Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 21, đất nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới: thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, hướng tới kinh tế tri thức và mở rộng hội nhập quốc tế với nhiều thuận lợi và khó khăn, thử thách phải vượt qua. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: “Lấy việc phát triển nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
114 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường Trung học phổ thông (THPT) tỉnh Thái Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng nhấn mạnh: tiếp tục “phát huy nhân tố con người” và “tăng cường nguồn lực con người” để “từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển, đầu tư cho con người chính là tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển, là bảo đảm vững bền cho sự phồn thịnh của mỗi quốc gia. Việc phát triển nguồn nhân lực là “chìa khóa” quyết định thành công của giai đoạn cách mạng mới trên đất nước ta.
GD-ĐT có vị trí quan trọng để phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục trong hệ thống trường học với chủ thể là đội ngũ nhà giáo là con đường ngắn nhất và khoa học nhất để truyền thụ tri thức cho học sinh một cách cơ bản có hệ thống và hiệu quả. Hệ thống giáo dục nước ta hiện nay có nhiều cấp học, ngành học được xây dựng chặt chẽ và mang tính phát triển, đội ngũ nhà giáo là lực lượng nòng cốt thực hiện mục tiêu GD-ĐT, là người xây dựng cho học sinh thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, trang bị cho học sinh tri thức và phương pháp tư duy khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo. Vì vậy, vai trò của đội ngũ nhà giáo rất quan trọng, công việc của họ sẽ để lại dấu ấn trong tương lai. Khi nói về vai trò của đội ngũ nhà giáo, tại hội nghị giáo dục ở Australia năm 1993 các đại biểu đã đưa ra nhận định “Người giáo viên sẽ là người có trách nhiệm làm thay đổi thế giới”. Đảng ta cũng xác định “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh” [10, tr.38-39].
Nằm trong cấu trúc chung của hệ thống giáo dục quốc dân, các trường THPT là một cấp học, một bộ phận hữu cơ của giáo dục phổ thông, là cầu nối giữa bậc tiểu học, THCS với bậc đại học. Nếu giáo dục đại học là khâu trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao tham gia quá trình CNH, HĐH đất nước, thì giáo dục THPT là khâu chuẩn bị cho học sinh THPT – bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động. ở cấp học này, đội ngũ nhà giáo có vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo học sinh thành nguồn nhân lực có tri thức, có năng lực và phẩm chất, có đủ điều kiện để tiếp cận bậc GD-ĐT cao hơn hoặc lao động ở một ngành nghề cụ thể khi chưa có khả năng học tiếp. Nhưng hiện nay trong các trường THPT, “đội ngũ nhà giáo vừa thiếu lại vừa thừa, một bộ phận nhỏ nhà giáo chưa đạt chuẩn đào tạo, một số thiếu năng lực giảng dạy và tinh thần trách nhiệm. Đáng lo ngại là tác động tiêu cực của cơ chế thị trường đã làm xói mòn phẩm chất của một số nhà giáo gây ảnh hưởng xấu đến uy tín người thầy trong xã hội” [4, tr.21]. Điều đó làm hạn chế việc thực hiện vai trò đào tạo nguồn nhân lực của đội ngũ nhà giáo, là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thực trạng: nhiều học sinh kiến thức lệch lạc, thiếu hiểu biết các vấn đề chính trị - xã hội, một bộ phận học sinh suy thoái về đạo đức, lối sống; phần lớn học sinh sau khi tốt nghiệp THPT thiếu khả năng tự tìm kiếm việc làm, chưa vững vàng trước những biến đổi phức tạp của cuộc sống. Chất lượng đào tạo ở cấp học này chưa thực sự đáp ứng được mục tiêu đặt ra. Đặc biệt, vào thời điểm hiện nay dấu hiệu một cuộc khủng hoảng GD-ĐT đã đến mức khiến xã hội phải lên tiếng.
Là người đã từng trực tiếp tham gia công tác giáo dục ở một trường THPT thuộc tỉnh Thái Bình, mong muốn qua việc khảo sát vai trò của đội ngũ nhà giáo ở một tỉnh để có thể phát hiện những tiềm năng đang tiềm tàng, khơi dậy năng lực sáng tạo, nhiệt tình cống hiến của đội ngũ nhà giáo trong công tác giáo dục thế hệ công dân mới của đất nước, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tỉnh Thái Bình hiện nay” .
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của GD-ĐT và vai trò của đội ngũ nhà giáo đối với việc phát triển nguồn nhân lực nên ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập tới các khía cạnh khác nhau của vấn đề nhà giáo và vai trò của đội ngũ nhà giáo:
Những công trình có tính chất định hướng cho việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa GD-ĐT với việc phát triển nguồn nhân lực và đội ngũ nhà giáo trong mối quan hệ đó như: “Con người Việt Nam, mục tiêu và động lực phát triển KT-XH” mã số KX.07 do GS.TS Phạm Minh Hạc chủ biên với nhiều vấn đề được phân tích trong đó có các vấn đề phát triển GD-ĐT, bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực, gia đình - nhà trường - xã hội với việc phát hiện, tuyển chọn, giáo dục và đãi ngộ người tài; “Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ 21, kinh nghiệm của các quốc gia” của Viện nghiên cứu phát triển giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, là tập hợp những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến lĩnh vực chiến lược phát triển giáo dục.
Những công trình nghiên cứu khoa học ít nhiều có đề cập đến đặc điểm, vai trò của đội ngũ nhà giáo trong giai đoạn hiện nay như: “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác-Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay” của Phạm Văn Thanh, công trình chủ yếu bàn về đội ngũ nhà giáo Mác-Lênin và vai trò của đội ngũ này trong các trường đại học; “Trí thức giáo dục đại học Việt nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” của Nguyễn Văn Sơn với nội dung bàn về việc xây dựng đội ngũ nhà giáo ở các trường đại học đáp ứng yêu cầu của giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay; “Giáo dục đạo đức cho học sinh THCS tại thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay” của Đỗ Tuyết Bảo đi sâu nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của GD-ĐT đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh THCS trong điều kiện mới; “Kinh tế thị với sự hình thành và phát triển nhân cách của người thầy giáo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Như Thơ đã lý giải những biến đổi trong quá trình hình thành và xây dựng nhân cách sư phạm cho đội ngũ nhà giáo; “Giáo dục đạo đức XHCN qua bộ môn GDCD cho học sinh THPT ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu” của Nguyễn Sỹ Quyết Tâm với những giải pháp đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh THPT...
Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT trên địa bàn một tỉnh, trong đó có tỉnh Thái Bình. Do vậy, trên cơ sở kế thừa những thành quả của các công trình khoa học đi trước, đứng ở giác độ chuyên ngành CNXHKH chúng tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tỉnh Thái Bình hiện nay” để thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và vai trò của đội ngũ nhà giáo, luận văn làm rõ thực trạng vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tỉnh Thái Bình, từ đó đưa ra giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT của tỉnh.
Nhiệm vụ: Luận văn có 3 nhiệm vụ cụ thể sau:
Làm rõ những khái niệm: đội ngũ nhà giáo, nguồn nhân lực, học sinh THPT, từ đó phân tích đặc điểm, vai trò của đội ngũ nhà giáo với tư cách là chủ thể quan trọng trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT.
Đánh giá đúng thực trạng vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tại tỉnh Thái Bình hiện nay.
Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tỉnh Thái Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu đội ngũ nhà giáo dưới góc độ chính trị - xã hội thể hiện trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực.
- Phạm vi: Vai trò của đội ngũ này trong thời kỳ đổi mới nhất là trong những năm gần đây.
- Địa bàn nghiên cứu: Các trường THPT tỉnh Thái Bình.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực từ lực lượng học sinh THPT.
* Cơ sở thực tiễn:
Luận văn nghiên cứu toàn bộ hoạt động của đội ngũ nhà giáo ở các trường THPT tỉnh Thái Bình hiện nay trong mối quan hệ với quá trình đào tạo nguồn nhân lực.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, kế thừa, logic và lịch sử, thống kê, điều tra xã hội học…, gắn lý luận với thực tiễn chính trị - xã hội của vấn đề.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Xác định các xu hướng biến động về vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT hiện nay.
Xác định quan điểm và hệ thống giải pháp để nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT trong thời gian tới.
7. ý nghĩa của luận văn
ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực; làm cơ sở để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo ở các trường THPT; làm tài liệu tham khảo cho ngành GD-ĐT mà trước hết là ngành GD-ĐT Thái Bình. Góp phần làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu một số vấn đề về trí thức, con người, nguồn nhân lực.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương 6 tiết.
Chương 1
Học sinh trung học phổ thông - Bộ phận của Nguồn nhân lực và Vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo bộ phận nhân lực này
1.1. Học sinh trung học phổ thông - Bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực
1.1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, quốc gia nào cũng nhận thức rõ nguồn nhân lực là nhân tố quyết định đến sự phát triển KT-XH của đất nước. Nhiều quốc gia đã xây dựng cho mình chiến lược phát triển nguồn nhân lực và coi đó là vấn đề cốt lõi cho sự phát triển.
Khi nói đến “nguồn nhân lực” tức là muốn nói đến một tài sản quý, vốn quý có khả năng sinh sôi nảy nở và có thể đem ra sử dụng. Tài sản quý, vốn quý đó gắn liền với con người - một đơn vị tế bào tạo nên nguồn nhân lực, là đối tượng cần được đầu tư, được giáo dục và được đào tạo. Có thể hiểu nguồn nhân lực ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, nói tới nguồn nhân lực là nói tới con người hiện thực và chất lượng phát triển của con người gắn liền với bản chất xã hội.
Các nhà triết học mácxít đã khẳng định: con người hiện thực là một chỉnh thể sinh học - xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người. Kết hợp hai mặt sinh học và xã hội, con người có một năng lực tiềm ẩn (tiềm năng), khi được sử dụng và gặp môi trường thuận lợi thì tiềm năng ấy được phát huy, lúc đó con người trở thành động lực cho sự phát triển KT-XH. Môi trường đó chính là hoạt động lao động - hoạt động bản chất nhất của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ cho cuộc sống: “Lao động là điều kiện cơ bản, đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và như thế đến một mức mà trên một nghĩa nào đó chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”[26, tr.641]. Và, mặc dù: “Bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc, chúng ta là thuộc về tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên”[26, tr.665] nhưng nhờ có lao động mà: “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” [26, tr.673]. Lao động mang ý nghĩa nhân bản sâu xa bởi trong lao động con người đã làm biến đổi tự nhiên, biến đổi cả bản thân mình và đã làm nên lịch sử của cả xã hội loài người. Điều đó cho thấy, nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử - xã hội thì đặc trưng bản chất nhất của nguồn nhân lực là sự phản ánh trình độ phát triển, mức độ hoàn thiện con người trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Chính các hoạt động nhận thức thực tiễn của con người đã làm hoàn thiện nhân cách, trình độ, trí tuệ và thể lực của con người, giúp con người thực hiện các chức năng xã hội của mình. Vì vậy, khi đào tạo nguồn nhân lực cần phải phát triển cả mặt sinh học (sức khỏe, nuôi dưỡng, vệ sinh, môi trường...) và mặt xã hội (kiến thức, kỹ năng, đạo đức, lối sống...) cho con người. Đây là điều kiện để tạo ra những khả năng, tiềm năng của nguồn nhân lực đồng thời cũng là cơ sở để có giải pháp phát huy vai trò của nguồn nhân lực.
Thứ hai, nói tới nguồn nhân lực là nói tới con người trong tư cách cá nhân và cá thể tồn tại, hoạt động, sống và tự biểu hiện đời sống của mình trong mối liên hệ với những người khác, với cả cộng đồng, chịu ảnh hưởng cũng như sự tác động của các quan hệ xã hội và điều kiện lịch sử - xã hội mà cá nhân đó đang sinh sống.
Khi xem xét mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, các nhà triết học mácxít đã chứng minh được: con người là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh. Nhưng hoạt động sáng tạo ra hoàn cảnh của con người lại chỉ được thực hiện trong mối quan hệ với cộng đồng. Xã hội và quan hệ xã hội là điều kiện để con người thể hiện bản tính phong phú và tư duy sáng tạo của mình. Do đó, khả năng của con người hay của nguồn nhân lực được huy động vào quá trình phát triển xã hội sẽ trở thành những thông số quan trọng để nghiên cứu và điều chỉnh một cách có ý thức nguồn nhân lực của từng quốc gia hoặc từng địa phương.
Thứ ba, nói đến nguồn nhân lực cần nhấn mạnh đến vai trò tích cực, sáng tạo của con người trong hoạt động thực tiễn, nó thể hiện ở vai trò chủ thể sáng tạo trong quá trình phát triển đồng thời cũng là khách thể của quá trình phát triển, thể hiện trong việc con người cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo bản thân.
Các nhà mácxít khẳng định: sự thay thế của các hình thái KT-XH trong lịch sử là do sự phát triển của LLSX. Mà trong LLSX, con người là yếu tố cách mạng và năng động nhất. Chính con người đã làm nên những biến đổi về tính chất và trình độ của LLSX để rồi đưa xã hội tiến lên. Với luận điểm, xã hội tạo ra con người ở mức độ nào thì con người cũng tạo ra xã hội ở mức độ đó đã cho thấy: trong tiến trình các cuộc cải biến xã hội, con người luôn là mục tiêu đồng thời là động lực của tiến trình đó. Thực tế đã chứng minh, ở đâu các lực lượng cách mạng có ý thức đầy đủ về vai trò của con người, có giải pháp hiện thực hóa vai trò của con người thì sự nghiệp cách mạng ở đó sẽ giành thắng lợi. Với ý nghĩa đó, xét trong quá trình phát triển thì con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực.
Kế thừa và phát triển những luận điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp tục nghiên cứu và khẳng định, con người là những cá nhân cụ thể, vừa tồn tại với tư cách cá nhân với những nhu cầu, khát vọng và năng lực tiềm tàng lại vừa tồn tại với tư cách là những thành viên của gia đình, của cộng đồng dân tộc. Bằng năng lực và trách nhiệm đối với xã hội, con người có vai trò to lớn, quyết định tới thành công của cách mạng, tiến bộ của xã hội, tiền đồ của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Người viết: “Vô luận việc gì đều do con người làm ra”[32, tr.113]. Rằng “Phải bồi dưỡng, đào tạo và phát huy năng lực của con người, của từng cá nhân và của cả cộng đồng dân tộc [34, tr.56].
Từ cơ sở đó có thể quan niệm rằng: Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng của con người trong một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó, có khả năng huy động vào quá trình phát triển KT-XH của đất nước hoặc một vùng, một địa phương cụ thể. Nguồn nhân lực là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, của các nguồn lực, có khả năng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Cấu trúc nguồn nhân lực của một quốc gia gồm những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có hay không làm việc. ở Việt Nam, theo Luật lao động, nam tuổi từ 15-60; nữ tuổi từ 15-55, có khả năng lao động đều thuộc nguồn nhân lực.
1.1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội
Để phát triển KT-XH cần có nhiều nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định sự phát triển, vì con người vừa là một nguồn lực, vừa là chủ thể của các nguồn lực khác. Con người bằng lao động sáng tạo đã phát hiện ra ngày càng nhiều nguồn lực trong tự nhiên và từ nguồn lực tự nhiên tạo thành những nguồn lực mới, làm tăng lên những khả năng có thể có của đất nước, của dân tộc cho sự phát triển. Mặt khác do đặc tính lao động sáng tạo của con người mà nguồn nhân lực trở nên sinh động và không cạn kiệt, hơn nữa nguồn nhân lực có khả năng phát triển, tái sinh và tự nhân mình lên gấp bội. Vì vậy, để đảm bảo cho sự phát triển bền vững thì cần phải quan tâm bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cả về trí tuệ, năng lực, thể lực và đạo đức.
Cách đây hơn 150 năm, Mác đã đề cập tới phát triển con người toàn diện, lấy đó làm cơ sở cho sự phát triển xã hội CSCN. Ông cho rằng sự phát triển LLSX xã hội trước hết là: “Phát triển sự phong phú của bản chất con người, như là một mục tiêu tự thân”[28, tr.168]. Theo Mác-Ăngghen, cuộc đấu tranh của những người cộng sản chống lại trật tự tư sản chính là nhằm mục đích “tạo ra hoàn cảnh có tính người” để “phát triển những năng lực phẩm chất người”. Kết quả của cuộc đấu tranh đó là sự xuất hiện một liên hợp, trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người”. Nguồn nhân lực vừa là một yếu tố của sản xuất, của tăng trưởng kinh tế, vừa là mục tiêu của sự phát triển, “phát triển nguồn nhân lực chính là hoạt động đầu tư, là quá trình bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực nhằm tạo ra cho lực lượng này những năng lực, phẩm chất cần thiết, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển KT-XH”. Việc phát hiện và làm bộc lộ tiềm năng của nguồn nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của con người chỉ có thể thông qua hoạt động thực tiễn, qua đó làm tích cực hóa nguồn nhân lực, tạo ra sự giải phóng cho tiềm năng của con người để dẫn tới sự sáng tạo của con người. Vấn đề là phải phát triển một nguồn nhân lực như thế nào, làm thế nào để khơi dậy và phát huy được vai trò của của nguồn nhân lực đó?
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, để xây dựng CNXH và CNCS cần phải có một nguồn nhân lực có chất lượng, nguồn nhân lực đó chính là những con người mới XHCN. Thời Mác-Ăngghen, tuy chưa có những điều kiện khách quan cho sự ra đời của con người mới XHCN nhưng qua việc nghiên cứu những quy luật phát triển nội tại của CNTB, các ông đã phác họa những nét chính của con người mới đại diện cho nguồn nhân lực của chế độ xã hội mới. Đó là những con người phát triển toàn diện, không bị trói buộc suốt đời vào một sự phân công lao động nào, những con người lấy lao động làm nguồn hứng thú duy nhất trong đời sống, ngày càng có đầy đủ năng lực và phẩm chất để làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân. Lênin cũng nói đến con người mới khá cụ thể, đó là những con người có tinh thần làm chủ tập thể, có năng lực làm chủ, hăng say lao động, coi trọng sản xuất, coi trọng của công, có kỷ luật tự giác cao, có tri thức khoa học, có khả năng tiếp thu những thành tựu mới nhất của nền văn minh hiện đại vì “người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản sau khi làm giàu trí tuệ của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”[22, tr.8]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để xây dựng thành công CNXH thì phải có những con người XHCN, đó là những con người vừa “hồng vừa chuyên”, “vừa có đức vừa có tài”, những con người phát triển toàn diện cả về nhận thức, tình cảm và ý chí, những con người yêu nước, yêu chủ nghĩa quốc tế vô sản. Những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận của Đảng CSVN trong vấn đề đào tạo một nguồn nhân lực với những con người cường tráng về thể chất, trong sáng về tinh thần, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức và nhân cách đáp ứng được sự nghiệp cách mạng của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Việc tạo ra nguồn nhân lực để xây dựng xã hội là sự nghiệp của nhiều “binh chủng”, trong đó ngành GD-ĐT đóng vai trò quyết định.
1.1.1.3. Giáo dục - đào tạo là nhân tố có ý nghĩa quyết định chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được phát triển bằng nhiều con đường khác nhau, song GD-ĐT là con đường có hiệu quả nhất. GD-ĐT là hoạt động đặc biệt chỉ có trong xã hội loài người, đó là hoạt động có tổ chức của xã hội nhằm bồi dưỡng và phát triển các phẩm chất và năng lực cho con người cả về tư tưởng, đạo đức, khoa học, sức khỏe và nghề nghiệp. Ngay từ khi CNXH còn là học thuyết, Mác-Ăngghen đã đánh giá cao vai trò của sự nghiệp giáo dục, các ông cho rằng giáo dục là nhiệm vụ cần thiết, bắt buộc đối với mọi người. Trong tác phẩm “Nguyên lý của CNCS” Mác-Ăngghen đã nói tới chế độ giáo dục trong một xã hội tổ chức theo nguyên tắc CSCN là “giáo dục công cộng, không mất tiền cho tất cả trẻ em”, giáo dục toàn diện cả “trí dục, thể dục” và “kỹ thuật bách khoa”. Các ông nhấn mạnh: sự nghiệp xây dựng xã hội mới trong đó cùng với phát triển kinh tế còn phải xây dựng văn hóa, đào tạo con người, vì thế cần phải chú ý đến nhiệm vụ giáo dục, coi đó là biện pháp hàng đầu để đào tạo con người mới với tư cách là chủ thể sáng tạo có ý thức của xã hội mới. Lênin đã vận dụng quan điểm của Mác-Ăngghen để phát triển giáo dục ở nước Nga ngay sau Cách mạng Tháng Mười. Trong lúc nước Nga còn đang rất khó khăn, nghèo về kinh tế, lạc hậu về văn hóa, …Lênin đã nhận thấy việc nâng cao trình độ văn hóa, giáo dục và kỹ thuật là vô cùng cần thiết để thoát khỏi tối tăm, nghèo nàn, bệnh tật. Ông nhấn mạnh: lúc này Nhà nước Xô Viết phải coi phát triển giáo dục là một nhiệm vụ trọng tâm; tất cả mọi người, đặc biệt là thanh niên phải có nhiệm vụ “học tập” vì nếu không xây dựng được một nền học vấn hiện đại thì “CNCS cũng chỉ là một nguyện vọng mà thôi”[23, tr.175]. Những luận điểm của Mác-Ăngghen và Lênin cùng những kinh nghiệm thực tiễn về tầm quan trọng của giáo dục trong quá trình đào tạo con người mới để xây dựng xã hội mới đến nay vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục soi sáng cho các dân tộc muốn có sự phát triển nhanh và bền vững.
Việt Nam là một dân tộc hiếu học, trọng tri thức, trọng học vấn. Từ ngàn xưa ông cha ta đã đúc kết nên bài học lịch sử: để xây dựng xã tắc vững bền, để quốc gia cường thịnh thì phải chăm lo cho nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng khẳng định “phí trí bất hưng”, nhà chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu cũng cho rằng “người Việt Nam phải ngẩng cao đầu để tự cứu lấy mình bằng tài năng và trí tuệ của mình, bằng việc khai trí và chấn hưng tân học”. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã học tập lý luận và kinh nghiệm thế giới, kế thừa và phát triển truyền thống dân tộc trong việc xây dựng một nền giáo dục tiến bộ phục vụ sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường và mục tiêu đã lựa chọn.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta… Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ” [34, tr.8]. Rằng phải xây dựng một nền giáo dục mới, “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”, vì “Muốn xây CNXH phải có con người XHCN” [37, tr.159].
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn vai trò của nguồn nhân lực, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển KT-XH, con người là nguồn vốn, là tài sản quý giá nhất. Đảng ta khẳng định: “Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục”[12, tr.201], vì “Phát triển GD-ĐT là một trong những động lực quan trọng của sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”[12, tr.108]. Với phương châm “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, Đảng ta nhấn mạnh: một quốc gia phát triển cần có một nền kinh tế phát triển, một nền kinh tế có sức mạnh để phát triển cần phải tạo ra được một nguồn nhân lực với một trình độ trí tuệ ngang tầm thời đại và một nguồn chất xám cũng như nhân lực kỹ thuật đủ để luôn đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phát triển các hoạt động dịch vụ, hoạt động văn hóa, tinh thần, tất cả những điều này đều phụ thuộc vào GD-ĐT. Hơn nữa GD-ĐT đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành con người lao động mới - người công dân Việt Nam có lý tưởng XHCN, có lòng tự hào dân tộc, có khả năng tiếp thu những tiến bộ của KH&CN và tinh hoa văn hóa của nhân loại, có khả năng lao động và tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Với ý nghĩa đó Đảng ta chỉ rõ: GD-ĐT nguồn nhân lực là một một khâu chủ yếu trong toàn bộ quá trình phát triển nguồn lực của đất nước. Trên nền tảng học vấn phổ thông về tự nhiên, xã hội và nhân cách…, GD-ĐT nguồn nhân lực phải hướng tới việc hình thành, phát triển kiến thức, kỹ năng lao động phù hợp với cách thức tổ chức, phân công lao động xã hội theo từng giai đoạn phát triển, trong các lĩnh vực hoạt động và điều kiện cụ thể.
Những quan niệm trên là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực, đó là học sinh THPT - đối tượng tác động và cũng là sản phẩm lao động của đội ngũ nhà giáo ở các trường THPT.
1.1.2. Học sinh trung học phổ thông - nguồn nhân lực đang được đào tạo
1.1.2.1. Một số đặc điểm của học sinh trung học phổ thông
Theo điều 4 Luật Giáo dục (2005), giáo dục THPT là một bộ phận hữu cơ của giáo dục phổ thông, nằm trong cấu trúc chung của hệ thống giáo dục quốc dân. Căn cứ vào điều 83 Luật Giáo dục (2005), những người đang học tập tại các cơ sở giáo dục phổ thông (gồm bậc tiểu học và bậc trung học, trong bậc trung học có 2 cấp là cấp THCS và cấp THPT) và giáo dục nghề nghiệp (gồm các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề) được gọi là học sinh.
Kết hợp điều 4 và điều 83, có thể hiểu học sinh THPT là những người đang theo học ở cấp THPT, cấp học kế tiếp sau cấp THCS và “được thực hiện trong ba năm học, từ lớp 10 đến lớp 12. Học sinh vào học lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp THCS, có tuổi là mười lăm ”[21, tr.20]. Điều lệ trường trung học (2000) cũng quy định rõ tuổi của học sinh THPT “là 15 đến 19”[14, tr.26].
Theo quy định của luật Lao động nước ta, với lứa tuổi trên học sinh THPT là lực lượng nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực. Đây là lứa tuổi có sự phát triển phức tạp cả về mặt sinh học và mặt xã hội, là thời kỳ học sinh bước vào giai đoạn cuối của quá trình chuẩn bị nền tảng cho sự tham gia của họ vào hoạt động nghề nghiệp và các dạng lao động xã hội. Xem xét nguồn nhân lực trên cả hai phương diện cá thể và xã hội thì học sinh THPT với tư cách là một bộ phận của nguồn nhân lực cũng được xem xét trên hai phương diện đó với những đặc điểm tâm sinh lý, những hoạt động đặc trưng và nhân cách xác định.
Với độ tuổi từ 15 đến 19, học sinh THPT là những con người đang trưởng thành, có khả năng phát triển mạnh mẽ về trí tuệ và nhanh chóng về thể lực. ở góc độ sinh học, đây là lứa tuổi đang dần hoàn thiện về cơ thể, là giai đoạn các em phát triển về chiều cao, trọng lượng và thể trạng với tốc độ nhanh. So với các thế hệ cha anh trước đây, học sinh THPT ngày nay do được sống trong hòa bình, do đời sống ngày một nâng cao và nhu cầu dinh dưỡng được đáp ứng ngày càng đầy đủ nên có sự phát triển tốt hơn về thể lực. Các em đã có một thể hình đẹp hài hòa, một sức khỏe dồi dào có thể đáp ứng được những đòi hỏi về sự hao phí các sức lực thần kinh, cơ bắp trong lao động với những đặc thù nghề nghiệp khác nhau. Hơn nữa ở độ tuổi này tính chủ định phát triển mạnh, khả năng quan sát, ghi nhớ đạt ở mức độ khá cao và giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng cũng như năng lực tư duy độc lập sáng tạo được hình thành, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Đây chính là cơ sở để học sinh THPT có thể tiếp nhận và xử lý một khối lượng lớn tri thức, là điều kiện để bồi dưỡng trí tuệ, tay nghề, để trang bị chuyên môn, nghề nghiệp và là giá đỡ cho tiềm năng sáng tạo của các em trong tư cách nguồn nhân lực. ở góc độ tâm lý, học sinh THPT thích cái mới, thích khám phá, sáng tạo, giàu óc tưởng tượng, nhiều ước mơ, hoài bão, có nhu cầu tìm hiểu, nhu cầu tình bạn, tình yêu…Những đặc điểm này đã tác động rất mạnh đến sự hình thành tư tưởng của các em, khi các em xác định được niềm tin, lý tưởng thì các em có thể xả thân vì lý tưởng và phấn đấu với niềm lạc quan, với sức sống mạnh mẽ để đạt được niềm tin và lý tưởng đó. ở các em không có tính bảo thủ, trì trệ, dễ thích ứng với đường lối đổi mới, rất quan tâm đến tương lai nên cũng rất quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, của thời cuộc. Đây là điều kiện để học sinh THPT xác định được phương hướng tiến thân, lập nghiệp và xây dựng sự nghiệp cho mình.
Với tư cách là nguồn nhân lực trẻ, đang được chuẩn bị để thực hiện chức năng của một công dân có học vấn, được quyền tham gia vào các hoạt động lao động, học tập và các mối quan hệ xã hội, nhân cách của học sinh THPT được hình thành trong quá trình xã hội hóa và giải quyết các mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa sự phát triển mạnh mẽ về thể lực, trí lực và những mơ ước nhiều chiều với khả năng thực hiện những mơ ước đó theo định hướng xác định phù hợp với năng lực và điều kiện vốn có của bản thân, của gia đình; giữa lượng thông tin lớn về kinh tế, chính trị, xã hội… với tiềm năng tiếp nhận, xử lý, chọn lọc những thông tin đó; giữa khối lượng lớn những tri thức phải học ở giai đoạn cuối của các trường phổ thông với những nhu cầu hoạt động của tuổi trẻ; giữa tính phong phú, đa dạng của nghề nghiệp xã hội, của tri thức với quỹ thời gian và điều kiện học tập có hạn của học sinh…Quá trình giải quyết những mâu thuẫn đó khiến cho học sinh THPT phát triển mạnh mẽ về các mặt, nhất là về tình cảm đạo đức, thẩm mỹ, nhu cầu giao tiếp và xu hướng nghề nghiệp. Đây là thời kỳ của sự hình thành, ổn định về tính cách để chuẩn bị cho các em tiến dần tới vị trí xã hội của một người công dân đích thực t._.rong giai đoạn tiếp theo. Điểm nổi bật trong nhân cách của học sinh THPT là sự tự ý thức, tự khẳng định mình về mặt sinh học, biết nhìn nhận và suy nghĩ về hành vi của mình so với chuẩn mực của tập thể, biết đánh giá cái đúng sai trong hành vi của mình và những cá nhân khác. Tuy nhiên sự đánh giá đó thường bị thiên lệch, hoặc đề cao quá mức bản thân dẫn tới sự kiêu căng, hoặc lý tưởng hóa người khác một cách quá mức dẫn tới mặc cảm tự ty với chính mình. Làm cho các em biết người biết ta một cách khách quan là cả một quá trình đòi hỏi nghệ thuật sư phạm của đội ngũ nhà giáo. ở học sinh THPT, nhu cầu được sống trong một tập thể mạnh, có uy tín tốt đã tạo cho hoạt động giao tiếp của các em mang tính xã hội rõ nét, các em đã biết được lợi ích của những việc mình làm, biết tự điều chỉnh khi xảy ra xung khắc trong giao tiếp. Cùng với giao tiếp, đời sống tình cảm của các em ngày càng phong phú, nó không chỉ dừng lại ở những sở thích sinh hoạt thường nhật mà còn được xây dựng trên những mục đích lâu dài như phấn đấu trong học tập và tu dưỡng, trong các phong trào tập thể… Trong quan hệ với người lớn tuổi, các em tự tin hơn, các em không chỉ biết đòi hỏi người lớn phải ưu ái những quyền lợi của cá nhân mà còn thấy được trách nhiệm của bản thân trước gia đình, dòng họ, làng xóm. Tình cảm nam nữ cũng được nảy sinh ở giai đoạn này. Có thể thấy mỗi nhân cách là một thế giới riêng, đặc biệt là trong vấn đề tình cảm, do đó việc nhận biết, bồi dưỡng hoặc khắc phục những biểu hiện sai lệch trong đời sống tình cảm của các em là công việc hết sức nhạy cảm, đòi hỏi sự tỷ mỷ, cần mẫn và tấm lòng nhân ái bao dung của các nhà giáo trong mọi tình huống giáo dục.
Học sinh THPT là nguồn nhân lực đang bước qua lứa tuổi vị thành niên để trở thành một công dân trong cộng đồng xã hội, là nguồn nhân lực chuẩn bị bổ sung vào lực lượng lao động có tri thức của xã hội, cho nên hoạt động của các em rất đa dạng về loại hình và tính chất. Các hoạt động giao lưu, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao trở thành nhu cầu thường trực song hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo. Thái độ, động cơ lựa chọn đối với các môn học để thỏa mãn các khuynh hướng nghề nghiệp là nét đặc thù so với học sinh cấp THCS. Vì thế, hoạt động của học sinh THPT mang tính năng động, độc lập và chủ động hơn. Đối tượng hoạt động của học sinh THPT được mở rộng, nó không chỉ đóng khung trong khuôn khổ nhà trường mà ngày càng tiếp cận với những hoạt động phong phú ngoài xã hội thông qua những nội dung sinh hoạt chính khóa, ngoại khóa và sự mở rộng giao lưu của các em. Hoạt động của học sinh THPT diễn ra trong môi trường và những điều kiện đã được thiết kế một cách có kế hoạch để chuẩn bị cho các em kết thúc giai đoạn học tập ở phổ thông chuyển sang giai đoạn học đại học, học nghề, lập nghiệp. Sự nghiêm túc của các kỳ thi vào các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp mà học sinh THPT phải trải qua là những điều kiện khách quan ràng buộc các em vào hoạt động học tập. Như vậy, hoạt động của học sinh THPT là quá trình nhằm đạt tới mục đích hoàn thiện kiến thức phổ thông, chuẩn bị cho việc tiếp thu kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở mức cao hơn. Điều này đòi hỏi ở các em tính tự lập, chủ động, hoạt động lý trí của bản thân và cách nhìn đúng đắn hơn những giá trị xã hội và những gì vốn có của cá nhân. Do đó, đội ngũ nhà giáo cần hiểu rõ hoạt động đặc trưng của học sinh ở cấp học này để có thể định hướng cho hoạt động đó theo mục tiêu đã xác định.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: học sinh THPT là lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, đó là lứa tuổi nở rộ sức mạnh thể chất, tinh thần và trí tuệ, lứa tuổi với những hoạt động đặc trưng để hình thành nhân cách và phẩm chất của một công dân, hình thành thế giới quan và lý tưởng, là lứa tuổi luôn luôn tự tìm hiểu bản thân mình và tìm hiểu người khác, lứa tuổi tự khẳng định và tìm cách xác định vị trí, vai trò của mình trong xã hội.
1.1.2.2. Vai trò của học sinh trung học phổ thông
Nếu con người là nguồn lực quý giá nhất của sự phát triển xã hội thì học sinh THPT là bộ phận kế cận nguồn lực ấy. Sinh lực của một dân tộc, một quốc gia thể hiện ở chính lực lượng này, trong tương lai các em sẽ là lực lượng có khả năng “dời non lấp biển”, là “rường cột của nước nhà”, là “mùa xuân của nhân loại”. Là những thanh niên, lực lượng giàu tiềm năng phát triển, học sinh THPT chính là nguồn tài sản vô giá của đất nước hôm nay và mai sau.
Trước đây trong lý luận về con người, chủ nghĩa Mác-Lênin rất quan tâm đến thanh niên, đánh giá cao vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng thế giới. C.Mác đã hình dung thấy “tương lai của cả loài người phụ thuộc vào thế hệ công nhân đang lớn”, còn Lênin đã chỉ rõ vai trò của thanh niên khi ông khẳng định nhiệm vụ của nhà trường là “phải đào tạo được một thế hệ có khả năng thực hiện vĩnh viễn CNCS”[22, tr.9]. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, vai trò của thanh niên trong đó có học sinh THPT luôn gắn với vận mệnh của dân tộc. Sẽ không thể giải phóng được dân tộc khỏi cuộc sống nô lệ nếu không thức tỉnh được thế hệ trẻ. Người viết: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”[32, tr.173]. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Người khẳng định “công học tập của các cháu” sẽ góp “một phần lớn” để đem lại tương lai tươi sáng cho dân tộc. Người xác định rõ vai trò của thế hệ trẻ là “chủ nhân tương lai của đất nước” bởi vì “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do thanh niên”[39, tr.185].
Ngày nay, Đảng ta đánh giá rất cao vai trò của thế hệ trẻ trong đó có học sinh THPT. Đảng ta đã khẳng định, họ là những người giữ “vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[12, tr.126], họ chính là nguồn nhân lực đầy tiềm năng đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế tri thức, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Vai trò đó được khẳng định bởi những yếu tố sau:
Một là, với tư cách là một bộ phận hợp thành nguồn nhân lực, học sinh THPT đang học tập, tiếp thu tri thức, rèn luyện phẩm chất đạo đức để sau này tham gia vào các lực lượng lao động xã hội, góp phần quyết định “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt nam có bước tới đài vinh quang hay không”[34, tr.33].
Hai là, học sinh THPT phần lớn là những Đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, họ có sức khỏe, có tri thức, là cánh tay đắc lực “là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế thừa sự nghiệp vẻ vang của Đảng và Hồ Chủ Tịch”[11, tr.59].
Ba là, học sinh THPT là những người có học vấn phổ thông hoàn chỉnh, là lực lượng quan trọng hàng năm bổ sung vào lực lượng học sinh trong các trường trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề, sinh viên các trường cao đẳng, đại học ở nước ta. Với tiềm năng trí tuệ khá cao, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với thử thách, học sinh THPT sẽ là lực lượng lao động có trí tuệ trong tương lai. Đây là đặc điểm có ý nghĩa nổi bật của học sinh THPT.
Bốn là, học sinh THPT là nguồn nhân lực kế thừa và phát triển truyền thống dân tộc, kế thừa những thành quả của các thế hệ đi trước, đồng thời chuẩn bị đầy đủ tri thức, đạo đức, sức khỏe, năng lực nghề nghiệp để sau này trực tiếp tiếp bước cha anh xây dựng đất nước giàu mạnh, đồng thời có nhiệm vụ vẻ vang là chăm lo dìu dắt thiếu niên nhi đồng để tạo ra sự thống nhất, nối tiếp, kế thừa giữa các thế hệ nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
Tóm lại, học sinh THPT với độ tuổi phát triển mạnh mẽ về thể chất, trí tuệ và tâm hồn, họ là lực lượng có khả năng nhận thức nhanh, trí nhớ tốt, độ nhạy cảm cao để tiếp nhận những tri thức khoa học cơ bản, liên tục, hệ thống từ nhiều nguồn khác nhau. Họ là một bộ phận của nguồn nhân lực, có vai trò quan trọng đối với tương lai của nước nhà, được GD-ĐT theo yêu cầu của quá trình đào tạo nguồn nhân lực, họ sẽ trở thành những con người toàn diện, có tài, có đức, có sức khỏe, có năng lực, thẩm mỹ và nghề nghiệp, là nguồn nhân lực đảm bảo cho sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
1.2. Vai trò của đội ngũ nhà giáo trong việc đào tạo nguồn nhân lực ở các trường trung học phổ thông
1.2.1. Nhà giáo và đội ngũ nhà giáo trong các trường trung học phổ thông
1.2.1.1. Nhà giáo và đội ngũ nhà giáo
Giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội, đã xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của xã hội loài người. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và phát triển những kinh nghiệm, tri thức mà nhân loại đã tích lũy được. Nhiệm vụ đặc biệt đó từ thời cổ đại đến nay đã trở thành một chức năng chuyên biệt và được giao cho các nhà giáo.
Trong đời sống tinh thần của dân tộc ta, nhà giáo là một chức danh xã hội được xếp đầu tiên và không hàm nghĩa giới tính. Theo từ điển Tiếng Việt, nhà giáo là “Những người làm nghề dạy học”[57, tr.516]. Nếu hiểu như vậy thì có thể nói rằng đất nước ta là đất nước của nghề dạy học, vì ở nước ta cứ biết chữ là có thể đi dạy học, điều này thường thấy và rất phổ biến ở thời kỳ phong kiến và thời kỳ Pháp thuộc. Thời phong kiến, những người làm nghề dạy học gọi là thầy giáo (Về danh hiệu được gọi là “thầy đồ” – thời nhà Lê gọi tắt là “sinh đồ”, thời nhà Nguyễn là “tú tài”). Đây là những người rất được coi trọng, được xếp ở vị trí rất cao, vị trí thứ hai trong ba bậc “quân, sư, phụ”, trước cả cha mẹ. Nhiều gia đình nghề dạy học là một nghề truyền thống: cả ông cháu, cha con đều nối nghiệp làm thầy, có người thi đỗ cao nhưng không chịu làm quan chỉ nhất quyết làm thầy giáo, có người làm quan rồi cũng rời bỏ quan trường để lui về dạy học. Với quan niệm “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” đã làm thầy giáo, tự nhiên là được tất cả mọi người trong làng xóm kính trọng, kể cả những thầy giáo không có danh tiếng hoặc đức hạnh không cao.
Sau Cách mạng tháng Tám, nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập ra đời. Nền giáo dục đó đòi hỏi phải có đội ngũ thầy giáo đáp ứng được nhiệm vụ “diệt giặc dốt”- một trong những loại giặc nguy hiểm không kém “giặc đói” và “giặc ngoại xâm”. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn dân tham gia “chống nạn thất học” của Hồ Chủ Tịch, người chưa biết chữ phải coi học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của mình, người biết chữ có nghĩa vụ phải dạy người chưa biết chữ. Các lớp bình dân học vụ, các trường lớp bổ túc văn hóa, các trường lớp sư phạm kháng chiến được tổ chức, thu hút được hàng triệu trẻ em, người lớn đi học, hàng vạn người biết chữ tham gia dạy học. Người thầy giáo trong giai đoạn này là những người làm công tác xóa mù chữ cho nhân dân để từng bước nâng cao dân trí phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến và kiến quốc, xây dựng và phát triển đất nước.
Vừa tiến hành chiến dịch chống mù chữ, Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển giáo dục phổ thông, trung học chuyên nghiệp và đại học. Chủ trương cải cách nền giáo dục thành nền giáo dục phát triển những năng lực sẵn có của thế hệ trẻ, đào tạo thế hệ trẻ thành nguồn nhân lực có trình độ, thành những người công dân hữu ích cho đất nước. Nền giáo dục đã tiến dần từ mục tiêu nâng cao dân trí là chủ yếu sang mục tiêu đào tạo nhân lực, nhân tài cho đất nước. Người thầy giáo giai đoạn này không chỉ đơn thuần là những người biết chữ đi dạy cho mọi người biết đọc, biết viết mà phải là một đội ngũ những người có trình độ, có năng lực, có nghệ thuật sư phạm, tiến hành dạy học trong một tổ chức chặt chẽ theo một chương trình, kế hoạch, mục tiêu cụ thể. Những nhà giáo thời nay phải có đủ điều kiện để đào tạo được một lớp người có tri thức, sức khỏe, đạo đức, tay nghề, đào tạo được một nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn cách mạng mới. Vì vậy, để làm rõ hơn khái niệm nhà giáo là “Những người làm nghề dạy học” đồng thời quy định địa vị pháp lý của nhà giáo, tại điều 70 của Luật Giáo dục nước CHXHCN Việt Nam đã đưa ra định nghĩa pháp lý đầy đủ về nhà giáo: “Nhà giáo là những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác” [21, tr.56]. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong hệ thống giáo dục nói chung được gọi là nhà giáo. Những nhà giáo ở bậc đại học được gọi là giảng viên, những nhà giáo ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục phổ thông trong đó có giáo dục THPT được gọi là giáo viên. Như vậy, thầy giáo, giảng viên hay giáo viên chính là nhà giáo (từ đây trong luận văn những thuật ngữ tương đương trên được dùng với nghĩa như nhau).
Về “ Đội ngũ nhà giáo”, thuật ngữ “đội ngũ” được hiểu chung nhất là tập hợp một số đông người cùng đặc điểm, chức năng hoặc nghề nghiệp...được tổ chức thành một lực lượng xã hội. Do đó, đội ngũ nhà giáo là tập hợp những người làm nghề dạy học hay những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác, được tổ chức thành lực lượng và hoạt động theo mục đích của ngành GD-ĐT đề ra.
Hai khái niệm “Nhà giáo” và “Đội ngũ nhà giáo” có mối liên hệ với nhau nhưng không hoàn toàn đồng nhất. Trước hết cả hai khái niệm đều phản ánh những mặt, những khía cạnh liên quan đến cùng một đối tượng là những người làm nghề dạy học. Song, khái niệm “Nhà giáo” phản ánh mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường với tính cách là những cá nhân nói chung, từ đó giúp chúng ta phân biệt được một người nào đó trong xã hội có phải là nhà giáo hay không. Còn khái niệm “Đội ngũ nhà giáo” phản ánh mối liên hệ, thuộc tính bản chất, phổ biến về sức mạnh, vai trò của nhà giáo với tính cách là cộng đồng được tổ chức thành lực lượng để thực hiện các hoạt động có mục đích. Khái niệm này giúp chúng ta nhận biết và phân biệt về quy mô, các hình thức tồn tại, vận động, biến đổi, cơ chế sắp xếp trong một tổ chức nhất định và ở những thời điểm cụ thể. Cả hai khái niệm đều là phương tiện giúp chúng ta nhận định, đánh giá tương đối toàn diện và chính xác vai trò của “Nhà giáo” với cả tính cách cá nhân và cộng đồng để từ đó có những giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng này trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực.
1.1.2.2. Nhà giáo trong các trường trung học phổ thông, một số đặc điểm và yêu cầu
Thời cổ đại, mỗi nhà giáo vừa tự xác định mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục, vừa trực tiếp lựa chọn người học và truyền thụ nội dung giáo dục cho học trò của mình. Ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội nói chung và giáo dục nói riêng những chức năng đó không còn tập trung ở một nhà giáo, mặc dù chỉ mang tính tương đối nhưng sự phân công chức năng này đã được phân hóa và hình thành ở ba nhóm chức năng: có những nhà giáo đảm nhiệm chức năng nghiên cứu những vấn đề mục tiêu, nội dung, phương pháp (ta gọi là nhà giáo nghiên cứu giáo dục); có những nhà giáo đảm nhiệm công việc truyền thụ những nội dung giáo dục cho người học sau khi những nội dung đó đã được cơ quan quản lý có thẩm quyền quyết định (ta gọi là nhà giáo dạy học); có những nhà giáo chuyên hay chủ yếu làm việc ở những cơ quan quản lý giáo dục (ta gọi là nhà giáo quản lý). Trong các trường THPT, nhà giáo đảm nhiệm cả ba chức năng trên chỉ là số ít, còn số đông các nhà giáo chủ yếu đảm nhiệm việc dạy học, vì thế trong luận văn, chúng tôi chủ yếu bàn về “đội ngũ nhà giáo dạy học” ở các trường THPT.
Giáo dục phổ thông là một bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân, và là một bộ phận quan trọng của hệ thống đào tạo nhân lực. Mục tiêu của giáo dục phổ thông: “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên, hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [21, tr.21].
Cấp THPT là một bộ phận hữu cơ của giáo dục phổ thông, là cầu nối giữa cấp tiểu học, THCS với bậc đại học. Đây là cấp học làm cho hệ thống GD-ĐT nước ta mang tính chỉnh thể, hệ thống và liên thông. Bởi lẽ:
Nếu cấp tiểu học có mục tiêu hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học THCS, cấp THCS có mục tiêu giúp học sinh củng cố, phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có học vấn ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, thì mục tiêu của cấp THPT là giúp cho học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động [21, tr.21-22].
Như vậy, THPT là cấp học cuối cùng của giáo dục phổ thông, là thời đoạn xác định chất lượng, hiệu quả của giáo dục phổ thông và góp phần quyết định đến chất lượng của giáo dục đại học sau này. Từ cấp học này sẽ cho ra đời một lực lượng lao động có văn hóa, có điều kiện học hỏi nâng cao tay nghề và cũng là cơ sở để lựa chọn và đào tạo đội ngũ trí thức cho đất nước. Chất lượng và hiệu quả của giáo dục THPT sẽ là trình độ đích thực của nền dân trí, là tiềm năng của nguồn nhân lực nước ta. Lực lượng chủ chốt góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của giáo dục THPT chính là đội ngũ nhà giáo ở các trường THPT. ở nước ta, đội ngũ nhà giáo THPT được đào tạo để làm công tác giảng dạy, giáo dục cho các em học sinh lớp 10, 11, 12, với nhiệm vụ truyền thụ tri thức và uốn nắn học sinh theo những chuẩn mực đạo đức tiến bộ, đội ngũ nhà giáo có tác động nhất định (có khi là quyết định) tới tương lai của các em: sự lựa chọn công việc, tạo động cơ phấn đấu, khắc sâu trong các em ý thức thực hiện các nghĩa vụ trong cuộc sống, giúp các em tiếp tục học lên hoặc bước vào cuộc sống lao động.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra nhận định: Đội ngũ nhà giáo THPT là một bộ phận của đội ngũ nhà giáo Việt Nam, đó là những người làm công tác giảng dạy, giáo dục ở các trường THPT, có chức năng chủ yếu là trực tiếp truyền bá tri thức văn hóa, rèn luyện nhân cách cho học sinh THPT nhằm chuẩn bị cho các em đi tiếp tục học tập ở cấp đại học, cao đẳng hoặc đi vào cuộc sống lao động sản xuất, cuộc sống xã hội, làm nghĩa vụ công dân với tư cách là bộ phận của nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Là một bộ phận của đội ngũ nhà giáo Việt Nam nên đội ngũ nhà giáo THPT cũng có đầy đủ những phẩm chất, nhân cách của nhà giáo Việt Nam, đồng thời xuất phát từ yêu cầu giáo dục và đối tượng giáo dục của cấp THPT, đội ngũ nhà giáo ở cấp học này có một số điểm đáng lưu ý sau đây:
Một là, đội ngũ nhà giáo THPT là những người trực tiếp tham gia vào quá trình giáo dục ở các trường THPT, những người đạt chuẩn đào tạo theo quy định và chủ yếu được đào tạo tại các trường đại học sư phạm trong nước.
Là nhà giáo thì ở cấp học nào, bậc học nào cũng phải đạt chuẩn đào tạo theo quy định, điều này được căn cứ vào mục tiêu giáo dục và đặc điểm đối tượng tác động của nhà giáo ở từng cấp học, bậc học. ở cấp THPT, mục tiêu giáo dục của nhà giáo là giúp cho học sinh hoàn thiện học vấn phổ thông, có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân, có đủ tiềm năng di chuyển nghề nghiệp và dễ dàng thích nghi với đời sống hiện đại đầy năng động và thách thức. Đối tượng tác động của nhà giáo trong các trường THPT là một nguồn nhân lực đang ở giai đoạn bộc lộ và phát triển những năng lực về thể lực, trí lực và nhân cách, đó là những học sinh “không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn”, rất ham hiểu biết, muốn thử sức nhưng lại dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh. Lao động của nhà giáo liên quan trực tiếp đến việc khai thác và phát huy năng lực nội sinh của từng cá nhân. Vì vậy, để thực hiện được mục tiêu giáo dục với đối tượng nhạy cảm trên, để quá trình lao động đạt được hiệu quả đòi hỏi nhà giáo ở cấp học này phải là những người có trí lực phát triển tốt, có kiến thức khoa học chuyên ngành vững chắc, có sự hiểu biết không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ những gì mình giảng dạy, mà còn phải có trình độ “kỹ thuật bách khoa” hiểu rõ những loại hình lao động khác nhau thì mới có thể thực hiện được chức năng hướng nghề, hướng nghiệp cho học sinh. Chỉ có các trường đại học mà chủ chốt là trường đại học sư phạm mới đủ điều kiện và khả năng đào tạo đội ngũ nhà giáo cấp THPT. Hơn nữa chỉ có tốt nghiệp các trường ĐHSP thì đội ngũ nhà giáo này mới có đủ điều kiện để hiểu rõ đối tượng tác động, xác định rõ mục tiêu giáo dục và có khả năng bằng những thiết kế khoa học, những tác động sư phạm hợp quy luật để tác động vào học sinh, làm biến đổi học sinh theo mục tiêu đào tạo của cấp THPT đồng thời tạo điều kiện cho học sinh phát huy được năng lực của mình với tư cách là một nguồn nhân lực trẻ, khỏe, năng động, có tri thức phổ thông - điều kiện cần cho một nguồn nhân lực có trình độ cao của một quốc gia đang phát triển. Vì vậy tại điều 77 của Luật Giáo dục sửa đổi năm 2005 đã ghi rõ về chuẩn đào tạo của nhà giáo THPT như sau: “Có bằng tốt nghiệp ĐHSP hoặc bằng tốt nghiệp đại học và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên THPT” [21, tr.59].
Hai là, đội ngũ nhà giáo THPT vừa là nhà sư phạm, nhà phương pháp vừa là nhà khoa học, nhà chính trị.
Thông thường hoạt động sư phạm của nhà giáo có thể phân ra làm hai mặt: giảng dạy và giáo dục. ở cấp THPT, hai mặt hoạt động sư phạm này liên hệ chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau và là một quá trình thống nhất. Nhà giáo THPT vừa giảng dạy một môn học nào đó, vừa dựa trên tài liệu đang giảng dạy để dần dần dẫn học sinh tiếp cận thế giới quan duy vật, tới những vấn đề nhân loại và xã hội đang quan tâm, tới những việc các em được làm và không được làm, tới lòng tự hào về những truyền thống quý báu của dân tộc, tới cách ứng xử, giao tiếp trong cuộc sống. Từ đó học sinh không chỉ lĩnh hội một khối lượng kiến thức nhất định mà còn hiểu được những kiến thức đó cần thiết để làm gì, có ý nghĩa như thế nào trong đời sống và vận dụng những kiến thức đó vào thực tế như thế nào. Muốn làm được như vậy thì bản thân nhà giáo không chỉ có năng lực nắm vững nội dung, hệ thống những tri thức khoa học mình giảng dạy và những kiến thức liên quan, không chỉ hiểu rõ những quy luật của quá trình giáo dục và đối tượng giáo dục mà họ còn phải có nghệ thuật sư phạm, có sự hiểu biết và niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào đường lối của Đảng và sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hơn nữa, nhà giáo THPT dẫn dắt học sinh nắm vững tri thức, tiếp cận chân lý một cách tích cực chủ động không phải bằng cách phán truyền những chân lý có sẵn mà phải bằng cách thiết kế, tổ chức quá trình học tập của học sinh thông qua việc sử dụng hiệu quả các phương pháp giảng dạy, phương pháp sư phạm và kỹ năng dạy học. Một nhà sư phạm người Đức đã từng nói: Người thầy giáo tồi là người mang đến chân lý có sẵn, còn người thầy giáo giỏi là người biết dạy học sinh đi tìm chân lý. Để dạy cho học sinh đi tìm chân lý thì người thầy phải có phẩm chất và năng lực của một nhà sư phạm, nhà phương pháp, nhà khoa học và nhà chính trị.
Ba là, nhà giáo ở các trường THPT là những người cần và phải có khả năng tổ chức các hoạt động xã hội, là những người có tâm hồn tươi trẻ, ân cần chu đáo, có sức hấp dẫn, đầy khát vọng đẹp đẽ và sôi nổi cho dù nhà giáo đó là những giáo viên mới vào nghề hay đã công tác lâu năm trong nghề.
Có lẽ đây là nét nổi bật của nhà giáo THPT so với nhà giáo ở các cấp học, bậc học khác. Điều này xuất phát từ chính đặc điểm tâm lý lứa tuổi của đối tượng mà nhà giáo THPT trực tiếp đào tạo, đó là những học sinh THPT. Các em là những thanh niên đang ở giai đoạn trưởng thành về mặt thể lực, tâm lý đã mang nhiều nét của người lớn nhưng vần còn có một vài đặc điểm của tuổi thiếu niên thậm chí cả của tuổi ấu thơ. Tất cả những phẩm chất đó thể hiện ở khả năng tri giác rõ ràng, ở những rung cảm mãnh liệt, ở tính tích cực mạnh mẽ và ở ngọn lửa nhiệt tình sôi nổi của tuổi trẻ. Nhà giáo THPT cần biết quý trọng những phẩm chất này, không dập tắt ngọn lửa nhiệt tình của tuổi trẻ, ủng hộ ý thức mạnh dạn dám nghĩ, dám làm của các em. Chính sự sôi nổi nhiệt tình, và những khát vọng đẹp đẽ của tuổi trẻ đã thẩm thấu vào suy nghĩ, tình cảm và hành động của nhà giáo khiến cho họ trở nên gần gũi, thân thiết với học sinh vừa như người cha, người mẹ, người anh, người chị lại vừa như người bạn tâm giao để từ đó bằng năng lực sư phạm của mình thông qua các hoạt động học tập, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao hướng các em vào con đường đúng đắn. Chỉ có những nhà giáo giàu tâm huyết và tài năng mới có thể làm được điều đó, mới đóng góp hiệu quả cho sự phát triển và đào tạo một nguồn nhân lực với những con người có đủ phẩm chất, năng lực tạo ra mọi giá trị cho cuộc sống hôm nay và mai sau.
Tóm lại, đội ngũ nhà giáo THPT là những người có hiểu biết khá sâu rộng về xã hội, về con người và có kinh nghiệm cuộc sống phong phú. Với trình độ chuyên môn theo quy định của Luật Giáo dục, với phẩm chất chính trị vững vàng và nhân cách nhà giáo, họ chính là lực lượng quan trọng góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục ở cấp THPT và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Vai trò của đội ngũ nhà giáo ở các trường trung học phổ thông trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực
Khi nói về vai trò của nhà giáo, Lênin nhấn mạnh: “Đội quân giáo sư phải tự đặt cho mình nhiệm vụ lớn lao là truyền bá văn minh và trước hết phải là đội quân chủ yếu trong công tác giáo dục XHCN” [20, tr.185], Cômenski, nhà giáo dục vĩ đại người Tiệp từng nói: “Dưới mặt trời không có chức vụ nào ưu việt hơn!” [19, tr.68], Maiacốpski - nhà thơ Nga vĩ đại cũng từng ca tụng:
Trên mặt trận thứ ba,
Như ngọn núi chót vót,
Trên mặt trận học tập,
Trên mặt trận sách vở,
Người giáo sư
Khác nào
Người chiến sỹ anh hùng.
Đó là một kỵ binh như kiểu Bu-đi-on-ni,
Đó là một chiến sỹ ở tiền phương [19, tr.13].
Vai trò của người thầy quan trọng là như thế, cho nên trong tất cả các chế độ xã hội khác nhau, từ xưa đến nay, từ đông sang tây, nhà giáo là người được quý trọng nhất. “Phải đề cao uy tín của người giáo viên, làm cho mọi lứa tuổi và mọi giới phải kính trọng người giáo viên một cách sâu sắc, bao trùm chung quanh người giáo viên một cái hào quang của sự quý mến chung” (Diễn văn đọc tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Liên-xô của Calinin, ngày 8-5-1940) [19, tr.13].
Khi xã hội càng phát triển thì giáo dục bằng hệ thống nhà trường và thông qua đội ngũ nhà giáo là con đường ngắn nhất, khoa học nhất và hiệu quả nhất để truyền thụ tri thức cơ bản một cách hệ thống, chính xác cho người học. Đội ngũ nhà giáo trong quá trình giảng dạy và giáo dục đã xây dựng cho người học thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, phương pháp tư duy khoa học và khả năng làm việc độc lập sáng tạo.Vì thế, nhà giáo là chủ thể quan trọng của nền giáo dục, là nhân tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp chất lượng giáo dục, là “người có trách nhiệm làm thay đổi thế giới”, công việc của họ sẽ “để lại dấu ấn trong xã hội tương lai”. Có thể nhận thấy nhà giáo có vai trò rất đặc biệt và rất khó khăn là làm cho người học hình thành một nhân cách theo mục tiêu đã được quy định. Đây là công việc mà người ta thường nói một cách hình ảnh là công việc của một “kỹ sư tâm hồn”. Để làm được việc này, nhà giáo vừa phải có nhân cách cao hơn người học “một cái đầu”, lại vừa phải giỏi về lĩnh vực khoa học chuyên ngành và nghệ thuật giáo dục để giúp cho người học hình thành được nhân cách đó. Với vai trò như vậy, nghề dạy học của nhà giáo là “nghề cao quý nhất”, đòi hỏi ở người làm nghề này phải hiểu biết nhiều hơn những người làm ở các ngành nghề khác do: “vừa phải biết cái nghề mà người học cần, lại vừa phải biết thêm nghề dạy người đó học” [40, tr.209].
Là một đất nước có nền văn hiến lâu đời, một dân tộc hiếu học. Việt Nam đã có một lịch sử giáo dục lâu đời với những người thầy đã ra công dạy chữ, dạy người cho bao thế hệ Việt Nam khôn lớn, trưởng thành. Với truyền thống “tôn sư trọng đạo”, nhân dân ta luôn đề cao nghề dạy học và vị trí cao cả của người thầy. Qua tục ngữ ca dao, ông cha ta còn truyền dạy: “Không thầy đố mày làm nên” hay “Muốn con hay chữ phải yêu kính thầy”. Kế thừa truyền thống đó của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm thía vai trò và vị trí của người thầy qua chính những năm đi dạy học và bằng cả chặng đường bôn ba khắp năm châu bốn biển vừa tự học vừa tìm đường cứu nước. Người căn dặn: “Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người thầy học là: chăm lo dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sỹ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà” [30, tr.36]. Đồng chí Phạm Văn Đồng cũng từng nhấn mạnh: “Người thầy giáo là chiến sỹ tiên phong trong việc truyền bá cái mới” [15, tr.89]. Do đó: “Dù tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh” [29, tr.236].
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của KH&CN đã chứng minh: trí tuệ con người là nguồn tài nguyên quý giá, mặt bằng dân trí và nguồn nhân lực phát triển là nền móng để tiềm lực trí tuệ của mỗi quốc gia phát triển vững bền. Vì thế, vị trí và vai trò của nhà giáo càng trở nên vô cùng quan trọng. Với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng và nhân dân ta đã xác định: CNH, HĐH là con đường tất yếu, hợp quy luật để nước ta “thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước chung quanh, giữ được ổn định chính trị xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng XHCN” [7, tr.27]. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH, cần phải nâng cao mặt bằng dân trí, cần phải đào tạo được một nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhưng trước hết phải biết nuôi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực “ngay từ tuổi ấu thơ đến lúc trưởng thành và trong suốt cuộc đời của mỗi cá nhân về các mặt trí lực, tâm lực, thể lực, các phẩm chất đạo đức - nhân cách công dân, trình độ học vấn, chuyên môn và văn hóa...” [56, tr.17]. Trọng trách này được ._.ng nên tổ chức họp mặt với lãnh đạo chính quyền địa phương, các tổ chức, đoàn thể trên địa bàn trường đóng, một mặt báo cáo tình hình của nhà trường trên các vấn đề: quy hoạch và nhu cầu phát triển, tình hình học tập và rèn luyện của học sinh, chất lượng các hoạt động học tập và giáo dục...mặt khác đưa ra những vấn đề cần có sự phối kết hợp, giúp đỡ, đầu tư của các cấp, các ngành, các đơn vị kinh tế, các tổ chức đoàn thể.
Xây dựng mối quan hệ kết nghĩa với các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế, các nhà hảo tâm để thu hút các nguồn đầu tư cho việc xây dựng nhà trường.
Tăng cường các hoạt động nhằm ngăn chặn các tệ nạn xã hội, không cho chúng xâm hại vào trường học.
Hiện nay, sự gia tăng các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn hội đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường giáo dục của nhà trường và tác động xấu tới tư tưởng, ý thức, tình cảm, đạo đức, hành vi và lối sống của học sinh. Tệ nạn xã hội thực sự là nỗi lo lắng cho các cấp, các ngành, các bậc cha mẹ học sinh, là sự cản trở rất lớn cho quá trình thực hiện vai trò của đội ngũ nhà giáo. Nhà trường không phải là một ốc đảo biệt lập, các thầy cô giáo không thể tự đóng cửa để cách ly công việc của mình với các hoạt động ngoài xã hội. Chỉ có thể ngăn chặn các tệ nạn xã hội bằng hành lang pháp lý an toàn, bằng sự hợp lực của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường và khả năng tự vệ của học sinh.
Các cơ quan chức năng trong tỉnh cần tăng cường các hoạt động và biện pháp đủ mạnh để truy quét các tệ nạn xã hội như: kịp thời phát hiện, triệt phá các tổ chức, các hang ổ buôn bán ma túy, các tụ điểm mại dâm; thanh toán các cơ sở in thu băng đĩa, sách báo, tranh ảnh lậu có nội dung đồi trụy; kiểm soát chặt chẽ các nhà hàng, vũ trường, các quán Karaoke, quán Internet; đẩy mạnh trong toàn tỉnh phong trào đấu tranh chống tham nhũng, hối lộ, lãng phí và đặc biệt nghiêm trị những tiêu cực trong ngành giáo dục.
Các trường THPT cần tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ, các trò chơi dân gian truyền thống, các sân chơi lành mạnh, bổ ích cho học sinh như: thi 7 sắc cầu vồng, đường lên đỉnh Olimpia, làng vui chơi làng ca hát...
Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, khu dân cư văn hóa; xây dựng nếp sống, lối sống làm việc theo pháp luật, tuyên truyền, nêu gương những cá nhân, những tập thể có hành vi, thói quen xử sự có văn hóa như kính trọng người già, tôn trọng phụ nữ, hiếu thảo, thủy chung.
Có biện pháp tối ưu để giải quyết việc làm cho thanh niên, nhất là những thanh niên đã tốt nghiệp THPT có tay nghề hoặc có trình độ đại học, cao đẳng nhằm tạo động lực để học sinh phấn đấu học tập, tạo cơ hội, điều kiện cho nguồn nhân lực trẻ được góp sức mình xây dựng quê hương.
3.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực tự học, tự hoàn thiện về trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm và nhân cách của đội ngũ nhà giáo
Hai nhóm giải pháp trên chủ yếu đề cập đến những điều kiện, những động lực và môi trường thuận lợi mà xã hội cần tạo ra nhằm góp phần phát huy vai trò của đội ngũ nhà giáo trong việc nâng cao chất lượng đạo tạo nguồn nhân lực. Nhưng cho dù xã hội có đáp ứng được tất cả những điều mong muốn đó thì cũng không thể đủ, không thể thay thế được sự vượt lên chính mình của đội ngũ nhà giáo với tư cách là chủ thể chính của sự nghiệp giáo dục – sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực..
3.2.3.1. Đội ngũ nhà giáo phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng sư phạm
Tại hội nghị chiến sĩ thi đua ngành giáo dục năm 1956, khi nói chuyện với các nhà giáo, Hồ Chủ tịch đã căn dặn: Các cô, các chú đã thấy trách nhiệm to lớn của mình, đồng thời cũng thấy khả năng của mình cần được nâng cao thêm lên mãi mới làm tròn nhiệm vụ được. Vì thế các cô, các chú là những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn luôn cố gắng học thêm. Rõ ràng, nhà giáo không những là một người thầy mà còn là một học trò, họ cống hiến cho học sinh, cho nhân dân trí tuệ, đồng thời phải học những gì tốt đẹp nhất trong nhân dân, trong đời sống, trong khoa học, để rồi lại cống hiến nhiều hơn, tốt hơn cho học sinh.
ở Thái Bình hiện nay, đội ngũ nhà giáo các trường THPT còn hạn chế trong việc tự học, tự rèn. Một bộ phận nhà giáo ngại đi học, không phấn đấu, không chịu khó cập nhật tri thức mới khiến cho kiến thức không vững, năng lực sư phạm hạn chế, phương pháp giảng dạy và giáo dục đơn điệu, khô cứng thiếu sức thuyết phục. Hậu quả là: thầy chán dạy - trò chán học; thầy chán trò - trò chán thầy. Tình trạng cứ đến đầu năm học không chỉ học sinh mà còn cha mẹ học sinh và các thầy cô giáo chủ nhiệm lớp, đều giống nhau bí mật đến gặp thầy hiệu trưởng để xin đổi thầy này lấy thầy kia. Bí mật vì sợ nếu không đổi được mà lộ ra tới tai thầy thì thật phiền toái đủ điều, phiền toái cả năm. Thực tế này cần phải khắc phục kịp thời và giải pháp tốt nhất, hiệu quả nhất đó là đội ngũ nhà giáo phải thường xuyên học hỏi, tu dưỡng, trau dồi kinh nghiệm, phải luôn vươn lên bằng con đường tự học, học tập suốt đời.
Trước hết, đội ngũ nhà giáo THPT Thái Bình cần tích cực học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để có thế giới quan khoa học đúng đắn, có hiểu biết sâu sắc về lý luận, có giác ngộ XHCN, có niềm tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, có đủ khả năng thực hiện vai trò của người chiến sỹ tiên phong trên mặt trận giáo dục, mặt trận tư tưởng, văn hóa với nhiệm vụ truyền bá cho thế hệ trẻ thế giới quan, lý tưởng, đạo đức và lập trường cách mạng. Điều này thực sự có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đảm bảo việc giữ vững mục tiêu XHCN của giáo dục và đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển nhân cách tích cực, toàn diện của những chủ thể lao động tương lai.
Thứ hai, công việc chính của nhà giáo là giảng dạy và trang bị cho học sinh những tri thức khoa học tiến tiến nhất để từ đó xây dựng cho học sinh những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho cuộc sống. Vì vậy, dạy bộ môn nào, nhà giáo phải có kiến thức chuyên sâu bộ môn đó, phải thực hiện phương châm “biết mười dạy một” hoặc nếu không thể biết mười thì cũng phải biết đến bốn, năm. Việc dạy bài nào chỉ biết có bài đó, môn nào chỉ biết có môn đó làm cho nhà giáo nhiều khi không thể giải đáp được thắc mắc của học sinh, đôi khi còn dạy sai kiến thức. Ngoài bộ môn mình đảm nhiệm nhà giáo cần nắm vững kiến thức cơ bản của các môn khoa học có liên quan để bài giảng của mình thêm phong phú, hấp dẫn học sinh. Muốn thực hiện tốt vai trò của mình đội ngũ nhà giáo phải có nhu cầu và năng lực không ngừng tự hoàn thiện, không ngừng cập nhật các tri thức khoa học công nghệ hiện đại, linh hoạt thích nghi với việc giảng dạy và giáo dục ở mọi loại hình trường lớp và các hình thức đào tạo mới. Thường xuyên đọc sách báo, theo dõi các phát minh khoa học liên quan đến môn học mà mình phụ trách, tìm hiểu và nghiên cứu kỹ những tài liệu khoa học mới trong lĩnh vực của mình và suy ngẫm tài liệu ấy về mặt sư phạm xem có thể sử dụng được những điều gì vào bài giảng. Tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng, các buổi hội thảo chuyên đề, tham gia dự giờ, thăm lớp, hội thi giáo viên dạy giỏi cấp trường, cấp tỉnh để học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp là biện pháp hiệu quả để đội ngũ nhà giáo bồi dưỡng cho mình kiến thức chuyên môn sâu rộng, toàn diện, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người học và xã hội.
Thứ ba, lao động của nhà giáo là một dạng lao động đa dạng và phong phú, vì thế ngoài tầm hiểu biết rộng nhà giáo còn phải có năng lực sư phạm và năng lực này cần phải được bồi dưỡng thường xuyên. Năng lực sư phạm của nhà giáo bao gồm: nhóm năng lực dạy học (hiểu học sinh, chế biến tài liệu học tập, nắm vững kỹ thuật dạy học, ngôn ngữ) và nhóm năng lực giáo dục (vạch dự án phát triển nhân cách của học sinh, giao tiếp sư phạm, cảm hóa học sinh, khéo léo đối xử sư phạm, tổ chức hoạt động sư phạm). Đó là những kỹ năng, kỹ xảo lao động mà nhà giáo có được từ năng khiếu bẩm sinh, qua đào tạo ở các trường đại học sư phạm và được bổ sung, tích lũy từ quá trình giảng dạy, giáo dục của mình. Vì vậy, ngoài việc nghiên cứu tài liệu, sách báo về các vấn đề giáo dục học, tâm lý học, đội ngũ nhà giáo cần thường xuyên rèn luyện cho mình năng lực sư phạm bằng cách thâm nhập vào đời sống tình cảm của học sinh thông qua các hoạt động ngoại khóa, các buổi sinh hoạt tập thể. Gần gũi, quan tâm đến học sinh sẽ giúp nhà giáo hiểu các em hơn, có những ứng xử khéo léo và cảm hóa được học sinh. Tích cực tham gia các hội thi nghiệp vụ sư phạm cũng giúp nhà giáo rất nhiều trong việc tự bồi dưỡng cho mình năng lực sư phạm.
3.2.3.2. Đội ngũ nhà giáo phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học và phương pháp giáo dục
Khi chúng ta nói rằng, nghề dạy học là nghề sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo thì điều đó cũng có nghĩa rằng nhà giáo không chỉ là người có vốn kiến thức sâu rộng, có đạo đức trong sáng mẫu mực mà còn là người rất thành thục về phương pháp và phương pháp sư phạm. Phương pháp không những là những cách thức, những biện pháp mà con người sử dụng để giải quyết một nhiệm vụ, để thực hiện một công việc cụ thể nào đó có tính chất kỹ thuật, nghiệp vụ thuần túy mà còn là lý luận khoa học, là sự kết tinh tư tưởng và trí tuệ con người hình thành trong hoạt động thực tiễn và từ sự tổng kết, khái quát hóa những kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Nhà giáo - Nhà sư phạm, nhà giáo dục và phải là một nhà phương pháp. Họ sử dụng phương pháp vào thực tiễn giảng dạy và giáo dục nhằm nâng cao trí tuệ và tư tưởng cho học sinh, bồi dưỡng tâm hồn và phẩm chất, dẫn dắt học sinh có những thói quen tốt để hình thành nhân cách.
Thế kỷ 21, sự phát triển như vũ bão của KH&CN với các phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng ngày càng hiện đại. Nhà giáo và sách giáo khoa không còn là nguồn duy nhất truyền bá tri thức phổ thông, điều đó đòi hỏi các nhà giáo phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực lựa chọn, cải tiến phương pháp dạy học và phương pháp giáo dục để hoàn thành vai trò của mình - vai trò không có máy móc hiện đại nào có thể thay thế được.
Hiện nay ở các trường THPT tỉnh Thái Bình, phần lớn nhà giáo vẫn dạy học theo cách đã dạy mấy chục năm qua với phương pháp “thuyết trình có kết hợp với đàm thoại” là chủ yếu, về thực chất là “thầy truyền đạt, trò tiếp nhận, ghi nhớ”, “thầy diễn giải kết hợp với đọc chậm cho trò ghi”, thậm chí ở một số nhà giáo trong cả giờ học thầy “đọc” theo nội dung sách giáo khoa cho trò “chép” vào vở, dạy theo kiểu áp đặt, nhồi nhét, dạy chay...ít gắn với thực tế kỹ thuật, thực tế cuộc sống xã hội. Theo cách dạy này nhiều nhất là có thể đào tạo được những con người có thể bắt chiếc, làm lại những cái mà nhân loại đã làm được và được uốn nắn cho đúng với khuôn mẫu có sẵn. Học sinh tỏ ra rất giỏi trong các kỳ thi nhằm kiểm tra kiến thức đã học (kể cả trong nước và quốc tế) nhưng lại yếu kém khi phải hoạt động sáng tạo, đi vào nghiên cứu khoa học hay giải quyết các vấn đề từ thực tiễn cuộc sống đặt ra và không có khả năng tự học suốt đời. Mặc dù thời gian qua đã có một số nhà giáo tâm huyết với nghề, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn, nhạy cảm trước yêu cầu của xã hội đã tích cực đổi mới phương pháp để nâng cao chất lượng bài giảng nhưng tỷ lệ này còn rất thấp. Vì vậy, cùng với việc đổi mới nội dung, chương trình đội ngũ nhà giáo cần phải đổi mới cả phương pháp giảng dạy của mình, thay vì truyền đạt kiến thức các nhà giáo cần dạy học sinh phương pháp tiếp cận kiến thức để học sinh có khả năng tự học, tự nghiên cứu, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Bài giảng của thầy không nên được coi là tiêu chuẩn mẫu mực mà chỉ mang tính chất định hướng, gợi mở để kích thích học sinh tìm hiểu và tự tìm ra chân lý.
Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, nhiệm vụ của nhà giáo là:
Tự học, tự bồi dưỡng kiến thức đạt được mức độ sâu rộng, vững vàng với bộ môn mình đảm nhiệm, đồng thời chịu khó nghiên cứu để nắm bắt được phương pháp nhận thức bộ môn, hiểu biết sâu sắc những vấn đề của thực tế liên quan đến nội dung kiến thức cần dạy cho học sinh.
Tự bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm về tâm lý học lứa tuổi, về lôgíc học, về nguyên lý giáo dục, nguyên tắc dạy học, nhiệm vụ dạy học bộ môn, hệ thống các phương pháp dạy học và những vấn đề mới về phương pháp dạy học cũng như biết cách sử dụng những phương tiện dạy học hiện đại.
Trong giờ học, giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh, tạo điều kiện thuận lợi để các em hoạt động, hướng dẫn, giúp đỡ các em khi cần thiết như: hướng dẫn các em quan sát, làm thí nghiệm, đọc tác phẩm, nhận xét, so sánh, phân tích, lập luận, trao đổi, tranh luận, kết luận, vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống đặt ra trong bài tập, bài thực hành, trong thực tế và hướng dẫn học sinh cách thức tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả mà mình đã thu được.
Cải tiến cách thức soạn bài theo hướng thiết kế các hoạt động của học sinh hợp trình tự kiến thức và quy luật nhận thức. Chuẩn bị đủ các phương tiện trực quan cần thiết cho giờ học, dự kiến các tình huống xảy ra trong giờ và hướng xử lý cho phù hợp.
Phương pháp giáo dục học sinh cũng cần có những đổi mới theo hướng tích cực, không được xem nhẹ vai trò của xúc cảm, tình cảm trong sự phát triển năng lực trí tuệ và sự phong phú của thế giới tinh thần trong tâm hồn học sinh. Cần khắc phục sự đơn điệu, tẻ nhạt trong lối giáo dục một chiều, thầy dội từ trên xuống, áp đặt đủ mọi điều từ kiến thức cho đến luân lý, phẩm hạnh và những quy định của luật lệ buộc học sinh phải tuân theo, phải làm đúng mà không cần hiểu xem các em nghĩ gì, các em ước muốn và mong đợi những gì ở cuộc sống. Phương pháp giáo dục của nhà giáo phải giúp học sinh từ “học” hướng tới “tập” và “luyện” tức là phải được thực hành trong môi trường giáo dục, trong đời sống hàng ngày. Nhà giáo phải có nhiều tìm tòi xung quanh việc đổi mới phương pháp giáo dục phù hợp với tâm sinh lý của học sinh, kết hợp linh hoạt các phương pháp diễn giảng, trò chuyện, đàm thoại, giáo dục cá biệt, thuyết phục, nêu gương...
3.2.3.3. Đội ngũ nhà giáo cần phát huy tính tích cực, tự giác của mình trong việc rèn luyện nhân cách
Sự hình thành và phát triển nhân cách là một quá trình phức tạp, lâu dài. Quá trình đó đòi hỏi sự chủ động, tự giác, tích cực của mỗi cá nhân nhà giáo ở việc thường xuyên tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi của mình. Lao động sư phạm là loại lao động đặc biệt vì nó tạo ra một loại sản phẩm đặc biệt là nhân cách học sinh, nhà giáo giáo dục học sinh bằng chính nhân cách của mình. Vì thế, một nhà giáo chân chính là người không chỉ nêu gương sáng về ý thức tự học để vượt lên chính mình về trí tuệ, mà còn về thái độ lao động tận tụy, quên mình và đạo đức, lối sống mẫu mực. Uy tín của nhà giáo phải là kết quả của quá trình tu dưỡng văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thiện nhân cách, là hiệu quả lao động kiên trì, là sự kiến tạo công phu quan hệ tốt đẹp giữa thầy và trò, giữa thầy với các lực lượng giáo dục khác. Tinh thần trách nhiệm của nhà giáo không chỉ xuất phát từ ý thức nghĩa vụ mà còn từ niềm tin hứng thú, sự say mê với công việc, từ tình cảm gắn bó, trân trọng với nghề nghiệp, từ lòng khát khao muốn truyền đạt tri thức, niềm tin của mình cho các thế hệ học sinh. Rèn luyện nhân cách là yêu cầu không thể thiếu, và cũng là nhu cầu của đội ngũ nhà giáo, biểu hiện chủ yếu ở những khía cạnh sau:
Một là, việc đội ngũ nhà giáo cần củng cố hệ thống niềm tin đối với sự nghiệp trồng người sẽ có sức mạnh thuyết phục to lớn đối với các em học sinh. Hiện nay, chương trình giáo dục luôn được đổi mới và cập nhật những tri thức tiên tiến, những phương pháp dạy học hiện đại cũng đang được tích cực áp dụng rộng rãi. Nhưng tất cả sẽ trở nên khô khan, cứng nhắc, không sức sống, không sức thuyết phục nếu những thứ đó chưa biến thành niềm tin của những nhà giáo dục. Hơn nữa, nền kinh tế thị trường luôn đặt trước các nhà giáo những cám dỗ, những cạm bẫy buộc họ phải tự mình phân tích, đánh giá, lựa chọn và tự quyết định, nếu không có niềm tin thì nhà giáo sẽ không thể đủ tỉnh táo, đủ bản lĩnh để đấu tranh, để chiến thắng, để khẳng định mình. Niềm tin vào nghề nghiệp sẽ giúp các nhà giáo nhận thức rõ hơn vai trò của mình, niềm tin đó phải có được từ quá trình tích cực học tập, rèn luyện, tu dưỡng để nâng cao trình độ chính trị, trình độ hiểu biết các vấn đề của đất nước, từ tấm lòng yêu trẻ và từ chính lòng tự trọng của nhà giáo
Hai là, tiếp tục hình thành, củng cố những tính cách, phẩm chất cần có của nghề dạy học như: tính khách quan, sự bình tĩnh, kiên trì, sự cảm thông, tính trung thực, công bằng, khả năng giao tiếp rộng, ngôn ngữ trong sáng, sự cẩn thận, tỷ mỷ, chu đáo và tận tụy, sự sâu sắc, mới mẻ và rành mạch, sự nhạy cảm, tinh tế và sáng tạo, sự khéo léo trong ứng xử sư phạm...Không phải nhà giáo nào cũng sẵn có những tính cách phù hợp với nghề dạy học. Song, bằng con đường tự rèn luyện sẽ từng bước loại bỏ những thói quen, tật xấu, tính cách không phù hợp với nghề này như: thái độ gia trưởng, quan liêu, tùy tiện... Nhà giáo biết yêu cầu cao với chính mình, tự yêu cầu mình sống và làm việc có mục đích rõ ràng, có kế hoạch khoa học, biết tự chủ trong những tình huống phức tạp là cách thức tốt nhất để rèn luyện tính cách và phẩm chất.
Ba là, nhân cách của nhà giáo được phát triển liên tục trong lao động sư phạm một phần nhờ quan hệ qua lại thường xuyên, liên tục và trực tiếp với đồng nghiệp, với các em học sinh, các bậc cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội khác. Việc xây dựng, củng cố mối quan hệ lành mạnh, trong sáng với đồng nghiệp, với học sinh và các lực lượng giáo dục khác trong xã hội sẽ giúp nhà giáo không lẻ loi, không đơn độc khi thực hiện vai trò của mình.
Bốn là, nghề dạy học là một nghề có những yêu cầu rất khắt khe, đòi hỏi mỗi nhà giáo phải không ngừng rèn luyện về mọi mặt, trong đó trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp là điều mà mỗi nhà giáo phải thường xuyên tâm niệm. Xã hội không thể đòi hỏi các nhà giáo phải có ít nhu cầu hơn người khác, không thể yêu cầu họ phải cống hiến thật nhiều cho học sinh, cho sự nghiệp giáo dục mà không đòi hỏi một sự đãi ngộ xứng đáng. Song, chính các nhà giáo phải đòi hỏi ở mình sự biểu thị nhu cầu một cách có văn hóa nhất, thể hiện ở sự lựa chọn, khả năng tự điều tiết và quyết định các nhu cầu một cách hợp lý kể cả sự hy sinh trong những trường hợp cần thiết vì lợi ích của học sinh, của tập thể và xã hội. Chỉ như vậy nhà giáo mới có đủ quyết tâm và nghị lực vượt qua những khó khăn, thiếu thốn của cuộc sống, để không thể vì “nghèo” mà làm mọi việc để kiếm tiền, không thể vì tiền mà coi nghề dạy học là phương tiện sống. Do đó, cần một sự đãi ngộ từ phía xã hội là quyền lợi, là yêu cầu chính đáng của các nhà giáo, nhưng trong khi đòi hỏi sự đãi ngộ, sự kính trọng của xã hội thì mỗi nhà giáo trước hết cần đòi hỏi ở chính mình những cống hiến tương xứng bằng tất cả lý tưởng, đạo đức, lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp của mình. Lương tâm và trách nhiệm là yếu tố không thể thiếu để tạo nên sức đẩy nhân cách đối với nhà giáo trong công việc, nó là vẻ đẹp của danh dự người thầy đồng thời cũng là yếu tố làm cho nhân cách của nhà giáo ngày càng phát huy ảnh hưởng tốt đẹp đến nhân cách của học sinh.
Tóm lại, tất cả những giải pháp nêu trên là một thể thống nhất, đồng bộ, đảm bảo thỏa mãn yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài để đội ngũ nhà giáo phát huy và nâng cao hơn nữa vai trò của mình trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tỉnh Thái Bình, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của tỉnh cũng như của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và xây dựng đất nước theo định hướng XHCN hiện nay.
Kết luận chương 3
Để nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT cần phải quán triệt những quan điểm sau:
Quan điểm giáo dục toàn diện.
Quan điểm giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Quan điểm kết hợp giữa quá trình giáo dục và tự giáo dục của học sinh, trong đó đặc biệt chú trọng đến vai trò tự giáo dục.
Quan điểm mỗi nhà giáo phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Từ những quan điểm đó, căn cứ vào thực trạng và xu hướng biến động của đội ngũ nhà giáo luận văn đề xuất ba nhóm giải pháp sau:
Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức của xã hội.
Nhóm giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và tạo lập môi trường, động lực để đội ngũ nhà giáo nâng cao vai trò của mình.
Nhóm giải pháp nâng cao năng lực tự học, tự hoàn thiện về trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm và nhân cách của đội ngũ nhà giáo.
Mọi giải pháp đề xuất đều nhằm mục tiêu cao nhất là nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tỉnh Thái Bình, việc thực hiện đồng bộ những giải pháp đó đòi hỏi phải có sự phối kết hợp giữa các lực lượng làm công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực trong và ngoài nhà trường.
Kết luận
Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của KH&CN đã trở thành nhân tố gây nên những biến đổi mạnh mẽ trong đời sống con người. Những thành tựu mới của cuộc cách mạng KH&CN không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với nền sản xuất xã hội, mà còn trực tiếp làm biến đổi đời sống chính trị - xã hội. Con người ngày càng trở thành nguồn lực quyết định tới sự thành bại của mỗi quốc gia. ở nước ta, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao đang là một nhu cầu rất lớn của sự nghiệp đổi mới và CNH, HĐH đất nước. Để đào tạo và phát triển được nguồn nhân lực ấy, con đường ngắn nhất, khoa học nhất, hiệu quả nhất là thông qua GD-ĐT với chủ thể quyết định là đội ngũ nhà giáo.
Học sinh THPT là một bộ phận của nguồn nhân lực. Với tư cách là chủ nhân tương lai của đất nước, học sinh THPT cần phải được giáo dục và đào tạo, được rèn luyện thì mới đủ điều kiện để trở thành nguồn lao động trực tiếp, hoặc học lên để bổ sung vào nguồn nhân lực chất lượng cao tiếp tục phát huy nguồn lực trí tuệ vô cùng quý giá cho dân tộc.
Đội ngũ nhà giáo THPT tỉnh Thái Bình là một bộ phận của đội ngũ nhà giáo Việt nam. Với những đặc điểm mang tính đặc thù của nhà giáo cấp THPT, họ đã thông qua việc giảng dạy các môn học và các hoạt động giáo dục khác để đào tạo các em học sinh THPT thành những con người phát triển toàn diện cả về tri thức, sức khỏe, đạo đức, thẩm mỹ và nghề nghiệp, giúp các em có đủ các yếu tố cần thiết để tham gia xây dựng quê hương đất nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đội ngũ nhà giáo THPT tỉnh Thái Bình cũng bộc lộ những mặt hạn chế trong quá trình thực hiện vai trò của mình, việc phân tích, đánh giá nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế đó cho thấy: trong xu thế phát triển hiện nay của tỉnh và đất nước thì hơn lúc nào hết chúng ta cần phấn đầu thực hiện tốt công tác đào tạo nguồn nhân lực, trong đó chú trọng là nguồn nhân lực phổ thông và nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì thế, vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực cần phải được phát huy và nâng cao hơn nữa. Dù xã hội có nhiều thay đổi, dù cho nhà giáo và sách giáo khoa không còn là con đường duy nhất giúp học sinh tìm đến tri thức, nhưng vai trò của đội ngũ nhà giáo không bao giờ bị lu mờ, họ vẫn luôn là lực lượng quyết định chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo.
Những xu hướng biến động về vai trò của đội ngũ nhà giáo THPT trong luận văn có căn cứ từ thực trạng thực hiện vai trò cũng như những yếu tố tác động đến quá trình đội ngũ nhà giáo thực hiện vai trò của mình. Những xu hướng đó là cơ sở khách quan để đề xuất những giải pháp mang tính định hướng nhằm góp phần nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT trong thời gian tới.
Ba nhóm giải pháp được đề xuất từ nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của đội ngũ nhà giáo đến đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, tạo lập môi trường, động lực cho đội ngũ nhà giáo và quá trình bản thân nhà giáo tự hoàn thiện trình độ, nhân cách đều dựa trên bốn quan điểm chỉ đạo cơ bản như giáo dục toàn diện, giáo dục là sự nghiệp của Nhà nước và nhân dân, phải kết hợp giáo dục với tự giáo dục và sự nêu gương của đội ngũ nhà giáo. Đưa ra nhiều biện pháp cụ thể là để thúc đẩy việc nâng cao chất lượng thực hiện vai trò của bản thân đội ngũ nhà giáo trước những đòi hỏi ngày càng cao của xã hội đối với việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước trong những năm tới và tương lai.
Bên cạnh những kết quả đã nghiên cứu được, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những hạn chế, thiết nghĩ điều đó sẽ mở ra những hướng nghiên cứu khá bổ ích về đội ngũ nhà giáo trong thời gian tới.
Danh mục tài liệu tham khảo
Ph.Ăngghen (1960), Chống Đuyrinh, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Ban Chấp hành Tỉnh đoàn Thái Bình (2003), Báo cáo công tác Đoàn và phong trào thanh niên năm 2003.
Ban Chấp hành Tỉnh đoàn Thái Bình (2005), Báo cáo công tác Đoàn và phong trào thanh niên giai đoạn 2001-2005.
Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2002), Hỏi đáp về các kết luận của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thị Bình (1998), “Bài phát biểu tại Hội thảo nghiên cứu, phát triển tự học – tự đào tạo”, Nghiên cứu giáo dục, (2).
Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng bộ tỉnh Thái Bình (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII.
Điều lệ trường trung học (2000), Nxb Giáo dục.
Phạm Văn Đồng (1969), Đào tạo thế hệ trẻ của dân tộc thành những người chiến sỹ cách mạng dũng cảm thông minh sáng tạo, Nxb Giáo dục.
Phạm Văn Đồng (1979), Sự nghiệp giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
T.A.Ilina (1973), Những nguyên lý chung của giáo dục học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Lân (1960), Người thầy giáo xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Luật giáo dục (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, I.V.Xtalin (1976), Về xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, I.V.Xtalin (1978), Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin, I.V.Xtalin (1978), Về thanh niên, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác (1960), Tư bản, Quyển I, Tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen, (1994), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen, (1996), Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen, (1994), Toàn tập, Tập 26, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1990), Về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo dục.
Hồ Chí Minh (1995), Về xây dựng con người mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1999), Về đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1980), Toàn tập, Tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1980), Toàn tập, tập 8, NxbSự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1980), Toàn tập, tập 9, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1999), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Nhất (2004), “Vai trò xã hội và chức năng của nhà giáo dưới ánh sáng tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh”, Tạp chí Quản lý giáo dục.
Nguyễn Thị Nhỏ, Đỗ Thị Thanh Thuỷ (2005), Quản lý công tác bồi dưỡng học sinh năng khiếu trong trường trung học phổ thông, Tài liệu của Trường Cán bộ quản lý giáo dục - đào tạo thuộc Bộ Giáo dục - Đào tạo.
Lê Khả Phiêu (1998), Phát biểu tại buổi làm việc với Bộ Giáo dục - Đào tạo ngày 21.2.1998, Tài liệu dùng trong lớp tập huấn giáo viên – Hè 1998.
Trần Hồng Quân (1996), Kế hoạch phát triển giáo dục - đào tạo giai đoạn 1996-2000 và định hướng đến 2020, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Báo cáo tại lớp Nghiên cứu nghị quyết đại hội VIII.
Sở Giáo dục - Đào tạo Thái Bình (2000), Kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2000-2010.
Sở Giáo dục - Đào tạo Thái Bình (2001), Tài liệu hướng dẫn thực hiện nghị quyết 06/NQ-TV của Ban Thường vụ tỉnh uỷ Thái Bình về phát triển GD-ĐT giai đoạn 2001-2010.
Sở Giáo dục - Đào tạo Thái Bình (2003), Thông báo của phòng trung học trung học phổ thông về kết quả cuộc thi sáng tạo “Vì ngôi nhà chung”.
Sở Giáo dục - Đào tạo Thái Bình (2004), Lịch sử giáo dục - đào tạo Thái Bình 1945-2004.
Sở Giáo dục - Đào tạo Thái Bình (2005), Báo cáo tổng kết công tác tổ chức cán bộ năm học 2004-2005.
Sở Giáo dục - Đào tạo Thái Bình (2005), Báo cáo tổng kết năm học 2004-2005.
Sở Giáo dục - Đào tạo Thái Bình (2006), Báo cáo công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2005 và phương hướng, nhiệm vụ công tác truyển sinh đại học, cao đẳng năm 2006.
Sở Giáo dục - Đào tạo Thái Bình (2006), Báo cáo công tác phòng chống ma tuý năm học 2005-2006.
Đỗ Thị Thạch (chủ biên) (2004), Tìm hiểu môn học chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Lý luận chính trị.
Tỉnh uỷ Thái Bình (2001), Nghị quyết 06/NQ-TV của Ban thường vụ tỉnh uỷ về phát triển giáo dục - đào tạo giai đoạn 2001-2010.
K.Đ.Usinxki (1948), Toàn tập, Tập 2, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
K.Đ.Usinxki (1953), Tác phẩm sư phạm chọn lọc, Tập 1, Nxb Giáo dục.
Viện Nghiên cứu và Phát triển giáo dục, Trung tâm Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực (2002), Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục.
Nguyễn Như ý (chủ biên) (2001), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2694.doc