức
của con ng−ời phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Cái mới mang
tính kế thừa nh−ng không lặp lại cái cũ. Do vậy những sản phẩm đa dạng của lao
động trí óc mang tính duy nhất: không ai giống ai, không công trình nào giống
công trình nào (dù cùng một chủ đề và của chính một tác giả).
Sau nữa, lao động sáng tạo của ng−ời trí thức mang tính độc lập cá nhân
cao. Khi đã có kế hoạch làm việc, khi đã nhận nhiệm vụ đ−ợc giao..., thì hoạt
động chủ yếu của ng−ời trí thức là vận động t− duy của mình để tìm ra cách tối
−u nhằm đạt kết quả cao nhất. Thời gian làm việc của trí thức không "gò bó" vào
12
những lúc nhất định; và không gian làm việc cũng vậy, không hẳn là một nơi (có
thể ở cơ quan, ở nhà, ở nơi liên kết...) [30].
Trên đây là những đặc điểm cơ bản của lao động sáng tạo. Qua đó, một
mặt để phân biệt kiểu làm việc của ng−ời trí thức với hoạt động của các ngành xã
hội khác; mặt khác quan trọng hơn, để l−u ý công tác lãnh đạo và quản lý trí thức
cần xác thực phù hợp để đem lại hiệu quả nhiều hơn cho lao động sáng tạo khoa
học của đội ngũ này.
1.2. Trí thức n−ớc ta trong sự nghiệp đổi mới
1.2.1. Thực trạng trí thức n−ớc ta
Do hoàn cảnh lịch sử và truyền thống dân tộc, đội ngũ trí thức n−ớc ta có
quá trình lịch sử hình thành và phát triển gắn liền với truyền thống dựng n−ớc và
giữ n−ớc, truyền thống hiếu học của cả dân tộc. Trong suốt 10 thế kỷ (1075 -
1919), qua các kỳ thi do triều đình phong kiến tổ chức, đã chọn đ−ợc 2.898 hiền
tài cho đất n−ớc. Họ là những nông dân, sĩ phu... đại diện tinh hoa, trí tuệ và văn
hoá dân tộc Việt Nam trong quá trình đấu tranh dựng n−ớc và giữ n−ớc.
Trong thời thực dân Pháp thống trị n−ớc ta, để phục vụ mục đích khai thác
thuộc địa, thực dân Pháp có mở ra một số tr−ờng ĐH và CĐ đã đào tạo đ−ợc một
số thầy giáo, bác sĩ, kỹ s−, kiến trúc s−, hoạ sĩ... Trong đó có nhiều ng−ời có thực
tài và sau này một số khá đông đã đi theo cách mạng, sau cuộc tổng khởi nghĩa
8/1945.
Từ trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhất là trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đặc biệt là sau ngày miền Nam giải phóng,
đất n−ớc thống nhất, đội ngũ trí thức n−ớc ta hình thành và ngày càng phát triển
về số l−ợng và chất l−ợng. Đội ngũ này đã kế tiếp một cách xứng đáng, truyền
thống vẻ vang của cha ông trong lịch sử đấu tranh dựng n−ớc và giữ n−ớc và đang
13
vững b−ớc đi lên, đóng góp to lớn vào sự nghiệp đổi mới đất n−ớc. Đúng nh−
nhận định của đồng chí Đỗ M−ời, nguyên Tổng Bí th− Đảng cộng sản Việt Nam:
"Trí thức Việt Nam giàu lòng yêu n−ớc, gắn bó với nhân dân, chịu đựng gian
khổ, hy sinh, đã góp phần xứng đáng cùng toàn dân giành thắng lợi vẻ vang trong
cuộc đấu tranh lâu dài vì độc lập dân tộc, vì tự do hạnh phúc của nhân dân. Trải
qua rèn luyện đội ngũ trí thức đã tr−ởng thành nhanh chóng, phát triển cả về số
l−ợng, chất l−ợng, trở thành một lực l−ợng quan trọng trong công cuộc đổi mới,
trong sự nghiệp xây dựng đất n−ớc và bảo vệ Tổ quốc ngày nay" [32, 148].
Đến nay, số l−ợng đội ngũ trí thức đã tăng lên đáng kể. Cả n−ớc có khoảng
930.000 trí thức (có trình độ CĐ, ĐH trở lên). Đây là lực l−ợng khá đông đảo và
là nguồn lực trí tuệ quan trọng cho b−ớc phát triển mới của đất n−ớc. Số l−ợng
này hàng năm còn tăng, nh−ng so với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì
vẫn còn ít và nhiều bất cập.
Nguồn gốc đào tạo trí thức ở n−ớc ta khá đa dạng. Đại đa số đ−ợc đào tạo ở
trong n−ớc, quá nửa tốt nghiệp trong các tr−ờng ĐH xã hội chủ nghĩa (ở trong
n−ớc hoặc ở Liên Xô và các n−ớc xã hội chủ nghĩa cũ). Phần ít hơn đ−ợc đào tạo
trong các tr−ờng ĐH ở miền Nam tr−ớc ngày 30/4 và các n−ớc t− bản chủ nghĩa.
Gần đây, n−ớc ta mở rộng giao l−u quốc tế, số trí thức đ−ợc đào tạo ở n−ớc
ngoài, nhất là các n−ớc t− bản chủ nghĩa phát triển có xu h−ớng tăng nhanh. Một
số trí thức đ−ợc đào tạo và sống nhiều năm ở n−ớc ngoài cũng đã về tham gia xây
dựng đất n−ớc.
Nguồn đào tạo trí thức từ nhiều thời kỳ, nhiều quốc gia có chế độ chính trị
- xã hội khác nhau, đ−a lại sự đa dạng trong đội ngũ, phong phú trong lao động
sáng tạo, nh−ng cũng đem lại những khó khăn nhất định trong sự hoà hợp chung
(về trình độ, ph−ơng pháp sáng tạo, học thuật, tâm lý, nhận thức chính trị - xã
hội...).
14
Trong tổng số trí thức hiện có, khoảng hơn 120.000 có trình độ TS, PTS và
Th.S, chiếm tỉ lệ 11%. Trong các viện nghiên cứu, các tr−ờng ĐH tỉ lệ này là
14%. Nhiều năm qua, Đảng và Nhà n−ớc có những chính sách đào tạo trong n−ớc
nhằm tăng tỉ lệ cán bộ trình độ cao, nh−ng vẫn còn chậm. Yêu cầu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá rất cần có nhiều trí thức trình độ cao trên tất cả các lĩnh
vực khoa học, đó là một đòi hỏi khách quan. Hiện nay, n−ớc ta có trên 100 cơ sở
đào tạo trên ĐH. Những năm qua đã đào tạo đ−ợc khá nhiều trí thức trình độ TS,
Th.S nh−ng nhìn về chất l−ợng thì còn hạn chế và ch−a đồng đều.
Trí thức nói chung, trí thức trình độ cao nói riêng, có sự phân bố không
đều giữa các ngành khoa học. Trí thức các ngành khoa học kỹ thuật số l−ợng khá
đông; trong khi đó, trí thức các ngành khoa học công nghệ cao, khoa học quản lý,
khoa học xã hội và nhân văn vẫn thiếu và còn nhiều hạn chế. Ta ch−a có những
nhà khoa học giỏi về quản lý, tài chính, ngân hàng... Đặc biệt, còn thiếu nhiều
cán bộ am hiểu kỹ thuật công nghệ cao, cán bộ nghiên cứu lý luận; ch−a có
những nhà khoa học tầm cỡ có khả năng chủ trì các công trình khoa học lớn để lý
giải một cách thuyết phục những vấn đề cơ bản của thời đại và con đ−ờng đi lên
chủ nghĩa xã hội ở n−ớc ta. Nhiều ngành khoa học, trí thức còn quá ít.
Xét về cơ cấu độ tuổi, đang diễn ra tình trạng "lão hoá" đội ngũ và sự hụt
hẫng giữa các thế hệ. Độ tuổi trung bình của cán bộ khoa học trong các viện
nghiên cứu là 45 - 46; lứa tuổi trên 45 chiếm tới 65 - 70%. Cán bộ khoa học trình
độ cao tỉ lệ này còn cao hơn. Theo tài liệu của Hội đồng phong học hàm Nhà
n−ớc, giáo s− và phó giáo s− đ−ợc phong năm 1991 - 1992, tính tuổi đến năm
1995, có tỉ lệ là: Giáo s−: từ 40 - 45 tuổi: 3,87%; từ 51 - 60 tuổi: 52,96%; từ 61 -
70 tuổi: 40,56%; trên 70 tuổi: 2,58%; Phó giáo s−: từ 40 - 50 tuổi: 17,31%; từ 51
- 60 tuổi: 65,63%; từ 61 - 70 tuổi: 16,85%; trên 70 tuổi: 0,1999%.
15
Nhìn chung, đa số cán bộ nghiên cứu đều đã lớn tuổi. Lực l−ợng trẻ để bổ
sung còn thiếu và rất chậm, trong một thời gian ngắn khó có thể khắc phục đ−ợc.
Mặt khác, ở các viện nghiên cứu, các tr−ờng ĐH không hấp dẫn đối với những
cán bộ khoa học còn năng lực, nhất là lớp trẻ. Tình trạng này, trong vòng năm,
m−ời năm tới sự thiếu hụt sẽ rất lớn. Cần phải có những biện pháp tích cực để
khắc phục sớm.
Sự phân bố trí thức giữa các vùng, các khu vực ch−a hợp lý. Trí thức tập
trung nhiều ở các thành phố, tỉnh lỵ. Trong khi đó, ở vùng cao, vùng sâu, vùng
xa, vùng kinh tế lớn... trí thức còn rất thiếu. Phần lớn trí thức tập trung ở phía Bắc
và chủ yếu ở Hà Nội; phía Nam chỉ có 20% và chủ yếu ở thành phố Hồ Chí
Minh. Trí thức ở trình độ cao đa số ở các cơ quan Trung −ơng, các tỉnh lỵ, thành
phố lớn. Theo tinh thần về nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đảng ta đặc
biệt quan tâm đến nông nghiệp và nông thôn. Sự thiếu hụt trầm trọng cán bộ khoa
học ở khu vực này đòi hỏi phải coi trọng hàng đầu và tập trung thích đáng nguồn
cán bộ khoa học thì mới có khả năng thực hiện tốt các nội dung công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Trí thức ng−ời dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ quá nhỏ, chỉ khoảng 2,5% trong
tổng số ng−ời có trình độ ĐH, CĐ của cả n−ớc. Đặc biệt đến nay vẫn còn khoảng
10 dân tộc không có ng−ời tốt nghiệp ĐH, CĐ [47]. N−ớc ta, có 54 thành phần
dân tộc anh em thì đã có 53 dân tộc ít ng−ời, chiếm tỉ lệ 13% dân c− và 3/4 diện
tích cả n−ớc. Đây là khu vực có tiềm năng kinh tế lớn, có tầm quan trọng đặc biệt
bảo vệ an ninh, quốc phòng của Tổ quốc. Với số l−ợng trí thức ít ỏi nh− hiện nay
thì phát triển kinh tế ở vùng dân tộc để theo kịp các khu vực khác quả là rất khó
khăn.
Nữ trí thức cũng còn ít so với tổng số trí thức đã đ−ợc đào tạo. Trong tổng
số ng−ời có trình độ CĐ, ĐH nữ chiếm 38%, trong số ng−ời có trình độ trên ĐH,
16
nữ chiếm 15%. Trí thức nữ hoạt động đông nhất ở các ngành giáo dục, y tế, văn
nghệ... Đã có nhiều nhà khoa học nữ đóng góp lớn trong khoa học._., nhiều ng−ời
đã làm tốt công tác lãnh đạo, chủ trì các công trình khoa học cấp Nhà n−ớc. Tuy
nhiên, trong hoạt động khoa học, nữ trí thức n−ớc ta còn gặp nhiều khó khăn từ
gia đình và xã hội. Nữ trí thức có trình độ cao vẫn còn ít và ch−a có những
chuyên gia giỏi có khả năng đảm đ−ơng những dự án, những công trình nghiên
cứu khoa học lớn trong n−ớc cũng nh− quốc tế.
Phần lớn trí thức n−ớc ta có tâm huyết với Đảng, với nhân dân, mong muốn
đem tài năng của mình phục vụ cho công cuộc đổi mới toàn diện đất n−ớc. Ngày
nay, trí thức và lao động trí tuệ của họ đang biến đổi theo chiều h−ớng tích cực.
Họ năng động, sáng tạo, thực tế và hiệu quả hơn. Tuy vậy, trong xu thế phát triển
của thời đại, với chính sách mở rộng giao l−u quốc tế của Đảng, một số trí thức
biểu hiện sự hụt hẫng về kiến thức và năng lực thực hành do đ−ợc đào tạo từ
chuyên ngành hẹp, thiếu trình độ kiến thức chung, còn yếu về ngoại ngữ, tin học.
Nhiều trí thức thiếu những kiến thức sâu về khoa học và công nghệ hiện đại vì
ch−a có điều kiện tiếp cận với những thành tựu khoa học mới. Có những trí thức
thiếu hiểu biết thực tiễn, ch−a thoát khỏi tâm lý thụ động của thời kỳ bao cấp,
thiếu năng động trong cơ chế kinh tế mới. Tr−ớc những biến động phức tạp của
thế giới, những khó khăn ở trong n−ớc, một số ít trí thức hoang mang, dao động,
giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa xã hội [47].
Trí thức n−ớc ta đang có chiều h−ớng phát triển nhanh. Hiện nay đã có trên
120 tr−ờng ĐH, CĐ và trên 300 viện nghiên cứu khoa học. Đó là nơi đào tạo
nguồn trí thức chủ yếu cho đất n−ớc. Hàng năm chúng ta còn gửi đi đào tạo ở
n−ớc ngoài hàng ngàn l−u học sinh và hàng trăm học sinh "du học" tự túc. Riêng
các tr−ờng ĐH trong n−ớc mỗi năm đã cho ra tr−ờng trên 30.000 sinh viên. Số
này chủ yếu bổ sung vào đội ngũ trí thức n−ớc nhà, tuy nhiên vẫn còn có sự bất
17
cập trong qui hoạch đào tạo, dẫn đến nhiều ngành khoa học hàng năm không có
đủ lực l−ợng trí thức bổ sung th−ờng xuyên.
Cơ cấu đào tạo cũng đang có sự biến động, đa dạng, phức tạp. Ngoài các
tr−ờng ĐH quốc lập, đã hình thành tr−ờng dân lập, (t−ơng lai sẽ có tr−ờng t−
thục). Các tr−ờng này đang đi vào h−ớng đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu thị
tr−ờng. Các cơ sở đào tạo trong quân đội cũng tăng lên nhằm mục đích "ĐH hoá"
các sĩ quan quân đội. Nhiều tr−ờng ĐH, các viện nghiên cứu, sau khi có chủ
tr−ơng đào tạo sau ĐH ở trong n−ớc đã tăng c−ờng mở rộng lĩnh vực này và đã có
những kết quả tốt chất l−ợng ch−a cao.
Tuy điều kiện kinh tế trong n−ớc còn thấp so với nhiều n−ớc trên thế giới
nh−ng Đảng và Nhà n−ớc ta đã quan tâm đến đời sống và điều kiện làm việc của
trí thức, đã có nhiều chủ tr−ơng chính sách khuyến khích lao động khoa học của
họ. Nh−ng nhìn chung, đời sống và điều kiện làm việc của trí thức vẫn còn nhiều
khó khăn. Thu nhập của phần lớn trí thức, kể cả những cán bộ khoa học trình độ
cao, những chuyên gia đầu ngành còn quá thấp, ch−a bảo đảm cho nhu cầu đời
sống sinh hoạt hàng ngày. Trong kinh tế thị tr−ờng, mức thu nhập của trí thức so
với các nhóm xã hội khác vẫn còn nhiều bất hợp lý, nhất là đối với các cơ sở kinh
tế. Những năm gần đây, điều kiện sống và làm việc của trí thức đ−ợc cải thiện
hơn, nh−ng cũng chỉ mới một số ít khá giả. Do thu nhập thấp, nên phần lớn trí
thức phải bằng nhiều cách khác nhau làm thêm để tăng thu nhập, kể cả những
công việc không cần đến chuyên môn, nghiệp vụ của họ; nhiều trí thức đã phải
xin nghỉ việc trong cơ quan Nhà n−ớc để vào làm việc trong các công ty liên
doanh, doanh nghiệp t− nhân, là những nơi đ−ợc trả l−ơng cao. Trong khi đó,
những trí thức có trình độ cao, gắn bó với nghề nghiệp nh−ng điều kiện làm việc,
nghiên cứu khoa học, thiếu trang thiết bị, thiếu thông tin khoa học, thiếu kinh phí,
dẫn đến kết quả nghiên cứu, sáng tạo khoa học ch−a cao.
18
Một bộ phận trí thức khác rất cần thiết cho công cuộc xây dựng đất n−ớc là
trí thức Việt kiều. Với hơn 300.000 trong số hơn 2.500.000 ng−ời của động đồng
Việt Nam sống ở n−ớc ngoài, đang tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại, với
qui trình công nghệ mới. Đây là một nguồn "chất xám" lớn, rất cần cho công
cuộc xây dựng đất n−ớc, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Do vậy, Đảng và Nhà n−ớc cần phải hết sức quan tâm để có cơ chế, chính sách
phù hợp hơn nữa khuyến khích và tạo điều kiện cho trí thức Việt kiều có thể tham
gia vào công cuộc kiến thiết n−ớc nhà.
Nhìn chung, so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất n−ớc, đội
ngũ trí thức n−ớc ta còn nhiều bất cập, cả về số l−ợng, cơ cấu ngành nghề và trình
độ. Cho nên, đội ngũ trí thức n−ớc ta ch−a thật sự phát huy hết vai trò của mình
trong sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, trong những năm qua Đảng đã có thêm nhiều
chính sách nhằm phát huy vai trò to lớn của trí thức n−ớc ta. Coi trọng và tin
t−ởng vào trí thức "đó là quan điểm nhất quán tr−ớc sau nh− một của Đảng ta"
[32, 13].
1.2.2. Vai trò của trí thức n−ớc ta trong sự nghiệp đổi mới
Nghị quyết Đại hội VII đã khẳng định: vai trò và vị trí quan trọng của tầng
lớp trí thức, khẳng định ý nghĩa chiến l−ợc của khối liên minh công nhân, nông
dân và trí thức trong sự nghiệp đổi mới đất n−ớc theo định h−ớng xã hội chủ
nghĩa. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định mục tiêu trong những
năm tới của cách mạng Việt Nam là: Đ−a công cuộc đổi mới lên tầm cao mới,
đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n−ớc vì mục tiêu dân giàu, n−ớc mạnh, xã hội công
bằng và văn minh, vững b−ớc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thời đại ngày nay, lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, thực
chất của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là quá trình vận dụng
19
khoa học và công nghệ, chuyển hệ thống kinh tế - xã hội của đất n−ớc từ trạng
thái năng suất thấp, sử dụng lao động thủ công là chính sang hệ thống công
nghiệp có năng suất và hiệu quả cao, dựa trên những công nghệ tiên tiến. Các
n−ớc trên thế giới đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo những mô hình khác
nhau. Những n−ớc đi sau dựa trên những kinh nghiệm của ng−ời đi tr−ớc và với
lợi thế của mình đã dần rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá xuống
còn vài ba thập kỷ. Việt Nam chúng ta có thể thực hiện điều đó trong một thời
gian ngắn hơn thế hay không? "Câu trả lời thuộc về toàn dân, trong đó, và tr−ớc
hết thuộc về các nhà trí thức" [34].
Vai trò ấy của trí thức đ−ợc thể hiện với t− cách là một bộ phận trí tuệ quan
trọng của Đảng, của dân tộc. Đội ngũ trí thức phải xây dựng luận cứ khoa học
cho con đ−ờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở n−ớc ta; cho các quyết định lớn, từ định
h−ớng chiến l−ợc kinh tế - xã hội đến những vấn đề cụ thể nh− các chính sách,
qui hoạch, kế hoạch, dự án đầu t−... ở các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà n−ớc. Sự
đóng góp trí tuệ của đội ngũ trí thức trong công cuộc đổi mới này sẽ giúp cho
toàn Đảng và toàn dân tộc nâng cao năng lực nhận thức và hành động đúng qui
luật khách quan; khẳng định và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất n−ớc, Đảng ta đã nhấn mạnh đến vai trò của
khoa học và công nghệ đồng thời cũng nêu lên những nhiệm vụ cơ bản của các
hoạt động với t− cách là nền tảng cho việc phát triển đất n−ớc. Khoa học và công
nghệ phải cung cấp luận cứ khoa học cho các quyết định, các chủ tr−ơng, chính
sách, qui hoạch, kế hoạch, dự án đầu t−... đẩy mạnh quá trình đổi mới, nâng cao
trình độ công nghệ trong nền kinh tế một cách có trọng điểm, xây dựng và phát
triển các năng lực khoa học và công nghệ. Để từ đó làm chủ công nghệ nhập và
sáng tạo công nghệ mới, chuẩn bị cho sự phát triển của đất n−ớc sau những năm
2000.
20
Nếu khoa học và công nghệ là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất n−ớc thì trí thức là động lực của sự phát triển khoa học và công
nghệ. Vì vậy, ngày nay có thể nói trí thức là lực l−ợng đẩy nhanh, mạnh nghiên
cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong tất cả các lĩnh vực, các
ngành sản xuất, kinh doanh, quản lý, dịch vụ và an ninh quốc phòng. Trí thức là
ng−ời làm chủ và cải tiến các công nghệ nhập từ bên ngoài, tiến tới sáng tạo ngày
càng nhiều công nghệ mới ở những khâu quyết định đối với sự phát triển của đất
n−ớc tạo điều kiện, tiền đề tiềm lực cho khoa học công nghệ cho thế kỷ XXI.
Trí thức còn có vai trò hết sức quan trọng là tham gia chủ yếu vào nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi d−ỡng nhân tài, giáo dục thế giới quan khoa học,
phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo của con ng−ời Việt Nam, xây dựng nền
khoa học tiên tiến của n−ớc ta. Ngày nay, nhân tố hàng đầu mang tính chất quyết
định cho sự thành công của sự nghiệp đổi mới n−ớc ta, đó chính là sự phát triển
mạnh mẽ của sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Chính vì vậy, "Giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu". Để thực hiện t− t−ởng chiến l−ợc trên, phụ thuộc rất lớn
vào vai trò của các thầy cô giáo, các nhà giáo dục và quản lý giáo dục trên mặt
trận chống “giặc dốt” và nâng cao dân trí.
Trong thời đại ngày nay, muốn thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá phải ra sức nâng cao trình độ dân trí thông qua sự phát triển
mạnh mẽ giáo dục và đào tạo. Vì "trình độ dân trí, tiềm lực khoa học và công
nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia trên
thế giới" [33, 292].
Nếu nh− khoa học và công nghệ là động lực của việc thực hiện thắng lợi
mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n−ớc, thì con ng−ời lao động - nguồn
nhân lực có trí tuệ cao, là động lực của khoa học và công nghệ. Nguồn nhân lực
đó là sản phẩm của quá trình giáo dục, đào tạo, sản phẩm của vai trò trí thức
21
trong sự nghiệp nâng cao dân trí. Chính vì thế, trí thức đóng vai trò rất quan trọng
quyết định trong việc nâng cao năng lực nội sinh, đào tạo, bồi d−ỡng đội ngũ cán
bộ khoa học và công nhân lành nghề có đủ đức tài, đủ khả năng giải quyết phần
lớn những vấn đề then chốt đ−ợc đặt ra trong sự nghiệp đổi mới đất n−ớc.
Sau hơn m−ời năm, sự nghiệp đổi mới đã đạt đ−ợc những kết quả rất quan
trọng. Đất n−ớc không những đứng vững mà còn tiếp tục tiến lên, đời sống của đa
số nhân dân đ−ợc cải thiện, dân chủ ngày càng mở rộng, Nhà n−ớc pháp quyền
không ngừng đ−ợc củng cố, quan hệ quốc tế đ−ợc mở rộng, uy tín Việt Nam
đ−ợc nâng cao. Đạt đ−ợc những thành tựu đó là do công sức của toàn Đảng, toàn
dân, trong đó có đóng góp lớn lao của đội ngũ trí thức.
Tuy nhiên, con đ−ờng đi lên của đất n−ớc còn nhiều thách thức khó khăn,
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các n−ớc trong khu vực đã tác động vào
n−ớc ta, làm bộc lộ thêm những nh−ợc điểm về kinh tế xã hội của đất n−ớc. Để
phát triển đất n−ớc, v−ợt qua những thách thức khó khăn. Trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất n−ớc ta càng cần có một đội ngũ trí thức đông đảo.
Vì vậy, Đảng và Nhà n−ớc cần quan tâm. Nâng cao chất l−ợng đội ngũ trí thức.
Mặt khác, đội ngũ trí thức cũng phải nâng cao trách nhiệm tr−ớc dân tộc, phát
huy tiềm năng khoa học của mình, cống hiến hết sức mình, tích cực góp phần đ−a
đất n−ớc tiến lên.
Ch−ơng 2
Thực trạng đội ngũ trí thức An Giang
22
và vai trò của họ trong giai đoạn hiện nay
2.1. An Giang đất n−ớc con ng−ời
An Giang là một tỉnh của Đồng bằng sông Cửu Long, nằm ở phía Tây Nam
của Tổ quốc, giữa hai sông Tiền và sông Hậu, và dọc theo hữu ngạn sông Hậu
thuộc hệ thống sông Mêkông. Nằm trong miền nhiệt đới Bắc bán cầu với vĩ độ
thấp, nên có nguồn năng l−ợng tự nhiên rất phong phú, vừa có nguồn m−a ẩm dồi
dào, có nhiều yếu tố thuận lợi đối với sản xuất nông - lâm - ng− nghiệp. Phía
Đông giáp tỉnh Đồng Tháp; phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang, Cần Thơ và Bắc giáp
Campuchia với đ−ờng biên giới (Việt Nam - Campuchia) dài gần 100km.
Diện tích toàn tỉnh là 3.424 km2, bằng 1,03% diện tích của cả n−ớc và
đứng thứ t− ở đồng bằng sông Cửu Long, gồm 11 đơn vị hành chính trực thuộc.
Đó là thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc và 9 huyện (An Phú, Châu Phú,
Châu Thành, Chợ Mới, Phú Tân, Thoại Sơn, Tri Tôn, Tịnh Biên, Tân Châu) với
138 xã, ph−ờng, thị trấn.
Theo sử cũ, tên gọi "An Giang" xuất hiện vào thời kỳ Minh Mạng. Trong
thời kỳ chống Pháp thuộc, An Giang gồm có 3 phủ và 10 huyện, đó là phủ Tuy
Biên, Tân Thành và Ba Xuyên. An Giang đã nhiều lần thay đổi tên gọi, với những
tên khác nhau nh−: Long Xuyên và Châu Đốc; Long Châu Tiền và Long Châu
Hậu: Long Châu Hà (Xem phụ lục 1).
An Giang có hệ thống các đ−ờng giao thông thuỷ bộ thuận tiện với trục
chính là quốc lộ 91 nối với quốc lộ của Campuchia và các sông Tiền, sông Hậu.
Đay là tuyến giao l−u quốc tế quan trọng nối đồng bằng sông Cửu Long với
Campuchia, Lào, Thái Lan thông qua hai cửa khẩu quốc gia Tịnh Biên và cửa
khẩu quốc tế Vĩnh X−ơng.
23
An Giang nằm trong vùng kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều
thuận lợi về phát triển khu vực 1 (nông, lâm, thuỷ sản), có sản l−ợng lúa đứng
đầu trong các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Đồng thời, An Giang cũng là tỉnh có những đặc tr−ng riêng biệt, có đồng
bằng, có rừng và núi, có tài nguyên khoáng sản và những di tích văn hoá lịch sử...
Do đó, tỉnh có thể phát triển một nền kinh tế t−ơng đối đa dạng. Tuy nhiên, cho
đến nay các khu vực công nghiệp và xây dựng của tỉnh còn chậm phát triển.
Hai nhánh sông Tiền và sông Hậu của sông Cửu Long, chia phần đồng
bằng của tỉnh thành những cù lao đất đai màu mỡ. Cùng với các con sông, hệ
thống kênh rạch tạo ra một mạng l−ới giao thông thuỷ thuận tiện. Hệ thống sông
rạch tỉnh An Giang đã góp phần hình thành 73% diện tích là đất phù sa do bù đắp
hàng năm. Có thể nói, An Giang là một vùng sinh thái t−ơng đối đồng nhất, có
mối quan hệ bền chặt về kinh tế, xã hội và môi tr−ờng sinh thái.
Căn cứ vào địa lý kinh tế tự nhiên, An Giang hình thành hai vùng rõ rệt:
- Vùng đất cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, chiếm 30% diện tích là
vùng đồng bằng rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
- Vùng tứ giác Long Xuyên, nằm ở phía Tây sông Hậu, chiếm 70% diện
tích của tỉnh. Vùng này chia thành hai tiểu vùng: vùng đồng bằng và vùng núi.
Vùng núi có nhiều khối núi lớn, không thành dãy nh− các núi Cấm, núi Dài, núi
Cô Tô, cao nhất là núi Cấm (710m). Ngoài những tiềm năng về khoáng sản, vật
liệu xây dựng, nguồn n−ớc ngầm v.v..., vùng núi An Giang còn là nơi có triển
vọng phát triển mạnh du lịch với nhiều danh lam thắng cảnh, di tích văn hoá, lịch
sử nổi tiếng.
Theo đặc điểm thổ nh−ỡng, phần lớn đất đai ở An Giang rất màu mỡ, 70%
là đất phù sa hoặc có nguồn gốc phù sa, bằng phẳng, độ thích nghi canh tác khá
24
rộng, phù hợp với nhiều loại cây l−ơng thực, cây ăn trái, cây công nghiệp nhiệt
đới và một phần có thể dùng cho chăn nuôi.
Với diện tích đất nông nghiệp gần 248.000ha, trong đó, đất trồng lúa
chiếm 91,6% và trồng màu các loại chiếm 8,4%, có thể nói, An Giang là một tỉnh
nông nghiệp rất thuận lợi.
Ngoài vùng đồng bằng, An Giang còn có vùng núi rừng. Nơi đây rất thích
nghi cho chăn nuôi gia súc nh− bò, dê... cho phát triển lâm nghiệp. Rừng An
Giang có vị trí rất quan trọng trong việc duy trì môi tr−ờng sinh thái ổn định,
không chỉ riêng đối với An Giang mà còn đối với cả Đồng bằng sông Cửu Long.
Rừng tập trung chủ yếu ở hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên. Có 255 ha rừng tự nhiên
thuộc vùng ẩm nhiệt đới, đa số rừng cây lá rộng với 154 loài cây quí hiếm thuộc
54 họ phân bổ tự nhiên. Ngoài ra, An Giang còn có hơn 4000 ha rừng tràm.
Cũng nh− các tỉnh khác ở Đồng bằng sông Cửu Long, An Giang nằm trong
vùng nhiệt đới Bắc bán cầu, vĩ độ thấp, có nguồn năng l−ợng tự nhiên phong phú
và nguồn m−a ẩm dồi dào, có nhiều yếu tố thuận lợi đối với sản xuất nông - lâm -
ng− nghiệp. L−ợng m−a hàng năm là 1.418mm, trung bình số giờ nắng trong năm
khoảng 2.500 giờ. Hàng năm, An Giang bị ngập lũ từ tháng 8 đến tháng 11, n−ớc
dâng cao từ 1m - 2,5m, có vùng đến 3,5m.
ở An Giang điều kiện địa lý, tự nhiên, khí hậu và thuỷ văn đã ảnh h−ởng ít
nhiều đến sự phân bổ dân c−, đến đặc điểm nhân văn và xã hội. Tuy đ−ợc gọi là
tỉnh đồng bằng, nh−ng An Giang không đơn thuần chỉ có đồng bằng. An Giang
có cả một dãy Thất Sơn hùng vĩ mà các núi Tô, núi Dài, núi Cấm là tiêu biểu và
rải rác còn có những hòn núi nhỏ: núi Sam, núi Sập, núi Ba Thê... Những dãy núi
ấy không chỉ cung cấp vật liệu xây dựng khoáng sản, mà còn trang điểm thêm vẻ
đẹp thiên nhiên, lại còn tiềm ẩn dấu ấn của nền văn minh cổ x−a (Di khảo cổ óc
Eo...). Nơi đây còn để lại vết tích ch−a phai mờ về hai cuộc kháng chiến chống
25
ngoại xâm: di tích chiến thắng cầu sắt Vĩnh Thông trong kháng chiến chống
Pháp, ở xã Lạc Quới, huyện Tri Tôn; di tích chiến thắng đồi Tức Dụp, ở xã An
Tức, huyện Tri Tôn; di tích căm thù ở xã Ba Chúc (nhà mồ tập thể nơi chứa, tr−ng
bày trong mộ tròn nhà kính 1.159 bộ hài cốt trong tổng số trên 3.000 đồng bào bị
Pôn Pốt thảm sát trong chiến tranh biên giới 1978.
An Giang là tỉnh đông dân nhất so với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
với dân số 2.074.838 ng−ời (năm 1997). Dân số An Giang tập trung đông ở thành
phố (Long Xuyên 241.884), thị xã (Châu Đốc 101.853) và 4 huyện cù lao (Chợ
Mới, Tân Châu, An Phú, Phú Tân); th−a thớt dần ở các huyện vùng tứ giác Long
Xuyên; dân c− phân bố (mang tính truyền thống) dọc theo các tuyến giao thông
và các tuyến kênh rạch. Cơ cấu dân số: nam: 1.003.544 ng−ời (49%); nữ:
1.071.239 ng−ời (51%), trong đó dân số hiện đang c− trú ở nông thôn là
1.676.041 ng−ời (80%); ở thành thị là 398.797 (20%) (xem phụ lục 2). Ng−ời
trong độ tuổi lao động 63.315 ng−ời (15,26%). Nhìn chung, nguồn lao động ở An
Giang dồi dào, trẻ, khoẻ, nhạy bén tiếp thu khoa học kỹ thuật, cần cù, siêng năng.
An Giang có 4 dân tộc chính hiện đang sinh sống. Ng−ời Việt (Kinh)
chiếm 97%, còn lại 3% là các dân tộc: Khơmer khoảng 85.000 ng−ời, Chăm
khoảng 30.000 ng−ời và Hoa sống rải rác ở các địa ph−ơng bên trong tỉnh, sống
bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ và nghề tiểu thủ công nghiệp.
An Giang là nơi có nhiều tôn giáo. Tín đồ chiếm hơn 80% dân số, chủ yếu
là nông dân theo Phật giáo, Hoà Hảo, Cao Đài, Thiên Chúa giáo...
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi phát triển đi lên trong công cuộc đổi
mới, An Giang cũng gặp không ít khó khăn. Đây là tỉnh có ruộng đất bình quân
đầu ng−ời thấp so với nhiều tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long (vào năm 1995 chỉ
khoảng 0,124ha/ng−ời). Đối phó với lũ lụt hàng năm ở An Giang hiện đang còn
là vấn đề hết sức bức xúc, có liên quan đến sự phát triển các mặt của đời sống
26
kinh tế, xã hội. Chống lũ, tránh lũ, né lũ hay sống vùng với lũ lụt là việc giải
quyết vô cùng khó khăn, gian khổ và phức tạp. Kinh tế chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp giản đơn, chất l−ợng lao động nhìn chung còn thấp. 96% số lao động là
lao động thủ công, chủ yếu sử dụng năng l−ợng cơ bắp. Lao động kỹ thuật chỉ
chiếm 3,84%. Mặt bằng dân trí thấp, còn tới 21,8% dân số ch−a biết chữ, ch−a có
truyền thống hiếu học. Cơ sở phục vụ cho sự phát triển nông nghiệp và sự nghiệp
giáo dục, y tế, văn hoá xã hội ở nông thôn những năm qua, tuy đ−ợc tăng c−ờng,
nh−ng nói chung vẫn còn nghèo nàn, thiếu thốn.
Hiện nay, vấn đề đặt ra cho Đảng bộ An Giang, các cấp chính quyền, các
giai cấp, tầng lớp ở tỉnh An Giang là làm sao phát huy cho hết những thuận lợi và
khắc phục đ−ợc những khó khăn nhằm nâng cao đời sống của nhân dân An Giang
trong công cuộc đổi mới.
2.2. Thực trạng của đội ngũ trí thức An Giang
Trong những năm đổi mới đất n−ớc cùng với sự phát triển của đội ngũ trí
thức n−ớc ta. Trí thức An Giang đã có b−ớc phát triển đáng kể về số l−ợng và
chất l−ợng. Hiện nay, toàn tỉnh có 6.880 ng−ời có trình độ trên ĐH, ĐH và CĐ và
đang có mặt ở hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội nh− sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, giáo dục, khoa học, văn hoá, cán bộ lãnh đạo quản lý trong các
cơ quan Đảng, Nhà n−ớc, Đoàn thể và trong lực l−ợng vũ trang... So sánh với số
liệu năm 1994 và 1995, đội ngũ trí thức là 5.232 ng−ời, trong đó số ng−ời có
trình độ trên ĐH là 5 (0,9%) [17], thì đến năm 1997 và năm 1998 đã là 51
(0,72%). Năm 1995 ở An Giang, trong số 2.003.607 ng−ời, thì bình quân 291
ng−ời dân có một cán bộ có trình độ từ CĐ trở lên. Nh− vậy, số l−ợng cán bộ
khoa học kỹ thuật của tỉnh An Giang còn thấp so với bình quân cả n−ớc nay là
106 dân/1 cán bộ khoa học kỹ thuật [39].
27
Phần lớn đội ngũ trí thức tỉnh An Giang đ−ợc đào tạo từ sau ngày miền
Nam hoàn toàn giải phóng. Thời kỳ này An Giang đang đứng tr−ớc những khó
khăn lớn. Khó khăn lớn nhất là phải gánh chịu hậu quả nghiêm trọng của 30 năm
chiến tranh; những ảnh h−ởng nặng nề của chủ nghĩa thực dân mới ở một tỉnh
vùng yếu; còn phức tạp trong nhiều vấn đề dân tộc, tôn giáo; biên giới, lại là địa
bàn mà các phần tử thù địch dùng làm nơi nhen nhóm các hoạt động chống phá
cách mạng... Đây cũng là thời kỳ An Giang gặp rất nhiều khó khăn, về mặt khách
quan, đó là thiên tai và địch hoạ; về chủ quan đó là cơ sở chính sách tập trung
quan liêu bao cấp và yếu kém về bộ máy tổ chức. Năm 1977 hạn hán kéo dài,
năm 1978 - 1979 là hai năm An Giang liên tục bị lũ lụt lớn và phải đối phó với
chiến tranh biên giới Tây Nam gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất đời sống.
Trong tình hình phức tạp đó, An Giang vừa lo phát triển sản xuất, ổn định
đời sống dân c−, giữ gìn an ninh chính trị; vừa lo khắc phục hậu quả của chiến
tranh biên giới, của thiên tai; vừa đào tạo đội ngũ trí thức. Nhất là, trong những
năm đổi mới đất n−ớc, đội ngũ trí thức đã đ−ợc phát triển hầu hết ở các ngành
trong tỉnh, tuy ch−a đều, nh−ng đây là sự cố gắng rất lớn của Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân An Giang.
Trí thức An Giang đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, con em trí thức
cách mạng, con em cán bộ của Đảng, và Nhà n−ớc... và hầu hết đ−ợc đào tạo
trong nhà tr−ờng xã hội chủ nghĩa, tr−ởng thành trong thực tiễn bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc nên có quan hệ gắn bó với nhân dân.
Cơ cấu của đội ngũ trí thức An Giang hiện nay còn bất hợp lý:
Theo trình độ học vấn thì trí thức có trình độ trên ĐH mới chỉ chiếm
(0,07%) còn quá thấp so với cả n−ớc là 12% (30,29). Nhiều lĩnh vực kinh tế - xã
hội quan trọng (công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm...) còn thiếu cán bộ
đầu đàn nên gặp khó khăn trong việc đẩy mạnh tốc độ tăng tr−ởng và chuyển
28
dịch cơ cấu kinh tế. Số l−ợng trí thức đáp ứng cho yêu cầu lâu dài của tỉnh còn
quá ít.
Sự phân bổ đội ngũ trí thức trong các ngành cũng không đều. Tập trung
đông nhất là giáo dục, chiếm 41,61%, y tế: 24,55%. Trong khi đó, nông nghiệp là
ngành có thế mạnh của kinh tế An Giang, thì trí thức chỉ chiếm 7,92% [42, 13].
Trí thức trong ngành nông nghiệp, chủ yếu tập trung ở các ngành trồng trọt, chăn
nuôi, thuỷ sản, thuỷ nông, thuỷ lợi và lâm nghiệp. Số trí thức rất cần thiết cho
phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn thì còn thiếu nhiều, nh− trí thức
các ngành khí t−ợng thuỷ văn, địa chất, môi tr−ờng, địa chính chế biến thuỷ sản...
Số cán bộ trong lĩnh vực khoa học kinh tế có tỉ lệ thấp 3% và mới có ở một số
ngành, nh− cơ khí, điện, điện tử, kiến trúc, xây dựng... Một số các ngành rất cần
trí thức nh−ng đang thiếu là: hoá công nghiệp, hoá thực phẩm, cơ khí chế tạo, cơ
khí nông nghiệp, công nghiệp nông thôn... Sự phân bổ trí thức vừa kể này hạn chế
rất lớn đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.
Theo thành phần kinh tế, thì trí thức trong các cơ quan hành chính sự
nghiệp chiếm đến 78,7%, còn các doanh nghiệp và trực thuộc doanh nghiệp chỉ
chiếm 13,2%, kinh tế cá thể chiếm 8,5%. Điều này sẽ làm hạn chế đến việc thực
hiện tinh thần chung là khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức kinh
doanh mở rộng sản xuất đầu t−, phát triển theo chiều sâu vận dụng khoa học và
công nghệ hiện đại.
Sự phân bổ ở các vùng lãnh thổ cũng mất cân đối. Trí thức tập trung chủ
yếu ở tỉnh (thành phố Long Xuyên) 41%, ít nhất là huyện Tịnh Biên chỉ chiếm
3,2% (là huyện vùng núi vừa là huyện giáp biên giới Campuchia) [39]. Chính sự
phân bố không đồng đều này làm cho nguồn nhân lực khoa học công nghệ để
phát triển theo mục tiêu kinh tế - xã hội của từng vùng sẽ kém hiệu quả.
29
Trí thức An Giang còn bất hợp lý trong cơ cấu, không đơn thuần là số liệu,
mà qua đó còn ảnh h−ởng đến chất l−ợng lao động sáng tạo khoa học của đội ngũ
này.
Những năm gần đây, nhiều trí thức đã chủ động tìm cách bổ sung kiến thức
và nâng cao trình độ của mình, nhanh chóng nắm bắt đ−ợc những kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến, những kiến thức mới và nhiều ngành khoa học kể cả khoa
học Mác-Lênin. Tuy vậy, trí thức An Giang vẫn ch−a thoát khỏi tình trạng chung
của cả n−ớc là số đ−ợc đào tạo mới ra tr−ờng kém về kỹ năng thực hành và ngay
một phần lớn kiến thức do nhà tr−ờng đào tạo cũng tỏ ra lạc hậu so với yêu cầu
của thực tế công tác, tỉ lệ ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đời sống
ch−a cao.
Trình độ ngoại ngữ của trí thức An Giang còn yếu. Chỉ tính riêng trong
tổng số 284 cán bộ khoa học công nghệ của tỉnh, thì có 123 ng−ời có trình độ
ngoại ngữ (chiếm tỉ lệ 43%), trong đó sử dụng thành thạo chỉ có 5,6%, sử dụng
đ−ợc trong chuyên môn chỉ có 13% và giao dịch thông th−ờng 24,6% [39].
ở An Giang, hàng năm kinh phí đầu t− cho một đề tài khoa học còn thấp,
nguồn tài chính cho hoạt động khoa học công nghệ ít ỏi (chiếm khoảng 0,5%
trong chi ngân sách địa ph−ơng), bình quân 2.500đ/dân, hoặc 363.372 đồng (33
USD)/ cán bộ khoa học kỹ thuật, tức là còn thấp hơn mức đầu t− cho khoa học kỹ
thuật bình quân chung cả n−ớc. Trong khi đó, mức chi phí đầu t− cho cán bộ
khoa học kỹ thuật ở Việt Nam hiện còn ở mức thấp so với các n−ớc trong khu vực
[50].. Đây là một nguyên nhân hạn chế việc nâng cao năng lực và hiệu quả đóng
góp của trí thức, tạo ra nguy cơ hẫng hụt về kiến thức, năng lực thực hành của đội
ngũ này.
Tình trạng "chảy máu chất xám" cũng có chiều h−ớng phát triển ở An
Giang. Chất xám chảy về thành phố Hồ Chí Minh, chảy từ nông thôn ra thành
30
phố, thị xã, chảy từ các đơn vị nhà n−ớc ra các tổ chức t− nhân... Việc này làm
ảnh h−ởng đến kế hoạch cân đối phát triển nguồn nhân lực lâu dài và những chỉ
tiêu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội... của tỉnh.
Mấy năm tr−ớc đây, tr−ớc sự sụp đổ của Liên Xô, Đông Âu, khá đông trí
thức An Giang đã hoang mang, phân vân lo lắng. Nh−ng qua nhiều lần đ−ợc học
tập, nhất là tr−ớc những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội của cả n−ớc và của
tỉnh nhà, đã giúp đội ngũ trí thức củng cố thêm niềm tin vào công cuộc đổi mới,
vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà n−ớc ta. Từ đó, họ phấn đấu đóng góp nhiều
công sức vào công cuộc xây dựng và phát triển tỉnh nhà.
Hầu hết trí thức có nhận thức khá đầy đủ về tầm quan trọng của việc nâng
cao trình độ cán bộ trong thời kỳ mới, nên bản thân mỗi ng−ời đều có nguyện
vọng đ−ợc học thêm về chuyên môn nghiệp vụ, về ngoại ngữ và tin học. Tuy nhiên,
không phải ai cũng thực hiện đ−ợc nguyện vọng đó trong điều kiện hiện nay.
Đời sống của đội ngũ trí thức An Giang cũng còn nhiều khó khăn, nhất là
trí thức hoạt động ở vùng núi, vùng biên giới. Trí thức ở các ngành hành chính sự
nghiệp, thì các chế độ l−ơng ch−a t−ơng xứng với thành quả lao động mà họ đóng
góp. Các chế độ phụ cấp, khen th−ởng vật chất khác cho sáng tác, nghiên cứu
khoa học còn nhiều bất hợp lý. Do đời sống còn thấp và khó khăn nên họ có phần
băn khoăn lo lắng và mong muốn Đảng và Nhà n−ớc có chính sách đãi ngộ xứng
đáng về vật chất và tinh thần để có thể sống và yên ấm làm việc với ngành nghề
đ−ợc đào tạo.
Cũng giống nh− nhiều đối t−ợng khác trong xã hội, trí thức An Giang băn
khoăn, lo lắng tr−ớc sự phát triển chậm lại về kinh tế; lo lắng về nguy cơ tụt hậu,
nhất là tụt hậu về trí tuệ; lo lắng về sự ô nhiễm môi tr−ờng, xã hội và sự xuống
cấp về văn hoá, tình trạng chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần của một bộ phận
ng−ời trong xã hội... Họ không yên tâm tr−ớc tình trạng sa sút về đạo đức, lối
31
sống của một bộ phận cán bộ. Họ mong muốn Nhà n−ớc có biện pháp điều chỉnh
thu nhập để bình đẳng giữa các ngành nghề. Mặt khác, họ cũng muốn đ−ợc cung
cấp các ph−ơng tiện phục vụ cho công việc khoa học nh− máy móc, thiết bị thông
tin, phòng thí nghiệm, th− viện...
Ngoài đội ngũ trí thức đã có của tỉnh hiện nay, An Giang còn có lực l−ợng
sẽ tiếp tục đ−ợc bổ sung là lực l−ợng sinh viên. Từ năm 1996 đến nay, hàng năm
có gần 2000 sinh viên con em nhân dân trong tỉnh theo học ở các tr−ờng ĐH.
Tính bình quân ở An Giang 100.000 dân có khoảng 100 sinh viên. Tuy còn thấp
so với bình quân cả n−ớc là 250 sinh viên [39], nh−ng nhờ kinh tế xã hội ổn định,
có tốc độ phát triển khá, nên số l−ợng con em An Giang đi học ĐH những năm
tới sẽ tăng lên, đóng góp tích cực và quan trọng cho sự phát triển của tỉnh trong
những năm tới đây.
2.3. Những đóng góp quan trọng của trí thức An Giang cho sự phát
triển của tỉnh
Mở đầu cho sự nghiệp đổi mới ở An Giang là nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng
bộ lần thứ IV (tháng 10 năm 1986) đã tập trung, cố gắng tháo gỡ mọi trở lực; đề
ra các giải pháp để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân; nâng cao tích
luỹ, trong đó có nông nghiệp chủ yếu là l−ơng thực đ−ợc xác định là nền tảng là
mặt trận hàng đầu, nông dân là chủ thể của quá trình đổi mới và nông thôn là địa
bàn chiến l−ợc.
Sau đó Nghị quyết về nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội năm 1987 khẳng
định: "Phải tạo ra một sự chuyền biến mạnh mẽ về đổi mới t− duy toàn diện, nhất
là t− duy về kinh tế, đi đôi với kiên quyết xoá bỏ cơ chế hành chính tập trung qua
liêu bao cấp, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chuyển hẳn sang hạch toán
kinh tế xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
thật sự "lấy dân làm gốc", lấy chăm lo phát triển sản xuất cuộc sống của nhân
32
dân làm mục tiêu hàng đầu... vận dụng những chính sách thích hợp và thực hiện
các biện pháp kiên quyết, tích cực để củng cố niềm tin tạo ra sự chuyển động và
phấn khởi mới trong ._.ơn 10.000 học sinh lớp 12) thì việc đầu t− xây dựng tr−ờng ĐH ở An Giang
là hoàn toàn phù hợp và chính đáng, để đào tạo nguồn nhân lực có chất l−ợng cao
cho tỉnh. Ngoài ra phải đầu t− xây dựng các trung tâm ngoại ngữ, tin học của tỉnh
để đáp ứng nhu cầu giao l−u quốc tế, đáp ứng tình hình bùng nổ thông tin và yêu
cầu chung về nâng chất l−ợng đội ngũ trí thức và nguồn nhân lực nói chung.
Đầu t− thành lập Trung tâm ứng dụng chuyển giao công nghệ, Trung tâm
nghiên cứu giống lúa, củng cố nâng cấp các trung tâm, phòng kiểm nghiệm kiểm
định hàng hoá, d−ợc phẩm, thực phẩm, các trung tâm y tế dự phòng... để đội ngũ
trí thức An Giang có điều kiện khai thác có hiệu quả năng lực sáng tạo của mình.
Đồng thời, đầu t− cho các công trình đề tài nghiên cứu của đội ngũ trí thức. Bởi
vì, có kinh phí đầu t− cho khoa học mới triển khai đ−ợc các công trình, đề tài
nghiên cứu và có đầy đủ điều kiện và ph−ơng tiện cần thiết cho hoạt động sáng
tạo khoa học. Qua đó, trí thức cống hiến ngày càng tốt hơn cho công cuộc đổi
mới tỉnh nhà.
Đầu t− cho phát triển nguồn lực, trong đó có nguồn nhân lực cao, tức đội
ngũ trí thức là lĩnh vực đầu t− tiết kiệm nhất, bền vững nhất và hiệu quả nhất.
Trong những năm qua Tỉnh uỷ, ủy ban nhân dân đã quan tâm đến việc xây dựng
nguồn nhân lực. Nhất là từ khi có Nghị quyết Trung −ơng 4 (khoá VII), việc đầu
t− để phát triển đội ngũ trí thức ngày càng phát triển về số l−ợng và chất l−ợng.
65
Tuy vậy, nhìn chung, trí thức của tỉnh còn ít về số l−ợng, phân bố không đồng
đều, và còn một số mặt yếu kém khi đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì thế,
An Giang cần phải có qui hoạch đầu t− cho giáo dục, cho đào tạo lại và bồi
d−ỡng định kỳ, th−ờng xuyên cho trí thức An Giang. Có chính sách gìn giữ đội
ngũ và thu hút ng−ời giỏi về địa ph−ơng để giữ ổn định đội ngũ và phát triển đội
ngũ ngày càng vững mạnh.
Để đáp ứng đ−ợc yêu cầu trên, tỉnh cần tận dụng nhiều nguồn đầu t−: đầu
t− của địa ph−ơng và nguồn vốn khác mà Nhà n−ớc cho phép (trong các doanh
nghiệp, nhân dân...), tranh thủ nguồn vốn đầy đủ của Trung −ơng, tài trợ quốc tế,
các tổ chức khoa học - công nghệ và các tổ chức phi chính phủ [10, 34]. Ngoài ra
tỉnh cần phải kiên quyết chống tệ tham nhũng và kiên quyết thực hiện tốt quyền
sở hữu trí tuệ để tạo môi tr−ờng khoa học thật sự trong sạch, bình đẳng... để trí
thức phát huy hết tài năng trí tuệ của mình góp phần thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới tỉnh nhà.
Bên cạnh việc đầu t− cho khoa học và giáo dục - đào tạo, để phát huy vai
trò đội ngũ trí thức, cần chú ý chăm sóc đời sống và đãi ngộ xứng đáng về vật
chất, tinh thần đối với lao động của ng−ời trí thức An Giang, nhằm tạo điều kiện
cho đội ngũ này phát huy vai trò ngày càng quan trọng của họ trong công cuộc đổi
mới.
Khi loài ng−ời b−ớc vào nền văn minh trí tuệ, thì mọi quốc gia, dân tộc nếu
không muốn tụt hậu thì phải quan tâm xây dựng và −u đãi tầng lớp trí thức,
những nhân tài vì sự phát triển phồn vinh của quốc gia dân tộc mình.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa càng phải chú ý đến động lực của ng−ời lao
động nói chung và của trí thức nói riêng. Động lực chi phối hoạt động của con
ng−ời là hệ thống phức tạp những nhu cầu lợi ích trong đó có lợi ích xã hội, tập
thể và cá nhân. Vì vậy, phải giải quyết một cách hài hoà tất cả các mối quan hệ
66
đó. Ngày nay, lợi ích cá nhân, trên thực tế là động lực mạnh mẽ nhất của ng−ời
lao động. Chính vì vậy, phải "có chính sách chăm lo điều kiện làm việc, lợi ích
vật chất và tinh thần của ng−ời nghiên cứu, phát minh và ứng dụng khoa học
công nghệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, −u đãi nhân tài có cống hiến quan trọng,
khuyến khích cán bộ làm việc ở vùng xa, vùng sâu, ngăn chặn tình trạng chảy
máu chất xám" [28,108] và "Muốn cho khoa học và công nghệ trở thành động lực
của sự phát triển thì tr−ớc hết phải tìm cho ra động lực phát triển của bản thân
khoa học và công nghệ. Động lực này nằm ở chỗ lợi ích của những ng−ời phát
minh, ứng dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ bao gồm cả lợi ích vật chất
và lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị - xã hội sản phẩm trí tuệ hội
tr−ớc hết phải là sở hữu của ng−ời trực tiếp tạo ra chúng, đ−ợc coi nh− thứ hàng
hoá đặc biệt đ−ợc trả l−ơng t−ơng xứng với giá trị của chúng [30,126].
Công cuộc đổi mới của Đảng đã đặt ra cho đội ngũ trí thức những yêu cầu
mới, những nhiệm vụ rất nặng nề, đồng thời cũng tạo ra môi tr−ờng, cơ hội để trí
thức không ngừng v−ơn lên, phát huy trí tuệ, tài năng để cống hiến cho sự nghiệp
phát triển đất n−ớc. Đội ngũ trí thức An Giang thời gian qua với sự quan tâm của
Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân họ đã có những đóng góp to lớn, quan trọng vào công
cuộc đổi mới tỉnh nhà, tuy nhiên đời sống còn nhiều khó khăn họ ch−a hoàn toàn
an tâm dành hết tâm lực cho hoạt động sáng tạo.
Bởi vậy, An Giang cần có chính sách −u đãi về vật chất đối với đội ngũ
trí thức, sự −u đãi đó bao gồm cả đáp ứng những yêu cầu rất thông th−ờng của
đời sống vật chất nh−: ăn, ở, tiện nghi cho sinh hoạt, làm việc, nghỉ ngơi và
nâng cao sức khoẻ... Đó chính là nguồn động viên thiết thực để trí thức An
Giang yên tâm cống hiến tài năng lao động sáng tạo của mình cho đất n−ớc,
cho An Giang.
67
Để chăm lo bảo đảm đời sống cho đội ngũ trí thức, An Giang cần phải cải
tiến chế độ tiền l−ơng, phụ cấp, tiền th−ởng cho phù hợp. Thu nhập của đội ngũ
trí thức An Giang hiện nay chủ yếu bằng tiền l−ơng, các chế độ, chính sách khen
th−ởng, đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức ch−a hợp lý, ch−a đủ tạo động lực bảo
đảm lợi ích chính đáng của ng−ời trí thức. Vì vậy, cần có chế độ đãi ngộ đặc biệt
đối với những trí thức công tác tại các vùng nông thôn, vùng núi, vùng biên giới
và khuyến khích −u đãi đối với các ch−ơng trình đề tài phục vụ cho sự phát triển
ở những vùng này. Thực hiện chế độ th−ởng, trợ cấp cho các công trình khoa học
đ−ợc đánh giá xuất sắc và có giá trị thực tiễn. Khuyến khích và có chính sách hỗ
trợ kinh phí cho cán bộ có điều kiện tiếp tục học và làm các luận án thạc sĩ, tiến
sĩ. Quan tâm hỗ trợ điều kiện làm việc và các tiện nghi sinh hoạt góp phần giúp
trí thức "an c− để lạc nghiệp" nhất là trí thức tình nguyện đến công tác ở những
vùng khó khăn. Đây cũng là nguồn lực khích lệ trí thức An Giang yên tâm phấn
khởi, tích cực lao động khoa học và có sáng tạo ngày càng tốt hơn.
Bên cạnh chính sách −u đãi về vật chất, cần quan tâm đến đời sống tinh
thần của đội ngũ trí thức An Giang, bằng các hình thức động viên về chính trị và
tinh thần, hình thức tôn vinh tài năng. Cần đánh giá đúng đắn trình độ, tài năng
và sự cống hiến của trí thức. Từ đó khen th−ởng kịp thời thoả đáng theo đúng đức
tài, theo cống hiến thực tế, chống bình quân chủ nghĩa. Khuyến khích trí thức
tiến thân bằng con đ−ờng khoa học đi sâu vào lĩnh vực chuyên môn của mình,
th−ờng xuyên tổ chức các giải th−ởng về khoa học - công nghệ cấp tỉnh, kịp thời
khen th−ởng những tổ chức, cá nhân nghiên cứu ứng dụng có hiệu quả các thành
tựu khoa học, những nhà giáo dạy giỏi, có công đào tạo lớp trẻ... Qua đó làm cho
bậc thang giá trị xã hội của trí thức đ−ợc nâng lên.
Trong thực tế nhu cầu về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần là hai mặt luôn
thống nhất, gắn bó chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau cùng tạo thành động lực nhằm
68
phát huy hết khả năng lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức. Do đó, các cấp, các
ngành phải đặc biệt quan tâm đến lợi ích vật chất và cả lợi ích tinh thần của trí
thức An Giang. Mọi sự tách rời, hay tuyệt đối hoá một yếu tố động lực nào đó sẽ
dẫn đến sai lầm và không thể phát huy hết khả năng sáng tạo của trí thức. Tuy
nhiên phải tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể mà vận dụng cho phù hợp.
3.2.4. Tăng c−ờng sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của chính quyền
các cấp đối với trí thức An Giang
Để nâng cao hơn nữa, vai trò của trí thức An Giang trong công cuộc đổi
mới, ngoài những biện pháp cơ bản trên cần phải tăng c−ờng sự lãnh đạo của
Đảng và sự chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với đội ngũ này. Thực tế những
năm qua, Đảng và chính quyền các cấp ở An Giang đã có những cố gắng xây
dựng và nâng cao chất l−ợng đội ngũ trí thức. Nh−ng nhìn chung, hệ thống chính
sách đối với cán bộ khoa học - công nghệ, đối với trí thức còn chậm đ−ợc nghiên
cứu và triển khai. Đầu t− cho lao động sáng tạo của trí thức còn thấp, ch−a đủ để
trí thức có thể tái tạo sức lao động; ch−a có những sức mạnh nhằm thu hút và
khuyến khích cán bộ trí thức có trình độ cao. Đó cũng là một nguyên nhân dẫn
đến lao động sáng tạo của trí thức An Giang ch−a phát huy đ−ợc đầy đủ. Cho
nên, để phát huy vai trò trí thức An Giang trong công cuộc đổi mới, cần tăng
c−ờng sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với đội
ngũ này. Đó chính là nhân tố quan trọng và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Sự lãnh đạo của Đảng sẽ làm cho khoa học và công nghệ thực sự trở thành
động lực, góp phần tạo chuyển biến mới trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo h−ớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, bảo đảm nền kinh tế An
Giang phát triển nhanh và bền vững. Sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi phát huy
hết khả năng của đội ngũ trí thức An Giang để thực hiện có hiệu quả các nhiệm
vụ kinh tế xã hội của tỉnh.
69
Để tăng c−ờng sự lãnh đạo và sự chỉ đạo đối với trí thức An Giang, tr−ớc
hết, Đảng cần có chủ tr−ơng đ−ờng lối chính sách đúng đắn trong xây dựng đội
ngũ trí thức và hoạt động khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo... Đồng thời,
th−ờng xuyên có sự kiểm tra việc thực hiện chủ tr−ơng, chính sách ấy, tạo điều
kiện cho khoa học - công nghệ và trí thức phát triển mạnh mẽ. Muốn vậy, Đảng
phải nâng cao trình độ kiến thức về mọi mặt, đặc biệt là kiến thức về khoa học và
công nghệ. Nếu không, Đảng sẽ khó có thể lãnh đạo một cách sát thực đối với lao
động khoa học của trí thức và các cơ quan khoa học. Ngoài ra, để nâng cao trình
độ của mình, Đảng phải phát huy trí tuệ của chính đội ngũ trí thức, của các Liên
hiệp hội khoa học, các cơ quan lý luận và các cơ quan tham m−u... Tr−ớc mắt,
Đảng cần lãnh đạo để hoàn chỉnh cơ chế và hệ thống tổ chức cũng nh− ph−ơng
h−ớng nội dung hoạt động khoa học của các tổ chức này. Thành lập Hội đồng
khoa học - công nghệ tỉnh và các hội đồng chuyên ngành để phát huy các chức
năng t− vấn khoa học cho các cấp uỷ Đảng và chính quyền trên các lĩnh vực khoa
học chuyên ngành khác nhau.
Tăng c−ờng sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức An Giang, cần đổi mới
phong cách lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với hoạt
động nghiên cứu khoa học của trí thức. Tăng c−ờng sự lãnh đạo không phải là sự
bao biện và sự can thiệp quá sâu vào hoạt động chuyên môn mà ng−ợc lại Đảng
chủ tr−ơng và tạo điều kiện để phát huy dân chủ, bảo đảm môi tr−ờng tự do trong
nghiên cứu, sáng tạo cho trí thức và các tổ chức khoa học.
Muốn nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng cần phải nâng cao ý thức phê và
tự phê bình trong sinh hoạt Đảng ở các tổ chức đơn vị khoa học. Coi đó là qui
luật tồn tại và phát triển của Đảng. Cần chú trọng công tác phát triển Đảng trong
đội ngũ trí thức, nhất là cho trí thức trẻ để họ có điều kiện cống hiến hơn nữa tài
năng, trí tuệ của mình cho sự nghiệp đổi mới của Đảng.
70
Tăng c−ờng sự lãnh đạo phải gắn liền với sự quản lý, chỉ đạo của chính
quyền đối với trí thức, với hoạt động khoa học. Chính quyền quản lý, chỉ đạo đối
với trí thức, đối với hoạt động khoa học bằng sự cụ thể hoá định h−ớng của Đảng.
Và để cụ thể hoá định h−ớng của Đảng, thì chính quyền các cấp cũng phải nâng
cao trình độ trí tuệ theo h−ớng cập nhật kiến thức mới về khoa học công nghệ.
Hiện nay sự quản lý, chỉ đạo của chính quyền đối với trí thức, với hoạt
động khoa học An Giang cần tập trung vào đổi mới cơ chế quản lý khoa học và
công nghệ theo h−ớng khuyến khích áp dụng công nghệ mới, tăng c−ờng đầu t−
cho các đề tài nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ, theo h−ớng khuyến
khích áp dụng công nghệ mới, tăng c−ờng đầu t− cho các đề tài nghiên cứu ứng
dụng khoa học vào sản xuất.
Thực hiện từng b−ớc việc đấu thầu và khoán công trình trong nghiên cứu
khoa học và chuyển giao công nghệ. Khuyến khích các nhà khoa học, chuyên gia
giỏi ở các viện, tr−ờng trong và ngoài n−ớc, cán bộ khoa học công nghệ đã nghỉ
h−u tham gia làm cố vấn, cộng tác viên cho các ch−ơng trình, dự án nghiên cứu
triển khai chuyển giao công nghệ để góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà.
Quản lý, chỉ đạo của chính quyền cần phải tập trung xây dựng, ổn định hệ
thống tổ chức hoạt động khoa học, nâng cao năng lực hiệu quả quản lý của Sở
Khoa học công nghệ và môi tr−ờng đối với các hoạt động khoa học và công nghệ
trong tỉnh.
Tăng c−ờng các hoạt động thông tin khoa học - công nghệ và hợp tác quốc
tế và trong n−ớc về khoa học - công nghệ. Hạn chế tối đa những tổn thất do thiếu
hiểu biết về chuyển giao công nghệ và thiếu trách nhiệm trong đàm phán. Đẩy
mạnh phong trào toàn dân phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tiếp nhận, áp
dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong sản xuất và đời sống.
71
Từng b−ớc củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng c−ờng cán bộ
giỏi cho Hội đồng khoa học - công nghệ tỉnh và các Hội đồng chuyên ngành.
Thành lập Hội đồng thẩm định công nghệ đủ trình độ, năng lực, uy tín và bản
lĩnh, hoạt động có chất l−ợng và hiệu quả.
Thực hiện tốt những nội dung cơ bản trên đây là thiết thực tăng c−ờng sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của chính quyền đối với hoạt động khoa học -
công nghệ và đội ngũ trí thức An Giang nhằm tạo ra môi tr−ờng và điều kiện
thuận lợi cho các tổ chức khoa học và đội ngũ này hoạt động có hiệu quả và phát
huy hết tài năng sáng tạo của mình.
Sau nữa, cần nhắc lại là, để trí thức An Giang phát huy tốt vai trò của
mình, từ nay đến năm 2010, cần tạo môi tr−ờng khoa học thật sự cần thiết và
thuận lợi cho trí thức. Đó là môi tr−ờng về chính trị, kinh tế, thông qua sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý chỉ đạo của chính quyền về chiến l−ợc phát triển
khoa học và công nghệ, giáo dục - đào tạo, bồi d−ỡng và sử dụng. Qua đó tạo
nguồn cảm hứng sáng tạo cho trí thức An Giang phát minh ra cái mới, lựa chọn,
tiếp thu và ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất và
đời sống, góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và sự phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh nhà lên một b−ớc mới.
Từ những yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của An Giang, đội ngũ trí
thức An Giang cần phải đ−ợc xây dựng lớn mạnh cả về số l−ợng và chất l−ợng.
Đó là nhu cầu cấp bách của thực tiễn và đời sống ở địa ph−ơng.
Những giải pháp nêu trên ch−a phải đã đầy đủ và cụ thể song đó là những
giải pháp chủ yếu cần đ−ợc vận dụng ở tỉnh và ở các địa bàn của địa ph−ơng.
Có giải pháp và thực hiện tốt giải pháp là vấn đề không đơn giản đòi hỏi nỗ
lực chung của các ngành các cấp ở địa ph−ơng và đòi hỏi các nỗ lực của chính
đội ngũ trí thức tỉnh nhà.
72
73
Kết luận
Nghiên cứu về trí thức và phát huy vai trò trí thức nói chung, trí thức An
Giang nói riêng là vấn đề lớn, bao hàm nhiều nội dung, phải giải quyết mối quan
hệ trên các lĩnh vực khác nhau. Luận văn này là kết quả học tập, tìm tòi, khảo sát
thực tế và b−ớc đầu sử dụng các ph−ơng pháp nghiên cứu, phân tích, tổng hợp,
kết hợp lý luận với thực tiễn để nghiên cứu đội ngũ trí thức và vai trò to lớn của
nó ở tỉnh An Giang tr−ớc yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ đặt ra, luận văn đã tập trung làm rõ vai
trò của trí thức trong sự nghiệp đổi mới đất n−ớc. Đặc biệt là vai trò của trí thức
trong việc nhận thức, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, t− t−ởng Hồ Chí Minh, xây
dựng luận cứ khoa học cho con đ−ờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở n−ớc ta; tham gia
đắc lực đổi mới quản lý, đổi mới công nghệ, đ−a lực l−ợng sản xuất lên trình độ
phát triển mới, phát huy mạnh mẽ vai trò động lực của khoa học công nghệ trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
d−ỡng nhân tài... Qua đó, góp phần to lớn cùng toàn dân tạo nên những thành tựu
quan trọng cho sự nghiệp đổi mới của Đảng trong những năm qua.
Trí thức An Giang là một bộ phận của trí thức n−ớc ta. Đội ngũ này hầu hết
xuất thân từ giai cấp nông dân, con em trí thức cách mạng...; đa số đ−ợc đào tạo
trong nhà tr−ởng xã hội chủ nghĩa, tr−ởng thành trong thực tiễn bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc nên có mối quan hệ gắn bó với nhân dân, với Đảng. Trong những
năm đổi mới, với đ−ờng lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân An
Giang, đã tạo nên những thành tựu đáng kể, trong đó đội ngũ trí thức An Giang
ngày càng phát triển về số l−ợng, chất l−ợng và đã có những đóng góp quan trọng
vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Đặc biệt sự đóng góp này
74
đ−ợc thể hiện ở một số lĩnh vực quan trọng là: nông nghiệp, công nghiệp, giáo
dục, y tế...
Tr−ớc yêu cầu của công cuộc đổi mới trong giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh và thực trạng của trí thức An Giang hiện nay,
chúng ta nhận thấy đội ngũ này còn nhiều bất cập cần phải có những biện pháp
để khắc phục; Tr−ớc hết, phải đổi mới có hiệu quả sự nghiệp giáo dục đào tạo để
đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi d−ỡng đội ngũ trí thức An Giang đáp ứng yêu cầu
số l−ợng, chất l−ợng và cơ cấu, nhất là ở những ngành kinh tế trọng điểm, thế
mạnh của tỉnh, đồng thời sử dụng có hiệu quả đội ngũ trí thức An Giang. Mặt
khác, cần tăng c−ờng mức đầu t− cho hoạt động nghiên cứu khoa học và có chính
sách −u đãi đối với đội ngũ trí thức công tác ở những vùng sâu, vùng biên giới,
vùng núi...; cần tạo môi tr−ờng và điều kiện cần thiết để trí thức An Giang lao
động sáng tạo có hiệu quả cao nhất; phải tăng c−ờng hơn nữa sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với hoạt động của trí thức
An Giang. Những giải pháp cơ bản đó nhằm tạo ra những điều kiện để phát huy
tiềm năng lao động sáng tạo của trí thức An Giang trong công cuộc đổi mới ở địa
ph−ơng.
Nghiên cứu trí thức An Giang để tìm ra những giải pháp phát huy vai trò
sáng tạo của đội ngũ lao động này trong công cuộc đổi mới tỉnh nhà là vấn đề rất
quan trọng, bức thiết hiện nay. Tuy nhiên do thời gian và khả năng của ng−ời
nghiên cứu có hạn, việc nghiên cứu về vai trò, vị trí, cơ cấu và phân bố đội ngũ trí
thức ở An Giang dù đã đ−ợc đề cập trong luận văn, song chắc chắn sẽ không
tránh khỏi những hạn chế và thiết sót. Rất mong nhận đ−ợc sự chỉ dẫn, góp ý bổ
sung của các thầy cô trong Hội đồng bảo vệ luận văn.
Là một cán bộ giảng dạy ở tr−ờng CĐ s− phạm, tôi rất tâm đắc với sự
nghiệp phát huy vai trò của trí thức trong tỉnh nói chung và đội ngũ trí thức của
75
ngành giáo dục nói riêng. Việc chọn lựa và thực hiện luận văn này tr−ớc hết là
thể hiện nhiệt tình, trách nhiệm của ng−ời nghiên cứu, còn chất l−ợng khoa học
của luận văn chỉ là kết quả nghiên cứu b−ớc đầu trên con đ−ờng nghiên cứu và
học tập của bản thân.
Có đ−ợc kết quả này là nhờ sự giúp đỡ tận tình của thầy h−ớng dẫn, các
thầy cô trong Trung tâm bồi d−ỡng cán bộ Mác-Lênin của Đại học quốc gia, sự
giúp đỡ tận tình và cung cấp tài liệu của các ban ngành ở địa ph−ơng.
Một lần nữa ng−ời viết luận văn xin đ−ợc bảy tỏ lòng biết ơn sâu sắc.
76
Phụ lục
77
1. Phụ lục 1. Quá trình thay đổi tên gọi của tỉnh An Giang
Tháng năm Tên gọi Chính quyền
1868 Chia An Giang thành 2 tỉnh:
Long Xuyên - Châu Đốc
Pháp thuộc (thống đốc Dela
Grandiere)
12/1948 Thành lập 2 tỉnh: Long Châu
Tiền và Long Châu Hà (lấy
sông Hậu làm ranh giới)
Uỷ ban kháng chiến hành
chính Nam Bộ.
Sau 1954 Thành lập tỉnh An Giang bao
gồm 2 tỉnh Châu Đốc và Long
Xuyên
Ngô Đình Diệm (sắc lệnh số
143/Việt Nam ngày
22/10/1956)
10/1964 Thành lập tỉnh Châu Đốc và
An Giang
Chính quyền Sài Gòn (săc−
lệnh số 246/Việt Nam ngày
10/10/1964.
1971 An Giang tách 2 tỉnh là An
Giang và Châu Đốc.
1974 Đổi tên An Giang và Châu Hà
thành Long Châu Hà và Long
Châu Tiền
Chính quyền cách mạng
Sau 1975 Thành lập tỉnh An Giang (sự
hợp nhất 2 tỉnh Long Châu Hà
- Long Châu Tiền).
Đảng Lao động Việt Nam
(QĐ số 19/NQ ngày
20/12/1975).
78
2. Phụ lục 2. Dân số trung bình tỉnh An Giang
Năm Tổng số Nam Nữ Thành thị Nông thôn
1995 2.003.997 970.171 1.033.496 371.552 1.632.115
1996 2.039.532 986.124 1.053.408 387.758 1.166.774
1997 2.074.838 1.003.599 1.071.239 398.797 1.676.041
Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh An Giang 1995 - 1997/23.
3. Phụ lục 3. Diện tích, năng suất, sản l−ợng l−ơng thực
1976 1987 1995 1996 1997
Diện tích gieo
trồng (ha)
252.872 306.463 412.960 432.229 421.750
Năng suất lúa
(tấn)
2,24 3,36 52,54 50,39 48,32
Sản l−ợng l−ơng
thực (tấn)
508.470 902.635 2.169.469 2.178.000 2.037.822
L−ơng thực đầu
ng−ời (kg/ng−ời)
372 520 1.115 1.099 998
Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh An Giang 1995 - 1997/54.
79
4. Phụ lục 4. Cơ cấu nền kinh tế (1990 - 1998)
Năm Nông nghiệp Công nghiệp Xây dựng Dịch vụ
1990 59,44 6,55 2,47 31,55
1991 60,50 7,14 1,83 30,53
1992 57,62 7,97 1,72 32,69
1993 57,83 8,05 2,19 31,93
1994 56,22 8,72 2,36 32,70
1995 53,59 9,66 2,07 34,68
1996 48,27 9,92 2,40 39,41
1997 43,61 10,09 1,67 43,63
1998 43,82 9,92 2,70 43,55
Nguồn: Đánh giá thực trạng công nghiệp năm 1991 - 2000 - Sở Công
nghiệp An Giang.
80
5. Phụ lục 5. Tỷ trọng (%) các phân ngành công nghiệp trong các năm qua
(1990-1998)
Ngành công nghiệp 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
1. CN chế biến LTTP 50,80 66,76 61,20 60,49 63,81 57,82 60,50 57,17 59,63
2. CN cơ khí 10,63 8,55 10,48 10,05 9,89 9,40 8,49 9,31 9,30
3. CN sản xuất vật liệu XD 9,06 5,15 8,26 8,70 9,95 9,72 9,73 12,92 11,26
4. CN dệt, da, may, nhuộm 0,28 0,24 0,36 0,36 0,45 4,80 4,17 3,78 3,76
5. CN chế biến gỗ và lâm sản 17,29 9,33 10,00 10,40 7,90 9,61 8,96 8,05 6,45
6. CN hoá chất 5,27 4,44 3,51 3,45 2,64 1,90 1,15 1,26 1,27
7. CN in 0,17 0,21 0,21 0,27 0,46 0,53 0,82 0,91 0,97
8. CN sản xuất và PP điện n−ớc 5,07 4,14 4,89 5,12 4,28 5,18 5,63 6,04 6,82
9. CN khác 1,38 1,15 1,03 1,10 0,58 0,57 0,53 0,54 0,52
Nguồn: Đánh giá thực trạng công nghiệp năm 1991 - 2000 - Sở Công
nghiệp An Giang
6. Phụ lục 6. Vốn đầu t− của 4 liên doanh
Số
TT
Tên doanh nghiệp Ngành nghề sx Vốn đầu t−
(USD)
Lao động
(ng−ời)
1. LD CNTP An Thái Mì ăn liền 5.117.835 270
2. LD Angimex - Kitocu Chế biến gạo xuất khẩu 4.500.000 9
3. LD Angimex-ViệtSing CB nấm rơm xuất khẩu 200.000 1
4. LD Latina-Angiang KTCB đá granite 1.530.000 37
Tổng số 11.347.835 317
Nguồn: Đánh giá thực trạng công nghiệp năm 1991-2000 - Sở Công
nghiệp An Giang
81
7. Phụ lục 7. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu
Chỉ tiêu Đơn vị 1995 Đến 2000 Đến 2010
A. Các chỉ tiêu kinh tế
1. Dân số 1000 ng−ời 2004 2185 2555
Tỉ lệ tăng tự nhiên % 1,85 1,70 1,50
2. GPD bình quân đầu ng−ời 1000 đồng 2.802 5.943-6.202 16.021-19.716
3. Tốc độ tăng bình quân giai
đoạn
% 9,9 11,0 - 12,0 11,5 - 12,5
4. Tỷ lệ huy động GDP vào ngân
sách
% 11,6 13 - 15 15 - 17
5. Xuất khẩu Triệu USD 130 240 - 260 750 - 800
6. Nhập khẩu “ 80 200 - 240 700 - 750
B. Các chỉ tiêu xã hội
1. Thất nghiệp so với tổng số LĐ % 9,1 5 - 6 3 - 4
2. Hộ nghèo so với tổng số hộ % 8 3 - 4 0
3. Tỉ lệ đi học so dân số % 20 25 35
4. Tuổi thọ bình quân tuổi 65 68 72
5. Dân c− dùng n−ớc sạch % 24 80 95
6. Nhà ở không bị lũ lụt % 100 100
7. Điện tiêu thụ bình quân KW/ng−ời 62 183 - 206 500 - 550
Nguồn: Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh An Giang 1996 -
2010.
82
Danh mục tài liệu tham khảo
[1] Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ An Giang, Báo cáo tình hình đội ngũ trí
thức và việc xây dựng phát huy vai trò của trí thức trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh An Giang, An Giang, 1999.
[2] Bộ Giáo dục - Đào tạo - Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Số
liệu thống kế giáo dục, Hà Nội, 1996.
[3] Báo Nhân dân ngày 5/11/1998.
[4] Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ tỉnh An Giang, Báo cáo tình hình và
nhiệm vụ tại Đại hội đại biểu lần thứ IV, tháng 10/1986..
[5] Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ An Giang, Báo cáo về tình hình thực
hiện nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ IV và ph−ơng h−ớng,
nhiệm vụ, chủ tr−ơng, giải pháp 5 năm 1991 - 1995.
[6] Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ An Giang, An Giang 20 năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc và tiến hành công cuộc đổi
mới (1995 - 1996), An Giang 1997.
[7] Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ tỉnh An Giang, Ch−ơng trình hành
động hực hiện nghị quyết Trung −ơng lần thứ hai, khoá VIII, An
Giang, 1997
[8] Nguyễn Đức Bách, Mấy vấn đề cần đổi mới, tạo động lực và điều
kiện để trí thức n−ớc ta phát huy tài năng trí tuệ, Thông tin Công tác
khoa giáo, số 4/1995.
[9] Nguyễn Trọng Bảo, Gia đình, nhà tr−ờng, xã hội với việc phát hiện,
tuyển chọn, đào tạo, bồi d−ỡng, sử dụng và đãi ngộ ng−ời tài. Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 1996.
83
[10] Cục Thống kê An Giang, Niên giám thống kê 1993 - 1996.
[11] Cục Thống kê An Giang, Niên giám thống kê 1995 - 1997.
[12] Cục Thống kê Cần Thơ, Số liệu kinh tế - xã hội các tỉnh Đồng bằng
sông Cửu Long, 4/1998.
[13] Cơ sở lý luận văn học, tập 1, Nxb Đại học và trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội, 1980.
[14] Phạm Tất Dong, Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
[15] Thành Duy, Xu thế phát triển của đội ngũ trí thức n−ớc ta trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n−ớc, Tạp chí Thông tin lý
luận tháng 1/1997.
[16] Đảng cộng sản Việt Nam, C−ơng lĩnh xây dựng đất n−ớc trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1995.
[17] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
[18] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Trung −ơng 4 (khoá
VIII), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1993.
[19] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
[20] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Trung −ơng 2 (khoá
VIII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.
[21] Đảng bộ tỉnh An Giang, Nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ IV, An
Giang, 10/1986.
84
[22] Đảng bộ tỉnh An Giang, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An
Giang lần V, An Giang, 1991.
[23] Đảng bộ tỉnh An Giang, Văn kiện Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh
giữa nhiệm kỳ, khoá V, An Giang, 1994.
[24] Phan Thanh Khôi, Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí
thức, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, 4/1996.
[25] Phan Thanh Khôi, Danh hiệu ng−ời trí thức, Tạp chí Nhân đạo
11/1995.
[26] Phan Thanh Khôi, Luận điểm về trí thức trong “Tuyên ngôn” và
ng−ời trí thức hôm nay, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng
12/1998.
[27] Phan Thanh Khôi, Phát huy nguồn lực chất xám phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thủ đô, phần I, đề tài khoa học cấp bộ,
Hà Nội, 1997.
[28] Phan Thanh Khôi, Đội ngũ trí thức, chuyên gia và các cán bộ quản
lý khoa học - thực trạng và giải pháp, Chuyên đề 16 thuộc đề tài cấp
Nhà n−ớc KHXH-05-03, Hà Nội, 1999.
[29] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, M, 1994.
[30] C.Mác - Ăngghen, Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980.
[31] Hồ Chí Minh, Về chính sách xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995.
[32] Đỗ M−ời, Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất
n−ớc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
[33] Đỗ M−ời, Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1997.
85
[34] Đỗ M−ời, Phát huy vai trò của các hội khoa học và đội ngũ trí thức
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n−ớc, Báo Nhân dân
số 16 tháng 1/1997.
[35] Đỗ M−ời, Bài phát biểu khai mạc Hội nghị Trung −ơng lần thứ hai,
Ban chấp hành Trung −ơng khoá VIII ngày 16/12/1996, Báo Nhân
dân 26/12/1996.
[36] Nguyễn Đình Minh, Nâng cao vai trò của trí thức quân đội trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, Luận án thạc sĩ khoa học triết học,
Hà Nội, 1997.
[37] Nguyễn Xuân Ph−ơng, Đổi mới quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản với việc phát huy khả năng lao động sáng tạo của tầng lớp
trí thức n−ớc ta hiện nay, Luận án thạc sĩ khoa học triết học, Hà Nội,
1997.
[38] Nguyễn Văn Sơn, Về vai trò của đội ngũ lao động trí thức cao trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Thông tin lý luận
tháng 6/1996.
[39] Sở khoa học - công nghệ An Giang, Tóm tắt tình hình nguồn nhân
lực và cán bộ có trình độ trên ĐH - CĐ ở An Giang 1994 -1995.
[40] Sở Khoa học - công nghệ An Giang, Bảng tổng hợp số liệu cán bộ
khoa học kỹ thuật tỉnh An Giang 1994 - 1995.
[41] Sở khoa học - công nghệ An Giang, Một số nhận định qua cuộc
điều tra khảo sát cán bộ có trình độ trên ĐH ở tỉnh An Giang, An
Giang, 1997.
86
[42] Sở khoa học - công nghệ An Giang, Báo cáo đề tài khoa học nhu
cầu về nhân lực của kinh tế và xã hội An Giang thời kỳ 1997 - 2005,
An Giang, 1999.
[43] Sở Công nghiệp tỉnh An Giang, Đánh giá thực trạng công nghiệp 10
năm (1991 - 2000), An Giang, 1999.
[44] Sở Y tế An Giang, Đánh giá thực trạng ngày y tế An Giang đến năm
1998.
[45] Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ, M và Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986..
[46] Từ điển Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Tiến bộ, M và Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1986.
[47] Nguyễn Đình Tứ, Tình hình đội ngũ trí thức và công tác trí thức của
Đảng. Trình bày tại lớp cán bộ lãnh đạo trong giới trí thức quán triệt
đ−ờng lối quan điểm của Đảng ngày 23/01/1996 tại Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
[48] Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội tỉnh An Giang 1996 - 2010.
[49] Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
năm 1996.
[50] Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang, Báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội
năm 1996 - 1997.
[51] Võ Tòng Xuân, Tổng kết khoa học: Phát triển tổng hợp kinh tế xã
hội nông thôn qua 7 năm xây dựng và phát triển tỉnh An Giang, An
Giang, 1996.
87
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7052.pdf