Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay (Qua thực tế tỉnh Bắc Giang

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi lẽ, năng lực tư duy lý luận là cơ sở quan trọng để cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh hoạch định đường lối, chủ trương, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Đường lối, chủ trương của Đảng là đường lối chung, khái quát ở tầm vĩ mô, khi triển khai ở các địa phương đặc biệt là ở cấp tỉnh đòi hỏi một sự năng động, sáng tạo thì kết quả mới c

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay (Qua thực tế tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao. Để đáp ứng được yêu cầu đó, những cán bộ lãnh đạo chủ cốt của tỉnh phải có trình độ tư duy lý luận mới đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Sẽ là sai lầm khi cho rằng, ở địa phương chỉ là nơi triển khai nghị quyết của Trung ương, nên yêu cầu về năng lực tư duy lý luận không cao. Thực ra, việc triển khai nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương đòi hỏi một sự năng động sáng tạo lớn ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Hơn nữa, công cuộc đổi mới của Đảng ta đã thu được những thành tựu quan trọng nhưng đồng thời đã và đang đặt ra nhiều vấn đề gay gắt. Chính ở các địa phương là nơi nảy sinh những mâu thuẫn, những vấn đề mới rất cần được giải quyết và khái quát cho nên năng lực tư duy lý luận có ý nghĩa hết sức to lớn đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Theo chúng tôi, cấp tỉnh là cấp có đủ các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục... để chúng ta nghiên cứu, thể nghiệm, đề xuất những vấn đề thuộc về đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước. Thực tiễn 15 năm đổi mới vừa qua cho thấy, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh đã năng động trong triển khai nghị quyết của Trung ương, song đó mới là những giải pháp trước mắt chưa mang tính chiến lược lâu dài. Nhiều cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh vẫn thụ động chờ sự chỉ đạo của cấp trên, chưa dám mạnh dạn đề xuất những biện pháp mới phù hợp với địa phương, vì thế nhiều vấn đề thực tiễn nảy sinh chưa được giải quyết kịp thời... Tình hình ấy phải chăng phản ánh năng lực tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình? Vấn đề này đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Với mong muốn được đóng góp phần nào vào việc nghiên cứu vấn đề này, tôi chọn đề tài: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay (Qua thực tế tỉnh Bắc Giang" làm luận văn thạc sĩ khoa học triết học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề trình độ lý luận và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Cho đến nay đã có nhiều công trình được công bố với những mức độ thể hiện khác nhau trong đó có những công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài như: "Yêu cầu mới về năng lực, trí tuệ của Đảng trong giai đoạn hiện nay" của GS.TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Triết học, Số 2-1994; Hồ Bá Thâm: "Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên Giang" luận văn thạc sĩ triết học của Vũ Đình Chuyên; "Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy" của GS.TS Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản, Số 10-1987; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của năng lực trí tuệ và lý luận" của PGS Trần Đình Huỳnh, Tạp chí Xây dựng Đảng, Số 2-1995; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh" luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Đình Trãi... Cùng với những công trình nghiên cứu chuyên sâu về trình độ tư duy, năng lực tư duy của cán bộ, đảng viên còn có những bài viết, những công trình nghiên cứu đánh giá về những hạn chế, yếu kém về tư duy lý luận của cán bộ, đảng viên, chẳng hạn như: "Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều trong quá trình đổi mới"; "Mấy vấn đề về đổi mới tư duy", Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội, 1988; "Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta", Tạp chí Triết học, số 2-1988... Tuy nhiên, việc nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận như một phẩm chất tư duy của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay với tư cách là một luận văn thạc sĩ khoa học triết học thì chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu. Vì vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần vào công tác cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở tỉnh Bắc Giang nói riêng và trong cả nước nói chung. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh và thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này (qua thực tế Bắc Giang), đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận cho họ. Nhiệm vụ của luận văn: - Làm rõ vai trò năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh và những yêu cầu nâng cao năng lực tư duy lý luận trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (qua thực tế Bắc Giang). - Phân tích thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh từ năm 1986 đến nay và những nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất một số phương hướng và những giải pháp chủ yếu để từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh hiện nay. 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Luận văn không nghiên cứu tất cả những đối tượng cán bộ lãnh đạo, cũng không nghiên cứu tất cả các phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo theo yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, mà chỉ nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (qua thực tế Bắc Giang). Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là toàn bộ Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ. Luận văn không nghiên cứu về người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh như là đối tượng của khoa học xây dựng Đảng, cũng không nghiên cứu về năng lực tư duy với tư cách là đối tượng của tâm lý học; mà nghiên cứu năng lực tư duy lý luận với tư cách là một phẩm chất của tư duy dưới góc độ nhận thức luận theo lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng mácxít. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng ta về con người, về trình độ tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo nói chung và cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Luận văn kế thừa các tác giả đi trước về vấn đề này. Luận văn sử dụng các phương pháp lịch sử và lôgíc, trừu tượng và cụ thể, phân tích và tổng hợp, điều tra, thống kê... Luận văn còn sử dụng những tài liệu của các cấp ủy Đảng và chính quyền ở tỉnh Bắc Giang... 6. Đóng góp của luận văn Luận văn bước đầu xác định được những phẩm chất tối thiểu thuộc về năng lực tư duy lý luận - một năng lực cơ bản trong năng lực của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh; làm rõ vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Đồng thời, luận văn cũng đã vạch ra được thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (qua thực tế Bắc Giang), trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để phát huy và từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này. 7. ý nghĩa của luận văn - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chiến lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh Bắc Giang. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập triết học nói chung và phần lý luận nhận thức nói riêng. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1 Năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó đối với hoạt động lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh 1.1. Năng lực tư duy lý luận 1.1.1. Bản chất tư duy lý luận Để xác định được nội dung của phạm trù năng lực tư duy lý luận, trên cơ sở ấy mà nhận rõ vai trò của nó cũng như nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, trước hết cần làm rõ nội dung khái niệm tư duy. Để hiểu khái niệm tư duy, một mặt chúng ta phân biệt nó với "ý thức" và "nhận thức" vì chúng là những khái niệm có mối liên hệ mật thiết, thống nhất hữu cơ với nhau. Mặt khác, chúng ta nghiên cứu tư duy như một phạm trù có tính lịch sử. Theo Mác, ý thức chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc người và được cải biến đi ở trong đó [41, tr. 35]. Còn Lênin thì cho rằng ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan [24, tr. 138]. Nói ý thức là hình ảnh chủ quan là theo nghĩa sự phản ánh thế giới bởi bộ óc người gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn, nhằm tạo ra những hình ảnh sâu sắc và nhiều mặt về thế giới khách quan. Tuy là hình ảnh chủ quan nhưng ý thức lại lấy thế giới khách quan (các sự vật, hiện tượng, quá trình...) làm tiền đề, bị chế định bởi "cái khách quan" và có nội dung phản ánh là "cái khách quan" ấy. Cố nhiên, không phải chỉ cần thế giới xung quanh tác động lên bộ óc con người là mặc nhiên sinh ra ý thức. Bởi vì, ý thức là một hiện tượng xã hội, "... ngay từ đầu ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại" [39, tr. 43]. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định. ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí... trong đó, tri thức là thành tố quan trọng nhất. Quá trình hình thành và phát triển ý thức cũng chính là quá trình con người tìm hiểu, tích lũy tri thức về thế giới xung quanh. Hiểu biết về sự vật càng nhiều thì ý thức của con người về sự vật đó càng sâu sắc. Tóm lại, ý thức là hình thức phản ánh riêng có ở con người, khác về chất so với phản ánh tâm lý ở động vật. ý thức là toàn bộ các quá trình tâm lý tích cực tham gia vào sự hiểu biết của con người đối với thế giới khách quan... [63, tr. 711]. Nhận thức - theo lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng - là quá trình phản ánh tích cực và sáng tạo hiện thực khách quan bởi con người trên cơ sở của thực tiễn lịch sử - xã hội. Nhận thức cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người. Nhưng sự phản ánh đó không phải là một hành động nhất thời, máy móc giản đơn, thụ động mà là một quá trình phức tạp của hàng loạt hoạt động trí tuệ tích cực và sáng tạo. Bởi vì, "... con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan" [28, tr. 228]. Nhận thức, tuy cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc con người nhưng khác với ý thức và hoàn toàn khác với hành vi phản ánh ở động vật về chất. Nhận thức của con người là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách tích cực và sáng tạo là nhờ có hoạt động thực tiễn. Theo Lênin, nhận thức là một quá trình "từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan [28, tr. 179]. Nhận thức là một quá trình biện chứng, quá trình ấy bao gồm hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tuy khác nhau về chất nhưng nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có sự thống nhất hữu cơ, tác động biện chứng với nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau, đem lại cho con người những hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn và sâu sắc hơn về các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới. Tóm lại, nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực trong đầu óc của con người, được quyết định bởi những quy luật phát triển xã hội và gắn liền với hoạt động thực tiễn [72, tr. 407]. Vậy tư duy khác gì với nhận thức? Tư duy không phải là hệ ý thức mà là hình thức cao của sự phản ánh tích cực thực tại khách quan của con người [72, tr. 634]. Đó là hoạt động phản ánh ở giai đoạn cao nhất của nhận thức. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng cảm giác mà nhận thức, mà hiểu được những vấn đề như tốc độ ánh sáng, âm thanh hay những hiện tượng xã hội phức tạp khác... Muốn hiểu được những vấn đề đó không thể có gì thay thế ngoài việc sử dụng sức mạnh của tư duy. Tư duy là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan. Đó là quá trình năng động, sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên bên trong của sự vật, đem lại cho nhận thức khoa học những tri thức mới về tính quy luật chi phối sự vận động và phát triển của sự vật. Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, tư duy phải được biểu đạt thành ngôn ngữ, nhờ đó mà con người có thể sáng tạo ra những khái niệm và những phạm trù khoa học, nêu lên những quy luật của các khoa học và do đó hiểu sâu sắc hơn bản chất của các sự vật. Nếu không có ngôn ngữ sẽ không có phương tiện để tư duy và tư tưởng của loài người không thể lưu giữ kế thừa và phát triển được. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tư duy là sản vật của bản nguyên siêu tự nhiên, độc lập, không phụ thuộc vào vật chất, đó là "ý niệm tuyệt đối", "ý niệm siêu nhiên"... song, sự phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm đó và đã chứng minh được rằng tư duy là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Hoạt động của bộ óc người phản ánh hiện thực khách quan bằng các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý... thông qua các phương pháp như so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa. Như vậy, xét về thực chất, tư duy là sự hoạt động đặc biệt của quá trình con người phản ánh thế giới, là quá trình phản ánh dựa trên sự hoạt động của bộ não nhằm nhận thức bản chất, quy luật vận động của thực tại khách quan và định hướng quan hệ đối với thực tại khách quan đó. Những quy luật của tư duy là sự phản ánh các quy luật của thực tại khách quan. Những hình ảnh của sự vật trong thế giới, từ những hình ảnh trực tiếp, nguyên vẹn của cảm giác được tư duy chắt lọc loại bỏ những mặt, những yếu tố bề ngoài ngẫu nhiên trên cơ sở sáng tạo mà tìm ra những mặt cơ bản, tất yếu, những quan hệ bản chất, bền vững. Từ đó hình thành nên những khái niệm, phạm trù tương ứng với các mặt, các quan hệ tất yếu của chúng; dựa vào đó mà xây dựng nên hình ảnh mới, những quy luật khái quát xu hướng vận động và phát triển của các sự vật. Với ý nghĩa đó, tư duy chỉ có ở con người và là trình độ cao nhất của nhận thức con người trong quá trình phản ánh thế giới khách quan. Nhưng đó không phải là sự phản ánh thụ động, phụ thuộc mà con người chủ động tác động vào thế giới và phản ánh chủ động sáng tạo. Để có thể tác động, biến đổi hiện thực, trước tiên con người phải tìm cách nhận thức và hiểu biết về nó. Hoạt động tác động, biến đổi hiện thực lại là cơ sở cho nhận thức, tư duy mang tính sáng tạo và phát triển không ngừng. Bởi vì, xuất phát từ hoạt động làm biến đổi hiện thực đó mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực bộc lộ các thuộc tính, tính chất... Trên cơ sở đó con người mới hiểu biết về sự vật, hiện tượng. Đây là quá trình không có giới hạn cuối cùng của hoạt động nhận thức của con người. Hơn nữa, hoạt động của tư duy còn là hoạt động vận dụng, sử dụng, kết hợp các khái niệm để sáng tạo ra các khái niệm mới, phản ánh các quan hệ tất yếu, các quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan. Đồng thời, hoạt động của tư duy cũng là quá trình vận dụng tri thức thu được vào hoạt động thực tiễn của con người, làm cho hoạt động đó phát triển, từ đó mà tư duy lý luận cũng không ngừng phát triển. Chính vì thế, cả nội dung và hình thức của tư duy đều phụ thuộc vào thực tiễn lịch sử - xã hội. Lịch sử không phải bắt đầu từ tư duy mà là từ hoạt động thực tiễn của con người. Trong đó, hoạt động lao động sản xuất của cải vật chất tạo ra nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội là hoạt động cơ bản nhất. Hoạt động này càng phát triển thì tư duy, trí tuệ của con người cũng càng phát triển theo. Ăngghen đã nhận định rằng: "Trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên" [40, tr. 720]. Như vậy, thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã chủ động nhận thức và cải tạo thế giới. Tư duy của con người là do hiện thực khách quan quy định; nhưng chính hoạt động thực tiễn của con người lại là cơ sở, động lực cơ bản cho sự xuất hiện và phát triển của tư duy, thực tiễn cũng là tiêu chuẩn để kiểm tra, điều chỉnh quá trình tư duy, xác nhận cho tính đúng đắn của tư duy, loại bỏ những sai lầm, tạo sự phát triển liên tục của tư duy con người. Tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo, hoạt động của tư duy luôn vươn tới những nhận thức mới thông qua hoạt động thực tiễn và nhận thức. Hoạt động thực tiễn là cơ sở, động lực của tư duy. Do vậy, khi hoạt động thực tiễn còn ở một trình độ thấp thì ứng với nó là cấp độ tư duy ở trình độ thấp. Khi hoạt động thực tiễn đạt đến trình độ cao hơn thì phương pháp tư duy, trình độ tư duy cũng được nâng lên. Như vậy, tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa, mang tính tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan. Tư duy là quá trình suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng kết hợp các khái niệm, phạm trù theo các nguyên tắc, quy luật lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng nhằm đạt đến chân lý. Tư duy là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tòi đề xuất những nhận thức mới và không ngừng bổ sung phát triển các nhận thức đó trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh khái quát trong các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, tư duy phải được diễn đạt thành ngôn ngữ bởi vì đó là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là phương tiện để diễn đạt kết quả của sự nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát triển kết quả của nhận thức đó. Tư duy xuất hiện, biến đổi và phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn là cơ sở, động lực và là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng, sai của tư duy. Mục đích của tư duy hướng tới là để phục vụ cho thực tiễn; chính quá trình tư duy sẽ tìm ra những biện pháp, cách thức để hiện thực hóa mình thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy là sản phẩm của lịch sử. Trong những thời đại khác nhau, với những điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học... khác nhau, thì trình độ của tư duy xét cả về nội dung và hình thức cũng ở mức cao, thấp khác nhau. Tư duy của con người không phải là bất biến mà nó cũng có quá trình biến đổi và phát triển ngày càng đạt được trình độ cao hơn. Khi xem xét tư duy như một quá trình, một bản tính phát triển chung của con người thực tiễn xã hội, tư duy thể hiện ra khuynh hướng phát triển tất yếu của nó. Tư duy con người theo Ăngghen vừa tối cao vừa không tối cao. Xét theo sự thực hiện cá biệt - chủ thể cụ thể của tư duy thì nó không tối cao và có hạn. Xét theo bản tính và khả năng thì tư duy của con người là tối cao và vô hạn. Lênin khi đề cập về khả năng nhận thức của con người đã cho rằng, chỉ có những cái con người chưa biết chứ không có những cái mà con người không thể biết. Tư duy là vấn đề mấu chốt trong hoạt động nhận thức hoạt động của con người cũng phải dựa trên cơ sở của tư duy. Tùy thuộc vào trình độ tư duy và năng lực tư duy mà đạt tới những kết quả nhất định trong mỗi hoàn cảnh cụ thể. Nhìn chung, trình độ tư duy được xem xét ở các cấp độ như tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Tư duy kinh nghiệm có đối tượng là những khách thể hiện thực tồn tại trong không gian thời gian với sự thống nhất giữa chung và riêng, đặc thù và phổ biến... Tư duy kinh nghiệm mang tính chất tác động trực tiếp cải biến khách thể hiện thực; thiên về phản ánh các hiện tượng, nặng về mô tả các sự kiện. Tư duy lý luận có đối tượng là những khách thể trừu tượng, những hình ảnh, khái niệm phạm trù. Bởi thế, tư duy lý luận mang tính chất tác động gián tiếp đối với khách thể hiện thực, nặng về sự định hướng. ở trình độ phản ánh thì tư duy lý luận phản ánh sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện tượng. Nếu tư duy kinh nghiệm chỉ mới dừng lại ở việc mô tả những đặc điểm, những mối liên hệ bên ngoài của các sự vật hiện tượng thì tư duy lý luận đi sâu phản ánh các thuộc tính, mối liên hệ có tính bản chất, tất yếu, tính quy luật của chúng. Khác với tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận có khả năng phê phán rất sâu sắc và triệt để. Tư duy lý luận cũng có khả năng dự báo khoa học về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nó đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của khoa học cũng như thực tiễn xã hội. Tư duy lý luận cũng chính là biểu hiện trình độ phát triển cao của năng lực tư duy lý luận. Từ những điều trình bày trên đây, chúng ta thấy: ý thức, nhận thức, tư duy là những khái niệm có sự thống nhất hữu cơ với nhau; chúng đều là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc người, cùng bị chi phối bởi những quy luật sinh học và xã hội trong đó các quy luật xã hội giữ vai trò quyết định. Nhưng chúng không phải là những khái niệm đồng nhất. Trong mối quan hệ nội tại giữa ý thức, nhận thức và tư duy, cần thấy rằng, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, nó là phạm trù đối lập với vật chất. Nhận thức là quá trình phản ánh đó. Tư duy là trình độ cao của nhận thức. Như thế, nhận thức, tư duy đều là quá trình hoạt động để mang lại tri thức về sự vật. Tư duy cũng thuộc hoạt động nhận thức nhưng là giai đoạn cao của quá trình nhận thức. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Nói đến tư duy lý luận là nói đến tư duy ở trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa, phản ánh gián tiếp nhưng sâu sắc về mối liên hệ bản chất, tính tất yếu, tính quy luật của sự vật, hiện tượng. 1.1.2. Năng lực tư duy lý luận và những yếu tố ảnh hưởng đến nó Năng lực tư duy lý luận là một trong những phạm trù quan trọng của nhận thức luận. Đã có những công trình, những bài viết đề cập đến bản chất, cấu trúc và vai trò của năng lực tư duy lý luận hướng tới việc làm sâu sắc thêm lý luận nhận thức và làm cơ sở lý luận cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho con người Việt Nam hiện nay. Khi bàn về khái niệm năng lực tư duy, có ý kiến cho rằng, "năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và bảo đảm cho hành động sáng tạo của con người". Năng lực đó "được biểu hiện ở khuynh hướng nhận thức và hành động, ở kết quả xử lý thông tin và nhất là kết quả hoạt động. Phương pháp tiếp cận vấn đề khác nhau chính là biểu hiện trình độ khác nhau của năng lực tư duy" [34, tr. 26]. Trong quan điểm trên, vấn đề trung tâm, bản chất của năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ và trên cơ sở phẩm chất trí tuệ mới có hành động sáng tạo. Tác giả Hồ Bá Thâm trong sách "Nâng cao năng lực tư duy cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã" xem năng lực tư duy là "khả năng hiển thị tri thức thành phương pháp và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức tìm ra bản chất, quy luật, xu hướng tất yếu của sự vật và vận dụng đúng đắn các quy luật đó trong cuộc sống. Khả năng ấy được cụ thể: "Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên tưởng, luận giải và xử lý trong quá trình phản ánh, phát triển tri thức và vận dụng chúng vào thực tiễn trên cơ sở quy luật khách quan mang lại những kết quả nhất định" [66, tr. 13-15]. Tác giả cũng đã đề cập đến ba yếu tố cơ bản cấu thành năng lực tư duy trong sự phân biệt với năng lực cảm giác đó là: a) Năng lực ghi nhớ, tái hiện những hình ảnh bằng ngôn ngữ khái niệm, hình ảnh, do nhận thức cảm tính đem lại; b) Năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp; c) Năng lực tưởng tượng suy luận, liên tưởng để nhận biết, phát triển, lựa chọn xử lý trong nhận thức và hành động. Như đã trình bày ở phần trên, tư duy là một quá trình nhận thức ở trình độ cao, phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của đối tượng mà trước đó chưa biết. Tư duy bao giờ cũng mang tính khái quát và tính gián tiếp. Với những đặc trưng đó, quá trình hoạt động của tư duy phải dựa trên những phương pháp khác nhau và phải tuân theo một trật tự lôgic nhất định. Những phương pháp đó là phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa... Trong quá trình hoạt động của tư duy, những phương pháp ấy không nhất thiết phải được kết hợp với nhau một cách tuần tự mà có thể chúng đồng thời được tiến hành trong sự tương hỗ lẫn nhau giữa các phương pháp. Bởi vì, mỗi phương pháp tuy có nội dung tác dụng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ với các phương pháp khác. Phương pháp này là điều kiện, tiền đề để phương pháp khác phát huy hiệu quả. Chẳng hạn khi phân tích, tổng hợp các thuộc tính của sự vật thì đòi hỏi phải có trừu tượng hóa để tách cái chung khỏi cái riêng v.v... Tuy nhiên, mỗi phương pháp khi được tiến hành theo những cách thức đặc trưng của nó thì cũng được xem là một thao tác của quá trình tư duy. Như vậy, quá trình tư duy được tiến hành trong sự huy động sức mạnh của mỗi phương pháp tư duy và sự kết hợp các phương pháp ấy theo một trật tự lôgic phù hợp với lôgíc vốn có của đối tượng nhận thức. Quá trình tư duy được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy lý. Những hình thức này quan hệ mật thiết với nhau và giữ vai trò quan trọng trong tư duy khoa học. Chính vì thế, năng lực tư duy còn thể hiện ở năng lực lựa chọn các vấn đề có liên quan để liên kết các hình thức tư duy mà tìm ra các kết luận nhất định. Chẳng hạn, năng lực lựa chọn các khái niệm để hình thành một phán đoán đúng và liên kết các phán đoán để có suy lý đúng nhằm phát hiện khái niệm mới. Như vậy, năng lực tư duy bao gồm cả năng lực lựa chọn, sắp xếp, kết hợp các phương pháp, hình thức tư duy và khả năng sử dụng thành thạo, nhuần nhuyễn mỗi phương pháp, mỗi hình thức tư duy theo những cách thức, tác dụng riêng của nó cho phù hợp với tính quy định khách quan của các đối tượng nhận thức. Năng lực tư duy là khả năng sử dụng một cách thành thạo, nhuần nhuyễn cả nội dung và phương pháp của tư duy để phát hiện vấn đề và xây dựng được những phương án tối ưu để giải quyết vấn đề đó. Năng lực tư duy thường được tiếp cận ở các kiểu: Năng lực tư duy thực hành, năng lực tư duy hình tượng và năng lực tư duy lý luận... Xét theo cấp độ phát triển của năng lực tư duy có thể phân ra thành năng lực tư duy kinh nghiệm và năng lực tư duy lý luận. Năng lực tư duy lý luận khác với năng lực tư duy kinh nghiệm. Năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát triển. Đó là khả năng tư duy khoa học, sáng tạo trong sử dụng các khái niệm phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa đem lại những tri thức mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc và hệ thống, phù hợp với tính quy luật khách quan của hiện thực. Hơn nữa, năng lực tư duy lý luận còn có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hóa lý luận thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề của cuộc sống có hiệu quả cao. Như vậy, năng lực tư duy lý luận còn được thể hiện ở khả năng xác lập tri thức, khả năng xác lập quan hệ giữa các tri thức và khả năng đối tượng hóa tri thức. Năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận là những phạm trù dùng để chỉ những mặt của quá trình hoạt động thống nhất của tư duy. Trình độ tư duy là trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp, là trình độ tưởng tượng, phán đoán, suy lý để liên tưởng và phát hiện, khám phá lựa chọn, xử lý trong nhận thức và hành động. Còn năng lực tư duy là bản thân sự trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên tưởng, luận giải... Như vậy, trình độ tư duy gần với kết quả của quá trình rèn luyện năng lực tư duy. Vì thế, có thể hiểu trình độ tư duy như là cấp độ của khả năng hoạt động nhạy bén của các yếu tố cấu thành năng lực tư duy và khả năng liên kết sử dụng các yếu tố đó như là những phương pháp tư duy khoa học. Tuy vậy, sự phân biệt năng lực tư duy và trình độ tư duy chỉ là tương đối. Năng lực tư duy nào thì thể hiện một trình độ tư duy như thế ấy. Trình độ tư duy là mức độ đạt được về nội dung và phương pháp tư duy. Để đạt đến trình độ tư duy lý luận cao đòi hỏi phải không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực tư duy lý luận. Từ những phân tích ở trên có thể xem, năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy, đúng đắn đối với hiện thực ở trình độ lý luận, nhờ vậy, có những đề xuất sắc bén, sáng tạo, thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại hình khác nhau. ở mỗi người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp độ phát triển cao thấp khác nhau. Điều đó không phải chỉ do sự chi phối của lịch sử, mà ngay trong cùng một điều kiện môi trường cũng diễn ra sự khác nhau đó. Chính vì thế, năng lực tư duy lý luận không chỉ bị ảnh hưởng bởi các điều kiện chung mà còn do các yếu tố chủ quan của mỗi người chi phối. Trước hết, năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào yếu tố bẩm sinh, di truyền của từng người. Đó là những yếu tố sinh ra đã có và do thế hệ trước di truyền lại như cấu tạo của hệ thần kinh, gen... Những yếu tố này đóng vai trò chính trong việc tạo ra năng khiếu thông minh, trí nhớ, khả năng trực giác, nhạy cảm. Đó là cơ sở, tiền đề, là điều kiện của năng lực trí tuệ nói chung và năng lực tư duy lý luận nói riêng. Như thế, tố chất bẩm sinh di truyền mới chỉ là những khả năng tiềm tàng nó cần phải được khơi dậy phát triển, rèn luyện thường xuyên, nếu không sẽ dẫn đến mai một. Như Ph. Ăngghen đã viết: "Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà có thôi" [40, tr. 487]. Thứ hai, quá trình giáo dục, đào tạo, quá trình học tập rèn luyện một cách tự giác để nâng cao trình độ tri thức, trí tuệ có ảnh hưởng trực tiếp, đóng vai trò quyết định đến năng lực tư duy lý luận. Trình độ tri thức, trí tuệ là điều kiện t._.iên quyết để con người phát triển năng lực của mình về mọi mặt. Để đạt được một trình độ tri thức, trí tuệ nhất định, không có con đường nào khác ngoài việc phải thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và tự đào tạo. Quá trình này mang lại cho con người không chỉ nội dung các tri thức mà còn là những phương pháp tư duy khoa học ngày một hoàn thiện hơn. Đó chính là nền tảng, là cơ sở để con người mài dũa khả năng tư duy, rèn luyện năng lực tư duy nhạy bén sáng tạo. Nếu bị hạn chế về tri thức, trí tuệ thì không thể nâng cao được năng lực tư duy lý luận. Thứ ba, môi trường kinh tế - xã hội, nền tảng văn hóa, khoa học của xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến năng lực tư duy lý luận của con người. Sự phát triển về năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào môi trường kinh tế - xã hội mà trong đó chủ thể tư duy sống và hoạt động. Đó là toàn bộ những điều kiện, hoàn cảnh khách quan liên quan đến đời sống, đến quá trình học tập, rèn luyện và công tác của mỗi người. C. Mác đã chỉ rõ, "con người là sản phẩm của hoàn cảnh", hoàn cảnh kinh tế - xã hội như thế nào sẽ sản sinh ra con người thực tiễn như thế ấy. Bản thân tư duy cũng là sự phản ánh của tồn tại xã hội, là sản phẩm của lịch sử - xã hội. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã góp phần hình thành thói lười suy nghĩ, tìm tòi, tư tưởng thụ động, trông chờ, ỷ lại. Cơ chế kinh tế thị trường dễ hình thành được phong cách tư duy năng động, sáng tạo... Năng lực tư duy lý luận của con người đặc biệt phụ thuộc vào nền tảng văn hóa, khoa học mà xã hội đạt được. Thật vậy, năng lực tư duy lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của bản thân khoa học và trình độ văn hóa xã hội. Nền tảng văn hóa với sức mạnh cuốn hút của cái chân, thiện, mỹ, có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển các tư chất đặc thù của mỗi người, mở rộng, khơi sâu thêm nền tảng tâm - sinh lý, khơi dậy mọi năng lực tiềm ẩn của con người. Cùng với sự phát triển của khoa học, năng lực tư duy lý luận cũng có quá trình phát sinh, phát triển của mình; nó không phải là một cái gì vĩnh viễn, sinh ra và mãi mãi như vậy. Khi đánh giá về sự phát triển của năng lực tư duy lý luận, Ăngghen nhận xét: "Tư duy lý luận của mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta là một sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau" [40, tr. 487]. Điều đó có nghĩa là, ứng với mỗi giai đoạn khác nhau trong sự phát triển của khoa học, tư duy của con người cũng có những loại hình khác nhau. Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, sự nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, sự phát triển nhanh chóng các phương tiện thông tin hiện đại... nên việc nâng cao năng lực tư duy lý luận lại càng gắn liền với sự phát triển của khoa học. Vì vậy, nâng cao năng lực tư duy lý luận trước hết phải nâng cao trình độ tri thức khoa học, phương pháp tư duy khoa học, đặc biệt là phương pháp tư duy biện chứng. Thứ tư, hoạt động thực tiễn là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tư duy lý luận của con người. Ăngghen đã chỉ rõ, "chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở trực tiếp nhất, chủ yếu nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên" [40, tr. 720]. Như vậy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính thông qua hoạt động thực tiễn mà con người có được những hiểu biết, những tri thức về hiện thực khách quan và phát triển những năng lực của mình. Mọi tri thức, năng lực của con người, nhất là năng lực tư duy lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Hơn nữa, sự phát triển liên tục, không ngừng của thực tiễn luôn luôn đặt ra những yêu cầu mới đòi hỏi con người phải luôn suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện quy luật vận động, phát triển của sự vật, hình thành những phương thức, nội dung mới trong năng lực tư duy hướng về việc phát hiện và giải quyết các vấn đề theo yêu cầu của thực tiễn. Như thế, trong hoạt động thực tiễn, năng lực trí tuệ con người nói chung, năng lực tư duy lý luận nói riêng được phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn năng lực tư duy lý luận, đặc biệt là khả năng xác lập tri thức và đối tượng hóa tri thức của con người mới được hình thành và cũng thông qua đó mà những năng lực ấy mới được trau dồi, phát triển. Thứ năm, nhu cầu và lợi ích là những yếu tố hình thành thái độ, động cơ cho mọi hoạt động của con người. Trong đó, có hoạt động rèn luyện để hình thành và phát triển năng lực tư duy lý luận. Xét cho cùng, mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt được một lợi ích nhất định nào đó về vật chất hoặc tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của mình. Hêghen đã viết: "Những lợi ích thúc đẩy đời sống của các dân tộc và các cá nhân [28, tr. 98]. Như vậy cái chi phối mục đích hoạt động của con người là lợi ích. Nhu cầu, lợi ích có ảnh hưởng thường xuyên và trực tiếp đến ý thức, động cơ hoạt động thực tiễn, học tập và rèn luyện để nâng cao năng lực tư duy lý luận. Người có động cơ không trong sáng, trong hoạt động, học tập, rèn luyện chỉ vì lợi ích cá nhân, trước mắt, lợi ích cục bộ... thì khó có thể rèn luyện được năng lực tư duy lý luận sắc bén. Hoặc có được năng lực tư duy lý luận tốt những người đó có động cơ không trong sáng thì cũng chỉ là "người có tài mà không có đức cũng trở thành vô dụng". Những điều kiện, hoàn cảnh và nhân tố trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động bổ sung lẫn nhau tạo thành một hệ thống các yếu tố cùng tác động đến năng lực tư duy lý luận. Nếu những yếu tố trong hệ thống ấy cùng tác động đến năng lực tư duy lý luận theo một chiều tích cực sẽ có tác dụng phát triển năng lực tư duy lý luận nhanh chóng hơn. Ngược lại, sự tác động không thuận chiều giữa các yếu tố trong hệ thống sẽ làm cho năng lực tư duy lý luận khó có khả năng phát triển. Tuy nhiên, phải thấy rằng các yếu tố đó có vai trò, tác dụng, có mức độ ảnh hưởng rất khác nhau đối với năng lực tư duy. Trong đó, yếu tố bẩm sinh, di truyền, sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội là điều kiện cần thiết; quá trình giáo dục, đào tạo đóng vai trò chủ đạo; quá trình tự giáo dục rèn luyện để có được động cơ trong sáng là yếu tố mang tính quyết định trực tiếp đến việc phát triển năng lực tư duy lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có. Như vậy, cùng với thực tiễn xã hội và sự phát triển của khoa học, quá trình học tập nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận là cơ sở chủ yếu của năng lực tư duy lý luận. Năng lực tư duy lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội. Vì thế, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học và thực tiễn, do nhu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển của con người, năng lực tư duy lý luận cũng luôn trong quá trình phát sinh, phát triển và ngày càng hoàn thiện nâng cao hơn. V.I. Lênin đã viết: "Trí tuệ con người đã tìm thấy nhiều điều kỳ diệu trong tự nhiên và sẽ tìm thấy nhiều điều kỳ diệu hơn nữa, do đó làm tăng thêm quyền lực của mình với tự nhiên" [29, tr. 348]. Lẽ dĩ nhiên, đó không phải là một quá trình tự phát mà là quá trình con người tự giác rèn luyện, học tập nâng cao năng lực tư duy, tự giác tham gia tích cực vào hoạt động thực tiễn nhằm trau dồi, phát triển khả năng xác lập những tri thức phù hợp với tính quy luật khách quan của sự vật, khả năng xác lập quan hệ giữa các tri thức và khả năng "đối tượng hóa" những tri thức của loài người vào hoạt động thực tiễn. Chính vì thế mà ý tưởng nâng cao năng lực tư duy lý luận chủ yếu là nhằm nắm bắt bản chất sâu xa của sự vật, biến chúng thành tri thức lý luận trên cơ sở đó mà hình thành được các cách thức, phương pháp tối ưu cho hoạt động thực tiễn. 1.2. Năng lực tư duy lý luận với hoạt động lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh 1.2.1. Thực chất hoạt động lãnh đạo của người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh Khái niệm "cán bộ lãnh đạo" nhìn chung là chỉ những người đứng đầu, phụ trách một tổ chức, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm đề ra những phương hướng, chủ trương, quyết định, trước hết là những quyết định có tính chiến lược về đơn vị mình. Cán bộ lãnh đạo là người có quyền lực, ra những quyết định có tính chất quan trọng nhất. Ngoài ra, cán bộ lãnh đạo còn là người dẫn dắt, tổ chức phong trào theo một hướng đi cụ thể; là người điều hành, chỉ đạo bằng quyền hành qua các mệnh lệnh. Cán bộ lãnh đạo còn là người điều chỉnh những quyết định cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh khách quan. Hoạt động lãnh đạo có bản chất là sự tác động định hướng, sự điều hành, điều chỉnh hoạt động của con người nhằm vươn tới những mục đích nhất định. Điều đó đòi hỏi chủ thể lãnh đạo, phải đạt được một trình độ nhất định về năng lực tư duy lý luận. Bởi trình độ đó có tác dụng rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của công tác lãnh đạo. Hoạt động lãnh đạo là hoạt động tác động điều khiển mang tính chất định hướng của chủ thể lãnh đạo đến đối tượng bằng các phương pháp động viên, giáo dục, thuyết phục... nhằm đạt mục đích nhất định. Trong Từ điển tiếng Việt ghi: "Lãnh đạo bằng đề ra đường lối, chủ trương và tổ chức, động viên thực hiện" [62, tr. 720]. Đối tượng của chủ thể lãnh đạo, quản lý là những con người cụ thể có tri thức, năng lực, có ý chí, mục đích và những ước vọng riêng nhất định. Vì thế, đòi hỏi chủ thể lãnh đạo một mặt phải hiểu biết công việc; mặt khác phải có những hiểu biết nhất định về năng lực, về thể chất, về tâm tư và ước vọng riêng của các đối tượng lãnh đạo. Từ đó mà tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng lãnh đạo làm việc đạt hiệu quả tối đa. Chính vì thế, hoạt động lãnh đạo nếu được nâng lên trình độ nghệ thuật, khoa học làm việc với con người, tác động đến con người để hình thành các quan hệ tốt đẹp giữa họ với nhau và với công việc thì hiệu quả lãnh đạo sẽ cao hơn. Hoạt động lãnh đạo có nhiều khâu, nhiều bước, có thể diễn đạt các khâu đó ở hai trình độ; đó là, chủ thể lãnh đạo suy nghĩ, lựa chọn quyết định và điều hành tổ chức hành động. Do đó, mặt hiện hữu của năng lực lãnh đạo là tổ chức hoạt động thực tiễn, còn mặt năng lực tư duy trí tuệ, lý luận là cái ẩn giấu vào bên trong. Vì vậy, nhà lãnh đạo khác với nhà khoa học. Nhà khoa học hoạt động chính là nghiên cứu, suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện, nêu ra lý thuyết, lý luận, vạch ra phương án thực hành, ứng dụng. Người lãnh đạo cũng là người lao động trí óc dù ở họ không phải là lao động tìm tòi, tạo ra lý luận khoa học mà chủ yếu là lao động cụ thể hóa, hiện thực hóa lý luận. Nhưng để có thể hiện thực hóa lý luận đòi hỏi họ phải suy nghĩ, nghiên cứu phát hiện các tình huống thực tiễn cụ thể, trên cơ sở đó mà đề ra các biện pháp giải quyết tình huống, ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định thông qua hoạt động tập thể hoặc cá nhân. ở đây cần phân biệt cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý. Trong nhiều trường hợp, chức năng, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý trùng lặp nhau. Sự phân loại hai khái niệm này chỉ có tính chất tương đối. Tuy nhiên, hoạt động lãnh đạo và quản lý có những điểm khác nhau căn bản về mục tiêu, nội dung, về phương pháp và phương tiện tác động. Nếu như hoạt động lãnh đạo nhằm mục tiêu định hướng chung, thì mục tiêu của hoạt động quản lý là tổ chức, sắp xếp, chỉ huy các vấn đề theo một trật tự nhất định. Do mục tiêu có sự khác nhau, nên nội dung hoạt động lãnh đạo, quản lý cũng không đồng nhất, dù trong lãnh đạo và quản lý có những khâu tưởng chừng như có sự trùng lặp. Nội dung lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối chung, phương hướng triển khai, thực hiện đường lối, kiểm tra việc thực hiện và bổ sung, sửa chữa, phát triển đường lối theo yêu cầu của thực tiễn. Nội dung của quản lý là xây dựng các phương án, các mô hình với những chỉ tiêu kế hoạch cụ thể, xây dựng các mối quan hệ giữa các đối tượng quản lý và giữa đối tượng với chủ thể quản lý một cách hợp lý nhất để đạt hiệu quả cao trong tổ chức thực hiện. Về phương pháp và phương tiện tác động, hoạt động lãnh đạo dùng phương pháp động viên thuyết phục là chính, bằng uy tín và nghệ thuật mà tập trung giáo dục xây dựng niềm tin, tính tự giác của con người. Quản lý tác động đến đối tượng bằng mệnh lệnh có tính chất bắt buộc. Song, tùy thuộc vào tính chất của quan hệ giữa cơ quan lãnh đạo với cơ quan quản lý, tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức và hoạt động trong cơ quan lãnh đạo và cơ quan quản lý, chủ thể lãnh đạo đồng thời phải thực hiện cả chức năng quản lý và chủ thể quản lý phải đảm nhận cả chức năng lãnh đạo. Như vậy, hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý có đặc trưng riêng của nó không nên xóa nhòa ranh giới giữa chúng dẫn đến chồng chéo công việc. Mặt khác, không nên xem đây là hai hoạt động tách biệt hoàn toàn. Trong một chừng mực nào đó, chúng đan xen hòa hợp vào nhau bổ sung cho nhau. Trong đó, lãnh đạo là khâu quan trọng của quản lý, đồng thời là cơ sở, tiền đề cho quản lý. Quản lý nhằm hiện thực hóa đường lối lãnh đạo và giúp cho hoạt động lãnh đạo đạt hiệu quả hơn. Từ đó có thể thấy rằng, người lãnh đạo phải là người có trình độ lý luận và am hiểu thực tiễn. Họ là người góp phần xây dựng, đồng thời cũng là người vận dụng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào những lĩnh vực cụ thể, biến chúng thành hiện thực trong cuộc sống. Do vậy, đối với người lãnh đạo, năng lực tổ chức thực tiễn là rất quan trọng. Đồng thời họ vẫn rất cần phải có năng lực tư duy lý luận, năng lực đó giúp họ nghiên cứu thực tiễn, nắm bắt và vận dụng đường lối của Đảng để tổ chức thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và vận dụng kinh nghiệm ấy vào hoạt động thực tiễn. Hoạt động của chủ thể lãnh đạo về bản chất là có sự giống nhau ở các cấp; nhưng có sự khác nhau về hình thức, mức độ, phạm vi và lĩnh vực hoạt động. ở nước ta, cơ cấu tổ chức hệ thống chính trị được chia thành bốn cấp là: Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quận, huyện, thị xã và xã, phường, thị trấn. Trong đó tỉnh là một đơn vị hành chính độc lập. Trong số 61 tỉnh thành trong cả nước hiện nay thì tỉnh chiếm tỷ lệ đa số. Có thể nói tỉnh là khâu trung gian, là gạch nối giữa Trung ương và địa phương. Đối với Việt Nam, ở thời kỳ này, hoạt động ở cấp tỉnh như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến bộ mặt quốc gia như thế ấy. Bởi thế, vai trò lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh có ý nghĩa vô cùng to lớn đến chất lượng triển khai các nghị quyết của Trung ương xuống cơ sở. Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước có triển khai được ở cấp quận, huyện hay không là tùy thuộc vào sự lãnh đạo của đội ngũ này. Mặt khác, tỉnh là khâu đầu tiên tổng kết thực tiễn có quy mô nhằm phát hiện những vấn đề nảy sinh để Trung ương nghiên cứu; bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương mới cho phù hợp thực tiễn. Người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là những người thuộc ban chấp hành tỉnh đảng bộ, họ giữ các cương vị chủ chốt ở cấp tỉnh và cấp huyện. Hoạt động lãnh đạo của người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đòi hỏi phải ra được những văn bản, quyết định đúng đắn nhằm chỉ đạo kịp thời các lĩnh vực phát triển theo đúng đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với địa phương. Điều đó đòi hỏi ở người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, một mặt phải nắm chắc, hiểu sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; mặt khác, phải tường tận tình hình thực tế của địa phương về mọi mặt và xu hướng vận động của tình hình đó. Đồng thời, họ còn phải biết huy động sức mạnh trí tuệ của tập thể, của quần chúng. Đó chính là những điều kiện để người lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh xây dựng được các quyết định, các chương trình, kế hoạch vừa phù hợp với thực tiễn địa phương vừa là sự cụ thể hóa sinh động, sáng tạo chủ trương đường lối, chính sách của Trung ương. Những quyết định, chương trình, kế hoạch hóa vừa mang tính khái quát chung, phản ánh mọi mặt đời sống xã hội của toàn tỉnh, vừa mang tính chất chỉ đạo cụ thể đối với mỗi lĩnh vực, mỗi địa bàn thuộc tỉnh. Trong hoạt động lãnh đạo cấp tỉnh, dù phạm vi tác động điều khiển có hẹp hơn cả nước. Nhưng các lĩnh vực cần tác động điều khiển thì lại đa dạng phong phú không kém. Xét theo lĩnh vực của đời sống xã hội, hoạt động lãnh đạo cấp tỉnh cũng tác động bao quát mọi vấn đề từ chính trị, tư tưởng đến kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... Mỗi lĩnh vực ấy lại còn bao gồm nhiều chuyên ngành, chuyên nghề khác nhau. Có thể ví mỗi tỉnh như một quốc gia thu nhỏ. Do vậy, hoạt động lãnh đạo của người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh phải phản ánh được sự liên kết giữa các lĩnh vực, các ngành, nghề chuyên môn thành một tổng thể các quan hệ ở tầm khái quát cao. Tuy nhiên, mỗi tỉnh đều có những đặc thù riêng đòi hỏi người lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải hết sức tường tận những cái riêng của địa bàn mà mình lãnh đạo, phát huy thế mạnh của cái riêng bằng sự lãnh đạo có trọng tâm, trọng điểm. Tất cả những cái đó giúp cho người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh tránh được lối suy nghĩ hời hợt, thiển cận, theo thói quen, kinh nghiệm; loại bỏ cách nhìn: thấy cây mà không thấy rừng, hoặc thấy rừng mà không thấy cây. Như trên đã trình bày, bản chất của hoạt động lãnh đạo là sự điều khiển và đối tượng của sự điều khiển đó là con người với những đặc điểm riêng về trình độ tri thức, năng lực nhất định, có nguyện vọng, tâm tư tình cảm và mục đích riêng. Người lãnh đạo cần phải có phương pháp tác động đến con người một cách hợp lý, hợp tình để họ hoạt động, công tác một cách có hiệu quả nhất. Đối tượng tác động của người lãnh đạo cấp tỉnh là đội ngũ cán bộ các ban ngành đoàn thể ở tỉnh, là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, thị xã và quần chúng nhân dân cư trú trên địa bàn tỉnh. Đây là những đối tượng không thuần nhất về trình độ tri thức, năng lực, tâm tư, nguyện vọng... cho nên trong hoạt động lãnh đạo, công tác tư tưởng, công tác cán bộ, công tác vận động quần chúng phải biết sử dụng nhiều phương pháp nhằm thu phục nhân tâm, khơi dậy ở họ niềm tin tưởng, say mê với công việc để phát huy hết khả năng của mình. Phải biết chia sẻ khó khăn với cấp dưới, phải đặt mình vào địa vị người khác, tạo mọi điều kiện để họ làm việc tốt hơn, có hiệu quả hơn. Đặc biệt, người lãnh đạo cấp tỉnh phải biết lắng nghe ý kiến của cấp dưới ở cơ sở, biết lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân. Từ đó hiểu tâm tư nguyện vọng như là một luồng thông tin ngược trở lại để hiểu những quyết định lãnh đạo của mình có phù hợp với cuộc sống không, trên cơ sở đó mà có sự điều chỉnh hợp lý. Trong thực tế, nhiều vấn đề nảy sinh từ cơ sở nếu được giải quyết kịp thời đều tạo ra sự phát triển mới ở địa phương. Cũng không ít trường hợp, cái mới được tổng kết, khái quát có giá trị chỉ đạo trong phạm vi tỉnh hay thậm chí cả nước. Muốn vậy, trong hoạt động lãnh đạo phải tạo được bầu không khí dân chủ, phải thực sự làm cho "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Điều đó giúp cho người lãnh đạo phát huy được sức mạnh trí tuệ tổng hợp trong hệ thống chính trị và toàn dân trong việc xây dựng các quyết định, các giải pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả nhất. Nếu ở cấp huyện, hoạt động lãnh đạo mang tính chất khép kín ở một đơn vị hành chính độc lập thì ở cấp tỉnh, hoạt động lãnh đạo mang tầm bao quát toàn bộ tỉnh và là cầu nối trung gian từ địa phương đến Trung ương. Bởi thế, hoạt động lãnh đạo cấp tỉnh còn có yêu cầu một mặt, phát huy nội lực trong tỉnh, mặt khác quán triệt các nghị quyết của trung ương sao cho hiệu quả nhất trên những đặc thù của tỉnh. Đó là quá trình sáng tạo, bền bỉ, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời phát hiện những vấn đề mới nảy sinh để cùng Trung ương giải quyết. 1.2.2. Vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh Những nội dung cơ bản trong hoạt động lãnh đạo ở cấp tỉnh đã phân tích ở trên (1.2.1) cũng đồng thời thể hiện được những yêu cầu về năng lực tư duy lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh. Đó là sự nắm bắt sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng, dựa vào hệ thống lý luận ấy mà cụ thể hóa các chính sách vào địa phương. Đồng thời, trong lãnh đạo, người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh còn phải thu nhận kịp thời những thông tin từ đời sống thực tiễn, xử lý các thông tin ấy một cách nhanh chóng chính xác. Trên những cơ sở ấy mà vận dụng cái chung một cách đúng đắn chính xác cho những lĩnh vực cụ thể ở địa bàn tỉnh. Đó chính là năng lực vận dụng sáng tạo cái chung vào cái riêng. Cũng trong quá trình lãnh đạo yêu cầu về năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh còn thể hiện ở năng lực tư duy về con người, hiểu biết về con người để thu hút tập hợp họ, động viên, lôi cuốn họ để họ hoạt động tích cực. Lãnh đạo ở cấp tỉnh vừa mang tính định hướng chung vừa mang tính thực tiễn cụ thể, cho nên trong quá trình hoạt động của mình, người cán bộ lãnh đạo còn phải có năng lực tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để có cơ sở hình thành các giải pháp cho việc giải quyết các vấn đề ở quá trình thực tiễn tiếp theo. Để đạt được những mục đích, yêu cầu nội dung của hoạt động lãnh đạo một cách hiệu quả nhất, để có được năng lực tư duy lãnh đạo nhất định, người cán bộ lãnh đạo nói chung, cấp tỉnh nói riêng phải có không chỉ phẩm chất đạo đức cách mạng mà cả năng lực tư duy lý luận nhất định. "Vì lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi" [43, tr. 233-234]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Vì kém lý luận nên gặp mọi việc không biết xem xét rõ, cân nhắc cho đúng, xử lý cho khéo, không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại" [43, tr. 234]. Năng lực tư duy lý luận là vũ khí sắc bén nhất trong hoạt động lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Năng lực ấy được thể hiện ở khả năng nắm bắt được bản chất, linh hồn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước... trong quan hệ với nhiệm vụ của mình; ở khả năng nắm bắt vấn đề thực tiễn trên địa bàn mình phụ trách và ở khả năng đề ra phương hướng tối ưu để giải quyết vấn đề đó. Như vậy tổng hợp những biểu hiện ấy, có thể diễn đạt năng lực tư duy lý luận người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh biểu hiện ở những vấn đề sau: Một là, năng lực xác lập tri thức. Đó là khả năng tiếp nhận số lượng và chất lượng tri thức lý luận để hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho hoạt động lãnh đạo cũng như những kiến thức cần thiết phục vụ cho hoạt động đó. Cụ thể hơn, đó là khả năng tiếp thu lý luận, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, khả năng phát hiện những vấn đề mới, khả năng tổng kết thực tiễn và học tập kinh nghiệm thực tiễn. Hai là, năng lực xác lập quan hệ giữa các tri thức. Đó là khả năng liên kết các loại tri thức ở các lĩnh vực, các ngành nghề chuyên môn khác nhau thành một tổng thể ở mức độ khái quát cao, bao quát nhiều vấn đề trên nhiều lĩnh vực và phạm vi rộng lớn. Đồng thời, cũng phân định được tính đặc thù giữa các loại tri thức. Từ đó, khi vận dụng vào thực tiễn vừa phải bảo đảm nhìn nhận vấn đề trong tính nhiều mặt như một chỉnh thể, vừa phải bảo đảm sự phù hợp với địa bàn tỉnh. Ba là, năng lực hiện thực hóa tri thức. Đây là khả năng biến những tri thức đã lĩnh hội được thành các chủ trương, chương trình, kế hoạch hành động làm biến đổi trực tiếp hiện thực. Điều này thể hiện khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn, liên hệ giữa lý luận với thực tiễn vận dụng cái chung một cách đúng đắn cho từng tình huống cụ thể. Đó là năng lực vận dụng, cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng một cách thiết thực, sáng tạo trên địa bàn tỉnh mà mình phụ trách. Bốn là, năng lực phát triển tri thức. Đó là khả năng phát triển những tri thức cho phù hợp hơn nữa với sự phát triển của thực tiễn. Đây là thể hiện khả năng tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Họ vừa vận dụng sáng tạo tri thức vào thực tiễn. Vừa đề xuất, tổng kết những vấn đề nảy sinh từ địa phương kiến nghị lên Trung ương để góp phần bổ sung, phát triển hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách. Như vậy, năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có giá trị định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của họ. Chất liệu trực tiếp tạo nên năng lực đó là những tri thức lý luận tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và từ sự trải nghiệm trong hoạt động thực tiễn của chính người cán bộ. Nội dung của năng lực ấy thể hiện trước hết ở năng lực phản ánh những vấn đề bản chất, tìm ra mâu thuẫn, phát hiện những cái mới; ở khả năng tư duy khoa học trong sử dụng các hình thức và phương pháp tư duy để hình thành tri thức mới làm cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề thực tiễn nảy sinh ở địa phương. Như đã trình bày ở trên, năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy khoa học về những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát triển. Đó là khả năng sáng tạo trong sử dụng các khái niệm, phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa đem lại những tri thức mang tính chính xác, sâu sắc, hệ thống, phù hợp với tính quy định vốn có của hiện thực khách quan. Hơn nữa, năng lực tư duy lý luận còn có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hóa lý luận, dựa vào lý luận mà xây dựng các giải pháp, các phương án giải quyết các vấn đề của thực tiễn một cách tối ưu. Với những đặc trưng cơ bản đó, rõ ràng năng lực tư duy lý luận đóng vai trò hết sức to lớn, là một trong những phương tiện quan trọng nhất đảm bảo cho hoạt động lãnh đạo đạt hiệu quả tối ưu. Dưới đây xin đề cập đến vai trò chủ yếu của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay. - Năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nâng cao khả năng nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và tiếp thu những tri thức khoa học khác. Thực tế chỉ rõ, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh thường xuyên va chạm với những vấn đề vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Cho nên, họ phải hiểu rõ và nắm được thực chất bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trên cơ sở đó mà hình thành năng lực định hướng đúng đắn và phương pháp luận khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn của họ. Nhận thức không đúng bản chất khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đã là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động lãnh đạo của cán bộ kém hiệu quả. Hơn nữa, việc học tập, nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhuần nhuyễn cả về phương pháp và nội dung lại góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận. Năng lực tư duy lý luận giúp cho việc nhận thức sâu sắc lý luận chung cũng như đường lối của Đảng, đồng thời giúp người cán bộ lãnh đạo truyền đạt, triển khai lại cho đối tượng lãnh đạo của mình nắm được thực chất các vấn đề. Nhận thức càng sâu sắc thì hành động càng hiệu quả do vậy công việc lãnh đạo cũng sẽ hiệu quả hơn. Như vậy, năng lực tư duy lý luận đóng vai trò rất quan trọng trong việc chuẩn bị tích lũy các tri thức cho hoạt động lãnh đạo. - Năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nâng cao năng lực nhận thức thực tiễn và vận dụng sáng tạo lý luận, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong việc đề ra những nghị quyết, chủ trương, chính sách cụ thể trên địa bàn tỉnh mà mình phụ trách. Nhờ có năng lực tư duy lý luận, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phát hiện bản chất vấn đề thông qua nhiều hiện tượng phức tạp ngẫu nhiên, phát hiện các mối liên hệ mang tính quy luật cũng như xu hướng và phương thức vận động biến đổi của các sự vật, hiện tượng đặc biệt là những hiện tượng xã hội. Từ đó giúp người cán bộ lãnh đạo có được những chủ trương, nghị quyết đúng đắn khoa học, phù hợp với thực tiễn địa phương. Năng lực tư duy lý luận còn giúp người cán bộ lãnh đạo có thể thâm nhập sâu vào sự vật hiện tượng, phát hiện ra mâu thuẫn, tìm ra những vấn đề mới, những mâu thuẫn mới nảy sinh cần giải quyết; giúp họ so sánh để phân biệt cái giống và khác nhau, cái đúng cái sai; giúp họ từ những vấn đề riêng lẻ khái quát tìm ra những đặc tính chung, những nguyên nhân cơ bản, chủ yếu cũng như nắm bắt vấn đề trong chỉnh thể, hệ thống v.v... Trên cơ sở đó hoạt động lãnh đạo của họ mới thiết thực, hiệu quả. Năng lực tư duy lý luận tạo khả năng vận dụng lý luận một cách sáng tạo vào thực tiễn, vận dụng cái chung một cách đúng đắn cho những lĩnh vực, những phạm vi cụ thể. Đó là năng lực cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng một cách thiết thực, sáng tạo. Năng lực này rất quan trọng đối với người lãnh đạo cấp tỉnh. Bởi nhiệm vụ chính trị cơ bản nhất của người lãnh đạo cấp tỉnh là xây dựng được những phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp cơ bản cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Xuất phát từ thực tế địa phương, từ đường lối của Đảng mà xây dựng các mục tiêu, mô hình, các chương trình hành động cũng như những giải pháp phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ vậy mà người lãnh đạo cấp tỉnh kết hợp được lý luận và thực tiễn trong một quy trình lãnh đạo thống nhất, góp phần vào việc xây dựng đường lối của Đảng. Trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ nâng cao khả năng nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, dám sáng tạo mô hình mới, phát huy sáng kiến, phát hiện cái mới tạo điều kiện cho cái mới phát triển. Đúng như đồng chí Nguyễn Văn Linh đã viết: "Có nhận thức đúng và sâu mới làm đúng và làm có hiệu quả. Do đó muốn đổi mới trong cuộc sống trước hết phải đổi mới trong tư duy. Nói đến tư duy là nói đến trình độ nắm bắt các quy luật khách quan, nói đến việc suy nghĩ theo đòi hỏi của các quy luật đó và áp dụng phù hợp với điều kiện của đất nước, nói đến quá trình sáng tạo và đề xuất các ý kiến mới, nói đến việc tìm tòi các biện pháp có hiệu quả cho hành động. Điều này phải chống chủ nghĩa kinh ng._.ng hết khả năng hiện có của mình để giải quyết. Công việc ấy đòi hỏi mất thời gian, công sức có khi va chạm với cấp dưới, với nhân dân... đòi hỏi họ phải có nhiệt tình cách mạng, có năng lực công tác nhất định mới hoàn thành được nhiệm vụ. Đây là một trong những điều kiện tốt giúp họ phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Bởi lẽ, thực tế cho thấy, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, nếu không vi phạm kỷ luật gì, không tỏ ra quá yếu về công tác thì sẽ duy trì được cương vị hiện tại hoặc thậm chí sẽ lên cao nữa. Cơ chế này đã triệt tiêu lòng dũng cảm, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của đội ngũ này. Rõ ràng chúng ta chưa có cơ chế, chính sách cụ thể để khơi dậy ở họ năng lực làm việc để kinh tế - xã hội phát triển mạnh hơn, chắc chắn hơn lại càng không thể đòi hỏi ở họ thường xuyên tổng kết thực tiễn một cách nghiêm túc, khoa học để khái quát thành lý luận mới nhằm chỉ đạo công cuộc đổi mới thành công. Công việc này phải bắt đầu từ các tỉnh bởi vì nước ta thành phố không nhiều. Sự chuyển mình của các tỉnh sẽ là điều kiện để phát triển của cả nước. 2.3.2.2. Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh nói riêng, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của đội ngũ này trong việc tự phấn đấu rèn luyện nâng cao năng lực tư duy lý luận Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có vị trí quan trọng không chỉ đối với tỉnh mà còn là một khâu quan trọng liên kết với trung ương. Mọi sự lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân và mọi sự phản hồi của nhân dân đối với Đảng đều phải qua cấp tỉnh. Có thể nói, chất lượng cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vẫn còn nhiều bất cập. Do vị trí của mình, đội ngũ này phải có trình độ cử nhân chính trị, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ từ đại học trở lên mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Trên thực tế chỉ có 79,3% số cán bộ chủ chốt cấp tỉnh bình quân cả nước có trình độ lý luận từ cao cấp trở lên. ở Bắc Giang còn thấp hơn, chỉ có 70,2% số cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là có trình độ lý luận cao cấp, cử nhân chính trị, đó là chưa kể trong số này đa phần đã tốt nghiệp từ cách đây năm đến mười năm. Họ đang rất cần được đào tạo lại, bồi dưỡng thêm để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Nhưng khi đề bạt cán bộ lãnh đạo trong hồ sơ có ghi đã qua lý luận cao cấp thì mặc nhiên là họ đủ điều kiện rồi và không bao giờ nghĩ tới chuyện phải đi học thêm lý luận nữa. Mặt khác, công việc ở tỉnh nặng về giải quyết hành chính giấy tờ chưa thúc bách họ hăng say học tập lý luận. Bình quân trong cả nước còn có 18,4% cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh có trình độ lý luận trung cấp và 64% có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên. ở Bắc Giang tương ứng là 29,8% và 82,9%. Rõ ràng con số này phần nào đã phản ánh đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nước ta chưa được chuẩn hóa. Hồ Chủ tịch đã lưu ý: "Cán bộ đảng viên ta, vì bận việc hành chính hoặc quân sự mà xao nhãng việc học tập. Đó là một khuyết điểm rất to. Khác nào người thầy thuốc chỉ đi chữa người khác, mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa" [43, tr. 231]. Đó là chưa kể những người có học lý luận rồi mà hoạt động vẫn kém hiệu quả. Theo chúng tôi, cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh nhất thiết phải có trình độ đại học chính qui và có trình độ cử nhân lý luận chính trị. Trong nhiệm kỳ công tác của tỉnh phải được bồi dưỡng lý luận ít nhất một lần vào nửa đầu nhiệm kỳ của Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ. Trong những năm qua, công tác đào tạo nhằm chuẩn hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh đã có nhiều cố gắng nhưng thực tế cho thấy chất lượng đào tạo chưa cao. Chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo chưa được cải tiến cho phù hợp với yêu cầu của tình hình. Nên chăng, có chương trình đào tạo lý luận riêng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. ở đó sẽ kết hợp giảng dạy lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chuyên sâu với việc cùng giải quyết những vấn đề thực tiễn ở địa phương đặt ra. Mặt khác, cán bộ được cử đi học phải học tập hăng say, nghiêm túc để đạt kết quả tốt. Có chính sách rõ ràng để họ yên tâm học tập. Đối với người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, khi đã vững vàng về tư duy khoa học, thì khả năng loại bỏ lối tư duy phiến diện, một chiều càng cao, việc khắc phục tư duy giáo điều, kinh nghiệm càng có hiệu quả. Chính vì thế, đào tạo nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh là vấn đề cốt lõi để nâng cao năng lực tư duy lý luận. Nhưng vấn đề đặt ra là, làm thế nào để đội ngũ cán bộ này có trình độ tư duy lý luận ở mức độ nắm chắc thực chất phương pháp tư duy biện chứng duy vật và vận dụng được phương pháp đó trong nhận thức và trong hoạt động lãnh đạo. Chỉ có thông qua đào tạo trong nhà trường và nâng cao ý thức thường xuyên học tập, nghiên cứu lý luận thông qua hoạt động thực tiễn thì đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh mới có thể giải quyết tốt vấn đề này. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng chất lượng đào tạo cán bộ, cả về mặt trình độ và năng lực tư duy lý luận, không chỉ phụ thuộc vào bản thân hoạt động đào tạo, mà còn phụ thuộc vào ý thức tự giác và phương pháp học tập của chính đội ngũ cán bộ. Chính vì thế, quá trình đào tạo cần phải làm thế nào để hun đúc cho người học ý thức tự giác học tập, nghiên cứu để biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo. Phải phát huy được tính chủ động, tích cực, sáng tạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong việc tự học tập, rèn luyện để nâng cao năng lực tư duy lý luận. Bởi lẽ, thiếu sự chủ động, tích cực, sáng tạo của chính đội ngũ này thì chúng ta không bao giờ nâng cao được năng lực tư duy lý luận cho họ. Mọi giải pháp về phía Đảng, Nhà nước, đoàn thể xã hội chỉ có tác dụng khi chính đội ngũ này có quyết tâm cố gắng phấn đấu vươn lên, tự học tập, tự rèn luyện, tự trau dồi nâng cao năng lực tư duy lý luận. Muốn vậy, trước hết, phải động viên, cổ vũ, khơi dậy được ở đội ngũ này tình cảm, nhiệt tình cách mạng, cũng như nâng cao ý chí phấn đấu vươn lên; thứ hai, phải hình thành được cơ chế chính sách theo hướng khuyến khích, thúc đẩy họ tích cực, chủ động, nhạy bén, sáng tạo trong học tập cũng như hoạt động chỉ đạo thực tiễn; thứ ba, từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ, đảng viên và nhân dân với tư cách là nhân tố "thúc đẩy, gây áp lực" và tạo nền tảng xã hội để phát triển năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Bởi lẽ, để lãnh đạo có hiệu quả những đối tượng có năng lực tư duy lý luận thì bản thân người lãnh đạo phải tự mình nâng cao năng lực tư duy lý luận. Điều này sẽ gián tiếp hoặc trực tiếp thôi thúc cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải chủ động, tích cực, sáng tạo tự học tập, rèn luyện nâng cao mọi mặt, trong đó có năng lực tư duy lý luận. Đồng thời, phải cung cấp cho người học phương pháp học tập, nghiên cứu một cách khoa học để họ tránh được lối học tập khuôn sáo, học vẹt, thuộc lòng câu chữ mà không nắm được bản chất của lý luận. Những tri thức lý luận có tính chất trừu tượng cho nên để hiểu sâu sắc những tri thức ấy, người học phải liên hệ với thực tiễn nhất là thực tiễn địa phương mình. Đó là cách học tập đúng đắn, tích cực nhất để vừa hiểu được các khái niệm, nguyên lý, phạm trù một cách chính xác, khoa học lại vừa lý giải được nó trong thực tiễn sinh động ở địa phương. Trong học tập phải tranh luận sôi nổi mọi vấn đề, nhất là những vấn đề chưa rõ hoặc những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Làm được như vậy học viên sẽ hứng thú học tập hơn và tự họ đã biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. 2.3.2.3. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh Trước đòi hỏi của thực tiễn đổi mới đất nước cũng như yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của cán bộ cấp tỉnh ở nước ta hiện nay, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, chính sách đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh là một giải pháp quan trọng không thể thiếu được, góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này. Chính sách đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là bộ phận trong hệ thống chính sách cán bộ của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, đổi mới chính sách đối với đội ngũ cán bộ này phải gắn liền với quá trình đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý và chính sách nói chung. Nếu không, chúng ta sẽ khó mà thực hiện được trên thực tế. Về lý luận cũng như trên thực tế, cơ chế quản lý và chính sách cán bộ như thế nào thì sẽ trực tiếp tạo ra những mẫu người cán bộ như thế. Với cơ chế cũ không thể tạo ra những cán bộ năng động được. Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, chúng ta cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý và chính sách cán bộ theo hướng khuyến khích mọi người thường xuyên phấn đấu, học tập và rèn luyện để không ngừng nâng cao đạo đức, phẩm chất cách mạng, trình độ văn hóa, khoa học nói chung. Đã đến lúc chúng ta cần kiên quyết, dứt khoát không chấp nhận những cán bộ có năng lực và trình độ chuyên môn cũng như phẩm chất đạo đức chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ mà lại không chịu học tập, rèn luyện để vươn lên. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với việc đề cao phẩm chất đạo đức, chúng ta cần hết sức coi trọng năng lực, trình độ trí tuệ của đội ngũ cán bộ nói chung, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như năng lực vận dụng những tri thức đó vào lĩnh vực công tác thực tiễn phải trở thành một trong những tiêu chí cơ bản và quan trọng khi sắp xếp, bố trí cán bộ, cũng như trong chính sách đãi ngộ đối với họ. Thực tế chứng tỏ, giữa phẩm chất và năng lực, đức và tài trong mỗi con người luôn hòa quyện với nhau, tác động ảnh hưởng nhau một cách biện chứng. Do đó trong xem xét, đánh giá con người nói chung, cán bộ nói riêng, không được tách rời một cách máy móc, siêu hình giữa các mặt ấy. Phải thấy rằng, trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ cũng như năng lực công tác thực tế cũng chính là biểu hiện cụ thể và sinh động của phẩm chất, đạo đức cách mạng. Chính vì vậy, chúng ta kiên quyết không sử dụng những cán bộ có biểu hiện kiêu ngạo, tự cao, tự đại, dấu dốt, lười học tập. Phải tạo nên dư luận xã hội trên cơ sở hình thành và thực hiện nguyên tắc coi những đảng viên, cán bộ mắc những sai phạm như trên là vi phạm tư cách đảng viên. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của một nhà nghiên cứu rằng, lười học tập lý luận khoa học là một trong những biểu hiện quan trọng nhất của sự mất phẩm chất cộng sản. Bởi vì, những cán bộ đảng viên mà kiêu ngạo, tự thỏa mãn, ngại học tập, lười suy nghĩ và rèn luyện thì không thể có một năng lực tư duy thực sự và sớm muộn cũng mắc bệnh giáo điều, kinh nghiệm, chủ quan duy ý chí. Đối với cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, yêu cầu trên càng phải được thực hiện nghiêm ngặt mới đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ. Vấn đề không chỉ là nhận thức, là qui định mà phải thực sự kiên quyết và nghiêm túc thực hiện như vậy thì mới có tác dụng trên thực tế. Để nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ thì cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý và chính sách xã hội. Đó là chính sách thực sự vì con người và cho con người. Bởi vì, tư duy cũng như năng lực tư duy ngoài cơ sở xã hội ra, còn có cơ sở sinh học của nó nữa. Cơ sở sinh học là tiền đề không thể thiếu được của tư duy. Cho nên, muốn nâng cao năng lực tư duy, phải chú ý bồi dưỡng, phát triển sức mạnh thể chất của con người, con người phải được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản về vật chất và tinh thần. Sự thỏa mãn đó chỉ có thể được bảo đảm bằng sự quan tâm chung của tập thể, của cộng đồng xã hội, được thể hiện một cách cụ thể qua hệ thống chính sách kinh tế - xã hội. Thiếu sự quan tâm chung của cộng đồng, xã hội thì năng lực tư duy, trình độ nhận thức của các thành viên sẽ khó mà phát triển được. Một vấn đề quan trọng cần phải nhấn mạnh là: cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là những người ưu tú được bầu ra từ đại hội tỉnh đảng bộ. Họ chịu trách nhiệm toàn bộ trước nhân dân trong tỉnh, trước Đảng bộ. Vì thế vai trò của họ trong tỉnh là rất lớn. Vì lẽ đó, trong chính sách cán bộ chúng tôi thiết nghĩ, trung ương nên tạo điều kiện để họ làm tốt công tác ngay tại tỉnh. Hiện nay chúng ta rất cần những cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh có đủ uy tín và năng lực lãnh đạo làm việc. Trong khi đó, cứ đồng chí cấp tỉnh nào làm việc tốt là kéo ngay về trung ương. Nói như vậy không có nghĩa là cán bộ trung ương không quan trọng mà phải coi trọng đúng mức cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh - là những cán bộ lý luận - thực tiễn trực tiếp góp phần vào sự lãnh đạo thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Như vậy, trước đòi hỏi của thực tiễn đổi mới đất nước, trước yêu cầu nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, chúng ta cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý và chính sách cán bộ. Điều quan trọng là phải có được hệ thống chính sách cụ thể, được thể chế hóa về mặt nhà nước để tạo điều kiện cho những biện pháp trên đây được thực thi trên thực tế. Làm được như vậy, chúng ta mới hy vọng có thể từng bước xây dựng một đội ngũ lãnh đạo cấp tỉnh vừa có năng lực, trình độ chuyên môn, vừa có phẩm chất, đạo đức cách mạng để có thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên đây là những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở nước ta hiện nay. Hệ phương hướng và giải pháp ấy phải được tiến hành động bộ và nhất quán, nếu không thì khó có thể đạt được chất lượng và hiệu quả cao trên thực tế. Tuy nhiên, cần thấy rằng, giải quyết tốt những yêu cầu trên cũng mới chỉ tạo ra những điều kiện khách quan, những tiền đề cần thiết cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận mà thôi. Thiếu sự nỗ lực cá nhân thì không thể nâng cao được năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Vì vậy, ngoài việc tuyên truyền, giáo dục, thì còn phải có được một cơ chế trên thực tế để hướng được tất cả mọi cán bộ lãnh đạo vào quỹ đạo học tập và rèn luyện, trong đó, tự học tập, tự rèn luyện là quan trọng nhất để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho mình. Có như vậy thì chủ trương nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, mới không dừng lại trên lý thuyết sách vở, thực sự đi vào cuộc sống. Đồng thời phải không ngừng trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ này. Kết luận Năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát triển; là khả năng tiến hành các thao tác tư duy; là khả năng tích lũy vốn tri thức và nghệ thuật sử dụng vốn tri thức, xử lý thông tin và phương pháp tư duy một cách khoa học, hiệu quả. Năng lực tư duy lý luận có cơ sở là yếu tố bẩm sinh di truyền, nhưng chủ yếu và quyết định vẫn là sản phẩm của lịch sử - xã hội. Do đó nó phải được rèn luyện, mài giũa thường xuyên, phải thông qua hoạt động để biến tri thức và phương pháp tư duy thành phẩm chất và sức mạnh của chủ thể tư duy, tạo ra một sự nhanh nhạy, chính xác như một nghệ thuật trong suy nghĩ cũng như hành động. Năng lực tư duy lý luận là vũ khí sắc bén nhất trong hoạt động lãnh đạo nói chung, trong hoạt động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Nó giúp người lãnh đạo tỉnh nâng cao khả năng nắm bắt bản chất chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những tri thức khoa học khác. Đồng thời giúp họ nâng cao năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn, cũng như vận dụng sáng tạo lý luận, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước để ra được nghị quyết, chủ trương, chính sách về các mặt, các lĩnh vực, phát triển đời sống xã hội và tổ chức thực hiện nó trên địa bàn tỉnh. Năng lực tư duy lý luận còn giúp cán bộ lãnh đạo tỉnh nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, tìm ra nguyên nhân của thành công và thất bại, đúc rút bài học kinh nghiệm, định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn tiếp theo. Năng lực tư duy lý luận được biểu hiện cụ thể ở người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là năng lực nắm bắt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước... trong quan hệ với nhiệm vụ của mình; là khả năng chỉ đạo và tổng kết thực tiễn nơi mình phụ trách, từ đó mà có những điều chỉnh phù hợp hơn với tình hình thực tế; là năng lực đề xuất những vấn đề mới nảy sinh. Đó là yêu cầu cơ bản đối với hoạt động lãnh đạo cấp tỉnh. Đây là biểu hiện cụ thể của năng lực tư duy lý luận. Dựa vào đó để đánh giá thực trạng đội ngũ này, có thể nhận định rằng, năng lực tư duy lý luận của đội ngũ này còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đổi mới đất nước nói chung và địa phương nói riêng. Do đó, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận là một yêu cầu cấp bách và quan trọng đối với người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Để làm được việc đó cần phải thực hiện đồng bộ các phương hướng và giải pháp như đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ dân trí cho cán bộ và nhân dân trong tỉnh; rèn luyện đạo đức cho họ; trau dồi và rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng duy vật thông qua học tập và tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh. Đồng thời, phải tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ và từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh; tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Bảo đảm thực hiện tốt những vấn đề trên sẽ khắc phục sự hạn chế về năng lực tư duy lý luận, xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có đầy đủ phẩm chất đạo đức, năng lực tư duy lý luận, năng lực lãnh đạo để chỉ đạo công cuộc đổi mới ở địa phương cũng như cả nước theo mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Danh mục tài liệu tham khảo Hoàng Chí Bảo (1988), "Từ tư duy kinh nghiệm tới tư duy lý luận", Thông tin lý luận, (6), tr. 54-62. Nguyễn Đức Bình (1992), "Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (6), tr. 7. Nguyễn Trọng Chuẩn (1978), "Di truyền và một số vấn đề nhận thức khoa học hiện đại", Triết học, (4), tr. 90-103. Nguyễn Trọng Chuẩn (1992), "Công tác triết học trong giai đoạn hiện nay và việc thực hiện Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị về công tác lý luận", Triết học, (2), tr. 3-6. Vũ Đình Chuyên (2000), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên Giang, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1/1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Lưu hành nội bộ. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội. Đặng Tuyết Em (2000), Vấn đề thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh Kiên Giang), Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội. Nguyễn Tĩnh Gia (1997), "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý", Nghiên cứu lý luận, (2). Tiến Hải (1989), "Năng lực lãnh đạo", Tạp chí Cộng sản, (10). Phạm Văn Hai (1997), Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (qua thực tế Long An), Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trần Hậu (1990), "Chủ nghĩa quan liêu - căn bệnh nguy hiểm làm suy yếu sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản", Thông tin lý luận, (11). Dương Phú Hiệp (1987), "Quán triệt tư duy biện chứng là nội dung quan trọng của việc đổi mới tư duy", Triết học, (2). Tô Duy Hợp (1988), "Hội nghị bàn tròn về đổi mới tư duy", Tạp chí Cộng sản, (8), tr. 54. Trần Đình Huỳnh (1995), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của năng lực trí tuệ và lý luận của Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền", Xây dựng Đảng, (2). Từ Đình Hương (1993), "Đã tìm ra loại gen di truyền - nguyên nhân của bệnh trí tuệ kém phát triển", Thông tin lý luận, (11), tr. 52. Vũ Nhật Khải (1996), "Nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của giai đoạn mới", Nghiên cứu lý luận, (4). Nguyễn Thế Kiệt (2001), "Thực trạng tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta hiện nay", Trong sách Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 9, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1984), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Nguyễn Văn Linh (1991), "Học tập để nắm vững và vận dụng đúng chủ nghĩa Mác - Lênin", Trong sách Những vấn đề lý luận cấp bách về chủ nghĩa xã hội, Nxb Thông tin - văn hóa, Hà Nội. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới tư duy và phòng cách, Nxb Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Long (1988), "Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận", Trong sách Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận, Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Long (1987), "Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy", Tạp chí Cộng sản, (10), tr. 47-51. Nguyễn Ngọc Long (1984), "Kinh nghiệm và lý luận", Nghiên cứu lý luận, (1). Bùi Đình Luận (1992), "Về ranh giới giữa kinh nghiệm và lý luận trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn", Triết học, (2). C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb CTQG, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 29, Nxb CTQG, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội. Nguyễn Minh (1987), "Phân tích lôgíc mệnh đề đổi mới tư duy", Triết học, (1), tr. 78-85. Đỗ Mười (1994), "Bài nói chuyện với cán bộ Học viện CTQG Hồ Chí Minh ngày 7/1/1994", Thông tin công tác tuyên giáo, (1), tr. 2-3. Nguyễn Chí Mỳ (1990), Tư tưởng tiểu tư sản ở Việt Nam hiện nay (những biểu hiện đặc trưng và cách khắc phục nó), Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Thái Ninh (1988), "Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận", Tạp chí Cộng sản, (3), tr. 13-17. "Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay, ngày 28/3/1992" (1992), Thông tin công tác khoa giáo, (2), tr. 17. Lê Hữu Nghĩa (1992), "Quan hệ giữa lý luận và chính trị", Tạp chí Cộng sản, (6). Trần Văn Phòng (1994), Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trần Văn Phòng (1997), "Đạo đức một bộ phận cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp", Thông tin lý luận, (6). Trần Văn Phòng (1998), "Quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động lý luận của chúng ta hiện nay", Nghệ thuật quân sự, (2). Nguyễn Đa Phúc (1997), Phát triển tư duy biện chứng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở nước ta hiện nay, Luận án thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Mai Trọng Phụng (1988), "Để thực hiện việc đổi mới tư duy, cần tìm hiểu nguyên nhân của sự lạc hậu về nhận thức lý luận", Triết học, (4). Trần Viết Quang (1996), Phát triển năng lực tư duy lý luận cho sinh viên thông qua việc giảng dạy môn Triết học Mác - Lênin ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nguyễn Đăng Quang (1987), "Quan hệ giữa đổi mới nội dung và phương pháp tư duy", Tạp chí Cộng sản, (10), tr. 39-42. Phạm Ngọc Quang (1994), "Yêu cầu đổi mới về năng lực trí tuệ của Đảng trong giai đoạn hiện nay", Triết học, (2), tr. 3-6. Nguyễn Duy Quý (1987), "Nâng cao tri thức khoa học - Điều kiện quan trọng để đổi mới tư duy", Tạp chí Cộng sản, (12), tr. 35-38. Minh Tâm (Chủ biên) (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Thanh Hóa. Phạm Văn Thạch (1995), Khắc phục bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Duy Thành (1987), "Đổi mới tư duy, cơ sở khoa học và ý nghĩa thực tiễn", Triết học, (1). Hồ Bá Thâm (1994), "Bàn về năng lực tư duy", Triết học, (2), tr. 7-10. Hồ Bá Thâm (1995), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Lê Thi (1988), "Thực trạng tư duy của cán bộ, đảng viên ta và căn nguyên của nó", Triết học, (3). Nguyễn Quang Thông (1987), "Những đặc trưng cơ bản của phương pháp tư duy khoa học", Tạp chí Cộng sản, (10). Trần Hữu Tiến (1990), "Công tác tổng kết thực tiễn trong điều kiện đổi mới", Tạp chí Cộng sản, (7), tr. 63-66. Lại Văn Toàn (1988), "Đổi mới tư duy lý luận. Tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới", Triết học, (1), tr. 26 - 34. Nguyễn Đình Trãi (1999), "Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh hiện nay", Triết học, (1), tr. 50. Từ điển Triết học (1986), Bản dịch ra tiếng Việt có sửa chữa và bổ sung của Nxb Tiến bộ và Nxb Sự thật. Hà Xuân Trường (1987), "Vai trò của lý luận trong cuộc sống", Nghiên cứu lý luận, (1). Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XV, Bắc Giang, 2001. Vũ Văn Viên (1992), "Rèn luyện năng lực tư duy khoa học cho sinh viên, học sinh", Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, (2), tr. 10-12. Ngô Đình Xây (1990), "Vài nét về thực trạng tư duy lý luận hiện nay ở nước ta", Triết học, (4), tr. 32-36. Phụ lục 1 Cơ cấu Ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành qua một số nhiệm kỳ đại hội Nội dung Nhiệm kỳ 1977-1979 Nhiệm kỳ 1980-1982 Nhiệm kỳ 1986-1990 Nhiệm kỳ 1991-1995 Nhiệm kỳ 1996-2000 1. Tổng số cấp ủy 1486 1485 2241 2261 2487 2. Bình quân mỗi cấp ủy 39 39 56 43 47 3..Số cũ rút ra 29,4 % 34,6 % 33,6 % 41,4 % 4. Số mới trúng cử 27,3 % 38,2 % 50,7 % 39,6 % 34,8 % 5. Thành phần công nhân 8,4 % 10,2 % 8,5 % 5,1 % 2,2 % 6. Phụ nữ 8,4 % 8,9 % 10,3 % 9,5 % 11,2 % 7. Dân tộc thiểu số 11,4 % 13,5 % 13,6 % 14,8 % 14,2 % 8. Tuổi bình quân 49,1 % 49,5 % 48,5 % 48,2 % 48,7 % 9. Dưới 40 tuổi 9,2 % 8,5 % 9,9 % 8,6 % 7,6 % 10. Trên 50 tuổi 45, 4 % 46 % 41 % 39,2 % 40,2 % 11. Có trình độ từ ĐH trở lên 23,4 % 30,4 % 46,6 % 57,2 % 64,0 % 12. Đã học lý luận cao cấp 24,6 % 55,3 % 60,1 % 60,3 % 79,3 % 13. Đã học lý luận trung cấp 29,2 % 29 % 30,2 % 34,4 % 18,4 % 14. Đã học quản lý kinh tế 8,6 % 21,3 % 35,6 % 35,7 % 32,2 % 15. Đã học quản lý nhà nước 6,7 % 11,5 % 27,3 % 16. Công tác ở huyện, cơ sở 18,7 % 19,1 % 24,3 % 24 % 1,9 % Nguồn: Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001. Phụ lục 2 Cơ cấu Ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành Hải Phòng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Cao Bằng Nội dung Bắc Giang Bắc Ninh Cao Bằng Hải Phòng 1. Tổng số cấp ủy 47 45 47 47 2. Phụ nữ 8,5 % 8,8 % 12,7 % 10,63 % 3..Dân tộc thiểu số 2,1 % 95,75 % 4. Tuổi bình quân 50 48,5 47,6 49,61 5. Từ 40 đến 55 tuổi 93,6 % 13,3 % 93,64 % 85,16 % 6. Có trình độ từ ĐH trở lên 93,6 % 93,3 % 78,71 % 100 % 7. Đã học lý luận cao cấp 70,2 % 49,4 % 87,23 % 97,87 % 8. Đã học lý luận trung cấp 29,8 % 50,6 % 4,25 % 2,13 % 9. Công tác ở huyện, cơ sở 23,4 % 17,6 % 27,56% 21,27 % Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang, Bắc Ninh, Cao Bằng, Hải Phòng. Phụ lục 3 Một số kết quả sau hơn một năm thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII của Ban chấp hành tỉnh đảng bộ Bắc Giang. ... Một năm qua các cấp ủy trong toàn Đảng bộ đã xử lý kỷ luật 07 cấp ủy và tổ chức cơ sở Đảng. - Cảnh cáo 01 đảng ủy xã, 01 chi bộ thôn. - Khiển trách 01 ban thường vụ đảng ủy xã, 03 ban chi ủy, 01 chi bộ. Xử lý kỷ luật 720 đảng viên, trong đó có 02 tỉnh ủy viên, 03 phó ngành cấp tỉnh, 06 huyện ủy viên và tương đương, 86 cán bộ chủ chốt cấp xã. - Cấp tỉnh xử lý 11 trường hợp: khiển trách 03, cảnh cáo: 06, cách chức: 02. - Cấp huyện xử lý 111 trường hợp: khiển trách 40, cảnh cáo 47, cách chức 16, khai trừ 08. - Cấp cơ sở xử lý 598 trường hợp: khiển trách 191, cảnh cáo 282, cách chức 38, khai trừ 87. ... Để bảo đảm lựa chọn các cán bộ, đảng viên đủ tiêu chuẩn, tín nhiệm, xứng đáng tham gia các cơ quan lãnh đạo của Đảng và nhà nước, cấp ủy các cấp đã không giới thiệu và cho rút khỏi danh sách bầu cử những đồng chí có tín nhiệm thấp: - Hội đồng nhân dân tỉnh 01 đồng chí tỉnh ủy viên. - Hội đồng nhân dân cấp huyện 08 đồng chí, trong đó có 03 chủ tịch ủy ban nhân dân, 05 phó chủ tịch ủy ban nhân dân. - Hội đồng nhân dân cấp xã cho rút 102 đồng chí là cán bộ chủ chốt cấp xã. - Ban thường vụ tỉnh ủy không giới thiệu tiếp tục tham gia cấp ủy khóa mới 01 đồng chí tỉnh ủy viên do có khuyết điểm. - Ban thường vụ các huyện, thị ủy, đảng ủy trực thuộc không giới thiệu tiếp tục tham gia cấp ủy khóa mới 22 đồng chí cấp ủy viên do có khuyết điểm hoặc tín nhiệm thấp. - Cấp ủy cơ sở cho rút 84 đồng chí cán bộ chủ chốt cấp xã. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2704.DOC
Tài liệu liên quan