Nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của Công ty Sản xuất - Xuất nhập khẩu dệt may trên thị trường EU

MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ LỜI MỞ ĐẦU DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ Bảng 1: Cơ cấu mặt hàng kinh doanh của công ty qua các năm(2003-2006) 32 Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn của công ty qua các năm (2003- 2006) 40 Bảng 4: Kết quả kinh doanh của công ty qua các năm(2003-2006) 42 Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng may của công ty sang một số thị trường qua các năm(2003-2006) 43 Bảng 6: Gía trị xuất khẩu theo mặt hàng may của công ty sang thị trường EU qua các năm(2004-2006) 46 Bảng

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của Công ty Sản xuất - Xuất nhập khẩu dệt may trên thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7: Thị phần xuất khẩu mặt hàng may của công ty sang thị trường EU qua các năm(2003-2006) 57 Bảng 8: Tốc độ tăng doanh thu mặt hàng may của công ty trên thị trường EU qua các năm(2003-2006) 58 Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng may của công ty sang thị trường EU qua các năm(2003-2006) 44 Biểu đồ 2: Cơ cấu chi phí mặt hàng may của công ty năm 2006 55 LỜI MỞ ĐẦU Hàng may mặc của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may là một trong những mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao so với nhiều mặt hàng khác. Trong nhiều năm, hàng may mặc xuất khẩu trở thành mặt hàng mũi nhọn trong xuất khẩu hàng hoá của công ty, hàng may mặc luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Thị trường EU là một trong những thị trường chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động thương mại của công ty. EU được xem là một trong những thị trường trọng điểm đối với mặt hàng may mặc xuất khẩu của công ty do EU mở rộng từ 15 quốc gia thành viên lên 25 quốc gia, là thị trường đông dân cư, mức chi tiêu cho hàng may mặc lớn. EU là một thị trường rộng lớn, đa dạng có nhiều triển vọng cho hàng xuất khẩu của công ty... nhưng cũng là một thị trường "sang trọng" và "khó tính". Chinh phục thị trường này là một điều không dễ, nhất là khi công ty phải cạnh tranh với hàng may mặc của Trung Quốc, một cường quốc về các mặt hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, trong nhiều năm kim ngạch và thị phần xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường EU tăng giảm không ổn định. Có nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó nguyên nhân nổi bật là khả năng cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường này có chiều hướng suy giảm do phải cạnh tranh với quá nhiều đối thủ. Để góp phần vào việc nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường quốc tế nói chung và thị trường EU nói riêng nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO. Vì vậy, em đã quyết định chọn đề tài: “ Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may trên thị trường EU”. * Mục đích nghiên cứu. Hệ thống hoá về lý thuyết cạnh tranh, sức cạnh tranh nói chung và hàng may mặc nói riêng. Đồng thời, nêu lên thực trạng sức cạnh tranh hàng may của công ty trên thị trường EU, từ đó đưa ra các giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh hàng may của công ty trên thị trường EU. * Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu là lý luận và thực tiễn sức cạnh tranh hàng may của công ty trên thị trường EU. - Phạm vi nghiên cứu là tập trung vào thực trạng sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU và các giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc cho công ty trên thị trường, đồng thời đưa ra một số kiến nghị đối với chính phủ và các bộ ngành liên quan. - Thời gian nghiên cứu là từ năm 2003 đến năm 2006. * Phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh. * Bố cục của chuyên đề. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục chuyên đề chia làm ba chương: Chương I: Lý luận chung về cạnh tranh, sức cạnh tranh của hàng hoá và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may trên thị trường EU Chương II: Thực trạng nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của công ty trên thị trường EU Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may trên thị trường EU CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH, SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH MẶT HÀNG MAY CỦA CÔNG TY SẢN XUẤT-XUẤT NHẬP KHẨU DỆT MAY TRÊN THỊ TRƯỜNG EU 1.1 Cạnh tranh hàng hoá 1.1.1 Khái niệm cạnh tranh hàng hoá Cạnh tranh hàng hóa là hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Theo như các nhà kinh tế đã phân tích thì cơ sở của cạnh tranh là chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chế độ này đẻ ra cạnh tranh, chèn ép lẫn nhau, “cá lớn nuốt cá bé”. Trong nền kinh tề thị trường do có sự sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cho nên tất yếu có cạnh tranh. Vậy thì, thực chất của cạnh tranh hàng hoá là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị trường. Mỗi chủ thể đều mong muốn có lợi ích về mình. Người bán thì muốn tối đa hoá lợi nhuận bằng cách bán với giá cao còn người mua thì muốn tối đa hoá lợi ích của mình bằng cách mua hàng hoá tốt và rẻ. Giữa người bán diễn ra sự cạnh tranh gay gắt vì mục tiêu lợi nhuận, họ tìm cách giảm chi phí và giành khách hàng về mình. Trên những tìm hiểu về cơ sở và thực chất của cạnh tranh các nhà kinh tế trên thế giới đã kết luận cạnh tranh hàng hoá là quan hệ giữa những người bán cùng sản xuất, kinh doanh cùng sản xuất một loại hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực của sự phát triển. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận tối đa, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. Tuy nhiên, điều kiện của thị trường để thực hiện mục tiêu đó rất hạn chế. Do đó, người sản xuất kinh doanh phải tìm cách tranh khách hàng bằng các thứ hàng hoá, dịch vụ tốt, giá cả hợp lý và giữ được uy tín với khách hàng. Như vậy, cạnh tranh hàng hoá là quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, nền sản xuất càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt, kết quả cạnh tranh sẽ loại bỏ những hàng hoá nào kém chất lượng không được khách hàng chấp nhận và tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của những hàng hoá có chất lượng tốt. 1.1.2 Vai trò, chức năng của cạnh tranh hàng hoá 1.1.2.1 Vai trò của cạnh tranh hàng hóa Trong nền sản xuất hàng hoá, cạnh tranh đóng vai trò to lớn nó buộc con người sản xuất kinh doanh phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới nhạy bén năng động và tổ chức quản lý có hiệu quả. Do đó, cạnh tranh hàng hoá có những vai trò sau: Thứ nhất: Cạnh tranh hàng hoá là động lực cho sự phát triển kinh tế, là cách hữu hiệu nhất tối đa hoá lợi ích của cả doanh nghiệp và người tiêu dùng. Một mặt nó loại bỏ những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả ra khỏi thị trường, mặt khác nó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn tốt có cơ hội phát triển. Cạnh tranh hàng hoá là sự thay thế các doanh nghiệp sử dụng lãng phí nguồn lực, gây tổn hại cho nhà nước và xã hội bằng các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của xã hội. Thứ hai: Cạnh tranh hàng hoá làm cho tiêu dùng gắn liền với sản xuất, do cạnh tranh mà ngày nay các doanh nghiệp phải tìm hiểu nghiên cứu nhu cầu để từ đó đáp ứng nhu cầu một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Sản xuất với năng suất chất lượng ngày càng tăng giúp người tiêu dùng có thể tiêu dùng những hàng hoá có chất lượng cao với giá có thể chấp nhận được, chủng loại phong phú. Khi đó, nhu cầu của người tiêu dùng được đáp ứng ngày một tốt hơn. Thứ ba: Cạnh tranh hàng hoá buộc các doanh nghiệp phải sử dụng tài nguyên có hiệu quả hơn và phải áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Chỉ có như thế doanh nghiệp mới có thể giảm chi phí hạ giá thành để giành thị phần với các đối thủ cạnh tranh. Áp dụng khoa học công nghệ mới không những cho phép doanh nghiệp sử dụng nguồn lực tối ưu mà còn cho phép hiện đại hoá dây chuyền sản xuất, tăng năng suất góp phần tăng chất lượng hàng hoá. 1.1.2.2 Chức năng của cạnh tranh hàng hoá Chức năng sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu: Bởi vì cạnh tranh làm cho tài nguyên chuyển đến những nơi mà chúng được sử dụng với năng suất cao nhất. Chức năng khuyến khích tiến bộ khoa học kỹ thuật: Khi người đầu tiên và duy nhất đưa ra thị trường một loại hàng hoá phù hợp với nguyện vọng của người mua, thì người đó có vị trí độc quyền và tạo điều kiện kiếm được lợi nhuận độc quyền trong khoảng thời gian đó. Những người cạnh tranh khác muốn làm theo giống các nhà sáng chế đó và kết quả là cạnh tranh thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật. Chức năng thu nhập: Nếu cạnh tranh có hiệu quả sẽ thưởng cho các nhà cạnh tranh thành công, họ sẽ thu được lợi nhuận cao hơn và vì thế họ có thu nhập cao hơn. Chức năng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng: Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng là người cuối cùng quyết định chủng loại, số lượng và chất lượng hàng hoá cần sản xuất. Xét về lâu dài thì chỉ có những hàng hoá và dịch vụ mà họ muốn mới có thể bán được và được sản xuất. Chủng loại hàng hoá phong phú được đưa ra để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng chỉ có thể có được trong điều kiện có sự cạnh tranh mà thôi. Chức năng tạo tính linh hoạt của sự điều chỉnh: Cạnh tranh có hiệu quả không chỉ là công cụ tốt nhất để sử dụng tối ưu tài nguyên mà còn là công cụ rất năng động, cho phép duy trì sự di chuyển liên tục các nguồn tài nguyên đến nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Nếu tính linh hoạt của sự điều chỉnh này không tồn tại hoặc bị trục trặc thì nguyên nhân của nó là cơ cấu thị trường không có cạnh tranh. Chức năng kiểm soát sức mạnh kinh tế: Nếu cạnh tranh có hiệu quả sẽ hình thành nên những vị trí độc quyền và lợi nhuận độc quyền chỉ tồn tại trong thời gian nhất định vì cạnh tranh tác động tới chúng. Khi sự kiểm soát sức mạnh kinh tế vượt quá quy mô nhất định thì sẽ tạo ra sự kiểm soát sức mạnh chính trị. Chức năng kiểm soát sức mạnh chính trị: Việc chấp nhận cơ chế thị trường, với tư cách là một nguyên tắc cơ bản đồng nghĩa với việc chính phủ phải tự hạn chế vai trò hỗ trợ. Trước khi hành động, Chính phủ phải cân nhắc xem có cần thiết hay không, bởi vì không có lý do gì để Chính phủ can thiệp vào những nơi cạnh tranh có hiệu quả, theo nghĩa này thì cạnh tranh cũng làm hạn chế sức mạnh chính trị. Chức năng tự do lựa chọn và hành động của cá nhân: Sự cạnh tranh có hiệu quả tạo ra quyền tự do tối đa cho sự lựa chọn và hành động của từng doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động kinh doanh. 1.1.3 Phân loại cạnh tranh hàng hoá Hiện nay, tuỳ theo các giác độ nghiên cứu mà các nhà kinh tế đã phân loại cạnh tranh hàng hóa thành các loại rất khác nhau. 1.1.3.1 Căn cứ vào mức độ tích chất cạnh tranh trên thị trường Nếu căn cứ vào mức độ tích chất của cạnh tranh trên thị trường thì có thể phân loại cạnh tranh hàng hóa thành các loại cạnh tranh sau: Thứ nhất: Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có nhiều người bán và không có người nào có ưu thế để cung cấp một số lượng hàng hoá quan trọng mà có thể ảnh hưởng tới giá cả. Các hàng hoá làm ra được người mua xem là đồng nhất tức là ít có sự khác biệt về quy cách phẩm chất mẫu mã. Người bán tham gia trên thị trường chỉ có cách thích ứng với giá cả trên thị trường, họ chủ yếu tìm cách giảm chi phí và sản xuất một mức hàng hoá đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên. Thứ hai: Cạnh tranh không hoàn hảo: Là cuộc cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn hàng hoá là không đồng nhất với nhau, mỗi hàng hoá có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau. Mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau mặc dù khác biệt giữa các hàng hoá là không đáng kể. Người bán lôi kéo khách hàng về phía mình bằng nhiều cách như quảng cáo, dịch vụ bán hàng, tín dụng ưu đãi… Đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Thứ ba: Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó chỉ có một số người bán hàng hoá thuần nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng hàng hoá bán ra trên thị trường. Thị trường có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền. Điều kiện gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều cản trở do vốn đầu tư và do độc quyền bí quyết công nghệ. Trong thị trường này không có cạnh tranh về giá cả mà một số người bán toàn quyến quyết định giá. 1.1.3.2 Căn cứ vào phạm vi cạnh tranh Ngoài việc phân loại cạnh tranh hàng hoá căn cứ vào mức độ tích chất cạnh tranh trên thị trường, các nhà kinh tế còn căn cứ vào phạm vi của cạnh tranh, nếu căn cứ vào phạm vi của cạnh tranh thì cạnh tranh hàng hoá bao gồm các loại sau: Thứ nhất: Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch. Biện pháp cạnh tranh là các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nâng cao năng suất lao động nhằm làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu lợi nhuận siêu ngạch. Thứ hai: Cạnh tranh giữa các ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau, nhằm giành nơi đầu tư có lợi nhất. Trong quá trình cạnh tranh, các doanh nghiệp bị hấp dẫn bởi khách hàng nên đã chuyển vốn đầu tư từ ngành ít lợi nhuận sang ngành có lợi nhuận cao. Sự điều chỉnh này sau một thời gian nhất định sẽ hình thành nên sự phân phối hợp lý giữa các ngành sản xuất và hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành. 1.1.3.3 Căn cứ vào chủ thể tham gia Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, giữa các chủ thể này có sự tranh giành lẫn nhau. Vì vậy, nếu xét theo giác độ này thì cạnh tranh có thể phân thành các loại sau: Thứ nhất: Cạnh tranh giữa người bán với người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. Người bán luôn mong muốn bán hàng hoá của mình với giá cao nhất, còn người mua lại muốn mua ở mức giá thấp nhất. Sự cạnh tranh này được thực hiện thông qua quá trình “mặc cả” với giá chấp nhận là giá thoả thuận giữa người bán và người mua. Thứ hai: Cạnh tranh giữa những người mua: Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu. Khi cung một loại hàng hoá dịch vụ nào đó nhỏ hơn mức cầu thì cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra quyết liệt hơn. Gía cả hàng hoá và dịch vụ đó sẽ tăng nhanh. Kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao, tuy nhiên người mua lại phải chịu thiệt thòi. Thứ ba: Cạnh tranh giữa những người bán: Là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất. Cuộc cạnh tranh này thường diễn ra trong trường hợp cung lớn hơn cầu. Khi đó, những người bán sẽ cạnh tranh gay gắt với nhau nhằm làm tăng lượng hàng hoá tiêu thụ của doanh nghiệp mình. Thực chất cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp là sực giành giật các lợi thế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ nhằm thu được lợi nhuận lớn nhất. 1.2 Sức cạnh tranh của hàng hoá 1.2.1 Khái niệm sức cạnh tranh của hàng hoá Một hàng hoá được coi là có sức cạnh tranh và có thể đứng vững khi có mức giá thấp hơn hoặc khi cung cấp các hàng hoá tương tự với chất lượng hay dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn. Theo lý thuyết thương mại truyền thống, sức cạnh tranh được xem qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất lao động. Theo M.Porter, sức cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo của mình để tạo ra hàng hoá có giá phí thấp và sự khác biệt của hàng hoá. Muốn nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cần phải xác định lợi thế cạnh tranh của mình. Lợi thế cạnh tranh của hàng hoá được hiểu là những thế mạnh mà hàng hoá có hoặc có thể huy động để đạt thành công trong cạnh tranh. Trên thực tế có hai nhóm lợi thế cạnh tranh của hàng hoá bao gồm: Lợi thế về chi phí: Đó là tạo ra những hàng hoá có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Các nhân tố sản xuất như đất đai, vốn và lao động thường xem là nguồn lực để tạo lợi thế cạnh tranh. Và lợi thế thứ hai là lợi thế về sự khác biệt: Đó là dựa vào sự khác biệt của hàng hoá làm tăng giá trị cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng hàng hoá hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng hàng hóa. Lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức giá thậm chí cao hơn đối thủ cạnh tranh. Trong lĩnh vực xuất khẩu, sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu là khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng nước ngoài về chất lượng, giá cả, kiểu dáng, thương hiệu, bao bì về tính độc đáo hay sự khác biệt so với hàng hoá cùng loại trên thị trường quốc tế. Ngoài các yếu tố về chất lượng, giá cả, kiểu dáng, thương hiệu...có rất nhiều yếu tố liên quan đến sức cạnh tranh của hàng hoá nữa như khả năng thâm nhập thị trường mới cũng như khả năng khuyến mãi, lôi kéo khách hàng và phương thức kinh doanh ngày càng phong phú hơn. 1.2.2 Phân biệt sức cạnh tranh của hàng hoá và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Một trong những chìa khoá để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong những năm tới chính là phải chú ý tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng một doanh nghiệp tồn tại trong kinh doanh và đạt được một số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng các hàng hoá cũng như năng lực của doanh nghiệp để khai thác các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh các thị trường mới. Trong quá trình kinh doanh có nhiều yếu tố tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như các yếu tố do doanh nghiệp chi phối đó là chiến lược cạnh tranh, đào tạo lao động và công tác Maketing… Ngoài ra, còn có các yếu tố thuộc môi trường ngoài doanh nghiệp như đối thủ cạnh tranh, chính sách đầu tư, chính sách thương mại của đối thủ… Một doanh nghiệp có thể sản xuất kinh doanh một hay nhiều loại hàng hoá, vì vậy nói đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là phải nói đến sức cạnh tranh của hàng hóa. Sức cạnh tranh của hàng hoá được nhận biết qua lợi thế cạnh tranh của hàng hoá đó với các hàng hoá khác cùng loại. Lợi thế của hàng hoá bao gồm nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài tác động đến. Đó là giá cả, chất lượng, hình thức, chủng loại hàng hoá…Doanh nghiệp được đánh giá là tạo ra hàng hoá có sức cạnh tranh khi hàng hoá đó có chi phí/ 1đơn vị thấp hơn, hàng hoá có chất lượng cao hơn so với đối thủ cạnh tranh. Còn nếu so sánh với các hàng hoá cùng loại mà doanh nghiệp nhập khẩu thì yếu tố lợi thế cạnh tranh được thể hiện không chỉ qua giá bán, chất lượng hàng hoá mà còn là thương hiệu, nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa. Qua các khái niệm trên, có thể thấy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sức cạnh tranh của hàng hoá có mối quan hệ mật thiết, phụ thuộc vào nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao phải có hàng hoá có sức cạnh tranh vì biểu hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là tạo ra những hàng hoá có sức hút lớn với người tiêu dùng. Như vậy,sức cạnh tranh của hàng hoá là cốt lõi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Còn một hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường nhất là trong môi trường quốc tế như hiện nay, thì cả doanh nghiệp và Chính phủ cùng phải phát hiện, nuôi dưỡng, phát huy các lợi thế của hàng hoá đó. 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng hoá Hàng hoá là sản phẩm trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy, các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng là những nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng hóa. 1.2.3.1 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội thì môi trường bên ngoài doanh nghiệp luôn luôn biến đổi và đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức cạnh tranh của hàng hoá của doanh nghiệp. Những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp có thể là các nhân tố thuộc tầm vĩ mô ngoài ngành mà doanh nghiệp tham gia kinh doanh, cũng có thể là các nhân tố thuộc môi trường vi mô trong nội bộ ngành nghề lĩnh vực mà doanh nghiệp tham gia kinh doanh. Thứ nhất: Các nhân tố vĩ mô Tăng trưởng kinh tế là nhân tố tác động trực tiếp đến sức mua của xã hội, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất. Tài chính-tín dụng có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và sức cạnh tranh của hàng hoá, tăng trưởng nhanh phụ thuộc vào khả năng của khu vực tài chính trong việc huy động và phân bổ có hiệu quả tín dụng vào sản xuất hàng hoá. Ngoài ra, lãi suất tín dụng cũng ảnh hưởng đến khả năng vay mượn của các cơ sở, doanh nghiệp sản xuất hàng hoá. Đầu tư mang lại động lực chủ yếu cho nâng cao sức cạnh tranh của các hàng hoá. Đầu tư là yếu tố rất quan trọng có tích chất quyết định đến việc đẩy nhanh tốc độ tăng sản xuất hàng hoá. Mở cửa thương mại đòi hỏi nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, tăng xuất khẩu và tiến hành dỡ bỏ hàng rào nhập khẩu. Tiến bộ khoa học và kỹ thuật ảnh hưởng mạnh mẽ đến chi phí sản xuất và chất lượng sản phẩm hàng hoá. Các chính sách vĩ mô trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, ứng dụng khoa học công nghệ và huy động vốn tài chính cần thiết cho nâng cao sức cạnh tranh và phát triển hàng hoá. Vị trí địa lý đóng vai trò quan trọng trong nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị trường của hàng hoá do giảm chi phí vận chuyển, tăng giao lưu với nước ngoài. Phát triển nguồn nhân lực tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Bối cảnh quốc tế như xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá đang gia tăng trở thành đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới sẽ tạo ra những thuận lợi, những cơ hội cũng như những thách thức cho việc cạnh tranh của hàng hoá. Thứ hai: Các nhân tố vi mô Theo các trường phái kinh tế trước đây thì các nhà nghiên cứu coi các nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh bao gồm chủ thể là chính phủ, doanh nghiệp, cá nhân tham gia cạnh tranh. Nhưng theo M. Porter thì có 5 lực lượng tác động đến cạnh tranh của doanh nghiệp đó là các nhân tố cạnh tranh liên quan đến cùng một ngành của doanh nghiệp như về khách hàng, nhà cung ứng, hay đối thủ cạnh tranh trực tiếp đang và sẽ tham gia vào lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp như đối thủ cạnh tranh tiềm tàng, đối thủ cạnh tranh hiện tại và các sản phẩm thay thế. Để tìm hiểu về các nhân tố này ảnh hưởng như thế nào đến sức cạnh tranh của hàng hoá chúng ta đi phân tích mô hình 5 nhân tố của M.Porter Mô hình cạnh tranh 5 nhân tố của M. Porter Sản phẩm thay thế Nhà cung ứng Khách hàng Đối thủ tiềm tàng Đối thủ cạnh tranh hiện tại Nguồn: Giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI( tập 2) Đối thủ cạnh tranh hiện tại Các đối thủ cạnh tranh hiện tại là những công ty, doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh trong một ngành công nghiệp nhất định, những công ty, doanh nghiệp này đã vượt qua được những rào cản để xâm nhập vào ngành hoặc những hãng muốn rút lui khỏi ngành nhưng chưa có cơ hội. Khi phân tích các đối thủ cạnh tranh hiện tại, chúng ta cần tìm hiểu được bốn vấn đề cơ bản sau: (1) mục đích tương lai, (2) các nhận định, (3) các tiềm năng và (4) chiến lược hiện tại của đối thủ cạnh tranh. Mục đích tương lai của đối thủ cạnh tranh: Khi hiểu được mục tiêu của đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp có thể dự đoán được mức độ hài lòng của họ về vị trí hiện tại, những khả năng thay đổi chiến lược cạnh tranh của họ, sự phản ứng của họ trước những thay đổi về môi trường và mức độ quan trọng của các sáng kiến mà họ đưa ra. Các mục tiêu của các đối thủ cạnh tranh cần xem xét là các mục tiêu về tài chính, về tổ chức, về sản xuất, về thị trường, về nghiên cứu và phát triển, các mục tiêu khác,… Trong trường hợp các đối thủ cạnh tranh hiện tại là những công ty con, hoặc chi nhánh của các công ty lớn khác thì chúng ta cần tìm hiểu thêm các mục tiêu của các công ty mẹ mà chúng phụ thuộc. Những nhận định của đối thủ cạnh tranh: Những nhận định của đối thủ cạnh tranh là những quan điểm và thái độ của họ về môi trường bên ngoài và cách ứng xư của họ đối với môi trường bên ngoài. Việc tìm hiểu những nhận định này rất có ý nghĩa cho việc hoạch định chương trình kinh doanh, vì đâu là cơ sở để các đối thủ đưa ra các biện pháp cạnh tranh của riêng mình. Nếu chúng ta hiểu đúng những nhận định của đối thủ cạnh tranh, thì chúng ta có thể dự khá chính xác được những phản ứng của họ. Chiến lược hiện tại của đối thủ cạnh tranh: Cần phải tìm hiểu chiến lược hiện tại của từng đối thủ cạnh tranh, cho dù rõ ràng hay không rõ ràng. Điều quan trọng là phải biết được các đối thủ cạnh tranh đang tham gia cạnh tranh như thế nào. Vì vậy, cần xem xét các chính sách cơ bản của từng đối thủ cạnh tranh trong từng lĩnh vực hoạt động và xem xét họ tìm cách liên kết các bộ phận chức năng như thế nào. Tiềm năng của đối thủ cạnh tranh: Tìm hiểu tiềm năng của đối thủ cạnh tranh tức là tìm hiểu những điểm mạnh, điểm yếu, những cơ hội và thách thức của từng đối thủ cạnh tranh. Các lĩnh vực cần tìm hiểu về tiềm năng của đối thủ cạnh tranh bao gồm chủng loại sản phẩm, chính sách marketing, tiềm lực tài chính, nguồn nhân lực và trình độ quản lý, khả năng về công nghệ, những cơ hội đầu tư, các quan hệ xã hội của đối thủ,… Những điểm mạnh, điểm yếu; cơ hội và thách thức phản ánh khả năng thích nghi của đối thủ cạnh tranh trước những thay đổi của môi trường kinh doanh. Nếu đối thủ cạnh tranh nào có nhiều điểm mạnh hay cơ hội thì khả năng thíhc nghi của họ với những thay đổi của môi trường kinh doanh càng lớn và ngược lại. Khách hàng Thực tế cho thấy rằng tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều nhằm làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Nếu doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng so với các đối thủ cạnh tranh thì họ càng nhận được sự ủng hộ và sự trung thành từ phía khách hàng. Về mặt lý thuyết, lợi ích của khách hàng và của nhà sản xuất thường mâu thuẫn với nhau. Khách hàng mong muốn có được những chủng loại hàng hóa và dịch vụ với chất lượng tốt nhất và giá cả thấp nhất. Còn nhà sản xuất lại mong muốn khách hàng trả cho những hàng hóa của họ mức giá cao. Trong điều kiện một ngành có sự cạnh tranh gay gắt thì vai trò của khách hàng càng trở nên quan trọng và cần được ưu tiên hơn. Một doanh nghiệp không thể thỏa mãn được tất cả nhu cầu của các loại khách hàng. Cho nên, nhất thiết các doanh nghiệp phải phân loại khách hàng thành các nhóm khác nhau. Trên cơ sở đó mới tiến hành phân tích và đưa ra các chính sách thích hợp để thu hút ngày càng nhiều khách hàng về phía mình. Các nhà cung ứng Các nhà cung ứng bao gồm các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động của một số công ty, như các nhà cung cấp vốn, nguyên vật liệu cho sản xuất, nhân công, … Các nhà cung ứng có thể gây một áp lực khá mạnh tới hoạt động của công ty. Cho nên, việc phân tích và tìm hiểu các nhà cung ứng là vấn đề quan trọng trong quá trình phân tích cạnh tranh. Các nhà cung cấp nguyên, vật liệu cho sản xuất: Những nhà cung ứng này có thể vắt kiệt lợi nhuận của các hãng bằng cách tăng giá cung ứng hoặc giảm mạnh chất lượng các yếu tố cung ứng. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các nhà cung ứng cũng tương tự như yếu tố làm tăng thế mạnh cảu khách hàng. Ví dụ như yếu tố số lượng người cung cấp ít, không có mặt hàng thay thế khác và không có nhà cung ứng chào bán sản phẩm có tính khác biệt. Nếu nhà cung ứng có được điều kiện thuận lợi như vậy thì các doanh nghiệp mua hàng cần cải thiện quan hệ của họ thông qua việc tác động vào các yếu tố nói trên. Các nhà cung cấp tài chính : Hầu hết các doanh nghiệp đều phải sử dụng vốn vay từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước, hoặc từ dân cư. Hình thức huy động vốn rất đa dạng có thể thông qua vay, qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Khi phân tích về các nhà cung cấp tài chính, trước hết cần xác định vị thế của mình trong cộng đồng ngành, lĩnh vực đang kinh doanh. Các nhà cung cấp lao động: Nguồn cung lao động cũng là một thành phần chủ yêu trong phân tích cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng thu hút và giữ được lòng trung thành của các nhân viên có trình độ và năng lực là tiền đề đảm bảo cho sự thành công của doanh nghiệp. Các yếu tố cần xem xét là trình độ đào tạo về năng lực quản lý và tay nghề của người lao động, những đòi hỏi về tiền lương, tiền công và các chi phí khác để có đựợc những lao động đó. Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng Khi một ngành có sự gia tăng thêm số lượng các đối thủ cạnh tranh mới thì hệ quả có thể là tỷ suất lợi nhuận bị giảm và tăng thêm mức độ cạnh tranh. Các đối thủ cạnh tranh mới tham gia vào thị trừơng sau, nên họ có khả năng ứng dụng những thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Sự xuất hiện của một đối thủ cạnh tranh mới trong ngành thường thông qua việc mua lại các doanh nghiệp đang hoạt động, nhưng đang có ý định rút lui khỏi ngành. Không phải bao giờ cũng gặp phải các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng, nhưng khi đối thủ cạnh tranh mới xuất hiện thì vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ thay đổi. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải tự tạo ra một hàng rào ngăn cản sự xâm nhập của các đối thủ mới. Những hàng rào này là lợi thế sản xuất theo quy mô, đa dạng hóa sản phẩm, sự đòi hỏi có nguồn tài chính lớn, chi phí chuyển đổi mặt hàng cao, khả năng hạn chế xâm nhập các kênh tiêu thụ. Sản phẩm thay thế Sức ép do xuất hiện sản phẩm thay thế làm hạn chế lợi nhuận tiềm năng của ngành do mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý đến các sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh nghiệp có thể bị tụt lại ở các thị trường nhỏ bé. Vì vậy, các hãng không ngừng nghiên cứu và tung ra các mặt hàng thay thế. Phần lớn các sản phẩm thay thế là kết quả của sự phát triển bùng nổ về công nghệ trong vài thập kỷ trở lại đây. Muốn đạt được thành công, các hãng phải luôn ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất. 1.2.3.3 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp Ngoài các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp thì các nhân tố thuộc bên trong doanh nghiệp cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sức cạnh tranh của hàng hoá. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp bao gồm nguồn nhân lực, năng lực tài chính, năng lực về vật chất kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý và một loạt các hoạt động Maketing, mạng lưới phân phối để đưa sản phẩm tới khách hàng một cách tốt nhất. Thứ nhất: Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được chia làm ba cấp: - Quản trị viên cấp cao: Gồm ban giám đốc và các trưởng phó phòng ban. Đây là đội ngũ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh. Nếu họ có trình độ quản lý cao, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường, có khả năng đánh giá và quan hệ đối ngoại tốt thì doanh nghiệp đó sẽ có sức cạnh tranh cao và ngược lại. - Quản trị viên cấp trung gian: Là đội ngũ trực tiếp quản lý sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải có kinh nghiệm công tác, khả năng ra quyết định điều hành công tác. - Đội ngũ quản trị viê._.n cấp cơ sở: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp chịu sự chi phối của đội ngũ này thông qua các yếu tố: năng suất lao động, trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động, sự sáng tạo…bởi vì các yếu tố này chi phối tới việc nâng cao chất lượng hàng hoá, giảm giá thành cũng như tạo thêm tính ưu việt, độc đáo, mới lạ của hàng hoá. Thứ hai: Năng lực tài chính Khả năng tài chính được hiểu là quy mô tài chính của doanh nghiệp và tình hình hoạt động. Các chỉ tiêu tài chính hàng năm như tỷ lệ thu hồi vốn, khả năng thanh toán… Nếu một doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, khả năng huy động vốn lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có nhiều vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị, tăng khả năng hợp tác đầu tư về liên doanh liên kết. Tình hình sử dụng vốn cũng sẽ quyết định chi phí về vốn của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. Thứ ba: Năng lực về vật chất kỹ thuật Năng lực về vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp tồn tại ở nhiều phương diện, trước tiên phải kể tới là trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh nghiệp và khả năng có được các công nghệ tiên tiến đó. Thứ hai năng lực về vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp thể hiện qua quy mô và năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Nếu quy mô và năng lực sản xuất lớn sẽ giúp doanh nghiệp tạo ra khối lượng hàng hoá lớn hơn từ đó giảm giá thành tạo ra nhiều cơ hội tiếp xúc với khách hàng hơn, khi đó doanh nghiệp hiểu rõ nhu cầu của khách hàng và dần dần chiếm lĩnh hoặc giữ vững thị trường trên nhiều lĩnh vực khác nhau tránh sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, để đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải có được những công nghệ tiên tiến hiện đại, đồng thời có được quy mô sản xuất và mức sử dụng công suất ít nhất bằng công suất thiết kế để tránh lãng phí nếu không lúc đó chi phí cố định vào giá thành cao từ đó làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá. Thứ tư: Trình độ tổ chức quản lý Trình độ tổ chức quản lý thể hiện thông qua cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, hệ thống thông tin quản lý, bầu không khí và đặc biệt là nề nếp hoạt động của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp biết tập hợp sức mạnh đơn lẻ của các thành viên và biến thành sức mạnh tổng hợp thì doanh nghiệp đó sẽ vững mạnh. Đây là đòi hỏi của nhà quản trị cấp cao, để tạo ra một cơ cấu tốt. Một cơ cấu tốt đồng nghĩa với việc có được một cơ cấu phòng ban hợp lý, quyền hạn và trách nhiệm được xác định rõ ràng. Bên cạnh đó, ở mỗi phòng ban việc thực hiện tốt nề nếp tổ chức cũng ảnh hưởng rất lớn tới phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị, quan điểm của họ đối với các chiến lược của doanh nghiệp. Một nề nếp tốt có thể dẫn dắt mọi người tích cực hơn trong công việc và lôi kéo họ vào quá trình đạt tới mục tiêu chung của doanh nghiệp. Thứ năm: Hoạt đông Marketing Nhiệm vụ chính của Marketing là phát triển các nhu cầu thị hiếu, nhu cầu thị trường và hoạch định các chiến lược hữu hiệu về sản phẩm, giá cả, phân phối phù hợp với thị trường mà doanh nghiệp đang vươn tới. Từ đó, xây dựng mạng lưới phân phối phù hợp để đưa hàng hóa tới người tiêu dùng một cách nhanh nhất. Thứ sáu: Mạng lưới phân phối Để tiêu thụ hàng hoá, doanh nghiệp cần lựa chọn các kênh phân phối, từ đó có các chính sách phân phối sản phẩm hợp lý, hiệu quả đúng nhu cầu của khách hàng. Tuỳ vào chủng loại hàng hoá mà doanh nghiệp xây dựng cho mình kênh phân phối riêng cho phù hợp. 1.2.4 Các chỉ tiêu phản ánh sức cạnh tranh của hàng hoá 1.2.4.1 Nhóm chỉ tiêu định tính Chất lượng Chất lượng hàng hoá là hệ thống nội tại của hàng hoá được xác định bằng thông số kỹ thuật có thể được đo lường hoặc so sánh được nhằm thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng. Chất lượng hàng hoá được hình thành từ khâu thiết kế đến khâu sản xuất và ngay sau khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề của người lao động. Sở dĩ chất lượng hàng hoá quyết định sức cạnh tranh hàng hoá bởi vì khi chất lượng hàng hoá tăng lên sẽ tăng giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá đó, và khi mà chất lượng hàng hoá được nâng cao dẫn tới tăng tốc độ tiêu thụ hàng hoá, tăng khối lượng hàng hoá bán ra và kéo dài chu kỳ sống của hàng hoá, từ đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đồng thời khi hàng hoá có chất lượng cao dẫn tới tăng uy tín của doanh nghiệp từ đó mở rộng thị phần doanh nghiệp góp phần tăng sức cạnh tranh của hàng hoá. Vì vậy, chất lượng hàng hoá là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với một doanh nghiệp bởi vì, chất lượng hàng hoá thấp đồng nghĩa với việc giảm uy tín, mất khách hàng và nhanh chóng phá sản. Điều này quan trọng hơn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì họ phải đương đầu với các công ty đa quốc gia có vốn lớn, có tiềm lực về công nghệ khoa học và uy tín từ rất lâu. Mức độ hấp dẫn Mức độ hấp dẫn tạo ra sức cạnh tranh cuả hàng hoá vì nó mang lại những đặc thù riêng biệt của hàng hoá này so với hàng hoá khác. Trong cuộc sống hiện đại, hàng hóa không chỉ dừng lại ở mức cung cấp cho người sử dụng những chức năng sử dụng thuần tuý mà còn đáp ứng những yêu cầu cao hơn, đó là mỗi hàng hoá phải thể hiện những giá trị về thẩm mỹ, giá trị về cái đẹp… và mục đích của người sử dụng. Sự phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội làm nhu cầu con người càng đa dạng, hàng hoá phải đáp ứng được tính đa dạng trong nhu cầu đó thể hiện những giá trị, yếu tố trong cuộc sống của khách hàng. Chính sự khác biệt của hàng hoá này so với hàng hoá khác đã đem lại những giá trị khác nhau cho những hàng hoá khác nhau. Sự khác biệt này tạo ra sức cạnh tranh rất lớn cho hàng hoá. Uy tín thương hiệu Uy tín thương hiệu được hình thành dựa trên chất lượng, giá trị sử dụng của hàng hoá, các dịch vụ sau bán hàng, thời gian giao hàng,… Một thương hiệu có uy tín với khách hàng thì đồng nghĩa với việc có lợi thế trong cạnh tranh. Khách hàng khi đó tin rằng họ đang tiêu dùng một hàng hoá có chất lượng cao, dịch vụ sau bán hàng tốt…Do đó, hàng hoá đưa ra thị trường có thể nhanh chóng thu hút được người tiêu dùng. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp giảm một phần chi phí cho việc thu hút khách hàng, khách hàng sẽ trung thành với thương hiệu hàng hoá hơn. 1.2.4.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng Gía thành, giá cả Gía thành hàng hoá là giá trị của tất cả các yếu tố đầu vào hình thành nên hàng hoá như chi phí nguyên vật liệu, chi phí lương công nhân sản xuất… trên cơ sở đó xác định giá cả của hàng hoá. Gía thành sản phẩm Z = Z1 + Z2 +..............+ Zn Trong công thức trên Z1, Z2, ........., Zn là chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết tạo nên sản phẩm hay tổng các giai đoạn, các bộ phận sản xuất tạo nên một thành phẩm. Muốn giá cả thấp doanh nghiệp phải tìm cách hạ giá thành tức là phải tận dụng hợp lý các nguồn lực sẵn có, đồng thời đổi mới thiết bị và công nghệ sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý… có như vậy mới hạ giá thành từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Gía cả của hàng hoá trên thị trường hình thành thông qua quan hệ cung cầu tức là thông qua sự thoả thuận giữa người mua người bán để đi tới mức giá mà hai bên đều thấy có lợi và chấp nhận được. Gía bán = Gía thành xuất xưởng + Chi phí vận chuyển + Chi phí quảng cáo + Lợi nhuận dự kiến Trong nền kinh tế thị trường khách hàng có quyền lựa chọn cho mình những hàng hoá tốt nhất và cùng một loại hàng hoá thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn hàng hoá có giá thấp nhất. Vì vậy, giá là công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường, doanh nghiệp có thể định giá thấp hơn, cao hơn hoặc bằng với giá thị trường. Để chiếm ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại hàng hoá, từng giai đoạn trong chu kỳ sống của hàng hoá hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường. Tốc độ tăng doanh thu Tốc độ tăng doanh thu là một chỉ tiêu mang tính tuyệt đối thể hiện sức cạnh tranh của hàng hoá. Hàng hoá mà có sức cạnh tranh lớn sẽ bán được nhiều, làm tăng doanh thu hơn những hàng hoá có sức cạnh tranh yếu, sẽ bán được ít. Doanh thu của hàng hoá được tính theo công thức sau: n TR= ∑ Pi x Qi i=1 TR: Doanh thu Pi : Gía cả của một đơn vị hàng hoá i Qi : Số lượng hàng hoá i được tiêu thụ n: Số nhóm hàng hoá được tiêu thụ Doanh thu của hàng hoá đạt mức cao trên thị trường chứng tỏ được thị trường chấp nhận, khách hàng ưa chuộng. Sự chấp nhận của khách hàng thể hiện hàng hoá đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nếu cơ hội lựa chọn là như nhau, thì doanh thu là tiêu chí phản ánh chính xác mức độ thoả mãn nhu cầu khác nhau của khách hành đối với hàng hoá. Như vậy, tăng doanh thu nghĩa là hàng hoá thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, mức độ thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng phản ánh sức cạnh tranh của hàng hoá cao hơn. Tăng doanh thu của hàng hoá có thể đạt được thông qua tăng giá bán, trong khi giữ nguyên số lượng hàng may mặc cung ứng trên thị trường. Điều đó khó có thể xảy ra đối với hàng hóa chưa có thương hiệu nổi tiếng trên thị trường và trong môi trường tự do hoá thương mại. Hơn nữa, khi tự do hoá thương mại diễn ra. Xu hướng chung của hàng hoá trên thế giới đều giảm giá bán. Tăng doanh thu bán hàng bằng cách bán giá thấp hơn và đưa ra thị trường số lượng hàng hoá lớn hơn, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Đây chính là xu hướng chung của các nhà sản xuất và kinh doanh hàng hoá trên thế giới nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Tốc độ tăng thị phần Thị phần được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán hàng hoá của doanh nghiệp so với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá đó trên một thị trường và trong một thời gian nhất định. Thị phần của doanh nghiệp được tính theo công thức: Thị phần của doanh nghiệp = Doanh thu bán hàng của doanh nghiệp trong thời gian nhất định X 100% Tổng doanh thu của các doanh nghiệp trên thị trường bán loại hàng hoá đó trong thời gian nhất định Thị phần càng lớn thì nó biểu hiện hàng hoá của doanh nghiệp được người tiêu dùng trên thị trường đó chấp nhận càng nhiều. Khi đó, sức cạnh tranh của hàng hoá đó là lớn. Còn khi chỉ tiêu này nhỏ thì nó biểu hiện hàng hoá đó của doanh nghiệp có sức cạnh tranh kém. Điều đó, buộc doanh nghiệp phải xem xét để cải tiến mặt hàng hoặc đưa ra các chính sách sản phẩm khác để nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm đó hoặc có thể dừng sản xuất mặt hàng đó nếu không thể cạnh tranh nổi so với đối thủ. 1.3 Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của công ty trên thị trường EU EU là một thị trường quan trọng đối với hàng may mặc xuất khẩu của công ty. Trong nhiều năm qua, EU luôn chiếm được tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty. Việc nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU là rất cần thiết bởi các yếu tố sau: 1.3.1 Tăng doanh thu và thị phần mặt hàng may của công ty trên thị trường EU Sức cạnh tranh của hàng may mặc có mối quan hệ chặt chẽ với doanh thu và thị phần, khi nào doanh thu và thị phần tăng lên thì sức cạnh tranh của hàng may mặc sẽ tăng lên và ngược lại. Trong các năm gần đây, doanh thu và thị phần hàng may mặc của công ty tăng giảm không ổn định nhất là năm 2004, 2005 doanh thu và thị phần hàng may mặc của công ty trên thị trường EU liên tục giảm. Việc sút giảm này, nguyên nhân chính là do sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU chưa cao so với đối thủ cạnh tranh. 1.3.2 Phát triển các hoạt động sản xuất của công ty Hàng may mặc của công ty với sức cạnh tranh nhất định chỉ phù hợp với một thời điểm nào đó khi tiến hành cạnh tranh, trong khi các đối thủ cạnh tranh thì luôn luôn thay đổi cách thức cạnh tranh của mình điều đó buộc hàng may mặc của công ty muốn tồn tại được trên thị trường EU thì buộc phải thay đổi theo như tích cực đầu tư cho máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng hàng may mặc tạo chất lượng đồng đều cho sản phẩm...Vì vậy, nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU có tác động ngược trở lại đối với công ty trong việc sản xuất và kinh doanh. 1.3.3 Thay đổi hình ảnh mặt hàng may của công ty Hiện nay, hình ảnh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU còn rất mờ nhạt trong quyết định mua hàng của khách hàng EU. Bên cạnh đó, hàng may mặc của công ty còn bị hàng may mặc của Trung Quốc lấn át về chất lượng, mẫu mã, giá cả, sự khác biệt, uy tín thương hiệu… những yếu tố này nếu được khai thác hiệu quả sẽ làm tăng sức cạnh tranh cho hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Khi sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU tăng lên sẽ làm thay đổi hình ảnh hàng may mặc của công ty trong tâm trí khách hàng EU theo chiều hướng tích cực hơn. 1.3.4 Khai thác lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của công ty Nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU giúp công ty khai thác tốt lợi thế so sánh bởi vì hàng may mặc của công ty có nhiều lợi thế so sánh hơn một số mặt hàng xuất khẩu khác. Trong nhiều năm qua, hàng may mặc vẫn là mặt hàng mũi nhọn trong xuất khẩu sản phẩm của công ty và tỏ ra có khả năng cạnh tranh hơn so với các mặt hàng khác trên thị trường EU. Bên cạnh đó, hàng may mặc của công ty cũng có nhiều lợi thế cạnh tranh mà chưa được khai thác tốt như các chi tiết làm thủ công, những hoạ tiết thêu, ren, đan móc được nhiều khách hàng EU ưa chuộng và lao động Việt Nam nói chung cũng như lao động của công ty nói riêng vốn rất khéo léo trong các công đoạn này. Do đó, nếu những mặt hàng này được khai thác tốt sẽ trở thành lợi thế cạnh tranh cho hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. 1.4 Kinh nghiệm một số công ty về nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng may trên thị trường EU và những bài học kinh nghiệm cho mặt hàng may của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may 1.4.1 Kinh nghiệm một số công ty về nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may trên thị trường EU Có nhiều công ty xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường EU, mỗi công ty đều có những hướng đi riêng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh hàng may mặc. Các công ty ở Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, sau đó là các công ty ở Ấn Độ, một đối thủ cạnh tranh mạnh và trong một vài năm tới sẽ là đối thủ cạnh tranh chỉ đứng sau các công ty của Trung Quốc. Srilanca là một quốc gia chậm phát triển, nhưng có ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu rất phát triển, là trụ cột của nền kinh tế, nên các doanh nghiệp đã có những hướng đi mới cho riêng mình nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc trên thị trường EU. 1.4.1.1 Tập đoàn gia công và sản xuất hàng may mặc Esquel china holdings của Trung Quốc Tập đoàn gia công và sản xuất hàng may mặc Esquel china holdings của Trung Quốc là một trong những nhà cung cấp hàng may mặc lớn nhất của Trung Quốc trên thị trường EU, hiện nay trung bình tập đoàn sản xuất 800 triệu sản phẩm/năm trong đó kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt trung bình 450 triệu USD/năm đó là con số tương đối lớn, hàng may mặc Trung Quốc nói chung và của tập đoàn nói riêng là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất so với nhiều đối thủ khác trên thị trường EU với nhiều lợi thế về số lượng hàng xuất khẩu lớn, chất lượng tốt, đa dạng về mẫu mã. Một số biện pháp mà Tập đoàn hàng may mặc Esquel china holdings của Trung Quốc đã sử dụng để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường EU: Thứ nhất: Nâng cao chất lượng Trong nhiều năm qua, tập đoàn đã không ngừng đổi mới đồng loạt máy móc thiết bị hiện đại sản xuất hàng may mặc, những máy may, là, hấp, cắt, thêu được nhập khẩu từ Nhật Bản, châu Âu, đồng thời Tập đoàn đã tự sản xuất được nhiều thiết bị hiện đại phục vụ cho ngành may. Các doanh nghiệp sản xuất của Tập đoàn luôn được đầu tư thích đáng, nhằm áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, hiện nay còn đang phấn đấu dán nhãn hiệu sinh thái của EU. Do được đổi mới đầu tư đồng bộ máy móc đã làm cho hàng may mặc của Tập đoàn ngày càng có chất lượng cao hơn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về sản phẩm có chất lượng của khách hàng EU. Thứ hai: Giá bán thấp Nói chung, giá hàng may mặc của Tập đoàn thấp hơn các đối thủ cạnh tranh do chi phí sản xuất hàng may mặc ở Trung Quốc thấp như các nguyên phụ liệu được sản xuất trong nước và do lợi thế sản xuất theo quy mô lớn, giúp cho sản phẩm may mặc của Tập đoàn bán với giá thấp mà không hàng may mặc của đối thủ cạnh tranh nào trên thị trường EU có thể bán như vậy. Thứ ba: Đa dạng hóa mẫu mã, màu sắc và nhu cầu sử dụng Hiện nay, Tập đoàn có 9 nhà máy đặt rải rác trên thế giới và hơn 47.000 công nhân và đã xây dựng được mô hình “các liên kết công nghiệp”. Đó là sự liên kết giữa các vùng, miền sản xuất các loại sản phẩm, các nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng may mặc, tạo thành các chuỗi sản xuất và Tập đoàn có lợi thế về độ ngũ thiết kế kiểu dáng công nghiệp rất phát triển, có những trung tâm thiết kế thời trang ở các thành phố lớn như Thẩm Quyến, Bắc Kinh, Thượng Hải, Hàng Châu, các trung tâm này nắm bắt nhanh thị hiếu tiêu dùng của khách hàng trên thị trường EU. Đồng thời, tập đoàn đã tận dụng được lợi thế ngay trên sân nhà là Trung Quốc có ngành công nghiệp phụ trợ phát triển, tạo ra nhiều chất liệu mới cho sản xuất hàng may mặc thêm phong phú. Do đó, hàng may mặc của Tập đoàn đa dạng về màu sắc, kiểu dáng, kích cỡ, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, tạo ra sự hấp dẫn và thu hút khách hàng EU. Thứ tư: Hệ thống kênh phân phối rộng khắp Tập đoàn thành lập từ năm 1978, cũng là năm Trung Quốc bắt đầu mở cửa thị trường nên sớm thiết lập quan hệ thương mại với các quốc gia trong EU do đó Tập đoàn đã nhanh chóng đưa hàng may mặc vào thị trường EU thông qua các nhà phân phối, trung gian thương mại tại thị trường này. Với quy mô sản xuất lớn, bảo đảm chất lượng và thời gian giao hàng, Tập đoàn đã ký được các hợp đồng sản xuất trực tiếp với các tổ hợp thương mại lớn của EU, Tập đoàn này trực tiếp là người cung cấp hàng cho các tổ hợp thương mại, vì thế họ đã nhanh chóng thiết lập mạng lưới tiêu thụ hàng may mặc rộng khắp thị trường EU. Hơn thế nữa, Tập đoàn đã thành công trong việc khai thác hiệu quả đội ngũ Hoa kiều đang sinh sống, học tập và kinh doanh tại các quốc gia trong thị trường EU. Họ là đầu mối đưa hàng may mặc của Tập đoàn tới các nhà bán buôn, bán lẻ và khách hàng trong thời gian nhanh nhất. Thứ năm: Nhanh chóng đáp ứng những yêu cầu về sản phẩm “xanh”, sản phẩm “sạch” Tập đoàn đã và đang cố gắng đưa ra những quy định về quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn môi trường (Eco Friendly) như đổi mới công nghệ, sử dụng nguyên phụ liệu chất lượng tốt, thực hiện đúng các quy trình sản xuất bao gồm cả hệ thống xử lý nước thải, xử lý khí thải độc hại. Đây là chiến lược đi tắt đón đầu cho hàng may mặc của Tập đoàn trước những yêu cầu mới trong cạnh tranh trên thị trường EU. Thứ sáu: Sớm đầu tư vào hàng may mặc cao cấp Tập đoàn đã mạnh dạn đầu tư vào sản xuất những sản phẩm cao cấp như váy dạ hội, các bộ vesting, comple xuất khẩu hàng loạt sang thị trường EU, nhằm đa dạng hóa sản phẩm, tạo thế chủ động sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc cao cấp, chủ động chiếm mảng thị trường hàng may mặc cao cấp mà ít doanh nghiệp xuất khẩu ở các quốc gia là đối thủ cạnh tranh dám đầu tư. 1.4.1.3 Công ty của nhà sản xuất Nooyon Dentelle De Calaise tại Srilanca Công ty của nhà sản xuất Nooyon Dentelle Di Calaise của Pháp đã đầu tư 40 triệu USD cho một nhà máy sản xuất hàng may mặc ở Srilanca, là một trong những công ty có kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lớn của Srilanca sang thị trường EU và đã đạt được những thành công đáng kể. Để có thể thành công trên thị trường EU công ty của Nooyon Dentelle Di Calaise đã có áp dụng các biện pháp sau: Thứ nhất: Hàng may mặc của công ty đã sử dụng những nhãn hiệu nổi tiếng quốc tế như Victoria’s Secret, Liz Claiborne, Pierre Cardin, Abercrombie and Fitch, Nike, GAP …được sản xuất tại Srilanca và xuất khẩu sang thị trường EU. Đây là một lợi thế cạnh tranh đối với hàng may mặc xuất khẩu của công ty, bởi người tiêu dùng EU đã quá quen thuộc với những nhãn hiệu nổi tiếng này. Điều này làm cho kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc công ty của Nooyon Dentelle Di Calaise tăng lên nhanh chóng qua các năm. Thứ hai: Công ty của Nooyon Dentelle Di Calaise luôn đặt ra mục tiêu là sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng may mặc cao cấp. Đây là bước đi đón đầu trong cuộc cạnh tranh gay gắt giữa nhiều đối thủ cạnh tranh cùng bán những mặt hàng may mặc trung cấp và thấp cấp trên thị trường EU. Thứ ba: Công ty đã cố gắng dung hòa được yêu cầu về tiêu chuẩn môi trường và tiêu chuẩn lao động của quốc tế trong quá trình sản xuất hàng may mặc, đáp ứng được những yêu cầu về môi trường, lao động, sức khỏe và tiêu chuẩn an toàn. Nhờ những cố gắng vượt bậc trong giải quyết các vấn đề về môi trường và lao động, hàng may mặc của công ty đã có uy tín trên thị trường EU từ đó, góp phần giảm giá bán và tăng khả năng cạnh tranh của hàng may mặc của công ty trên thị trường EU, cải thiện hình ảnh đối với người tiêu dùng EU. Thứ tư: Công ty có đội ngũ cán bộ quản lý thành thạo tiếng Anh. Vì thế, trong chuyển giao các công nghê hiện đại, đào tạo kỹ năng quản lý, kinh doanh, các hoạt động kinh doanh giữa bên bán hàng và bên mua thực hiện bằng tiếng Anh rất thuận lợi và dễ dàng. Đây là một điểm mạnh làm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường EU nhờ những nhà quản lý, nhân viên thông thạo tiếng Anh có thể dễ dàng nắm bắt được yêu cầu của người tiêu dùng và thuyết phục người tiêu dùng. 1.4.2 Những bài học kinh nghiệm cho công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may Mỗi công ty đều có những hướng đi riêng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng may mặc, nhưng phần lớn đều tập trung vào một vài yếu tố và những yếu tố này là những kinh nghiệm quý giá có thể áp dụng nâng cao khả năng cạnh tranh hàng may mặc cho công ty, đó là: Thứ nhất: Coi chất lượng là hàng đầu Hàng may mặc của các đối thủ cạnh tranh không ngừng được nâng cao chất lượng, thông qua đổi mới máy mọc, thiết bị công nghệ. Trong đó, hàng may mặc công ty của nhà sản xuất Nooyon Dentelle Di Calaise tại Srilanca thể hiện chất lượng thông qua mua bản quyền của các thương hiệu nổi tiếng trên thị trường EU. Đây là một kinh nghiệm hay trong khi tạo lập cơ sở xây dựng thương hiệu, nhờ vào uy tín của những thương hiệu đã trở nên nổi tiếng trên thị trường EU. Qua đó, chất lượng hàng may mặc luôn bảo đảm. Thứ hai: Hạ giá thành hàng may mặc xuất khẩu dựa trên hạ chi phí sản xuất và phát huy lợi thế sản xuất theo quy mô lớn. Công ty cần đảm bảo tăng khối lượng hàng may mặc cung cấp ra thị trường, nhưng luôn giữ được mức hạ giá thành sản xuất. Đây là bài toán khó mà hàng may mặc của các công ty ở Trung Quốc đã thực hiện được, hàng may mặc của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may đòi hỏi cần có nhiều biện pháp kết hợp trong sản xuất hàng nguyên phụ liệu, sản xuất hàng may mặc và xuất khẩu, giữa quy mô sản xuất với hạ giá thành trên mỗi sản phẩm. Thứ ba: Nắm bắt kịp thời nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng trên thị trường EU Đa dạng hoá mẫu mã và nhu cầu sử dụng là rất cần thiết nhất là đối với các mặt hàng may mặc. Muốn đa dạng hoá mẫu mã hàng may mặc của công ty thì công ty cần nắm bắt kịp thời nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng trên thị trường EU. Công ty càng đa dạng hàng may mặc xuất khẩu, khách hàng càng dễ lựa chọn theo sở thích, nhu cầu của mình, ngược lại hàng may mặc thiếu tính đa dạng, khách hàng sẽ khó khăn lựa chọn theo nhu cầu, thị hiếu của mình hơn, như vậy khả năng cạnh tranh sẽ không cao. Thứ tư: Mở rộng kênh phân phối Muốn hàng may mặc có khả năng cạnh tranh cao công ty cần phải có hệ thống phân phối rộng khắp trên thị trường EU. Thiết lập kênh phân phối rộng không nhất thiết công ty phải tự thực hiện, mà dựa luôn vào các kênh phân phối sẵn có của các quốc gia nhập khẩu. Điều quan trọng là hàng may mặc của công ty phải đáp ứng được yêu cầu của các kênh phân phối này. Thứ năm: Quan tâm tới chất lượng người lao động Công ty của Nooyon Dentelle Di Calaise đã hướng tới đội ngũ cán bộ quản lý đòi hỏi trình độ tiếng Anh khá để giao dịch tốt với các đối tác nước ngoài, để thực hiện điều tra nghiên cứu thị trường, nhanh chóng nắm bắt xu hướng, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng EU. Ngoại ngữ trở thành yếu tố quan trọng trong giao tiếp trực tiếp với khách hàng. Công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may cần có chính sách tốt để đầu tư đào tạo đội ngũ lao động có trình độ ngày càng cao góp phần nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty. Thứ sáu: Phối hợp với các công ty sản xuất hàng công nghiệp phụ trợ Các mặt hàng công nghiệp phụ trợ cho hàng may mặc như khuy áo, chỉ, khóa kéo, nhãn, mác. Công ty cần phải tạo sự liên kết chặt chẽ với các công ty cung cấp nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Đây là một bài học hay nhằm tạo điều kiện chủ động trong sản xuất và kinh doanh của công ty, góp phần hạ chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Công ty có sự gắn bó chặt chẽ với các công ty sản xuất các mặt hàng công nghiệp phụ trợ phát triển rõ ràng khả năng cạnh tranh cũng cao hơn. Trên đây là những kinh nghiệm rất hay và có tính khả thi để công ty có thể áp dụng, phù hợp với điều kiện sản xuất và kinh doanh của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH MẶT HÀNG MAY CỦA CÔNG TY SẢN XUẤT-XUẤT NHẬP KHẨU DỆT MAY TRÊN THỊ TRƯỜNG EU 2.1 Giới thiệu khái quát về công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may 2.1.1 Qúa trình hình thành và phát triển của công ty 2.1.1.1 Giới thiệu khái quát về công ty Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt May là doanh nghiệp Nhà nước, đơn vị hạch toán phụ thuộc của Tổng công ty Dệt May Việt Nam và là đơn vị kinh doanh thương mại hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước. Tên công tỵ: Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt May Tên giao dịch quốc tế: The Garment-Textiles Import-and Production Corporation; Tên viết tắt:VINATEXIMEX. Trụ sở chính được đặt tại: số 20 Đường Lĩnh Nam-Quận Hoàng Mai-Tp Hà Nội Điện thoại: (84-4) 6335586/6335517 Fax: (84-4) 8624620/6335520 Email: vinateximex@vinateximex.vn Giấy phép đăng ký kinh doanh số 0116000693 Văn phòng tại TP Hồ Chí Minh: P.205, Số 4, Lê Lợi, Phường Bến Nghé, Quận 1 Tel: 090372592 Fax: 08.8622114 Văn phòng tại TP. Hải Phòng: Số 315 Đường Đà Nẵng, Quận Ngô Quyền Tel: 031-766073 Fax: 031-766073 2.1.1.2 Qúa trình hình thành và phát triển của công ty Căn cứ Quyết định số 253 ngày 29 tháng 4 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Tổng công ty Dệt –May Việt Nam và Nghị định số 55/CP ngày 06 tháng 09 năm 1995 của Chính Phủ phê chuẩn Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Dệt –May Việt Nam Căn cứ Nghị định số 180/2004/NĐ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thành lập mới, tổ chức lại và giải thể công ty nhà nước và Thông tư 04/2005/TT-BKH ngày 17 tháng 08 năm 2005 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn trình tự, thủ tục thành lập mới, tổ chức lại, đăng ký kinh doanh và giải thể công ty nhà nước. Thực hiện quyết nghị của Hội đồng quản trị Tổng công ty Dệt-May Việt Nam quyết định hợp nhất Công ty Xuất nhập khẩu Dệt May, GCN ĐKKD Số: 313453 cấp ngày 14/07/2000 và Công ty Dịch vụ Thương mại số 1, GCN ĐKKD Số 301282 cấp ngày 03/12/1995 thành Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt May ngày 21/2/2006 đơn vị hạch toán phụ thuộc của Tổng công ty Dệt-May Việt Nam Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt May tiền thân là công ty Xuất nhập khẩu Dệt May. Khi mới thành lập công ty Xuất nhập khẩu Dệt May đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Tổng công ty và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan hữu quan. Lúc mới thành lập công ty chỉ có 4 phòng bao gồm phòng Tài chính kế toán, phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp, phòng Xuất nhập khẩu dêt-may, phòng kinh doanh vật tư dệt may. Số vốn ban đầu của công ty như sau: Tổng số vốn pháp định ban đầu của công ty: 1.562.500 triệu đồng Trong đó: Vốn cố định: 1.015.360 triệu đồng Vốn lưu động: 547.140 triệu đồng Vốn điều lệ: 30.338 triệu đồng Đến năm 2002 công ty thành lập thêm 2 phòng mới là phòng Tổ chức hành chính và phòng Kế hoạch thị trường nay gọi là phòng kế hoạch tổng hợp Đến năm 2003 công ty thành lập thêm phòng dự án để đảm bảo các hoạt động kinh doanh trong công ty không bị chồng chéo tránh một phòng phải đảm nhận nhiều công việc một lúc làm giảm hiệu quả kinh doanh của công ty. Đến năm 2006 công ty Xuất nhập khẩu Dệt May sát nhập với công ty Dịch vụ thương mại số 1 và đổi tên thành công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt May. Tổng nguồn vốn của công ty tính đến ngày 31/12/2006: 214,369,700,474 đồng Trong đó: Vốn vay:169,231,907,621đồng Vốn chủ sở hữu:45,137,792,853 đồng Trước tình hình thị trường trong nước và thế giới có nhiều chuyển biến phức tạp công ty cũng có nhiều thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế đó. Công ty đã thành lập thêm Trung tâm thiết kế mẫu, phòng kinh doanh nội địa và các văn phòng đại diện tại TP Hồ Chí Minh và Hải Phòng . Sau mỗi kỳ kinh doanh công ty đều có báo cáo tổng kết, rút kinh nghiệm và đặt ra mục tiêu kế hoạch cho các kỳ kinh doanh tiếp theo đồng thời ban lãnh đạo công ty cũng đưa ra một số giải pháp để đạt được mục tiêu đó. 2.1.1.3 Lĩnh vực kinh doanh của công ty Công ty có nhiệm vụ kinh doanh rất nhiều các ngành, nghề, lĩnh vực quy định trong Giấy phép đăng ký kinh doanh cụ thể gồm các mặt sau: Công nghiệp dệt may: kinh doanh nguyên liệu, vật tư, thiết bị, phụ tùng, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may, sản xuất kinh doanh hàng dệt may gồm các chủng loại xơ, vải, hàng may mặc, dệt kim, chỉ khâu, khăn bông len, thảm đay tơ, tơ tằm. Kinh doanh nguyên liệu bông xơ, kiểm nghiệm chất lượng bông xơ phục vụ cho sản xuẩt kinh doanh và nghiên cứu khoa học. Xuất nhập khẩu: Hàng dệt may(gồm các chủng loại bông xơ, sợi,vải, hàng may mặc, dệt kim,chỉ khâu, khăn bông, len, thảm, đay tơ, tơ tằm, nguyên liệu), thiết bị phụ tùng ngành dệt may, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm. Hàng công nghệ thực phẩm, Nông, lâm, hải sản, Thủ công mỹ nghệ, Ô tô, xe máy, các mặt hàng tiêu dùng khác,Trang thiết bị văn phòng, Thiết bị tạo mẫu thời trang,Phương tiện vận tải, vật liệu điện, điện tử, cao su. Dịch vụ: Thi công, lắp đặt hệ thống điện dân dụng, công nghiệp phục vụ ngành dệt may, Thi công lắp đặt hệ thống điện lạnh, Tư vấn, Thiết kế quy trình công nghệ, bố trí máy móc thiết bị cho ngành dệt may, da giầy, lắp đặt hệ thống điện công nghiệp, hệ thống cẩu, thang nâng hạ, thang máy._.ặc trong những năm tới là dùng các sản phẩm được làm từ tơ tằm, thổ cẩm, lụa… vì những hàng may mặc được sản xuất từ chất liệu này vừa độc đáo, lạ mắt, mát mẻ mà việc sản xuất chúng không ảnh hưởng gì tới môi trường. 3.1.1.2 Dự báo về tình hình cạnh tranh và đối thủ cạnh tranh hàng may mặc trên thị trường EU Thị trường EU là thị trường đầy tiềm năng với sức mua lớn. Điều này đã thu hút rất nhiều các quốc gia cùng xuất khẩu vào thị trường này không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai. Vì vậy, tình hình cạnh tranh trên thị trường EU đến năm 2010 diễn ra rất gay gắt và quyết liệt. Nhưng nổi lên trên tất cả là đối thủ cạnh tranh Trung Quốc và Ấn Độ mà hiện nay thị phần hàng may mặc xuất khẩu trên thị trường EU chiếm tỷ trọng lớn. Trong tương lai(2010) theo các chuyên gia phân tích thì vị trí hàng may mặc của hai quốc gia này vẫn cao và dự báo đến năm 2010 Trung Quốc và Ấn Độ chiếm khoảng 65% thị phần hàng may mặc trên thị trường EU. Tình hình cạnh tranh sẽ rất sôi động với nhiều đối thủ cạnh tranh mới. 3.1.2 Phương hướng, mục tiêu xuất khẩu mặt hàng may của công ty sang thị trường EU đến năm 2010 EU là thị trường rộng lớn, có nhu cầu rất phong phú và đa dạng về hàng hoá nói chung và hàng may mặc nói riêng, EU hiện là một trong những thị trường xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất của công ty. Để giữ vững chỗ đứng của mình trên thị trường EU thì việc xuất khẩu hàng may mặc của công ty cần có phương hướng cụ thể nhằm khai thác hết những thế mạnh của công ty. Các phương hướng và mục tiêu cụ thể được đặt ra là: 3.1.2.1 Phương hướng - Tăng dần tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu sang nước thứ ba Phương hướng này được nêu rõ trong chiến lược phát triển của công ty thời kỳ 2005-2010 với những nội dung chủ yếu: “giảm gia công, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nguyên vật liệu chất lượng cao trong nước với công nghệ mới…”. Chỉ có giảm gia công, tăng tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp thì hàng may mặc của công ty mới khẳng định được tên tuổi cũng như chỗ đứng của mình trên thị trường quốc tế nói chung và thị trường EU nói riêng. - Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp Xuất phát từ xu hướng thực tế của công ty trong vài năm tới gia công xuất khẩu vẫn là hình thức xuất khẩu chủ yếu của công ty. Vấn đề đặt ra là phải nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, thông qua gia công xuất khẩu để tạo lập uy tín của công ty trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng bằng những ưu thế như giá rẻ, chất lượng cao, giao hàng đúng thời hạn…Đồng thời thông qua gia công xuất khẩu công ty có thể học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ hiện đại, tích luỹ đổi mới thiết bị để từng bước chuyển sang xuất khẩu trực tiếp. - Nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU Theo chiến lược phát triển của công ty thời kỳ 2005-2010: “ Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của thị trường thế giới, đặc biệt là yêu cầu về chất lượng, mẫu mã hàng hoá. Mỗi loại hàng hoá phải hình thành được thị trường chính, chủ lực và tập trung khả năng mở rộng các thị trường này, đồng thời chủ động mở rộng sang các thị trường khác theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ buôn bán”. Tại thị trường EU thì hơn hết là vấn đề chất lượng hàng hoá, mà giá cả đôi khi chỉ là thứ yếu thì hàng may mặc của công ty càng cần có giải pháp nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường EU. 3.1.2.2 Mục tiêu Về kim ngạch xuất khẩu - Đến năm 2006 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường EU đạt 7.456(1000 USD) - Còn đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường EU đạt 11.102(1000 USD) Về tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên hàng may mặc xuất khẩu của công ty - Đến năm 2006 tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu do các doanh nghiệp trong nước sản xuất là 25% - Còn đến năm 2010 tỷ lệ này trên 75% 3.2 Những giải pháp chủ yếu nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của công ty trên thị trường EU 3.2.1 Nghiên cứu và đánh giá thị trường mặt hàng may mặc EU Để công ty có thể kinh doanh thành công trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng thì công tác nghiên cứu và và đánh giá thị trường là hết sức quan trọng. Thứ nhất: Thị trường EU sau khi mở rộng và loại bỏ chế độ hạn ngạch đối với hàng may mặc sẽ có nhiều thay đổi về chính sách thương mại, hệ thống thuế, các yêu cầu về chất lượng, nhu cầu khách hàng, đối thủ cạnh tranh. Chẳng hạn về nhu cầu của khách hàng đã hình thành tới mười nhóm khách hàng với mười xu hướng tiêu dùng khác nhau, hay về đối thủ cạnh tranh sẽ hình thành nhiều mặt hàng may mặc mới với nhiều chủng loại, mẫu mã đa dạng….Những yếu tố này sẽ ảnh hưởng tới sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Do đó, việc nắm bắt những thông tin về thị trường là điều không thể thiếu và cần phải liên tục được cập nhật. Thứ hai: Nghiên cứu và đánh giá thị trường hàng may mặc EU là cơ sở để phân đoạn thị trường khách hàng, việc phân đoạn thị trường khách hàng giúp hàng may mặc của công ty tiếp cận đúng nhóm khách hàng khi EU mở rộng lên 25 thành viên. Mỗi quốc gia thành viên EU có thị hiếu, xu hướng tiêu dùng và mức thu nhập cũng rất khác nhau.Với nhóm khách hàng lựa chọn hàng may mặc theo thương hiệu thì hàng may mặc của công ty cần tăng cường xây dựng thương hiệu, đối với nhóm khách hàng ưa thích kiểu dáng thì hàng may mặc của công ty cần phải có nhiều kiểu dáng, đối với nhóm khách hàng mua hàng may mặc xa xỉ, đắt tiền rất thích hàng may mặc kết hợp giữa thủ công và hiện đại nhờ những hoạ tiết, chi tiết thuê, ren, móc, đan bằng tay, và sản phẩm được làm bằng chất liệu có chất lượng tốt thì hàng may mặc của công ty cần phải cố gắng đổi mới máy móc thiết bị để sản xuất ra những mặt hàng đáp ứng nhu cầu… Thứ ba: Nghiên cứu và đánh giá thị trường hàng may mặc EU để tìm ra được những “ ngách” thị trường này. Ngoài ra, những mảng thị trường mà có nhiều đối thủ cạnh tranh nhưng hàng may mặc của công ty muốn tham gia thì đòi hỏi phải có sức cạnh tranh lớn, để nâng cao được sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên các thị trường này thì cũng đòi hỏi phải nghiên cứu và đánh giá thị trường hàng may mặc EU. 3.2.2 Giải pháp đáp ứng các tiêu chuẩn của EU 3.2.2.1 Nâng cao chất lượng mặt hàng may Công ty cần nâng cao chất lượng hàng may mặc trên thị trường EU theo hướng cố gắng đạt chứng chỉ quản lý chất lượng ISO 9000, chứng chỉ về môi trường ISO 14000, và chứng chỉ trách nhiệm xã hội SA 8000. Đây là biện pháp hữu hiệu nhằm đáp ứng yêu cầu của EU về tiêu chuẩn đối với hàng may mặc nhập khẩu. Cụ thể, công ty có thể mời các chuyên gia đánh giá về chất lượng của EU trong thẩm định chất lượng hàng may mặc của công ty xuất khẩu sang thị trường EU bởi vì, ngoài đánh giá chất lượng hàng may mặc xuất khẩu sang EU bằng các tiêu chuẩn quốc tế, EU còn có các tiêu chuẩn riêng cùng với tiêu chuẩn của các quốc gia để đánh giá. Đây là biện pháp hữu hiệu nhất nhằm nâng cao uy tín hàng may mặc của công ty, khẳng định chất lượng hàng may mặc của công ty có phù hợp với tiêu chuẩn của EU, từ đó nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Công ty trong một vài năm tới khi đã có điều kiện về tài chính nên nghiên cứu và thực hiện các tiêu chuẩn nhãn hiệu sinh thái của EU, để hàng may mặc của công ty sớm được dán nhãn sinh thái, trong khi hàng may mặc của các doanh nghiệp Trung Quốc, Ấn Độ đang có chiến lược thực hiện dán nhãn sinh thái, nếu họ thực hiện trước thì hàng may mặc của các doanh nghiệp này có sức cạnh tranh rất mạnh do đó công ty nên cố gắng thực hiện sớm. Hiện nay, EU ngoài các tiêu chuẩn chất lượng theo các tiêu chuẩn quốc tế còn áp dụng chính sách kiểm soát ngặt nghèo về dư lượng kim loại nặng và dư lượng hoá chất có trong hàng may mặc. Một minh chứng cụ thể là hàng may mặc của các doanh nghiệp Trung Quốc đã bị loại khi quá hàm lượng kim loại nặng mà EU cho phép, tuy nhiên hàng may mặc của công ty vẫn chưa bị trả lại nhưng đây cũng là một cảnh báo cho hàng may mặc của công ty là phải tuân thủ những quy định về chất lượng của EU để nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. 3.2.2.2 Đa dạng hoá mặt hàng may xuất khẩu Một trong những biện pháp của công ty để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc trên thị trường EU là đa dạng hoá hàng may mặc xuất khẩu, có nhiều cách thức để đa dạng hoá: Đa dạng hoá chất liệu nhờ vào ý tưởng thiết kế Để đa dạng hóa hàng may mặc xuất khẩu trước tiên công ty cần phải đa dạng hoá về chất liệu để tạo ra sản phẩm tuy nhiên để đa dạng hoá chất liệu không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trong nước mà vai trò của các ý tưởng thiết kế của đội ngũ thiết kế trong công ty là rất quan trọng vì nếu có nhiều nguyên phụ liệu mà ý tưởng thiết kế thiếu sáng tạo, thiếu ý tưởng mới thì hàng may mặc của công ty sẽ không thể cạnh tranh được với các đối thủ. Ý tưởng của đội ngũ thiết kế trong công ty nếu hay, đặc sắc sẽ tạo nên những sản phẩm may mặc với nhiều màu sắc khác nhau, công dụng khác nhau sẽ kết hợp với các chất liệu khác nhau, ý tưởng của đội ngũ thiết kế trong công ty phải xuất phát từ nhu cầu, thị hiếu của khách hàng EU. Đa dạng hoá chủng loại Mỗi chủng loại hàng may mặc phù hợp từng thời gian khác nhau, trong mỗi chủng loại công ty cần hình thành theo những bộ sưu tập thời trang theo mùa, làm được điều này hàng may mặc của công ty sẽ thể hiện được tính chuyên nghiệp cao. Từ đó, hàng may mặc của công ty sẽ dần dần hoà nhập hơn với xu hướng thời trang của thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng, đồng thời giúp nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Công ty muốn đa dạng hoá được sản phẩm, cần có những thông tin nghiên cứu thị trường biết được thị trường cần gì và công ty sẽ cố gắng thay đổi cho phù hợp với nhiều chủng loại hàng và nhiều chất liệu khác nhau, đây là biện pháp rất tốt để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. 3.2.2.3 Đăng ký nhãn hiệu mặt hàng may của công ty trên thị trường EU Khách hàng EU quen sử dụng những hàng may mặc có thương hiệu, những mặt hàng không có thương hiệu thường gắn với chất lượng thấp, không có tính thời trang và chiếm 10% thị phần hàng may mặc EU. Điều này, cho thấy công ty cần nhanh chóng đăng ký nhãn hiệu trên thị trường EU, việc đăng ký nhãn hiệu trên thị trường EU tạo ra các thuận lợi là nếu đăng ký nhãn hiệu trên thị trường EU hàng may mặc của công ty sẽ loại bỏ được hàng nhái, hàng giả lấy nhãn hiệu hàng may mặc của công ty. Nếu công ty không đăng ký nhãn hiệu trên thị trường EU thì hàng nhái, hàng giả kém chất lượng sẽ làm mất uy tín hàng may mặc của công ty, từ đó làm giảm sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. 3.2.3 Giải pháp hạ chi phí trong sản xuất và kinh doanh Hiện nay, giá bán một số mặt hàng may mặc xuất khẩu sang thị trường EU của công ty còn cao. Do đó, trong sản xuất kinh doanh hàng may mặc công ty cần hạ chi phí từ đó làm giảm giá bán. Tuy nhiên trong vấn đề hạ giá bán công ty cần chú ý tới các yêu cầu sau: Thứ nhất: Hạ chi phí trong sản xuất kinh doanh góp phần làm giảm giá bán nhưng mà không được vi phạm Luật chống bán phá giá của EU. Trường hợp rủi ro xảy ra là công ty có thể bị kiện là bán phá giá thì công ty cần bình tĩnh chứng minh là mình không bán phá giá bằng cách thuê các công ty kiểm toán đánh giá tình hình tài chính của công ty trong các hoạt động kinh doanh, đầu tư, doanh thu, chi phí. Thứ hai: Giảm chi phí bằng cách đẩy mạnh công tác quản lý chặt chẽ khâu sản xuất và xuất khẩu. Công ty cần có sự phối hợp với các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang thị trường EU, đồng thời cần có sự phối hợp với các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng phụ trợ để tránh thời gian chết giữa các công đoạn sản xuất hàng may mặc của công ty. Thứ ba: Đẩy mạnh giao dịch bằng các ứng dụng thương mại điện tử trong kinh doanh. Thông qua đó mà công ty có thể giảm chi phí hạ giá thành hàng may mặc điều này thì công ty đã và đang thực hiện, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. 3.2.4 Giải pháp về nhượng quyền thương mại Nhượng quyền thương mại là việc công ty thuê sử dụng một thương hiệu, phương thức kinh doanh, điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp khác trong một thời gian nhất định. Đổi lại công ty phải trả cho bên nhượng quyền một khoản lệ phí và tuân thủ theo các yêu cầu của bên nhượng quyền về chất lượng sản phẩm, kiểu dáng và những yêu cầu khác để đảm bảo uy tín cho bên nhượng quyền. Do thực tế là công ty chưa tạo dựng được uy tín cao với khách hàng EU, nên việc đẩy mạnh xuất khẩu thông qua nhượng quyền thương mại là rất cần thiết đối với công ty. Giải pháp này giúp hàng may mặc của công ty nâng cao uy tín, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường EU. 3.2.5 Sử dụng đa dạng các kênh phân phối Sử dụng đa dạng các kênh phân phối là một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU do được nhiều tiêu dùng EU biết đến, từ đó mà hình ảnh hàng may mặc của công ty được cải thiện hơn. Thứ nhất: Công ty nên cung cấp hàng may mặc cho các tổ hợp thương mại và các siêu thị lớn, khi đó công ty phải đáp ứng những yêu cầu chặt chẽ của các nhà nhập khẩu EU đề ra là phải cung cấp một khối lượng lớn, thời gian giao hàng phải tuyệt đối đúng hạn, giá cả rẻ, chất lượng hàng tốt và những điều kiện thanh toán thuận lợi. Với hình thức cung cấp này công ty sẽ có được đơn hàng lớn, ổn định và không lo khâu phân phối bởi các nhà nhập khẩu có hệ thống các cửa hàng, siêu thị bán lẻ khắp EU từ đó hình ảnh hàng may mặc của công ty cũng được tăng lên hơn trước. Thứ hai: Công ty nên cung cấp qua những trung gian thương mại như các nhà bán buôn nhập khẩu sau đó các nhà bán buôn này lại bán cho các nhà bán lẻ, các đại lý từ đó tăng doanh thu, tăng thị phần cho công ty. Thứ ba: Công ty nên cung cấp qua các nhà bán lẻ đây là kênh phân phối tốt nhất vì những nhà bán lẻ có vai trò quan trọng trong hệ thống kênh phân phối hàng may mặc trên thị trường EU. Các nhà phân phối này ngoài hệ thống các cửa hàng, siêu thị khắp các quốc gia trong EU còn có hệ thống các cửa hàng, siêu thị ở các quốc gia trên châu lục khác. Qua đó, hàng may mặc của công ty không chỉ được biết tới ở thị trường EU mà còn ở các quốc gia trên thế giới. Tóm lại, khi kênh phân phối hàng may mặc của công ty được mở rộng, sẽ tạo sự ảnh hưởng nhất định đối với đối thủ cạnh tranh và khách hàng EU từ đó nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. 3.2.6 Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại Để khách hàng EU có được những thông tin tốt về chất lượng hàng may mặc của công ty thì công ty nên tạo mối quan hệ tốt với các tổ chức liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới mua sắm hàng may mặc của khách hàng EU như hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên thị trường EU. Đồng thời, công ty nên tăng cường các hoạt động quảng cáo, tham gia các hội chợ được tổ chức hàng năm tại thị trường EU từ đó góp phần nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. 3.3 Một số kiến nghị đối với Chính phủ, các bộ ngành liên quan 3.3.1. Hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu thị trường Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nghiên cứu thị trường, tìm kiếm thông tin, thiết lập các kênh phân phối, tham gia hội chợ, triển lãm, hội thảo, các quan hệ công chúng, đặc biệt cung cấp thông tin về thị trường, những biến động của thị trường và những dự báo cần thiết. Những thông tin thu thập được rất quan trọng, bởi vì nó quyết định tới việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trêng thị trường EU. Việc cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam chủ yếu là của các hiệp hội và phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, tuy nhiên các doanh nghiệp chủ yếu thu thập thông tin từ các nguồn khác do các hiệp hội và phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam chưa làm được điều này. Vì vậy, trong thời kỳ mở cửa và hội nhập nền kinh tề thế giới, các hiệp hội và phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cần phát huy hơn nữa vai trò của mình để góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. 3.3.2 Phối hợp thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp Phối hợp chặt chẽ giữa Hệp hội dệt may Việt Nam với phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và Cục xúc tiến thương mại trong xây dựng chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu theo từng nhóm hàng, từng khu vực thị trường, cần có đội ngũ tư vấn thị trường, kinh doanh, tìm đối tác, luật pháp, xúc tiến bán hàng để sẵn sàng giúp đỡ các doanh nghiệp khi cần. Sự phối hợp hoạt động này, góp phần tăng sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. 3.3.3 Cách thức hỗ trợ doanh nghiệp Trong điều kiện kinh doanh trên thị trường EU có nhiều biến động và áp lực cạnh tranh rất lớn, các Hiệp hội, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Cục xúc tiến thương mại Việt Nam cần linh hoạt hơn nữa trong các biện pháp và có những giải pháp đề nghị với các Bộ, Ngành, Chính phủ giải quyết những vướng mắc của doanh nghiệp xuất khẩu, những bất hợp lý làm tăng chi phí kinh doanh, các biện pháp phát triển, xúc tiến bán hàng chưa hợp lý làm giảm khả năng cạnh tranh hàng may mặc. Các Hiệp hội, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Cục xúc tiến thương mại Việt Nam nên tiếp cận hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp để phát triển các hoạt động của mình cho phù hợp với thực tế thị trường, thay đổi cách tiếp cận xúc tiến thương mại theo kiểu truyền thống mang nặng thủ tục hành chính mà không hiệu quả. Các Hiệp hội, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Cục xúc tiến thương mại Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU bằng việc cung cấp thông tin, tìm kiếm khách hàng, kênh phân phối, hỗ trợ bán hàng, vận động hành lang tạo thuận lợi trong xuất khẩu hàng may mặc, chuyên môn hoá dịch vụ, bảo đảm sức cạnh tranh lâu dài. Xây dựng mạng lưới tổ chức xúc tiến theo kiểu chuyên môn hoá để đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp. Đồng thời sớm đưa ra những dự báo có thể xảy ra của môi trường kinh doanh và giúp doanh nghiệp chuẩn bị sẵn sàng đối phó hiệu quả. Hiệp hội dệt may Việt Nam, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và Cục xúc tiến thương mại cần sớm đưa ra giải pháp kiến nghị với các cơ quan trong việc đơn giản hoá các thủ tục hành chính xét duyệt các chương trình xúc tiến thương mại trên thị trường EU, hỗ trợ các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với các nguồn tài chính của Chính phủ. Đây là giải pháp thiết thực giúp nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. 3.3.4 Hoàn thiện chính sách tín dụng cho ngành dệt may Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc đang trong quá trình thiếu vốn nghiêm trọng để thực hiện thay đổi công nghệ mới và đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động, xây dựng và quảng bá thương hiệu hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. Trước tình hình đó, để giúp các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh thì Chính phủ nên hỗ trợ theo hướng sau: Khai thác tối đa ưu đãi cho các quốc gia đang phát triển trong hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp mà WTO cho phép. Nên hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc trong sản xuất những mặt hàng mới, mặt hàng cao cấp, những mặt hàng sử dụng nhiều nguyên phụ liệu trong nước khi giới thiệu sản phẩm, tham gia hội chợ, triển lãm. Chính phủ nên thay đổi quy chế hỗ trợ xuất khẩu theo hướng nới lỏng các quy định về bảo đảm tiền vay, ưu tiên các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, các doanh nghiệp tạo thành chuỗi trong sản xuất và xuất khẩu, các doanh nghiệp đạt các chứng chỉ tiêu chuẩn quốc tế, các doanh nghiệp được Hiệp hội dệt may bảo lãnh. Chính phủ nên thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ này thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển nhưng không đủ tài sản để thế chấp vay vốn. Chính phủ nên rà soát, loại bỏ hoặc giảm các loại phí và lệ phí có thể làm tăng chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp như các chi phí dịch vụ công đang là vấn đề lo ngại của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam. 3.3.5 Sửa đổi, bổ sung luật lao động Các doanh nghiệp may mặc Việt Nam đa số phải làm thêm giờ khoảng 400-600 giờ/1 năm. Trong khi đó, trong luật lao động ghi các doanh nghiệp không được phép tăng ca quá 300giờ/ năm là quy định mà hầu hết các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc kể cả các doanh nghiệp lớn hàng đầu Việt Nam đều không thực hiện được trong điều kiện hiện nay. Do đó Chính phủ cần điều chỉnh luật cho phù hợp với thực tế để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay yếu tố thời gian làm thêm trong năm là điều hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu, bởi nó liên quan đến thời gian giao hàng ngắn hay dài từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. Do hàng may mặc là mặt hàng mang tính thời vụ, nên việc sản xuất chúng càng cần phải đảm bảo yếu tố thời gian. Các doanh nghiệp gia công hàng may mặc Việt Nam nhận nguyên liệu do nhà nhập khẩu cung cấp, nhiều khi nguyên liệu lại không đồng bộ, số lượng ít, mẫu mã lại thay đổi liên tục cộng với thủ tục Hải quan Việt Nam rườm rà, cơ sở hạ tầng yếu kém, giao thông vận tải không tốt làm chậm tiến độ giao hàng. Còn đối với các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất thì bị phù thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu khi tiến hành sản xuất, thời gian từ khi đặt hàng đến khi nhận hàng phải mất hàng tháng. Nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc Việt Nam chưa đổi mới đồng bộ máy móc thiết bị, năng suất lao động thấp, quản lý sản xuất chưa hợp lý, dẫn đến chậm thời gian giao hàng. Trước thực tế đó, Chính phủ nên có chính sách để sửa đổi, bổ sung luật cho phù hợp để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. 3.3.6 Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp Môi trường kinh doanh sẽ trở nên lành mạnh, minh bạch, hoàn thiện khi có hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, thông thoáng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển tự do kinh doanh những hàng hoá không bị Nhà nước cấm và cạnh tranh lành mạnh. Hiện nay, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa phát huy hết khả năng trong sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc, nguyên nhân chính là các bộ luật liên quan còn chưa hoàn chỉnh theo thông lệ quốc tế, tính minh bạch, rõ ràng chưa cao, tạo ra sự lo ngại của các nhà đầu tư cả trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, bộ luật cạnh tranh đã xây dựng xong nhưng vấn đề áp dụng chưa thực sự đạt hiệu quả, nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh không được xử lý theo luật cạnh tranh. Ngoài ra, còn nhiều vấn đề bất cập khác mà hệ thống luật pháp Việt Nam còn chưa hoàn chỉnh do đó Chính phủ cần sớm ban hành các bộ luật để hoàn chỉnh hệ thống luật pháp tạo điều kiện để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU nói riêng và thị trường thế giới nói chung. 3.3.7 Hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực Hiện nay, cùng với xu hướng hội nhập và mở cửa nền kinh tế thì hơn lúc nào hết doanh nghiệp muốn cạnh tranh được thì cần đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng, tạo khả năng tiếp thu với công nghệ tiến tiến do quá trình phát triển kinh tế, khoa học của thế giới. Chính phủ cần hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực theo hướng: Thứ nhất: Cần có chương trình đào tạo lao động cho ngành dệt may theo chương trình đào tạo quốc gia ở các trường đại học và cao đẳng, trường dạy nghề, những chương trình này được nghiên cứu đào tạo chuyên sâu tạo ra những nhà quản lý và người lao động có tay nghề cao trong lĩnh vực ngành dệt may. Đây là biện pháp mang tính chiến lược lâu dài trong chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam. Thứ hai: Có chính sách tăng tiếp nhận và chuyển giao những chương trình dạy nghề, thường xuyên mời các chuyên gia nước ngoài trực tiếp đào tạo tại các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc. Hình thức đào tạo này, nhằm tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trên thế giới từ đó giúp nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. 3.3.8 Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU thì cần nâng cao chất lượng hàng may mặc là vấn đề rất cần thiết để tiêu chuẩn chất lường hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU gần hơn với tiêu chuẩn chất lượng của quốc tế, việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng của Chính phủ theo hướng sau: Căn cứ vào hệ thống chất lượng quốc tế làm căn cứ cho xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam, các tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam nên gắn với các tiêu chuẩn chất lượng của quốc tế. Chính phủ cùng với Bộ công nghiệp, Bộ thương mại, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng Việt Nam xây dựng cơ chế và thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát việc sử dụng những hoá chất trong sản xuất các nguyên phụ liệu phục vụ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Chính phủ phối hợp với các Bộ xây dựng những phòng thí nghiệm với trang thiết bị hiện đại để đánh giá chất lượng hàng may mặc trên cơ sở tiêu chuẩn quốc tế. 3.3.9 Cải cách thủ tục hải quan Hiện nay, vấn đề về các thủ tục hải quan của Việt Nam đã có nhiều thay đổi tuy nhiên vấn còn nhiều vấn đề cần giải quyết để hoàn thiện nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu cụ thể: Cải cách thủ tục hải quan theo hướng một cửa, một dấu nhằm giảm tối đa thời gian cho các khẩu thủ tục hành chính để đáp ứng thời gian giao hàng. Thống nhất trong việc áp mã thuế đối với nguyên phụ liệu, hàng may mặc ở các cửa khẩu hải quan khác nhau theo tiêu chuẩn phân loại hàng hoá của WTO. Nâng cao tỷ lệ kiểm tra đối với hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu và giảm tỷ lệ kiểm tra xác suất để loại những hàng hoá không đạt tiêu chuẩn ngay tại cửa khẩu. Tăng sử dụng máy móc thiết bị hiện đại trong việc kiểm tra hàng may mặc xuất khẩu để giảm thời gian thông quan. KẾT LUẬN Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cơ hội mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may nói riêng là rất lớn, nhưng cơ hội chỉ là tiềm năng, mà thách thức đang là hiện thực. Doanh nghiệp sẽ có cơ hội được hưởng lợi nhờ thuế nhập khẩu nguyên, phụ liệu giảm trong khi nguồn cung cấp sẽ phong phú hơn. Nhờ vậy sản phẩm của doanh nghiệp sẽ đủ sức cạnh tranh với các nước khác. Tuy nhiên, đó mới chỉ là cơ hội mà thôi, còn việc có giảm được chi phí đầu vào, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm hàng hóa dịch vụ của công ty hay không là vấn đề khác. EU vốn là thị trường truyền thống của hàng dệt may Việt Nam nói chung và luôn đứng ở vị trí dẫn đầu trong số các thị trường xuất khẩu của công ty. Việc EU mở rộng thêm 10 nước thành viên, chắc chắn là thị trường thuận lợi cho hàng dệt may của công ty nói chung và hàng may mặc nói riêng. Mặt khác, trình độ phát triển của các nước EU không đồng đều, nhu cầu của từng đối tượng khác nhau, các thành viên mới cũng có tiềm năng sản xuất hàng dệt may nói chung và hàng may mặc nói riêng. Do vậy, để có thể cạnh tranh được doanh nghiệp cần phải đưa ra những chiến lược cụ thể và thật sự có hiệu quả. Nghiên cứu đề tài: : “Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng may của công ty Sản xuất-Xuất nhập khẩu dệt may trên thị trường EU” đã giúp em hiểu một số lý thuyết về cạnh tranh, thực trạng sức cạnh tranh của hàng may mặc trên thị trường trong những năm qua diễn ra như thế nào. Trên cơ sở đó, bằng vốn kiến thức ít ỏi của mình em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Từ đó, đưa ra những kiến nghị đối với Chính phủ, các bộ ngành liên quan. Do giới hạn về thời gian và hiểu biết có hạn của bản thân, bài viết này sẽ có nhiều sai sót. Vì vậy, em tha thiết mong các thầy cô xem xét và có những nhận xét đánh giá để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo Sách 1. PGS.TS Nguyễn Thị Hường “Giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI” tập 1, tập 2(2004) Nhà xuất bản thống kê 2. PGS.TS Nguyễn Thị Hường “Giáo trình kinh doanh quốc tế” tập 1, tập 2(2003) Nhà xuất bản lao động xã hội 3. PTS Nguyễn Cao Văn “Giáo trình maketing quốc tế” (1999) Nhà xuất bản giáo dục 4. TS Vũ Trọng Lâm “Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” (2006) Nhà xuất bản chính trị quốc gia 5.TS Đinh Văn Ân, TS Lê Xuân Ba “Nâng cao sức cạnh tranh xuất khẩu trên cơ sở cắt giảm chi phí” (2006) Nhà xuất bản tài chính 6. Tác giả Trần Chí Thành “Thị trường EU và khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam” (2002) Nhà xuất bản lao động xã hội 7. PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân “Thâm nhập thị trường EU-những điều cần biết” (2004) Nhà xuất bản thống kê Tài liệu công ty 1. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của công ty qua các năm(2003-2006) 2. Báo cáo tài chính của công ty qua các năm(2003-2006) 3. Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu của công ty qua các năm(2003-2006) Các trang web 1. Dệt may Việt Nam vào EU: Vì sao tăng trưởng chưa như mong đợi? 2. Kinh nghiệm của SRILANCA về nâng cao khả năng cạnh tranh hàng may mặc trên thị trường EU và bài học rút ra cho hàng may mặc Việt Nam. 3. Vào WTO, dệt may VN vẫn chưa thể 'cất cánh' 4. Cơ hội cho ngành dệt may Việt Nam 5. Dệt may Việt Nam trước thềm 2005: Đối đầu với hàng Trung Quốc 6. truong/ Thị trường EU: “Cô nàng đỏng đảnh” 7. Hiệp định về dệt may 8. Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp may mặc Việt Nam xuất khẩu EU - Hai năm nhìn lại 9. Giới thiệu chung về EU 10. Tóm tắt quan hệ Việt Nam – EU 10. Hướng dẫn kinh doanh tại thị trường EU 11. Các quy định cần biết về hàng dệt may 12. Đánh giá triển vọng phát triển xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2000 – 2010 13. Dự báo xu hướng trong hành vi mua sắm ở Châu Âu 14. Các giải pháp thiết yếu nâng cao khả năng cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU 15. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0074.doc
Tài liệu liên quan