Nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Quán triệt quan điểm của Đảng, giáo dục là quốc sách hàng đầu, nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn cách mạng hiện nay và để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chung của đất nước, tỉnh Thái Bình đã không ngừng xây dựng và phát triển về mọi mặt. Đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục bởi “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Từ xa xưa, Thái Bình vốn là một tỉnh thuần

doc115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nông không những có truyền thống thâm canh giỏi mà còn là một trong những tỉnh có nền văn hiến cao, có truyền thống “hiếu học”. Hơn nửa thế kỷ qua, tuy còn là một tỉnh rất khó khăn về kinh tế, nhưng Thái Bình vẫn không ngừng đầu tư cho sự nghiệp “trồng người”, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Từ ngày hoà bình lập lại, bước vào thời kỳ khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế - xã hội, sự nghiệp giáo dục của tỉnh Thái Bình được đặc biệt coi trọng, được coi là “chìa khoá” để mở cửa vào lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật. Gắn liền với phong trào sản xuất, với khẩu hiệu “lúa xanh tươi, người biết chữ” Thái Bình đã được tặng thưởng huân chương lao động hạng Nhì. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra vô cùng ác liệt nhưng sự nghiệp giáo dục của tỉnh Thái Bình vẫn được duy trì và phát triển. Hiện nay trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và bùng nổ về khoa học công nghệ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hệ thống các trường chuyên nghiệp, kinh tế kỹ thuật, trường chính trị, trường dạy nghề đã phát huy tác dụng và góp phần quan trọng vào sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cũng như nguồn nhân lực cho tỉnh Thái Bình. Nhiều năm qua, Thái Bình “được mùa” về sự nghiệp “trồng người”. “Đất học” Thái Bình có nhiều tài năng nở rộ, hàng năm số học sinh trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng đạt từ 20% đến 30%. Các làng quê và đô thị của Thái Bình đã nuôi dưỡng nên biết bao cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ, giáo sư… Họ đã và đang làm giàu cho quê hương, đất nước. Nhiều người con của Thái Bình đã và đang giữ những cương vị chủ chốt ở các địa phương và Trung ương [2]. Những năm gần đây, Thái Bình tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của Thái Bình. Quê lúa đã dần đổi màu, những nhà máy, những khu công nghiệp mọc lên ngày càng nhiều. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, của toàn cầu hoá, của sự mở cửa giao lưu, hội nhập với thế giới… một mặt, đã tạo nhiều cơ hội học tập và việc làm cho mọi thành viên trong xã hội. Mặt khác, cũng đem lại những nguy cơ và thách thức cho mỗi cá nhân và cả xã hội, đặc biệt là giới học sinh, sinh viên. Truyền thống “đất học” Thái Bình đang có nguy cơ bị đe doạ bởi các hiện tượng chán học, lười học, bỏ giờ, học đối phó, quay cóp trong thi cử. Thêm vào đó là nạn rượu chè, cờ bạc, ma tuý… đã và đang xâm nhập vào nhà trường ở Thái Bình gây ảnh hưởng xấu đến một bộ phận học sinh, sinh viên. Tất cả những hiện trạng tiêu cực đó đã ảnh hưởng xấu đến quá trình học tập của học sinh, sinh viên Thái Bình, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục và đào tạo của tỉnh. Những hiện tượng trên có rất nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là chúng ta chưa biết phát huy và nâng cao những mặt mạnh và tích cực của những sinh viên, và bản thân mỗi sinh viên chưa thực sự cố gắng phát huy hết nội lực của mình trong quá trình học tập và rèn luyện. Trước thực trạng như vậy, cùng với yêu cầu đổi mới ở tỉnh Thái Bình và phát huy truyền thống của quê hương, đất nước, chúng tôi thực sự thấy bức xúc và muốn góp phần nhỏ bé để có thể giúp các em sinh viên Thái Bình có thể nâng cao vai trò nhận thức của họ trong quá trình học tập. Chỉ có như vậy thì Thái Bình mới thực sự góp sức mình vào công cuộc phát triển chung của đất nước. Nhận thức được vấn đề cần phải nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở Thái Bình trong thời kỳ đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu của tỉnh, của đất nước, là cần có một đội ngũ lao động có thể lực, trí lực, có tâm huyết, trung thành với lý tưởng và nhiệt tình cách mạng. Vì lẽ đó tác giả đã chọn đề tài này với mong muốn có thể góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp chung của đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề liên quan đến chủ thể nhận thức, khách thể nhận thức đã được một số tác giả nghiên cứu như: Luận án tiến sỹ của Nguyễn Tiến Thủ “Quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức với việc phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên Việt Nam hiện nay”, Hà Nội 2001. Luận án tập trung nhiều vào lý luận về chủ thể và khách thể nhận thức. Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Đức Hoàn “Phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng ở Việt Nam hiện nay” (Qua thực thế một số trường cao đẳng ở tỉnh Hải Dương), Hà Nội 2001. Luận văn tập trung vào đối tượng là sinh viên cao đẳng khối Kinh tế kỹ thuật ở tỉnh Hải Dương. Luận văn thạc sỹ của Phùng Minh Hải “Vấn đề phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của học viên hệ Trung cấp lý luận chính trị ở Cần Thơ hiện nay”, Hà Nội 2003. Luận văn tập trung vào nghiên cứu đối tượng là học viên hệ Trung cấp lý luận chính trị ở Cần Thơ. Một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác cũng đề cập tới vai trò chủ thể và khách thể cũng như mối quan hệ biện chứng giưã chủ thể và khách thể như: “Hệ tự tưởng Đức”, “Biện chứng của tự nhiên”, “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, “Bút ký triết học”… Tác phẩm “Phát huy tinh thần học tập cầu học, cầu tiến bộ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh dã nhấn mạnh tới vai trò chủ thể nhận thức trong học tập. Trong các Nghị quyết của Đảng ta, đặc biệt là các nghị quyết từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX luôn đề cập đến vấn đề phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao tinh thần tự học… Vấn đề “Nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay”, với đối tượng sinh viên đại học Y khoa, sinh viên cao đẳng Sư phạm và sinh viên trường cao đẳng Kinh tế kỹ thuật ở một tỉnh thuần nông nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, một miền quê có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá và xã hội rất đặc trưng vẫn là mảng đề tài cần được tiếp tục nghiên cứu. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Mục đích Trên cơ sở phân tích thực trạng nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình, đề xuất một số phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay. - Nhiệm vụ + Phân tích tính tất yếu khách quan của việc nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay. + Khảo sát, điều tra, phân tích thực trạng nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay. + Đề xuất những phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay. - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn + Khảo sát sinh viên của Đại học Y khoa Thái Bình, sinh viên Cao đẳng Sư phạm và sinh viên Cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật. + Phạm vi nghiên cứu tập trung và trực tiếp của luận văn là vấn đề “Nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay”. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn - Cơ sở lý luận + Luận văn được viết dựa trên những quan điểm triết học Mác - Lê nin về mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức, về lý luận nhận thức. Luận văn cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết của Đảng và sử dụng kết quả nghiên cứu lý luận của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài. + Luận văn được viết dựa trên những nghị quyết, quyết định và thông tri về giáo dục và đào tạo có liên quan của tỉnh Thái Bình, của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như của Bộ Y tế. - Phương pháp nghiên cứu + Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa DVBC và CNDVLS. + Kết hợp giữa phân tích và tổng hợp, phối hợp với các phương pháp so sánh, thống kê… để làm rõ vấn đề mà luận văn đề cập. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Góp phần luận chứng cho vấn đề vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở Thái Bình trong giai đoạn hiện nay. Qua điều tra thực tế, tổng kết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn nhằm nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay. Đưa ra các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt thực tiễn, luận văn là sự vận dụng, cụ thể hoá một số vấn đề lý luận của Triết học Mác - Lê nin vào thực tiễn giáo dục, đào tạo ở tỉnh Thái Bình hiện nay. Vì lẽ đó, những vấn đề mà luận văn đề cập và giải quyết sẽ góp phần thiết thực về cải tiến và đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở các trường Đại học, Cao đẳng ở Thái Bình hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 Tính tất yếu của việc nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay 1.1. vai trò Chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên hiện nay 1.1.1. Vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên * Đặc điểm tâm - sinh lý, xã hội của sinh viên Sinh viên là một nhóm xã hội đặc thù trong tầng lớp thanh niên, họ tồn tại đan xen trong các mối quan hệ xã hội, giai cấp, dân tộc, đoàn thể. Sinh viên đang học tập và sinh sống ở tỉnh Thái Bình thường có độ tuổi 17-18 đến 24-25, một số ít sinh viên ở độ tuổi 25-30. - Về sinh lý: ở độ tuổi 17-25 hình thể đã đạt được sự hoàn chỉnh về cấu trúc và phối hợp giữa các chức năng. Thời kỳ đầu của giai đoạn này, con người đạt được 9/10 chiều cao và 2/3 trọng lượng của cơ thể trưởng thành. Bộ não đã đạt được trọng lượng tối đa (khoảng 14.000gram), số tế bào thần kinh phát triển tương đối đầy đủ. Lứa tuổi này hoạt động thần kinh cao cấp đã đạt đến mức trưởng thành. Đang trong giai đoạn “dạy thì” các chức năng sinh sản bắt đầu quá trình hoàn thiện. Giới tính phân biệt rõ và phát triển đầy đủ ở mỗi giới cả về hình thể đến biểu hiện nội tiết tố. - Về tâm lý: 17-25 tuổi là thời kỳ phát triển trí tuệ được đặc trưng bởi sự nâng cao năng lực trí tuệ, biểu hiện rõ nhất ở khả năng tư duy sâu sắc và mở rộng, có năng lực giải quyết những nhiệm vụ trí tuệ ngày một khó khăn hơn, cũng như có tiến bộ rõ rệt trong lập luận lô gích, trong lĩnh hội tri thức, trí tưởng tượng, sự chú ý và nghi ngờ. Thời kỳ này cũng là thời kỳ phát triển khả năng hình thành ý tưởng trừu tượng, khả năng phán đoán, nhu cầu hiểu biết và học tập cao. ở độ tuổi này sinh viên có tính nhạy bén cao, khả năng giải thích và gắn ý nghĩa cho những ấn tượng cảm tính nhờ vào kinh nghiệm và tri thức có trước đây. Sự phát triển nói trên cùng với óc quan sát tích cực và nghiêm túc sẽ tạo khả năng cho lứa tuổi này biết cách lĩnh hội tối ưu tri thức và đó chính là cơ sở vững chắc cho toàn bộ quá trình học tập và nghiên cứu khoa học của mỗi một sinh viên. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng của lứa tuổi sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Tự ý thức có chức năng điều chỉnh nhận thức và có thái độ với bản thân, là sự đánh giá toàn diện về bản thân và vị trí của mình trong cuộc sống. Tự ý thức chính là điều kiện để phát triển và hoàn thiện nhân cách, hướng nhân cách theo các yêu cầu mà xã hội đòi hỏi. - Về mặt xã hội: Lứa tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất về đạo đức và thẩm mỹ, là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách. Đặc biệt là họ có vai trò xã hội của người lớn. Người sinh viên đã có kế hoạch cho lao động của riêng mình, độc lập trong phán đoán và hành vi, bắt đầu thể nghiệm mình trong cuộc sống. Vì ở độ tuổi sau trẻ em và bắt đầu thành người lớn, nên thế giới nội tâm của họ là vô cùng phức tạp, phát triển nhân cách của sinh viên là một quá trình chuyển từ các yêu cầu bên ngoài thành nhu cầu của bản thân sinh viên và là quá trình tự vận động và hoạt động tích cực của chính bản thân họ. Những mâu thuẫn chính là: + Mâu thuẫn giữa ước mơ của người sinh viên với khả năng điều kiện và kinh nghiệm để thực hiện ước mơ đó. + Mâu thuẫn giữa mong muốn học tập chuyên sâu những môn ưa thích và yêu cầu thực hiện toàn bộ chương trình học tập do nhà trường quy định. + Mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin vô cùng phong phú với khả năng điều kiện để xử lý thông tin. Về thái độ học tập của sinh viên thì có rất nhiều kiểu khác nhau. Có sinh viên học chỉ vì nghề nghiệp mà không hề quan tâm đến các lĩnh vực trí thức cũng như hoạt động xã hội khác. Họ luôn thực hiện bài tập theo yêu cầu và chỉ cần đạt điểm trung bình. Ngoài sách bắt buộc phải đọc thì họ chỉ đọc theo ý thích, không liên quan gì đến sự phát triển nghề nghiệp. Có sinh viên lại thích các môn học mà họ coi là tri thức về cuộc sống nói chung trên cơ sở lựa chọn riêng của mình. Họ quan tâm nhiều đến thế giới tư tưởng và sách. Ngoài giờ học bắt buộc, họ tự nguyện tham gia vào các chuyên đề tự chọn, những giờ phụ đạo, các buổi hoà nhạc… Họ muốn hiểu biết các lĩnh vực mà họ quan tâm, họ luôn tham gia vào các tổ chức khoa học và né tránh các tổ chức tập thể, các công việc xã hội không liên quan trực tiếp đến việc học tập. Với những sinh viên này thì học tập thực sự là những khát khao tri thức và kinh nghiệm sống. Cũng có những sinh viên vừa ham thích sách vở và học tập, nhưng vẫn tham gia các hình thức hoạt động và đời sống tập thể, họ cố gắng đạt điểm cao trong các kỳ thi, coi hoạt động tập thể, có ảnh hưởng tích cực đến bản thân. Có những sinh viên luôn chú ý đến các hoạt động xã hội của nhà trường hơn là bản thân các khoa học. Họ gắn bó với trường và tham gia tích cực vào các hoạt động bề nổi. Với họ thời sinh viên không có nghĩa chỉ là giảng đường, mà còn có các câu lạc bộ, các tổ chức sinh viên… Họ cũng cố gắng để có "mảnh bằng", nhưng ít khi vượt quá ngưỡng tối thiểu. Ngoài những đặc điểm trên, ở vào tuổi của mình sinh viên còn ít từng trải, thiếu kinh nghiệm và vốn sống hạn chế cho nên bên cạnh rất nhiều ưu điểm thì sinh viên còn bộc lộ những hạn chế không tránh khỏi do khí chất của mình như: hấp tấp, vội vàng do muốn sớm khẳng định mình nhưng lại thiếu kinh nghiệm sống. Tính tự phụ, bồng bột, chủ quan vì muốn nhập cuộc để tự khẳng định mình nên thiếu kiềm chế, nhẹ dạ, cả tin, gặp khó khăn là dễ hoang mang, dao động, dễ bị kích thích, thiếu tự chủ do hệ tim mạch và hệ thần kinh chưa ổn định. Khí chất của thanh niên chưa cân bằng nên dễ bốc đồng và thường bị lợi dụng. Do đặc điểm về tuổi tác của mình nên sinh viên thường tiếp thu thông tin ít chọn lọc, hướng tới các giá trị mới hiện đại nhưng lại nhanh quên quá khứ. Vì lẽ đó mà trong quá trình giảng dạy cho sinh viên, bên cạnh việc giáo dục chuyên môn nghiệp vụ thì phải giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị và giá trị truyền thống cho sinh viên. Hiểu được đặc điểm tâm lý, xã hội của sinh viên, bản chất tốt đẹp, khả năng cách mạng của tuổi trẻ cũng như những hạn chế của họ là một vấn đề rất quan trọng để có nhận thức đúng, có thái độ đánh giá đúng và có quan điểm giáo dục, vận động, phát triển họ một cách khoa học, hiệu quả và như vậy sẽ tạo ra những thành quả lớn trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực mới góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước. Sau 20 năm đổi mới, do những biến đổi trong chính sách kinh tế - xã hội và ngoại giao, kinh tế chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Chính sách ngoại giao từ chỗ chỉ quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa là chủ yếu sang đa phương hoá, đa dạng hoá dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong thang giá trị và định hướng xã hội của thanh niên - sinh viên. Nhiều đề tài cấp Nhà nước như đề tài KX-04-09 “Những luận cứ khoa học của việc đổi mới chính sách thanh niên hiện nay”. Đề tài KX-07-10 “ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế thị trường đối với sự phát triển nhân cách con người Việt Nam”… đều nhận định rằng thang giá trị và sự lựa chọn giá trị trong thanh niên, sinh viên hiện nay đã có sự thay đổi trên cả 2 khía cạnh. Thứ nhất: Sự biến đổi của chính các giá trị. Hiện nay, một số các giá trị truyền thống đã được thay đổi về nội dung như, những giá trị đề cao tinh thần hy sinh , xả thân vì nước, vì dân trong thời kỳ chiến tranh đã được thay thế bằng nội dung mới là phải làm tất cả những gì để dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các giá trị về ý thức cộng đồng, về truyền thống đoàn kết không chỉ được quan niệm là hy sinh lợi ích của cá nhân mà còn là sự kết hợp giữa các lợi ích xã hội tập thể và cá nhân, coi lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp để phát triển kinh tế - xã hội. Trong lao động sản xuất không chỉ là cần cù, chịu khó mà cần phải lao động có tri thức khoa học, có lương tâm trách nhiệm, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Trong cơ chế hiện nay, đòi hỏi con người phải không chỉ dám nghĩ, dám làm mà còn dám chịu trách nhiệm, chấp nhận cạnh tranh, liên doanh liên kết với các cá nhân, các tổ chức kinh tế dịch vụ trong nước và quốc tế. Thứ 2: Sự thay đổi trật tự ưu tiên trong hệ thống giá trị. Qua điều tra 3.000 sinh viên ở 3 trường đại học Y khoa Thái Bình, cao đẳng Kinh tế kỹ thuật Thái Bình và trường cao đẳng Sư phạm Thái Bình chúng tôi thấy các giá trị sinh viên Thái Bình quan tâm nhất là: Bảng 1.1: Sự biến đổi một số giá trị cơ bản của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay STT Các giá trị Tỷ lệ (%) 1 Có việc làm và lập nghiệp 99 2 Có học vấn rộng và tư duy sáng tạo 70 3 Có cuộc sống gia đình hạnh phúc 90 4 Có nhu cầu mới, nếp sống văn minh 70 5 Có bản lĩnh, nhân cách công nhân 51 Nguồn: Qua điều tra khảo sát 3.000 snh viên của các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Thái Bình từ tháng 4 - tháng 5/2005. So với kết quả điều tra của đề tài: “Sinh viên - nhu cầu, nguyện vọng” do hội thanh niên thực hiện thì các chỉ số tương ứng là: 83%, 64%, 56,2%, 52,4% và 51,5%. Như vậy quan niệm của sinh viên ở tỉnh Thái Bình về trật tự ưu tiên các giá trị có những điểm khác biệt so với sinh viên của cả nước. Qua điều tra xã hội học, của tác giả Trần Xuân Vinh (1995) “Sự biến đổi một số giá trị cơ bản và thanh niên hiện nay” [103, tr.40 - 43] thì chỉ có 12,1% sinh viên mong muốn được tham gia quản lý xã hội, 26,7% xây dựng Đảng, đoàn, 12,9% lựa chọn nghề nghiệp để được đóng góp sức lực của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Trong khi đó 81,2% sinh viên lựa chọn cho mình nghề nghiệp có thu nhập cao là quan trọng hàng đầu. Như trên đã trình bày thì giá trị không hoàn toàn là cái bất biến, mà nó luôn biến đổi để phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Sự biến đổi ở đây không chỉ về nội dung mà còn về trật tự ưu tiên và xuất hiện thêm những giá trị mới. Có sự biến đổi đó của các giá trị là do sự biến đổi của thực tiễn xã hội và nhận thức của con người. Nền kinh tế - xã hội của chúng ta đang có sự chuyển mình ghê gớm, tất yếu dẫn đến sự thay đổi của thang giá trị. Từ đó dẫn đến việc chúng ta cần phải nhận thức, đánh giá và định hướng cho sinh viên biết kết hợp một cách hài hoà giữa các giá trị, nhằm giảm thiểu những lệch lạc, cực đoan trong việc lựa chọn của các em. Qua kết quả điều tra xã hội học ở 3 trường đại học Y Thái Bình, cao đẳng Kinh tế kỹ thuật Thái Bình, cao đẳng Sư phạm Thái Bình và qua một số đề tài nghiên cứu về thanh niên, sinh viên Việt Nam, chúng tôi thấy thanh niên - sinh viên là những con người về thể chất đã đạt đến độ hoàn chỉnh, là thời kỳ phát triển đầy đủ các tố chất của con người Việt Nam hiện đại. Và như vậy thì sinh viên Thái Bình cũng không nằm ngoài xu hướng chung của sinh viên cả nước trong quan niệm về trật tự ưu tiên các hệ thống giá trị cho dù họ có một số những quan điểm riêng. Từ những điểm đã phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rất rõ sinh viên với tư cách là chủ thể nhận thức trong học tập là những người trẻ, với độ tuổi 18-25 là lứa tuổi đẹp nhất trong cuộc đời, đầy ước mơ và khát vọng, tuổi của tương lai, với nghị lực tiềm tàng, tính năng động trong cuộc sống, là một thế hệ hội đủ các tố chất: Yêu nước, thông minh, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, có nghị lực, ham học lập để có việc làm và lập nghiệp. * Tính đặc thù của sinh viên với tư cách chủ thể nhận thức trong học tập Chúng ta muốn nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng thì không thể không nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên chính ở đây là một bộ phận quan trọng của quá trình dạy - học. Trước hết chúng ta phải hiểu quá trình dạy - học là gì ? Từ đó tìm hiểu tính đặc thù của sinh viên với tư cách là chủ thể nhận thức trong học tập. Học là một hoạt động với đối tượng, trong đó học sinh, sinh viên là chủ thể, tri thức khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh. Học là quá trình tự giác, tích cực chiếm lĩnh tri thức khoa học dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên. Chiếm lĩnh tri thức khoa học là mục đích của việc học, quá trình này được thực hiện từng bước như sau: Trước hết học sinh, sinh viên phải nắm vững nghĩa, đào sâu ý chứa đựng trong các khái niệm, các tri thức khoa học. Sau đó tái tạo các khái niệm, các tri thức khoa học đó trong bản thân, và phải thao tác với nó, sử dụng nó giống như một công cụ, một phương pháp để chiếm lĩnh thêm các khái niệm và tri thức khoa học khác hoặc để mở rộng, đào sâu, nâng cao thêm chính các khái niệm, tri thức đó ở trình độ lý thuyết cao hơn. Khi đã chiếm lĩnh được các khái niệm, các tri thức khoa học thì người học sẽ biến chúng từ trong kho tàng tri thức xã hội thành học vấn của riêng mình. Từ đó hình thành cho mình một thái độ mới trong việc đánh giá các giá trị tinh thần và vật chất của thế giới khách quan. Như vậy, khi thực hiện thành công quá trình chiếm lĩnh khái niệm, tri thức khoa học thì người học sẽ thực hiện được 3 mục đích: Nắm vững khái niệm, tri thức, phát triển tư duy lý luận và giáo dục đạo đức. Ba mục đích này không tách biệt nhau mà chúng gắn bó, thâm nhập, tác động, quy định lẫn nhau. Về cấu trúc của việc học có 2 chức năng thống nhất với nhau. Ngoài việc lĩnh hội, tiếp thu thông tin dạy của thầy thì quá trình tự điều khiển để chiếm lĩnh khái niệm, tri thức khoa học của người học sinh, sinh viên (tự giác, tích cực, tự lực) là rất quan trọng. Nội dung của học chính là nội dung của việc chiếm lĩnh các khái niệm, các tri thức khoa học. Điều quan trọng của việc chiếm lĩnh nội dung của khoa học, của các tri thức khoa học là lĩnh hội phương pháp kiến tạo nên các khái niệm từ đó rút ra phương pháp nhận thức khoa học nói chung. Ngoài ra việc chiếm lĩnh khái niệm, tri thức khoa học, người học còn phải nắm vững quá trình phát triển lô gích của khái niệm, của tri thức khoa học. Bởi vì khái niệm khoa học luôn vận động, biến đổi và phát triển cùng sự vận động, phát triển của thực tiễn. Tóm lại, nội dung của học là một nguyên lý khái niệm của môn học, cấu trúc lô gích của môn học đó, các phương pháp đặc trưng của khoa học, ngôn ngữ của khoa học đó và biết ứng dụng những hiểu biết đã có vào việc học tập và lao động của mình. Từ đó hình thành khái niệm mới, tri thức mới nhưng là đổi mới đối với bản thân học sinh, sinh viên đó là phương pháp chiếm lĩnh khái niệm khoa học. Như vậy, sinh viên học có nghĩa là nhận thức. Phương pháp học cũng là những phương pháp nhận thức. Muốn học tốt thì cần phải thống nhất giữa mục đích, nội dung và phương pháp học. Đó là sự điều khiển tối ưu quá trình chiếm lĩnh khoa học trên cơ sở sự tự điều khiển và hướng dẫn của người dạy. Dạy - là quá trình điều khiển, tối ưu hoá quá trình học sinh, sinh viên chiếm lĩnh khái niệm khoa học, tri thức khoa học nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho người học. Dạy học có mục đích là điều khiển sự học tập của học sinh, sinh viên. Dạy có 2 chức năng tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau, đó là truyền đạt thông tin và điều khiển hoạt động học của người học. Sơ đồ 1.1: Quá trình dạy học Tự điều khiển Điều khiển Học Lĩnh hội tác cộng Truyền đạt Dạy Khái niệm khoa học, tri thức khoa học Quá trình học tập của sinh viên thực chất là quá trình nhận thức, tức là đi từ “trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”, chỉ có điều quá trình đó luôn có sự giúp đỡ, định hướng, hướng dẫn của giáo viên. Đây chính là nét đặc thù của quá trình nhận thức trong học tập của sinh viên. Trong quan hệ với người dạy thì sinh viên là khách thể của quá trình giáo dục và đào tạo, nhưng trong quan hệ với tri thức khoa học và thực tiễn xã hội thì sinh viên lại tồn tại với tư cách là chủ thể của các quá trình nhận thức và ở góc độ này thì tri thức khoa học và một phần thực tiễn xã hội lại trở thành khách thể nhận thức của sinh viên - chủ thể nhận thức. Như vậy sinh viên luôn tồn tại trong mối quan hệ “kép” vừa là khách thể lại vừa là chủ thể của quá trình dạy - học. Trong quan hệ với nhà trường, với giáo viên thì họ là khách thể, đối tượng của quá trình giáo dục nhà trường, với giáo viên thì họ là khách thể, đối tượng của quá trình giáo dục và đào tạo. Nhưng trong quá trình học tập nghiên cứu khoa học thì họ là chủ thể nhận thức. * Vai trò của sinh viên với tư cách chủ thể nhận thức trong học tập Như trên chúng ta đã rõ, trong quá trình học tập thì sinh viên là chủ thể nhận thức còn các tri thức khoa học và một phần thực tiễn xã hội chính là khách thể nhận thức của sinh viên. Quá trình sinh viên học tập chính là quá trình nhận thức dưới sự hướng dẫn của giảng viên, nhưng vai trò của sinh viên với tư cách chủ thể nhận thức là hết sức quan trọng. Điều này thể hiện ở điểm cơ bản sau: - Sinh viên đóng vai trò quyết định trong quá trình học tập, chiếm lĩnh tri thức khoa học và một phần thực tiễn xã hội. - Sinh viên - chủ thể nhận thức đóng vai trò quyết định trong quá trình biến học tập thành tự học tập. - Sinh viên - chủ thể nhận thức đóng vai trò quyết định trong việc hình thành tri thức mới từ những tri thức đã lĩnh hội. - Sinh viên - chủ thể nhận thức đóng vai trò quyết định trong quá trình vận dụng các tri thức đã lĩnh hội vào học tập và nghiên cứu khoa học. 1.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sinh viên - Chủ thể nhận thức trong học tập Chất lượng giáo dục, đào tạo có liên quan chặt chẽ với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Muốn cho giáo dục, đào tạo của chúng ta đạt kết quả cao đáp ứng được những đổi thay to lớn của thời đại (xu thế quốc tế hoá, tin học hoá - hướng tới xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức) Đảng ta cần phải tích cực chuyển nền giáo dục, đào tạo sang hệ thống học tập suốt đời, tăng cường phát triển các chương trình phù hợp với nền kinh tế - xã hội và yêu cầu của mỗi cá nhân. Chuyển giáo dục, đào tạo từ một hệ thống đồng nhất sang một hệ thống giáo dục đa dạng và mềm dẻo, hiện đại hoá các phương pháp dạy học. Để có thể thực hiện được những yêu cầu trên thì cần phải có một môi trường giáo dục tốt, phải có một đội ngũ các thầy giáo, cô giáo giỏi cùng các cơ sở vật chất, trang thiết bị, giáo trình, sách giáo khoa, thư viện… phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. Từ một hệ điều kiện có liên quan và ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, đào tạo thì có thể nói có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sinh viên - chủ thể nhận thức trong học tập như: - Mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo - Những vấn đề về quản lý, các quy chế, cách kiểm tra, đánh giá chất lượng. - Đội ngũ giáo viên và chất lượng, động lực của đội ngũ này. - Cơ sở vật chất, kỹ thuật và tài chính. - Chế độ sử dụng và đãi ngộ với người có trình độ đại học, sau đại học. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, chúng tôi chỉ xin được trình bày một số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sinh viên - chủ thể nhận thức trong học tập. * Mục tiêu, cấu trúc và nội dung của chương trình Mục tiêu của giáo dục đại học, cao đẳng là đào tạo nhân lực có trình độ cao, các chuyên gia cho tất cả các lĩnh vực phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta chưa có điều kiện để giáo dục đại học, cao đẳng thực hiện được mục tiêu dân trí, mà trước tiên là phải tập trung vào việc đào tạo nhân lực, trong đó nhân tài là nhân lực có năng lực đặc biệt, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để có thể phù hợp ở thực tế Việt Nam giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như định hướng đổi mới mục tiêu đào tạo đại học, cao đẳng từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), hình thức đào tạo ở bậc đại học được cấu trúc lại bao gồm 2 bộ phận. + Kiến thức giáo dục đại cương Bao gồm các học phần gồm 6 lĩnh vực: Khoa học xã hội và nhân văn, Khoa học Tự nhiên và Toán học, Ngoại ngữ, giáo dục Quốc phòng và giáo dục Thể chất. Giúp cho người học có tầm nhìn rộng, có thế giới quan và nhân sinh quan đúng đắn, hiểu biết về tự nhiên, xã hội và bản thân con người, nắm vững những tư duy khoa học, biết tôn trọng các di sản văn hoá của dân tộc, nhân loại có đạo đức, nhận thức trách nhiệm công dân, biết yêu Tổ quốc và có năng lực bảo vệ Tổ quốc, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Các học phần về giáo dục đại cương có thể tồn tại dưới những môn học thích hợp từ một số ngành khoa học. + Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp Bao gồm 3 nhóm học phần: Cốt lõi (Kiến thức cơ sở và ngành học chuyên ngành, bao gồm các học phần khoa học cơ bản phục vụ cho chuyên môn, Ngoại ngữ chuyên ngành và khoa học quân sự chuyên ngành). Nhóm học chuyên môn chính và nhóm học phần chuyên môn phụ nhằm củng cố cho người học những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ban đầu. Chương trình đào tạo cao đẳng cấu trúc có thể khác ở cấp này, có 2 loại hình chính là: cao đẳng thực hành như: (cao đẳng Kinh tế kỹ thuật, cao đẳng Nông nghiệp, cao đẳng Y tế…) và cao đẳng cơ bản như: (cao đẳng Sư phạm và một số cao đẳng Nghiệp vụ…). Chương trình cao đẳng thực hành chủ định cung cấp cho người học các kiến thức và kỹ năng hoạt động nghề nghiệp là chủ yếu, do đó trong chương trình đào tạo khối lượng giáo dục đại cương giới hạn ở mức vừa đủ cho người học tiếp thu được các kiến thức nghề nghiệp, một bộ phận kiến thức về nghề nghiệp được bố trí dưới dạng các học phần thực hành (có thể đến 50% hoặc hơn). Ngược lại, chương trình của các dạng cao đẳng cơ bản có thể xem như một bộ phận cấu thành của chương trình đại học thuộc ngành tương ứng. Do vậy chương trình của các dạng cao đẳng này có thể chứa trọn vẹn hoặc chứa một phần khối lượng kiến thức giáo dục đại cương ở chương trìn._.h đại học. Nội dung giáo dục đại học, cao đẳng phải đảm bảo thực hiện nguyên tắc hiện đại và phát triển, kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc, hội nhập với trình độ chung trên thế giới. Nội dung cụ thể và mỗi lĩnh vực đào tạo đã được xác định theo Điều 36, Luật giáo dục, chú ý sát hợp với yêu cầu của đất nước, và cập nhật trình độ Quốc tế. Mỗi một khoá học cao đẳng 3 năm, đại học: 4-5 năm, riêng trường đại học Y khoa là 6 năm. Như vậy, chính mục tiêu, cấu trúc, nội dung của chương trình giáo dục và đào tạo sẽ quy định sinh viên - chủ thể nhận thức phải lĩnh hội đủ lượng tri thức đại cương, tri thức chuyên nghiệp ở từng cấp học, ngành học như thế nào. * Hệ thống giáo trình Để việc học tập của sinh viên đạt kết quả cao và chất lượng tốt thì ngoài các tài liệu phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu, hệ thống giáo trình có vai trò đặc biệt quan trọng. Mỗi giáo trình của một môn học phải đạt được mục tiêu là trang bị một lượng tri thức khoa học cơ sở của chuyên ngành và chuyên sâu có tính chất chuyên biệt nhưng không có nghĩa là hoàn toàn độc lập, tách rời với các môn khoa học khác. Mỗi giáo trình của môn học là một hệ thống cấu trúc toàn vẹn được tạo bởi 2 khối tri thức. + Khối tri thức nền tảng: Là một hệ thống tri thức thuộc về cơ sở của khoa học tạo nên môn đó. Khối nền tảng được xây dựng, thiết kế như một hệ thống toàn vẹn theo lô gíc chặt chẽ và khoa học, đồng thời phải kết hợp với lô gíc của sư phạm phù hợp với những đặc điểm tâm, sinh lý của lứa tuổi. Khối tri thức nền tảng giữ vai trò quy định, chủ đạo của môn học. + Khối tri thức hỗ trợ: Là những kỹ năng của khoa học khác mà ta cần huy động để hỗ trợ cho việc tiếp thu kiến thức nền tảng. Hai khối kiến thức trên tồn tại trong mối quan hệ biện chứng, tạo sự liên thông môn học như là một chỉnh thể thống nhất. Trong hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay có rất nhiều giáo trình cho các môn học, về cơ bản đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên trên thực tế trong những năm qua cho thấy phần lớn các giáo trình đại học, cao đẳng ở nước ta còn nặng về lý thuyết, coi trọng tri thức hàn lâm, nhẹ về ứng dụng thực hành, chất lượng giáo trình còn thấp… Vì vậy Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm hơn nữa bằng nhiều biện pháp như: Tăng nguồn kinh phí, có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với các tác giả nhằm biên soạn, đổi mới nội dung, chương trình các giáo trình, sách giáo khoa cho phù hợp với điều kiện hiện nay của tỉnh Thái Bình và của đất nước. Trên cơ sở hệ thống giáo trình có chất lượng mới có thể phát huy tính chủ động, tích cực của sinh viên trong học tập. * Hệ thống các phương pháp Hệ thống các phương pháp trong quá trình dạy - học là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sinh viên - chủ thể nhận thức trong học tập. Thực chất của phương pháp giáo dục ở đại học, cao đẳng là khuyến khích sự chủ động học tập, nghiên cứu khoa học của người học kết hợp với việc giảng dạy, hướng dẫn của người dạy. Phương pháp phải thể hiện được nguyên lý giáo dục: Lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất. Chấm dứt tình trạng dạy chạy, không có thực hành, thực tập. Đặc biệt cần sớm chấm dứt tình trạng xa rời cuộc sống và đề phòng khuynh hướng “phi chính trị” trong các trường. Cụ thể như sau: + Người giảng viên phải sử dụng một loạt các phương pháp để có thể bồi dưỡng năng lực, định hướng trong hoạt động khoa học và đời sống cho sinh viên. Quá trình này không phải đến giai đoạn này mới bắt đầu, mà thực tế đã được hình thành từ trong các trường phổ thông. Chẳng hạn ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường phổ thông, tuỳ theo năng khiếu và sở thích của mình mà mỗi học sinh đã xác định hướng đi và nghề nghiệp cho bản thân bằng cách lựa chọn ngành nghề và các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp phù hợp với khả năng và sở thích của mình. Tuy đã được định hình một cách cơ bản từ khi còn là học sinh phổ thông. Song vẫn là cần thiết khi các trường đại học, cao đẳng có nhiệm vụ giúp sinh viên của mình định hướng và xác định lại, giúp họ tự tin và quyết tâm học tập hơn nữa để có một cơ sở tốt cho tương lai, nghề nghiệp sau này. + Phát triển tư duy trừu tượng, tư duy lý luận Lượng kiến thức mà mỗi sinh viên cần phải lĩnh hội khi học tập và nghiên cứu tại các trường đại học, cao đẳng là rất lớn. Vì lẽ đó người giảng viên chỉ có truyền đạt một số lượng kiến thức cơ bản nhất, việc còn lại là phải dạy cách học cho sinh viên. Bởi có tới 1/3 các khái niệm, phạm trù là sinh viên phải tự học để hiểu. Do đó, dạy phương pháp cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng chính là rèn luyện tư duy lý luận, tư duy trừu tượng, rèn luyện ngôn ngữ để nắm được các thuật ngữ mới, sử dụng để diễn đạt, làm bài kiểm tra, bài thi chuẩn xác và lô gíc. + Rèn luyện năng lực vận dụng các tri thức và giải pháp hoạt động trí tuệ để nắm được các đối tượng và các quá trình mới. Bồi dưỡng năng lực dự báo khoa học. Đây là một năng lực cần thiết của mỗi sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứu. Từ những tri thức cơ bản và chuyên ngành đã có, sinh viên có thể dự báo được những tiến bộ của nó trong tương lai và những ứng dụng của nó trong đời sống xã hội. + Bồi dưỡng năng lực tổ chức lao động một cách khoa học. Trong những năm gần đây ngành giáo dục, đào tạo đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học, nhưng do rất nhiều nguyên nhân mà việc đổi mới phương pháp còn rất nhiều hạn chế làm cho sinh viên chưa thể chủ động trong học tập và chưa phát huy được tính sáng tạo của mình. * Đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng: Giảng viên là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển của sự nghiệp giáo dục, đào tạo, là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng lớn tới chất lượng học tập và nghiên cứu của sinh viên. Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn đánh giá cao công lao của các thầy giáo, cô giáo, của nhà trường đối với việc giảng dạy thế hệ trẻ. Trong những năm đổi mới, truyền thống tôn sư trọng đạo (hoặc như dân gian nói: Không thầy đố mày làm nên) đã được giữ gìn. Từ năm 1984, Chính phủ quyết định lấy ngày 20/11 hàng năm là “Ngày nhà giáo Việt Nam” trở thành ngày hội của toàn dân. Nhà nước cũng đã có các danh hiệu cao quý do Chủ tịch nước ký tặng các nhà giáo như danh hiệu “Nhà giáo ưu tú”, “Nhà giáo nhân dân”. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ký tặng các nhà giáo có nhiều thành tích đóng góp nhiều năm cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Huy hiệu “Vì sự nghiệp giáo dục và đào tạo”. Hiện nay đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục chiếm phần lớn trong đội ngũ những người ăn lương của Nhà nước. Trong khi số cán bộ hành chính sự nghiệp của Nhà nước có vài trăm nghìn người, số cán bộ trong các Viện và cơ sở nghiên cứu có hơn 50.000 người thì tổng số đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục tới trên dưới 800.000 người, riêng cán bộ giảng dạy các trường đại học, cao đẳng 34.117 trong số 34.117 cán bộ giảng dạy có 221 giáo sư, 1.024 phó giáo sư, trên 3.000 tiến sỹ, 1.459 thạc sỹ. Gần đây (14/10/2004) theo báo cáo của Chính phủ thì tổng số đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đó lên tới trên 1.000.000 người, riêng cán bộ giảng dạy đạt trình độ thạc sỹ trở lên chiếm 45%. So với yêu cầu thực tiễn của giáo dục, đào tạo thì trình độ giảng viên có học vị từ thạc sỹ trở lên còn chiếm tỷ lệ thấp, trình độ ngoại ngữ, tin học yếu kém, sự hẫng hụt cán bộ có trình độ cao trong đội ngũ giáo viên, giảng viên vẫn chưa khắc phục được [19]. Hàng năm các trường đều tổ chức hội giảng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Tuy nhiên qua thực tế đã được khảo sát chúng tôi thấy phần lớn giảng viên chưa tích cực cải tiến phương pháp giảng dạy. Phương pháp giảng dạy chủ yếu vấn là cách dạy áp đặt , “giảng viên là trung tâm”, “thầy đọc trò ghi”, giảng viên mỗi người dạy theo 1 cách vì chưa có giáo trình chuẩn. Đông đảo đội ngũ giảng viên không có cơ hội để được đào tạo và bồi dưỡng thêm kiến thức nên chưa đáp ứng được những yêu cầu mới của thời đại. Số cán bộ giảng dạy tham gia nghiên cứu khoa học - một biện pháp để nâng cao trình độ cũng còn hạn chế, chính sách ưu đãi để khuyến khích giảng viên đi học nâng cao trình độ chưa hấp dẫn. Vì vậy mà tỷ lệ giảng viên đi học thêm để nâng cao trình độ chưa nhiều. Những hạn chế về trình độ, năng lực sư phạm, những bất cập về chính sách đãi ngộ đối với độ ngũ giảng viên, giảng viên… đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo, đến học tập và nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của các sinh viên đại học, cao đẳng. * Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đại học, cao đẳng. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đại học, cao đẳng cũng là một nhân tố có ảnh hưởng lớn tới việc học tập và nghiên cứu của sinh viên - chủ thể nhận thức trong học tập. Vì vậy, việc xây dựng lực lượng cán bộ quản lý và chuyên gia vững vàng trong giáo dục, đào tạo là hết sức quan trọng. Đội ngũ này phải nắm vững được mục tiêu và quan điểm giáo dục của Đảng, đồng thời phải quan tâm nghiên cứu về khoa học giáo dục đại học, cao đẳng. Tổng kết những kinh nghiệm đã có để có thể làm tốt công việc của mình. * Cơ sở vật chất, điều kiện sống và chính sách đối với sinh viên. - Cơ sở vật chất. Quá trình giảng dạy và học tập của giảng viên và sinh viên dù được tiến hành dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều được diễn ra trong những điều kiện vật chất nhất định. Vì lẽ đó, cơ sở vật chất của nhà trường sẽ ảnh hưởng nhất định đến quá trình học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên. Trong những năm qua chất lượng của sinh viên đại học, cao đẳng còn thấp, phần lớn sinh viên ra trường về làm việc ở các cơ quan, trường học kiến thức thực hành còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do cơ sở vật chất dành cho quá trình giáo dục, đào tạo trong nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu. Sau 20 năm đổi mới, Nhà nước liên tục gia tăng ngân sách cho giáo dục và đào tạo, vì vậy cơ sở vật chất của các trường đại học, cao đẳng có sự biến đổi đáng kể. Nhiều trường đại học, cao đẳng đã được xây mới, được sửa chữa, cải tạo và nâng cấp rất nhiều: giảng đường, ký xá, khu vui chơi giải trí, trang thiết bị để phục vụ cho giảng dạy và học tập đều được quan tâm. Tuy vậy, cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho dạy - học tại các trường vẫn còn lạc hậu, thiếu thốn và chưa đồng bộ nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến sinh viên, làm cho họ không đủ điều kiện để phát huy và nâng cao tính chủ động, tích cực trong học tập. Muốn có sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao vai trò chủ động tích cực của sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứu thì các cấp chính quyền, địa phương và từng trường phải có sự quan tâm đặc biệt hơn, tăng cường đầu tư ngân sách cho công tác giáo dục, đào tạo đại học, cao đẳng. Nếu cơ sở vật chất tốt, đạt chuẩn quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì chắc chắn giáo dục đại học, cao đẳng của chúng ta được nâng cao hơn. Đồng thời sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần nâng cao tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh viên. Để phát huy và nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên thì cần tạo môi trường, điều kiện vật chất tốt nhất cho sinh viên thực tập và nghiên cứu khoa học. - Điều kiện sống và chính sách đối với sinh viên. Điều kiện sống và những chính sách đối với sinh viên sẽ là vật cản hoặc động lực thúc đẩy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập. Nếu điều kiện sống tốt với chính sách ưu đãi thì sinh viên sẽ có động lực để tích cực hơn trong quá trình học tập. Ngược lại điều kiện sống còn khó khăn, thiếu thốn thì sinh viên sẽ bị chi phối thời gian và tâm trí cho việc kiếm sống, kiếm tiền chi phí cho học tập. Như vậy thời gian học tập sẽ bị rút ngắn và chất lượng học tập giảm sút. Để sinh viên có động lực, tích cực trong học tập thì cần phải tiếp tục đổi mới chính sách đối với sinh viên. Đảng, Nhà nước, địa phương và các trường cần phải có đủ chính sách ưu đãi hơn nữa, tăng học bổng đối với sinh viên học giỏi, có chính sách ưu đãi giúp đỡ những sinh viên nghèo để họ an tâm học tập, phát triển tài năng. Phải có chế độ ưu đãi đối với sinh viên tốt nghiệp đạt loại giỏi, đặc biệt là các đối tượng chính sách… Sự quan tâm, tạo điều kiện về vật chất, tinh thần thiết thực như vậy sẽ động viên sinh viên tích cực phấn đấu rèn luyện trong học tập. 1.2. Nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên - yêu cầu tất yếu của sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo 1.2.1. Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đối với giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực Có thể khẳng định Việt Nam là một nước rất chú ý phát triển giáo dục, đào tạo và thu được những thành quả tốt đẹp trong việc thiết lập hệ thống giáo dục quốc gia. Quy mô giáo dục không ngừng mở rộng, hệ thống giáo dục đa dạng và phong phú các loại hình. Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh ác liệt, giáo dục Việt Nam vẫn được UNESCO đánh giá cao so với nhiều nước trong khu vực. Tuy nhiên thành tích đó không lâu bền và hiện nay giáo dục Việt Nam đang nổi cộm nhiều vấn đề cần giải quyết. Mặt khác, trong bối cảnh Quốc tế đang chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức thì yêu câù của sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo Việt Nam càng trở nên cấp thiết nhằm đào tạo nguồn nhân lực mới đáp ứng nhu cầu của xã hội. Chính điều này đòi hỏi phải nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên [43]. Giáo dục nhằm vào định hướng phát triển, trước hết là cung cấp cho xã hội đội ngũ lao động mới, có trình độ chuyên môn cao năng động và sáng tạo có đội ngũ công nhân lành nghề để thích nghi với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do đó cần phải có những quan điểm mới về vai trò của giáo dục, đào tạo từ đó huy động mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển giáo dục, đào tạo. Sau đây là những quan điểm có tính chiến lược đã được chỉ ra trong Nghị quyết 4/BCH TWĐCSVN khoá VII và Nghị quyết 2/ BCHTWĐCSVN khoá VIII, Luật Giáo dục. Thứ nhất: Giáo dục là quốc sách hàng đầu, cần được các ngành, các cấp nhận thức một cách đúng đắn và sáng tạo. Trước hết giáo dục phải mang tính xã hội hoá, là sự nghiệp của toàn dân của các giáo dục, các tổ chức và cá nhân. Mỗi người phải góp sức phát triển giáo dục đi và quan tâm đến sự nghiệp đó. Từ đó tạo ra môi trường thuận lợi cho giáo dục, đào tạo. Thứ hai: Đầu tư cho giáo dục phải được hiểu là đầu tư cho phát triển. Nhà nước cấp ngân sách cho giáo dục, đào tạo là chủ yếu, ngoài ra cần tạo môi trường thuận lợi hơn để giáo dục có thể vay vốn từ bên ngoài, tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nhưng không vì thế mà giáo dục được bao cấp hoàn toàn, có nghĩa là người đi học, cơ quan sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng góp kinh phí cho giáo dục, đào tạo. Thứ hai: Mọi người dân đều có mong muốn được hưởng cơ hội giáo dục cho nên Nhà nước phải tạo quyền bình đẳng trước các cơ hội được giáo dục và họ để làm giảm tình trạng bất bình đẳng về mức độ phát triển giữa các vùng. Cần phải ưu tiên phát triển giáo dục tại vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa… đặc biệt chú ý đến những đối tượng chính sách. Từ những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, giáo dục, đào tạo Việt Nam đã thu được một số thành quả đáng kể. So với các nước châu á - Thái Bình Dương, mặt bằng dân trí của Việt Nam khá cao. Số lượng sinh viên ở tất cả các loại hình đào tạo là 1.032.440 tăng so với năm 1998 - 1999 là 35,9% [19]. Như vậy là số sinh viên đại học, cao đẳng tăng rất nhanh chỉ trong một thời gian không dài. Giáo dục đại học, cao đẳng cả nước có 214 trường (2003 - 2004) tăng so với năm 1998, 1999 là 75 trường. Từ ngày 12/2/2001 Thủ tướng Chính phủ cho ban hành 2 quyết định mới được xem như một cuộc “cách mạng trong tổ chức đại học Quốc gia”. Những quy định mới này trên thực tế tạo cho đại học Quốc gia quyền chủ động, quyền tự quyết rất cao. Theo cách nói của các nhà khoa học đó là quyết định “Trả lại” cho đại học Quốc gia đúng thực quyền của nó trong thời kỳ mà thế giới đang đề cập nhiều đến nền kinh tế tri thức. Ngoài ra để đáp ứng yêu cầu học tập đại học, cao đẳng của các tầng lớp dân cư Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Chính phủ cho phép mở nhiều trường đại học, cao đẳng bán công, dân lập với sự quy định khung giá hợp lý phù hợp với mức sống của người dân. Ngân sách giáo dục, đào tạo được chia ra làm 2 cấp Trung ương và địa phương. Ngân sách Trung ương chịu hầu hết các khoản chi phí cho các trường học chuyên nghiệp dạy nghề, cao đẳng và đại học. Địa phương chịu ngân sách cho giáo dục phổ thông. Phần ngân sách Trung ương chủ yếu là để trả lương cho giáo viên, một phần nữa để cấp học bổng cho sinh viên. Do đó các khoản chi phí cho xây dựng cơ sở vật chất là rất hạn chế. Kể từ năm 1990 trở đi, ngân sách dành cho ngành giáo dục khoảng 10% tổng ngân sách tiêu dùng hàng năm. Theo yêu cầu cân đối của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì ngân sách đó chỉ đáp ứng được 50%. Như vậy ngân sách giáo dục phải ở mức 20% tổng ngân sách hàng năm của của Nhà nước mới ngang bằng tỷ lệ của các nước trong khu vực những năm đầu thập kỷ 90. Cho đến năm 2004 ngân sách cho giáo dục Việt Nam đã đạt 17,1% tổng ngân sách tiêu dùng đây là một dấu hiệu đáng mừng về sự quan tâm phát triển giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước. Tuy vậy nguồn lực tài chính dành cho giáo dục chưa đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên nhất là đối với các tỉnh còn khó khăn thì cơ câú chi ngân sách giáo dục còn chưa hợp lý. Để có thể đáp ứng được và đáp ứng ngày một tốt hơn đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực là sinh viên của các trường đại học, cao đẳng bên cạnh việc tăng cường cơ sở vật chất cho giáo dục, đào tạo thì cần phải gắn chất lượng giáo dục, đào tạo với yêu cầu thực tế. Việc đầu tiên là phải nâng cao chất lượng giáo dục của đội ngũ giảng viên. Người giảng viên không những đạt chuẩn quy định khi tuyển dụng mà còn phải được bồi dưỡng thường xuyên, liên tục, được đào tạo lại, được vận dụng những phương pháp giảng dạy hiện đại vào điều kiện thực tế của trường, lớp, địa phương và đối tượng sinh viên của mình, được cung cấp những trang thiết bị dạy học tiên tiến. Nội dung giảng dạy phảm đảm bảo sự cân đối giữa lý thuyết với thực hành, cần phải cập nhật kịp thời tri thức hiện đại của thế giới và những vấn đề bức xúc của đất nước, cần chú ý đến yếu tố kỹ năng, kỹ thuật công nghệ và thực nghiệm… để có thể cung cấp cho xã hội một nguồn nhân lực có chất lượng cao, đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu khắt khe của thời đại mới. Cần phải khắc phục phương pháp “dạy chay”, “dạy áp đặt” trò trung thành với những gì thầy cho ghi, khích lệ, khơi gợi để sinh viên chủ động sáng tạo lĩnh hội tri thức, để họ thực sự là “trung tâm của hoạt động dạy - học”. Cần phải thay thế quan niệm “Đào tạo theo nhu cầu của người học” bằng “Đào tạo theo yêu cầu của xã hội”. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo sinh viên cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhanh chóng khắc phục tình trạng mất cân đối trong các ngành nghề. Trong thời gian qua sự mất cân đối trong các ngành nghề đào tạo diễn ra rất nghiêm trọng. Trước hết thể hiện ở chỗ: Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng mở rộng trong khi chuyên nghiệp và học nghề bị thu hẹp. Tiếp đến là sự khác biệt giữa số lượng sinh viên tham gia các ngành học, theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngành kinh tế và luật chiếm tỷ lệ 42,78% số sinh viên, khoa học cơ bản chiếm tới 15,5%, khoa học kỹ thuật và công nghệ 15,2%. Nông lâm ngư nghiệp chỉ 3,13%. Tính chất thực dụng của người học thể hiện rất rõ trong các ngành học. Hiện tượng thừa cử nhân luật và kinh tế, thiếu kỹ sư các ngành khoa học công nghệ sẽ là vật cản trong quá trình tiếp nhập FDI và tiếp thu công nghệ mới trong quá trình công nghiệp hoá. Bài học đó đã thấy rất rõ qua thực tế các nước ASEAN như Thái Lan, Malaysia nếu thiếu kỹ sư, công nhân lành nghề thì các nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ rút vốn. Do thực tế ấy mà một số các quốc gia đã phải nhập kỹ sư ngành dệt, điện tử, năng lượng từ Trung Quốc, ấn Độ và Philíp pin. Việt Nam đã từng tự hào là một trung tâm toán học của thế giới và khu vực. Thế mà hơn 20 năm qua rất ít sinh viên theo học toán, do vậy mà sang thế kỷ XXI theo F.Phạm một nhà toán học Pháp gốc Việt cho là số nhà toán học Việt Nam sẽ là không, thật đau đớn [98]. Trước tình cảnh đó giáo dục, đào tạo phải ăn nhịp với yêu cầu mới của xã hội, cần phải đào tạo có quy mô để hình thành một đội ngũ nhân lực có cơ cấu phù hợp với yêu cầu khắt khe của thị trường lao động. Nghĩa là giáo dục không chỉ trang bị tri thức lý thuyết suông mà phải chuẩn bị trước những kỹ năng cho người lao động. Muốn vậy thì phải rút ngắn thời gian và tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ các nhà doanh nghiệp. Kế hoạch hoá giáo dục và đào tạo gắn liền với chiến lược sử dụng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực từ các trường đại học, cao đẳng. Muốn vậy phải đổi mới giáo dục, đào tạo toàn diện. Một trong những hướng đó là phải đổi mới cách dạy, cách học, nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. 1.2.2. Yêu cầu của đổi mới giáo dục đại học, cao đẳng Trong báo cáo tổng kết với đầu đề “Học tập của cải nội sinh”, ủy ban Quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI của UNESCO đã đưa ra các nguyên tắc để xác định nội dung giáo dục, đào tạo trong thế kỷ. Thế kỷ XXI là xã hội học tập, một nền văn minh dựa vào quyền lực của tri thức, giáo dục vừa phải cung cấp tri thức, vừa phải dạy công nghệ (cách làm) làm sao trong dòng thông tin ngày càng đầy ắp mà mỗi người, từng cộng đồng vẫn phát triển, đủ sức định hướng được trong đó. Báo cáo viết: giáo dục như trước đây phải thường xuyên cung cấp những bản đồ của toàn cục thế giới luôn náo động và phải cung cấp la bàn tìm đường đi trong thế giới đó. Dạy và học ở trường cả tri thức, kỹ năng và thái độ để sao cho ra đời vừa làm việc, vừa tiếp tục học suốt đời mới có thể thích nghi với thế giới phong phú, luôn biến đổi và phụ thuộc lẫn nhau, tinh thần cơ bản ở đây là học tập ứng dụng vào cuộc đời biết và làm, như nguyên lý giáo dục của chúng ta đã khẳng định: Giáo dục giúp mỗi người phát hiện ra và làm giàu tiềm năng sáng tạo của bản thân, năng lực nội sinh của mỗi người, đó là vốn liếng làm cho mỗi người trở lên giàu có. Đó là quá trình phát triển mỗi con người, mỗi nhân cách, cũng là quá trình con người tự khẳng định mình, tự thể hiện mình trong các hoạt động, trong cộng đồng, trong xã hội. Học để biết. Ngoài thu nhập thông tin, tiếp thu tri thức, phải nhấn mạnh việc tạo lập và sử dụng thành thạo tri thức như các công cụ nhận thức. Việc học tập vừa là phương tiện, vừa là mục đích. Là phương tiện, học tập giúp con người hiểu được môi trường sống và làm việc của mình để mà sống trong nhân phẩm, phát triển kỹ năng nghề nghiệp và giao tiếp. Là mục đích học tập đem lại sự thoả mãn hiểu được, biết được và phát minh, phát hiện, có tư duy độc lập, có khả năng phê phán và có ý kiến riêng của mình. ở bậc đại học, cao đẳng thì phương pháp học tập, đặc biệt là phương pháp nghiên cứu khoa học rất quan trọng: Biết đọc tài liệu, biết sử dụng đồ dùng thực nghiệm, có quan điểm khoa học. Tất nhiên, phải trên cơ sở có các tri thức khoa học cơ bản và văn hoá chung. Nói như vậy không có nghĩa là giáo dục trong thời đại này không chú ý đến khả năng tập trung chú ý, khả năng ghi nhớ và tư duy của người học. Tất cả những cái đó là các phương pháp rất cơ bản để học tập, lao động, sáng tạo. Nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại của công nghệ, thông tin vô tuyến truyền hình đã có trong mọi gia đình. Ngày nay cần phải nhấn mạnh quan niệm rằng, việc giáo dục, đào tạo trong nhà trường được coi là kết quả, khi nó tạo được cơ sở và động lực cho người học tiếp tục học tập, rèn luyện suốt đời. Học để làm. Vấn đề này thường được giải quyết dưới góc độ của việc học gắn với làm, gắn lý thuyết với thực hành. Giáo dục thế kỷ này phải thích nghi với đặc điểm: Chuyển từ đào tạo kỹ năng sang hình thành một trình độ chuyên môn cao. Trình độ chuyên môn bao gồm: tri thức, công nghệ (biết cách làm) và kỹ năng sống theo nghĩa rộng, nhất là khả năng giao tiếp, hợp tác điều hành, từ đó đi vào thị trường lao động, thị trường việc làm, thích nghi và sáng tạo cuộc sống, phát triển bản thân, phát triển kinh tế - xã hội. Bớt công việc chân tay (lao động phi vật hoá) và tăng cường ngành dịch vụ. Dịch vụ ở đây là các loại chuyên gia, tư vấn, dịch vụ tài chính, thống kê, quản trị, dịch vụ xã hội, giáo dục, y tế… Đặc trưng của ngành dịch vụ là không sản xuất ra sản phẩm. Dịch vụ cơ bản là quan hệ giữa người với người. Quan trọng nhất trong dịch vụ là thông tin và giao tiếp, năng lực nắm bắt của từng người trong dịch vụ quan hệ giữa người với người, giữa người cung cấp và người tiêu dùng là thứ nhất, thứ hai mới đến quan hệ giữa vật liệu và công nghệ. Từ đây rút ra kết luận rằng: giáo dục đại học, cao đẳng phải đặc biệt chú trọng đến các phẩm chất người, rồi mới cần chú ý đào tạo các loại hình kỹ năng là kỹ năng hành vi giao tiếp, sau đó mới đến các kỹ năng thuần tuý trí tuệ. Giáo dục đại học, cao đẳng phải tạo cơ hội cho mọi người được một vài nghề, vấn đề đặt ra là trường nào có thể làm việc đó, và cái chính là phải làm bằng cách nào ? Nội dung, chương trình giảng dạy phải tính toán ra sao ? Để nhà trường tạo cho người học một số vốn liếng thích nghi với chuyển đổi nghề. Học cách chung sống cùng người khác. Đây là một vấn đề gây cấn của giáo dục hiện nay. Thế giới ngày nay có quá nhiều bạo lực, nhiều mâu thuẫn kéo dài và huỷ hoại nhân loại. Cho đến nay, giáo dục chưa tham gia nhiều vào giải quyết các vấn đề này. Bây giờ ở vào thế kỷ XXI, vấn đề là làm sao tìm được loại hình giáo dục tránh được, hoặc giải quyết được một cách hoà bình các mẫu thuẫn bằng cách giáo dục thái độ tôn trọng các dân tộc khác, các nền văn hoá, các giá trị tinh thần của họ. Phải nói thêm rằng: giáo dục giữ vai trò to lớn đối với tiến bộ xã hội, với cách mạng khoa học kỹ thuật, nhưng giáo dục không thay thế cho cách mạng xã hội được. Học để phát hiện ra người khác. Phải giáo dục cho thế hệ trẻ biết rõ tính đa dạng của loài người, đồng thời loài người lại có tính thống nhất, cái riêng của các dân tộc đi đôi với cái chung của loài người, cần hiểu rõ người ta sống phải dựa vào nhau. Mỗi người, mỗi dân tộc phải biết rõ mình, đồng thời phải hiểu người khác, phải biết phát hiện ra người khác, biết mình, biết người. Tức là phải giáo dục cho người học có thái độ thiện cảm, thông cảm với người khác, dân tộc khác, tôn giáo khác. Cùng làm việc vì các mục đích chung là một nội dung giáo dục cực kỳ quan trọng của giáo dục và đào tạo vì khi cùng hoạt động văn hoá chung, xã hội chung, các thế hệ sẽ quan tâm đến nhau, xây dựng quan hệ tốt giữa thầy và trò trong dạy - học… Học để tự khẳng định mình. Giáo dục phải đóng vào sự nghiệp phát triển toàn diện của mỗi cá thể. Mọi tồn tại người phải được giúp đỡ để phát triển độc lập, có đầu óc phê phán và có ý kiến riêng của mình, tự mình quyết định sự suy nghĩ và hành động, thực hiện suy nghĩ của mình trong các hoàn cảnh sống khác nhau. Làm thế nào để trong thế giới đang có nhiều tiến bộ kỹ thuật, nhất là thông tin tiến nhanh kỳ diệu mà tránh được xu thế phi nhân văn, đề cao từng con người tự có trách nhiệm quyết định và giải quyết các vấn đề của mình. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục thế kỷ XXI là mang lại cho mọi người tự do suy nghĩ, phán đoán, tình cảm và trí tưởng tượng để có thể phát triển tài năng của mình và tự kiểm tra cuộc sống của mình. Hãy giáo dục các nhân cách hết sức đa dạng, độc lập và có sáng kiến, hết sức tránh giáo dục cào bằng hành vi cá thể, tất cả những đặc điểm đó là cơ sở để có khả năng sáng tạo, canh tân xã hội và kinh tế - động lực chính để đưa nhân loại tiến vào thế kỷ mới - Thế kỷ XXI là thế kỷ của tài năng và nhân cách đa dạng, các cá thể biệt tài tạo ra một nền văn minh mới bao gồm đạo đức, nghệ thuật, thể thao, khoa học - kỹ thuật, văn hoá xã hội [43]. Học để tự khẳng định mình là tạo sự phát triển toàn diện con người với toàn bộ sự phong phú của nhân cách từng người, toàn bộ các hình thái thể hiện mình và các cam kết khác nhau của bản thân với tư cách là một cơ thể người một thành viên của gia đình và cộng đồng, một người lao động, một người sản xuất, một người sáng chế kỹ thuật và một người có ước mơ sáng tạo. Chống lại sự tha hoá của con người, khẳng định sự phát triển cá thể, bắt đầu từ một cơ thể dần dần có sự chín muồi nhân cách gắn liền với tác động của giáo dục đi theo cả cuộc đời con người. Điều này đòi hỏi phải nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên. Trong những năm qua đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế - xã hội nước ta đã có những thay đổi quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trên con đường phát triển chỉ tiêu tăng trưởng luôn được duy trì, trung bình năm khoảng 7% - 8%. Các chỉ báo xã hội: như xoá đói, giảm nghèo, phát triển con người, bình đẳng giới… tương đối khả quan trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế với xuất phát điểm thấp, bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động không thuận lợi. Những thành tựu do đường lối đổi mới đã được Đảng và Nhà nước ta nhận định và đánh giá trong các Văn kiện từ Đại hội VI đến đại hội IX và được thế giới ghi nhận. Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và đang đặt ra những vấn đề bức xúc cần phải nghiên cứu, cả về lý luận và thực tiễn. Trên phương diện lý luận, chúng ta có nhận thức về tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng cộng sản, có hệ thống kiến thức lý thuyết về kinh tế kế hoạch tập trung, có các tài liệu về kinh tế thị trường trong các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển trên phương diện thực tiễn, chúng ta có các bài học kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây, của Trung Quốc, Cu Ba và đặc biệt là thực tế của thời kỳ đổi mới 20 năm ở nước ta. Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam, từ phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) cho đến. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 đều khẳng định việc tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trườn._.Có như vậy mới thúc đẩy các em tích cực hơn, chủ động hơn trong quá trình học tập. Để đáp ứng được yêu cầu của thời đại thì chất lượng đào tạo của chúng ta phải được nâng cao, muốn có chất lượng đào tạo tốt thì chúng ta phải có kế hoạch đầu tư cho người dạy, người học và những vấn đề có liên quan đến họ. 3.2.4. Giáo dục chuyên ngành phải kết hợp với giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức Nền kinh tế thị trường bên cạnh mặt tích cực, tạo điều kiện cho cá nhân phát triển thì mặt khác lại là môi trường nuôi dưỡng cho những hiện tượng tiêu cực, cá nhân chủ nghĩa nẩy nở làm ảnh hưởng xấu đến một bộ phận thanh niên, lối sống của họ nếu đi chệch hướng sẽ bị xói mòn. Đặc biết đối với đối tượng là thanh niên sinh viên thì chúng ta phải đặc biệt chú ý đến việc giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức làm thế nào để mỗi một sinh viên của chúng ta thực sự hăng say phấn đấu trong học tập, lao động để khẳng định mình, gắn mình với cộng đồng với xã hội, rèn luyện để giác ngộ chính trị, tư tưởng và đạo đức. Có một thời kỳ các môn học về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh bị xem nhẹ. Thang giá trị đạo đức bị thay đổi ít nhiều do sự thay đổi của từng giai đoạn lịch sử nhất định. Thời kỳ trước đổi mới giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc được Giáo sư Trần Văn Giàu nhấn mạnh, Bao gồm 7 nội dung là "yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa" thì ngày nay sự biến đổi về thang giá trị có thay đổi theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên, ở một số khía cạnh, trong đó có văn hoá tinh thần có nhiều điều đáng lo ngại, lối sống cá nhân chủ nghĩa, chạy theo đồng tiền, tham nhũng, mê tín dị đoan, truyền thống dân tộc bị xem nhẹ. Vì vậy ở các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Thái Bình bên cạnh việc giáo dục chuyên ngành cần chú ý đến giaó dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho sinh viên. Thực hiện chỉ thị số 34/CT-TW của Bộ chính trị "Về tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển Đảng viên trong các trường học". Trường đại học Y khoa, trường cao đẳng Sư phạm, trường cao đẳng Kinh tế kỹ thuật tỉnh Thái Bình đã đặt ra các yêu cầu và nhiệm vụ như sau: Thứ nhất: Phải củng cố niềm tin của sinh viên vào Đảng, vào hiện thực ngày càng tốt đẹp của xã hội ta. Chỉ khi nào họ có niềm tin cộng sản vững chắc thì sẽ quyết định khuynh hướng, mục đích, hiệu quả hoạt động của họ; sẽ trở thành những người hoạt động hăng say, tích cực và giành thành quả cao trong công việc của mình. Thứ hai: Phải tăng cường giáo dục cho họ có tình cảm yêu nước nồng nàn; yêu độc lập dân tộc, yêu chủ nghĩa xã hội, phải biết làm giàu cho gia đình và đất nước, phải trung với Đảng, với nước, với dân. Trong điều kiện hiện nay thì việc "Trung", "Hiếu" phải được coi là giá trị nổi bật để sinh viên không dễ bị sa vào cạm bẫy của kẻ thù, quay lưng phản lại Tổ quốc, phản bội nhân dân. Như vậy, có thể nói khi chúng ta giáo dục tình cảm yêu nước là nội lực quan trọng để tạo cho sinh viên những người chủ tương lai của đất nước ý chí tự lực tự cường, say mê lao động và tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập. Thứ ba: Phải giáo dục ý thức cộng đồng để mỗi cá nhân phải hăng say phấn đấu trong học tập và lao động, khẳng định mình, gắn mình với cộng đồng với xã hội. Đồng thời trách nhiệm của cộng đồng là tạo những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, trưởng thành của mỗi cá nhân, gắn cá nhân với cộng đồng. Cộng đồng quan tâm tới cá nhân sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn giúp cho cá nhân trong đó có từng sinh viên vượt qua khó khăn, quyết tâm phấn đấu giành thắng lợi cho bản thân và đóng góp cho cộng đồng, xã hội. Thứ tư: Ngày nay sinh viên đặc biệt quan tâm đến việc làm sau khi ra trường. Do đó, giáo dục đạo đức nghề nghiệp phải coi là một nội dung cơ bản trong giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho sinh viên. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp giúp cho họ có trách nhiệm cao đối với ngành nghề mà họ đã lựa chọn từ đó khơi dậy lòng nhiệt tình - yêu nghề của họ để phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhất là đối với sinh viên ở tỉnh Thái Bình chủ yếu là sinh viên sư phạm và sinh viên y khoa - những ngành cần đặc biệt giáo dục đạo đức, trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp. Vì vậy ngoài việc giáo dục chuyên ngành, giáo dục chính trị, tư tưởng thì còn cần phải quan tâm giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên nghế nhà trường sẽ có tác động tích cực đối với sinh viên giúp họ có thể hy sinh lợi ích cá nhân để cống hiến cho xã hội chấp nhận làm việc ở những nơi xa trung tâm văn hoá, kinh tế. Nhất là đối với sinh viên ở tỉnh Thái Bình đa số sẽ trở thành thầy thuốc và thầy giáo, nên việc giáo dục y đức và đạo đức nghề nghiệp cho họ là vấn đề cần đặc biệt chú trọng. Thứ năm: Kết hợp giáo dục chuyên ngành với giáo dục phẩm chất truyền thống: Yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, trung hiếu, cần kiệm... với các giá trị đạo đức mới như chủ động, sáng tạo, tự lập, tự chủ, vượt khó... Thiết nghĩ như vậy sẽ giúp họ khẳng định bản thân và hoà nhập vào xã hội hiện đại, hơn nữa họ không mất gốc mà còn có điều kiện vươn lên làm chủ khoa học - kỹ thuật hiện đại và có thể đuổi kịp trình độ khoa học - kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Chỉ có kết hợp tốt giữa giáo dục chuyên ngành và giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho sinh viên thì chúng ta mới có một lớp trí thức "Vừa hồng, vừa chuyên" như Bác Hồ kính yêu của chúng ta hằng mong đợi. Tuy nhiên để làm được điều đó thì không chỉ có đội ngũ giảng viên lý luận trong trường mà quan trọng hơn là phải có sự quan tâm kết hợp của nhà trường, Ban giám hiệu, các phòng ban. (Đặc biệt là phòng công tác tư tưởng chính trị của các trường), các khoa, tổ chức Đảng, tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên... có như vậy mới đào tạo được những sinh viên có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội và sẽ trở thành những người cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ giỏi có lập trường chính trị kiên định, có đạo đức và lối sống trong sáng. Để thực hiện được những vấn đề trên cần phải có một loạt các giải pháp tích cực: Cần phải xây dựng hoàn thiện nội dung các môn học Mác-Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, thiết kế chương trình các môn học cho phù hợp với sinh viên của từng hệ, từng chuyên ngành đào tạo. Tích cực đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị. Tổ chức các hội thảo tuyên truyền, cổ động, cung cấp thông tin cho sinh viên. Tổ chức Đảng, các cấp lãnh đạo, các đoàn thể trong từng đơn vị, trường học cần phối hợp tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị, quán triệt sâu sắc quan điểm, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước. Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cần đẩy mạnh các hoạt động, nâng cao vai trò nòng cốt trong các phong trào học tập, phong trào chống các tai tệ nạn xã hội. Ngày 24 tháng 6 năm 2002 Thủ trưởng Chính phủ đã có quyết định phê duyệt đề án "Một số biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu qủa giảng dạy, hiệu quả học tập các môn khoa học Mác - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng..." Mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng trình độ đội ngũ giảng viên các bộ môn khoa học Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng, các môn khoa học như: Triết học Mác- Lê nin, Kinh tế chính trị Mác - Lê nin, Chủ nghĩa xã hội, Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh (đối với các trường đại học, cao đẳng) là những môn học bắt buộc. Nội dung của các môn khoa học Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nội dung thi tốt nghiệp. Đối với cán bộ giảng viên các môn khoa học Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoài các chế độ, quyền lợi của giảng viên đại học, cao đẳng, họ còn được hưởng thêm chế độ phụ cấp giờ giảng tính theo tiền lương, ngạch, bậc cộng với phụ cấp chức vụ (nếu có) và trả theo số giờ thực tế giảng dạy (tối đa không vượt quá số giờ chuẩn quy định của chức danh người được hưởng) với mức 25% áp dụng đối với những giờ giảng của những giảng viên cho các lớp đào tạo cao đẳng, đại học và sau đại học. Đối với sinh viên, kết quả học tập các môn này là một trong những điều kiện quan trọng để xem xét việc xếp loại khen thưởng và xét công nhận tốt nghiệp. Vì vậy, một trong những giải pháp nhằm nâng cao vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình là bên cạnh việc giáo dục chuyên ngành, Ban Giám hiệu nhà trường, đội ngũ giảng viên chuyên ngành, giảng viên dạy lý luận, các tổ chức Đảng, đoàn thể, các phòng ban của nhà trường phải cùng kết hợp để tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho sinh viên. 3.2.5. Đổi mới chính sách đối với sinh viên Muốn nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng phát huy có hiệu quả cao hơn và phát huy có hiệu quả vai trò tích cực, sáng tạo của sinh viên trong học tập thì cùng với các giải pháp khác cần phải đổi mới chính sách đối với sinh viên. Nhà nước phải có chính sách ưu đãi hơn nữa đối với sinh viên như tăng học bổng đối với sinh viên giỏi, có chính sách hộ trợ những sinh viên nghèo để họ có thể an tâm học tập, phát triển tài năng, lập nghiệp. Chúng ta đã xoá bỏ chế độ phân công việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, vì vậy mà sinh viên phải tự tìm việc làm theo khả năng của bản thân và phụ thuộc vào yêu cầu của nền kinh tế xã hội. Do đó phải có chế độ ưu đãi hợp lý đối với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, đặc biệt đối với các đối tượng thuộc diện chính sách, các đối tượng ở vùng sâu, vùng xa… Có chính sách khuyến khích giáo dục của nhà trường gắn với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất để sinh viên ra trường dễ có cơ hội kiếm việc làm. Nếu được như vậy thì tinh thần học tập của sinh viên sẽ được nâng lên rất nhiều và chất lượng đào tạo sẽ cao hơn. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng “Đào tạo theo nhu cầu của xã hội”. Khắc phục tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa các ngành nghề và các cấp đào tạo. Tránh lãng phí nguồn nhân lực đã qua đào tạo phải kế hoạch hoá giáo dục, đa dạng hoá hình thức giáo dục… ở tỉnh Thái Bình nếu xét về hình thức sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp là tương đối cao so với các tỉnh khác. Ngoài những lợi thế về việc làm, thì sinh viên Thái Bình còn được quan tâm rất nhiều từ phía tỉnh, nhà trường với những chế độ ưu đãi như: Hỗ trợ sinh viên nghèo học giỏi, cho sinh viên vay vốn, tạo việc làm giúp sinh viên có thêm thu nhập để trang trải học tập. Cần bổ sung thêm những chính sách như sinh viên giỏi được ưu tiên chỗ ở trong ký túc xá. Những sinh viên giỏi, xuất sắc được ưu tiên giữ lại trường làm cán bộ, được tuyển dụng vào các cơ quan, bệnh viện và trường học lớn của tỉnh để các em có môi trường tốt phát huy hết khả năng, trí tuệ của mình phục vụ cho quê hương, đất nước. Tạo sự công bằng trước cơ hội kiếm việc làm cho mỗi sinh viên sau khi tốt nghiệp... Có như vậy thì việc nâng cao vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của sinh viên ở Thái Bình sẽ thuận lợi và hữu ích hơn. Các tổ chức, đoàn thể, đặc biệt là đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên đã tác động tích cực tới các em trong quá trình học tập. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong từng nhà trường có vai trò, ảnh hưởng lớn tới chất lượng giáo dục và đào tạo. Nhiệm vụ chính mà các tổ chức Đoàn, Hội sinh viên trong nhà trường đề ra là: “Dạy tốt và học tốt”. Giúp các đoàn viên tiếp cận cuộc sống, khơi dậy tinh thần “đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”. Biên tập và phát hành ”Bản tin học tập” hoặc tập san theo chủ đề hàng tháng (hoặc quý) để thông tin về kết quả học tập và rèn luyện của từng lớp, cung cấp thêm thông tin văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của từng đoàn viên, sinh viên trong từng môn học. Thông qua các hoạt động khơi dậy trong sinh viên tinh thần tự chủ, thi đua trong học tập. Tăng cường các hoạt động ngoại khoá phục vụ cho môn học như nghe nói chuyện chuyên đề, trích đoạn tác phẩm và trình diễn các tiểu phẩm, đi tham quan thực tế, tổ chức các cuộc thi "cán bộ đoàn giỏi thanh lịch", "sinh viên thanh lịch, hiểu biết...", "giao lưu sinh viên các trường"… sẽ giúp sinh viên hiểu biết thêm rất nhiều, nâng cao tinh thần tập thể, tính trung thực và lòng nhân ái trong sinh viên. Sinh hoạt ở các câu lạc bộ môn học sẽ tập hợp được các đoàn viên sinh viên có cùng sở thích, chọn được các nhân tài trong các lĩnh vực, giúp đoàn viên sinh viên đảm nhận các đề tài nghiên cứu khoa học có cơ hội ứng dụng kiến thức được học vào thực tiễn. Ngoài ra ở các trường như đại học Y, cao đẳng Kinh tế kỹ thuật, cao đẳng Sư phạm Thái Bình, Đoàn trường có vai trò và nhiệm vụ giúp đỡ sinh viên học tập. Thông qua việc thành lập các “Quỹ học bổng”, “Quỹ hỗ trợ tài năng trẻ” “Quỹ tín dụng học sinh, sinh viên”… để giúp sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, có điều kiện và cơ hội học tập tốt hơn. Tổ chức các hoạt động hướng nghiệp và giới thiệu việc làm cho sinh viên, tổ chức gặp gỡ giao lưu giữa các đoàn viên ưu tú có kết quả học tập và rèn luyện tốt. Tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, thể thao, tham quan di tích, hoạt động từ thiện xã hội “Hiến máu nhân đạo”, “Mùa hè xanh”, “Màu áo xanh tình nguyện…”, thông qua các ngày lễ, các đợt vận động, các ngày hoạt động xã hội… để lôi kéo sinh viên vào các hoạt động lành mạnh. Đồng thời, qua các hoạt động trên đoàn viên - sinh viên không chỉ vui chơi, giải trí, mà còn giúp họ nâng cao chất lượng học tập, hoà nhập với cộng đồng, giác ngộ chính trị đạo đức, hình thành nhân cách người sinh viên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tất nhiên, các chính sách đối với sinh viên ở Thái Bình không được dẫn đến bình quân chủ nghĩa, vì như vậy sẽ triệt tiêu động lực học tập của sinh viên. Các chính sách đối với sinh viên ở tỉnh Thái Bình không được cào bằng, bình quân chủ nghĩa nhưng phải đảm bảo được tính nhân văn, ưu việt của chế độ ta là phải quan tâm tới con em thương binh, liệt sỹ, gia đình có công, con em lao động nghèo. Có như vậy mới vừa nâng cao được vai trò chủ động, sáng tạo của sinh viên trong học tập, vừa đảm bảo tính chất XHCN của các chính sách đối với sinh viên. Các giải pháp trên phải được thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện. Đồng thời phải động viên được sinh viên cố gắng, tích cực hơn nữa trong học tập và nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó việc nâng cao vai trò chủ động, tích cực, của sinh viên ở tỉnh Thái Bình mới đạt hiệu quả như mong muốn. Kết luận Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn đã đề cập và làm rõ chủ thể nhận thức trong học tập ở đây là sinh viên các trường đại học, cao đẳng tại địa bàn tỉnh Thái Bình, còn đối tượng khách thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình là những tri thức khoa học, một phần thực tiễn xã hội ở Thái Bình và cả nước. Sinh viên ở Thái Bình với tư cách là chủ thể nhận thức trong học tập vừa có điểm chung với chủ thể nhận thức - sinh viên của cả nước, vừa có những điểm riêng do đặc thù của một tỉnh vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng tạo nên. Trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học, nhận thức mà sinh viên có được luôn đặt dưới sự tổ chức hướng dẫn, gợi mở của người dạy. Đối tượng nhân thức (cụ thể là các tri thức khoa học, các môn học) không phải bắt đầu từ cái cụ thể cảm tính mà là những phạm trù, quy luật… là kết quả của quá trình lao động tư duy của loài người qua rất nhiều thời đại. Cái mà sinh viên tiếp cận và chiếm lĩnh chính là cái cụ thể trong tư duy, là cái đã được trừu tượng hoá, khái quát hoá đạt tới những yếu tố bản chất, quy luật của khách thể. Để có thể nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, đào tạo, để có thể đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho quê hương, đất nước cần phải quan tâm đến quá trình dạy- học trong các trường Đại học, Cao đẳng. Quá trình dạy - học muốn đạt kết quả tốt thì trước hết phải có những người thầy giỏi toàn diện, có phương pháp tốt, biết kết hợp vai trò hướng dẫn, gợi mở với vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của sinh viên. Quá trình dạy học của người giảng viên phải thực sự trở thành quá trình dạy cách học, cách nhận thức cho sinh viên, giúp sinh viên tìm ra phương pháp học phù hợp nhất với bản thân. Học là quá trình tiếp thu, xử lý thông tin bằng các hành động trí tuệ dựa vào các yếu tố sinh học và vốn kiến thức đạt được của bản thân từ đó mà chiếm lĩnh thêm những tri thức mới. Như vậy trong quá trình học thì yếu tố tự học là rất quan trọng đối với mỗi sinh viên, vì ngoài tri thức tiếp thu được ở trường sinh viên có thể tự tiếp cận, tự xử lý thông tin qua các thông tin đại chúng. Tính tự giác của sinh viên còn được biểu hiện trong động cơ, thái độ học tập, ý thức được vai trò của mình trong tương lai, biến tri thức có được thành những kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng vào trong thực tiễn. Khi đã tự giác học tập có nghĩa là đã hình thành tính tích cực, dần dần sẽ phát triển thành tính độc lập của nhận thức. Đó chính là khả năng tự phát hiện và giải quyết vấn đề. Sinh viên ở Thái Bình về cơ bản đã phát huy được vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của bản thân trong học tập. Tuy nhiên so với yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Thái Bình và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước thì còn nhiều bất cập. Để nâng cao hơn nữa vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên ở Thái Bình đáp ứng yêu cầu đổi mới của tỉnh và của cả nước, cần phải thực hiện đồng bộ một số phương hướng như: Tích cực hoá chủ thể nhận thức của sinh viên đồng thời chống khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa; nâng cao vai trò gợi mở, hướng dẫn của giảng viên; nâng cao vai trò tự giáo dục; tự học tập của sinh viên. Đồng thời thực hiện tốt các giải pháp về cơ sở vật chất, về đội ngũ giảng viên, về nội dung chương trình, về phương pháp giảng dạy và kết hợp giữa giáo dục chuyên ngành với giáo dục đạo đức, chính trị, tư tưởng trong các trường. Danh mục tài liệu tham khảo Nguyễn Dương An (1999), Thư từ quê lúa Thái Bình, Nxb Tài chính, Hà Nội. Nguyễn Dương An (2000), Mái trường quê lúa, Nxb Lao động, Hà Nội. Nguyễn Văn An (1995), Tình hình thiết bị hiện nay và phương pháp giải quyết nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường đại học và chuyên nghiệp, Vụ Kế hoạch và Tài chính - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội. Lê Khánh Bằng (1994), Phương pháp giảng dạy đại học, Tài liệu dùng cho giảng viên đại học và cao học, Nxb Đại học Sư phạm I Hà Nội. Đặng Quốc Bảo (2002), Lời bàn về giáo dục và học tập (ý kiến của danh nhân), Hà Nội. Ban Văn hóa - Xã hội Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Bình (2004), Báo cáo kết quả giám sát, thẩm tra của Ban Văn hóa - Xã hội Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp thứ 3, Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIV. Ban Kinh tế - Ngân sách Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Bình (2004), Báo cáo thẩm tra của Ban Kinh tế - Ngân sách tại kỳ họp thứ 3 Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIV. Bộ môn giáo dục y học - Trường Đại học Y khoa Hà Nội (1999), Dạy học tích cực trong đào tạo y học, Nxb Y học Hà Nội. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1995), Kỷ yếu Hội nghị chuyên đề: Nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Quy chế về tổ chức đào tạo kiểm tra, thi và công nhận tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy, Lưu hành nội bộ, Hà Nội. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Ngành giáo dục và đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nxb Giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Kỷ yếu Hội thảo đổi mới giáo dục đại học chuyên nghiệp hội nhập và thách thức, Hà Nội. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (1996), Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Y tế (1997), Chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa. Nguyễn Hữu Cát (1998), "Suy nghĩ về phương pháp giảng dạy hiện đại", Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (5), tr.16-18. Phạm Khắc Chương (1997), "Cái khó đối với dạy thật tốt, học thật tốt trong nhà trường đại học hiện nay", Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (9), tr.12-13. Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Ngọc Sáng (3/2004), Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo bác sĩ y khoa các trường Đại học Y Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo đổi mới giáo dục Việt Nam, hội nhập và thách thức. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 (2002), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Chính phủ số 1534/CP-KG (2004), Báo cáo về tình hình giáo dục trình Quốc hội ngày 14/10/2004, Hà Nội. Nguyễn Cương (1998), Góp phần tìm hiểu một số quy định trong giáo dục đại học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Tất Dong (1995), Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Dự án Việt Nam - Hà Lan (5/2000), Kiến thức, thái độ, kỹ năng cần có của sinh viên y khoa mới tốt nghiệp, Hội thảo về chương trình giảng dạy theo KAS, Thái Nguyên. Dương Tự Đam (1999), Những phương pháp tiếp cận thanh niên hiện nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Nguyễn Văn Đản (5/2004), "Quan niệm về chất lượng giáo dục", Tạp chí Giáo dục, (87), tr.7-10. Đỗ Ngọc Đạt (1998), Tiếp cận hiện đại hoạt động dạy học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1979), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội. Hà Minh Đức (3/2004), Nghĩ về chuẩn mực và chất lượng giáo dục, Kỷ yếu Hội thảo "Đổi mới giáo dục Việt Nam: Hội nhập và thách thức". Trần Khánh Đức (3/2004), "Thực trạng và các giải pháp nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển của các trường đại học Việt Nam", Tạp chí Phát triển giáo dục, (3), tr.14-18. Giáo dục các nước trên thế giới (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tô Xuân Giáp (2001), Phương tiện dạy học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Trần Văn Hà (2000), "Học hỏi và tự học", Tự học, (1), tr.9-10. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (2000), "Kinh tế tri thức và phát triển giáo dục, đào tạo", Báo Nhân dân, ngày 10/7/2000, tr.4. Vũ Ngọc Hải, Trần Khánh Đức (2003), Hệ thống giáo dục hiện đại trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục. Vũ Ngọc Hải (3/2004), Cải cách giáo dục đại học Việt Nam phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước xây dựng, phát triển nền kinh tế trí thức định hướng xã hội chủ nghĩa, Kỷ yếu Hội thảo đổi mới giáo dục Việt Nam: Hội nhập và thách thức. Phan Huy Hiền (1999), "Về đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay", Báo Nhân dân, ngày 18/4/1999, tr.4. Nguyễn Minh Hiển (1998), "Chủ trương và giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát triển, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo đại học từ nay đến năm 2000", Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (5), tr.3-9. Nguyễn Đức Hoàn (2002), Phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng ở Việt Nam hiện nay (Qua thực tế một số trường cao đẳng ở tỉnh Hải Dương), Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hội đồng giáo dục tỉnh - ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2003), Tài liệu Đại hội giáo dục tỉnh Thái Bình lần thứ I. Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Thị Tính (1999), "Hiệu quả của việc dạy tự học trong quá trình dạy ở đại học", Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (2), tr.8-9. Nguyễn Văn Hợi (1990), "Cơ sở lý luận của việc biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo", Triết học, (4), tr.61-66. Đỗ Huân (2001), Sử dụng thiết bị nghe nhìn trong dạy - học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Phạm Quang Huân (5/2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ trong quá trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục", Tạp chí Giáo dục, (87), tr.1-5. Đặng Thành Hưng (3/2004), "Chuẩn giáo dục và chương trình giáo dục", Tạp chí Phát triển giáo dục, (3), tr.1-4. Trần Quốc Kham (2004), Nâng cao chất lượng đào tạo kỹ năng cho bác sĩ đa khoa vùng đồng bằng Bắc bộ - thực trạng và giải pháp, Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luật Giáo dục (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Giáo dục (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. V.I.Lênin (1976), Bút ký triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội. V.I.Lênin (1976), Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 2, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 10, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1964), Góp phần phê phán chính trị, kinh tế, Nxb Sự thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Nhung (5/2004), "Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam: Hội nhập và thách thức", Tạp chí Giáo dục, (86), tr.1-4. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (1997), Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Tấn Phát (2000), "Tự học, tự bồi dưỡng suốt đời trở thành một quy luật", Tự học, (4), tr.1-2. Trần Hồng Quân (1995), Quyết tâm hành động để nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học đáp ứng yêu cầu của đất nước, Kết luận tại Hội nghị chuyên đề "Nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Hà Nội. Sở Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2004 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2005 tỉnh Thái Bình. Sở Lao động - Thương binh Xã hội Thái Bình (2004), Báo cáo tình hình và kết quả 4 năm thực hiện chương trình việc làm và dạy nghề. Nguyễn Tiến Thủ (2001), Quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức với việc phát huy vai trò chủ thể trong học tập của sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 47/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg (ngày 28/12/2001) về chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010. Nguyễn Minh Thuyết (2004), "Xác định đúng yêu cầu đào tạo nhân lực để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Giáo dục, (87), tr.45-46. Phạm Sỹ Tiến (1995), Nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học để nâng cao chất lượng đào tạo đại học, Vụ Sau Đại học - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội. Phạm Thanh Tịnh (3/2004), Nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn - hiện trạng và phương hướng, Kỷ yếu Hội thảo đổi mới giáo dục Việt Nam: Hội nhập và thách thức. Phạm Văn Toàn (4/2004), "Những yếu tố cần quan tâm để nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học",Tạp chí Phát triển giáo dục, (4), tr.19-21. Toàn cảnh kinh tế - xã hội Thái Bình (2003), Báo Quốc tế - Bộ Ngoại giao, Hà Nội. Nguyễn Đình Tứ (1994), Phấn đấu để thực sự tạo ra bước chuyển biến rõ rệt trong chất lượng đào tạo của đại học và cao đẳng, Bài nói tại Hội nghị chuyên đề: "Nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại Hà Nội. Trần Văn Tùng (2001), Nền kinh tế tri thức và yêu cầu mới giáo dục Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội. Tư liệu Sở Giáo dục và Đào tạo Thái Bình. Tư liệu phòng đào tạo trường Đại học Y khoa Thái Bình, Cao đẳng sư phạm Thái Bình, Cao đẳng kinh tế kỹ thuật Thái Bình. Trung tâm đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội (2002), Nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo dùng cho các trường đại học Việt Nam. Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình (2004), Điều tra cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên. Trường Đại học Y Thái Bình (2001), Kết quả điều tra sinh viên tốt nghiệp năm 2001, Dự án Giáo dục đại học. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2004), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2004 và mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu năm 2005 trình bày tại kỳ họp thứ 3 - Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIV. Trần Xuân Vinh (1995), "Sự biến đổi một số giá trị cơ bản của thanh niên hiện nay", Tạp chí Triết học, (3), tr.40-43. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2708.doc
Tài liệu liên quan