Nâng cao năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ nông thôn xã Hải Nam huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định

Tài liệu Nâng cao năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ nông thôn xã Hải Nam huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định: PHẦN MỞ ĐẦU 1 Tính cấp thiết của đề tài Nền kinh tế thị trường đã tạo ra một lượng hàng hóa lớn kéo theo mọi thành phần tham gia sản xuất và tiêu thụ. Nó thu hút tất cả các tầng lớp nhân dân từ nông dân đến doanh nghiệp, từ thành thị đến nông thôn, các tổ chức, đoàn thể,...tham gia vào thị trường và người phụ nữ cũng không nằm ngoài guồng quay đó. Trước kia xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ của tư tưởng phong kiến là ít để người phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế thị trường. Tu... Ebook Nâng cao năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ nông thôn xã Hải Nam huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1449 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ nông thôn xã Hải Nam huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y nhiên hiện nay vai trò của người phụ nữ đang dần có sự thay đổi rõ rệt đặc biệt là với người phụ nữ ở nông thôn – những người không được tiếp cận nhiều với học hành thì tham gia thị trường để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là một việc làm không còn xa lạ để họ có thể cải thiện cuộc sống cho chính gia đình mình. Có thể nói thị trường nông sản là thị trường lôi kéo sự tham gia đông đảo của phụ nữ ở nông thôn nhất trong tất cả các thị trường. Mọi hoạt động của thị trường nông sản từ vận chuyển, lưu thông, xây dựng các mối quan hệ buôn bán, tìm đầu vào, đầu ra,...đều có sự đóng góp tham gia của họ. Tháng 1/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Sự kiện này là một bước ngoặt lớn đối với một đất nước đang phát triển như nước ta bởi vì nó vừa tạo ra nhiều cơ hội và cũng rất nhiều thách thức cho thị trường ở nước ta. Và có lẽ đối tượng chịu nhiều khó khăn nhất vẫn là những người nông dân trong đó có người phụ nữ ở nông thôn. Do bị hạn chế về trình độ nhận thức, sức khỏe và những kiến thức mới nên đã cản trở rất lớn đến khả năng tiếp cận thị trường của họ trong thời kỳ hội nhập của nền kinh tế thị trường. Bởi vậy, mặc dù họ tham gia nhiều vào các khâu của thị trường nhưng hiệu quả đưa lại thực sự chưa cao. Trước thực tế trên đặt ra một yêu cầu là cần phải nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho người phụ nữ nói chung và người phụ nữ nông thôn nói riêng. Huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định là một huyện miền biển có rất nhiều lợi thế so sánh so với các huyện khác trong tỉnh như sản xuất được gạo Tám Thơm, nhiều đặc sản biển như cá, tôm,…cùng nhiều nông sản khác. Đây là một huyện điển hình trong việc tham gia sản xuất và tiêu thụ nông sản ra các huyện trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Giống như nhiều phụ nữ khác ở các vùng nông thôn của Việt Nam, người PNNT huyện Hải Hậu cũng rất đảm đang, cần cù, chịu khó và đặc biệt có khả năng nắm bắt xu thế của thị trường rất nhanh nhất là những sảm phẩm của nông nghiệp. Xã Hải Nam là một xã nằm ngay ở đầu huyện có nền sản xuất nông nghiệp phát triển khá toàn diện cả về trồng lúa lẫn nuôi trồng thuỷ sản.Vì vậy, những người phụ nữ nơi đây đã rất quen thuộc với những công việc buôn bán và trao đổi trong điều kiện sản xuất hàng hoá hiện nay. Tuy nhiên họ vẫn là những phụ nữ chất phác, chịu ảnh hưởng của nền sản xuất nhỏ lẻ nên khả năng tiếp cận và thích nghi với nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hóa vẫn chưa thực sự phát huy. Vậy hiện nay người PNNT xã Hải Nam đang tham gia vào thị trường ở mức độ nào? Hiệu quả ra sao? Họ đang cần gì khi tham gia vào thị trường? Và chúng ta cần làm gì để giúp họ tham gia tốt hơn vào thị trường? Trước những yêu cầu cần được giải đáp trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nâng cao năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ nông thôn xã Hải Nam huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định.” 2 Mục tiêu nghiên cứu - Mục tiêu chung: Nghiên cứu thực trạng năng lực tiếp cận thị trường của phụ nữ nông thôn trên địa bàn xã Hải Nam huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định. Từ đó đưa ra các giải pháp để nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho họ. - Mục tiêu cụ thể + Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và cơ sở thực tiễn của việc nâng cao năng lực TCTT cho phụ nữ + Phân tích được thực trạng TCTT của PNNT xã Hải Nam huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định. + Tìm hiểu được các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực TCTT của người PNNT xã Hải Nam huyện Hải Hậu. + Đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực TCTT cho người PNNT. 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về việc TCTT các yếu tố đầu vào, đầu ra và hạch toán kinh tế trong lĩnh vực trồng lúa và nuôi trồng thủy sản với đối tượng điều tra để thu thập số liệu là người PNNT. - Phạm vi nghiên cứu + Phạm vi nội dung: đề tài nghiên cứu việc TCTT đầu vào, đầu ra cùng với khả năng tiếp cận trong hạch toán kinh tế một số sản phẩm chính của địa phương như: lúa, tôm, cá của PNNT xã Hải Nam huyện Hải Hậu. + Phạm vi về không gian: Đề tài được tiến hành trên địa bàn xã Hải Nam thuộc huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định. + Phạm vi thời gian: Thời gian đánh giá thực trạng tình hình trong năm 2008, thời gian tiến hành nghiên cứu từ tháng 12/2008 đến tháng 5/2009. PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1 Cơ sở lý luận về nâng cao năng lực TCTT nông sản cho PNNT 1.1.1 Một số khái niệm * Thị trường Thị trường là một phạm trù của kinh tế hàng hoá, được nhiều nhà kinh tế định nghĩa khác nhau - Thứ nhất, thị trường là tổng hợp các lực lượng và các điều kiện trong đó người mua và người bán thực hiện các quyết định chuyển hàng hoá dịch vụ từ người bán sang người mua. - Theo David Begg: " Thị trường là tập hợp các sự thoả thuận mà thông qua đó người mua và người bán tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá dịch vụ." - Thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là một quá trình trong đó người mua và bán một thứ hàng hoá tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán bằng tiền trong một thời gian và không gian nhất định." - Theo Ngân hàng PT Châu Á: Thị trường là một thể chế ( hay là tập hợp các nguyên tắc) tồn tại để phục vụ việc trao đổi; đó là, chúng tồn tại để giảm giá thành của việc thực hiện giao dịch. Một thị trường vận hành tốt sẽ giảm giá giao dịch giữa người mua và người bán đến mức thấp nhất. Một thị trường làm việc gồm có 4 thành phần, bao gồm: • Một nền tảng thể chế, gồm luật, quy tắc, quy định và năng lực bắt buộc điều chỉnh tạo nên và giữ vững thị trường. • Tổ chức dịch vụ cung cấp dịch vụ trung gian cho ngững người tham gia và điều khiển thị trường: những dịch vụ này bao gồm từ những dịch vụ cơ bản đến việc nghiên cứu về thị trường. • Người tiêu dùng là những người muốn mua sản phẩm và dịch vụ và có tiền để làm việc đó. • Người sản xuất là người cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong TT: mặc dù cơ cấu thị trường về số lượng, quy mô, và loại hình tổ chức rất đa dạng trong các lĩnh vực thị trường dựa vào lịch sử, giai đoạn tăng trưởng và các rào cản để đi vào lĩnh vực đó. - Theo Cramer, 1997: Thị trường gồm có người mua và người bán với những điều kiện đảm bảo để có thể giao thiệp được với nhau. Thị trường không nhất thiết phải có một địa điểm cụ thể, cho dù một số người vẫn hiểu thị trường theo khía cạnh này, nghĩa là phải có thị trường hàng hoá. Thị trường có thể là ở tầm địa phương, khu vực, quốc gia hay quốc tế. Một yêu cầu duy nhất về sự tồn tại của thị trường là phải có luồng cung và cầu để xác định giá thị trường thông qua giao tiếp giữa người mua và người bán. Như vậy, thị trường khái quát 3 yếu tố: + Có chủ thể tham gia: người mua, người bán + Có đối tượng trao đổi: hàng hoá, dịch vụ + Có điều kiện để thực hiện quá trình trao đổi: khả năng thanh toán của người mua, thời gian, không gian, pháp luật,... * Phân loại thị trường : - Căn cứ vào công dụng của hàng hóa ta chia ra: + Thị trường các yếu tố đầu vào: Đó là những sản phẩm dùng để sản xuất, là những tư liệu sản xuất như các loại máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hoá chất, dụng cụ,…Trong sản xuất nông nghiệp như: giống, phân bón, thức ăn, thuốc, nguồn vốn,… + Thị trường các yếu tố đầu ra (hàng tư liệu tiêu dùng) : là những sản phẩm phục vụ tiêu dùng cá nhân của con người như: lương thực, thực phẩm, quần áo,… - Căn cứ vào nguồn gốc sản xuất ra hàng hoá: + Thị trường hàng công nghiệp: là các sản phẩm do các xí nghiệp công nghiệp khai thác, chế biến sản xuất ra. + Thị trường hàng nông nghiệp (nông, lâm, thủy, hải sản) : là những hàng hoá có nguồn gốc từ sinh vật. * Tiếp cận thị trường Tiếp cận thị trường là việc nông dân có đầy đủ thông tin, tiềm lực xã hội, tài chính, vật chất để mua vật tư đầu vào và bán sản phẩm nông nghiệp làm ra ở các khu vực có lợi cho họ. Nghĩa là người nông dân có đủ nguồn lực để có thể giao thiệp với người bán vật tư đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất của nông hộ, đồng thời họ cũng có đủ khả năng để tiếp cận và đàm phán với các nhà cơ sở thu mua để bán sản phẩm họ làm ra ở một mức có lợi (Kleih, 1999). Điều này cho thấy điều kiện cơ bản nhất để tiếp cận thị trường nông nghiệp là có sự tồn tại của cầu cho các loại sản phẩm tiềm năng từ khu vực nông thôn. Hình 1.1 minh hoạ quy luật tự nhiên của dòng sản phẩm đầu vào và đầu ra, phương thức TCTT của người nông dân và những yêu cầu cần phải được thực hiện nhằm nâng cao khả năng tiếp cận thị trường. Hình 1.1 cho thấy: - TCTT không thể thực hiện như một lĩnh vực đơn lẻ. Tiếp cận thị trường phải được nhìn nhận như một phần đầy đủ, trọn vẹn, không thể thiếu của hệ thống hàng hoá. Một mặt, người nông dân phải biết đâu là nơi họ bán sản phẩm trước khi bắt đầu hoạt động sản xuất. Mặt khác, nguồn cung đầy đủ, thích hợp và thoả đáng các khía cạnh chất lượng và số lượng là yêu cầu tiên quyết cho một hệ thống thị trường hiệu quả. - Luồng cung và cầu về hàng hoá được trao đổi bằng các hợp đồng bao tiêu sản phẩm hoặc giao dịch ăn khớp giữa người mua (bên cầu) và người bán (bên cung) thông qua thị trường. - Nâng cao sự liên kết giữa các mắt xích của hệ thống thị trường (chuỗi sản xuất), ở đây là người nông dân nói chung và người phụ nữ nói riêng với người kinh doanh, là một vấn đề cực kỳ quan trọng của tiếp cận thị trường. Bên cạnh đó, cải thiện hệ thống giao thông, luồng thông tin về sản phẩm, về thị trường là các yếu tố không thể thiếu nhằm có được sự liên kết hiệu quả và bền vững. Cung: Cầu: - Nhà cung cấp vật tư chính - Người tiêu dùng - Nhà cung cấp quy mô lớn/ nhỏ - Cơ sở/ nhà máy chế biến - Thị trường xuất khẩu Hợp đồng bao tiêu sản phẩm Thị trường nông nghiệp Những yêu cầu nhằm tăng khả năng xâm nhập Đầu vào Đầu ra Thị trường cho khu vực nông thôn: Môi trường thuận lợi Đầu tư công và tư Thông tin Chức năng hỗ trợ Cấp độ hộ nông dân Sản xuất Tiêu dùng Bảo quản Chế biến Hình 1.1: Quy luật lưu thông của đầu vào và đầu ra trong nông nghiệp với sự tham gia của nông dân (1) * Đặc điểm của thị trường nông sản Nông sản là lương thực, thực phẩm rất cần thiết cho con người. Cầu về lương thực, thực phẩm có xu hướng không co dãn bởi sự tiêu dùng của con người là có hạn, do đặc tính sinh học về tiêu dùng quy định. Sự co dãn thấp về giá chứng tỏ người tiêu dùng ít nhạy cảm đến sự thay đổi về giá nông sản. Do tính chậm về cung, lượng nông sản hàng hoá ít có sự thay đổi lớn khi mà giá có sự thay đổi. Điều đó có nghĩa là trong nông nghiệp nông dân ít có sự nhạy cảm với sự thay đổi giá nông sản hơn là trong công nghiệp, tình trạng này là do sản xuất nông nghiệp mang tính mùa vụ, nên việc thực hiện các quyết định sản xuất cần phải có thời gian. Sản lượng nông sản phụ thuộc vào quá trình sản xuất ra nó, chủng loại của nông sản rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, nông sản lại rất nhạy cảm với các yếu tố môi trường xung quanh nên rất dễ bị giảm phẩm cấp. Không những thế các nông sản thường khó bảo quản, cồng kềnh và khó vận chuyển nên các sản phẩm nông sản cần phải bán trong một thời gian ngắn. Đây là một hạn chế đối với người sản xuất vì họ không thể chờ cho giá lên cao rồi mới bán được mà họ phải phụ thuộc rất nhiều vào thị trường. 1.1.2 Đặc điểm, vị trí của người PNNT Đặc điểm Trong những năm qua, các tầng lớp phụ nữ nước ta nói chung và phụ nữ ở nông thôn nói riêng, phát huy truyền thống “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, đã đoàn kết, đổi mới sáng tạo trong lao động, công tác, đạt nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước, làm đẹp thêm những phẩm chất cao quý của phụ nữ Việt Nam : Yêu nước, thông minh, cần cù, nhẫn nại, nhân hậu … Tuy nhiên, trong khó khăn chung của đất nước, phụ nữ, đặc biệt là PNNT đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề. Một bộ phận đáng kể phụ nữ không có hoặc không đủ việc làm, thu nhập thấp, nhiều chị em còn phải làm việc trong các điều kiện nặng nhọc, độc hại. Sức khỏe phụ nữ nói chung giảm sút, nhiều trẻ em suy dinh dưỡng, không ít trường hợp ngay từ khi còn là bào thai.   Nhiều phụ nữ ở nông thôn, nhất là phụ nữ ở miền núi, vùng nông thôn hẻo lánh, mù chữ, tái mù chữ và học vấn thấp còn nhiều. Mức hưởng thụ văn hóa, văn nghệ thấp. Phụ nữ còn bị phân biệt đối xử dưới nhiều hình thức. Phụ nữ là nạn nhân của nhiều tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển như : Mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, mê tín dị đoan … Thực tế cho thấy, các hoạt động kinh tế của PNNT thường được thực hiện theo tập quán và kinh nghiệm truyền thống, chưa được đào tạo ngay cả kỹ năng nghề nông. Vì vậy, mặc dù công sức của chị em bỏ ra rất lớn nhưng sản lượng cây trồng, vật nuôi thu được rất thấp và dễ gặp rủi ro. Trong khi đó, hiệu quả sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với thu nhập, việc làm và đời sống của phụ nữ cũng như đối với cả gia đình họ. Do những đặc điểm đó mà hầu hết phụ nữ ở nông thôn gặp một số khó khăn nổi bật sau: 1) Về thu nhập: Nguồn thu nhập chính của PNNT là từ sản xuất nông-lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản. Những lĩnh vực sản xuất này thường rất vất vả và cho thu nhập rất thấp. Hơn nữa do không có kinh nghiệm làm ăn và thiếu vốn sản xuất nên nhiều chị em phụ nữ vẫn phải chấp nhận cuộc sống nghèo khó, thu nhập thấp hoặc phụ thuộc vào người chồng. Trong cái nghèo khổ chung, chị em là người chịu đựng cơ cực nhiều hơn vì bị ràng buộc bởi nhiều hủ tục lạc hậu. Ngoài những bữa ăn đạm bạc, đàn ông còn nhiều thú vui khác như uống rượu cần, hút thuốc hoặc vui thú hát hò nhưng với phụ nữ, ngoài bữa ăn no, họ không được hưởng thú vui nào hơn ngoài việc quanh năm, suốt tháng lo lắng cho gia đình, con cái. Thậm chí các chị còn không có thời gian và điều kiện để lo cho chính bản thân mình. 2) Về việc làm: Phụ nữ Việt Nam nếu trước kia chỉ phải làm các công việc nhà, chăm sóc gia đình, không phải lo kiếm tiền thì hiện nay các chị phải làm tất cả các công việc từ sản xuất kinh doanh, nuôi con, chăm lo gia đình, thậm chí còn làm cả công việc của nam giới như cày, bừa.... Hầu như các chị thường xuyên làm không hết việc, không có thời gian nghỉ ngơi… 3) Về quyền và lợi ích: Vì đời sống khó khăn nên phụ nữ nông dân không có thời gian nghỉ ngơi. Do nạn tảo hôn, nhiều phụ nữ phải đẻ sớm, đẻ nhiều và do đó sức khoẻ giảm sút. Nhiều nơi còn giữ những hủ tục lạc hậu như mẹ phải ăn cơm sau con trai, sinh con phải ở ngoài rừng, con sống hay chết là trách nhiệm của người mẹ... Chị em vẫn thường chấp nhận những hủ tục này như một điều hiển nhiên vì thiếu hiểu biết về luật pháp, thiếu nhận thức về bình đẳng. Khi được hỏi về quyền bình đẳng nam nữ, phần lớn chị em trả lời không biết là gì hoặc không trả lời. 4) Về trình độ văn hoá: Hiện nay ở nông thôn trình độ văn hoá của phụ nữ hầu hết còn rất thấp. Tuy tỷ lệ mù chữ còn ít nhưng trình độ học hết cấp 1 còn khá phổ biến, tỷ lệ học hết cấp 2 và cấp 3 có thể nói là hiếm có ở những vùng nông thôn đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu vùng xa. Nguyên nhân là do đa số họ là những phụ nữ sống từ thời chiến tranh nên không có điều kiện để học hành. Song song với đó là do những quan niệm cũ của thời phong kiến nên đã hạn chế rất nhiều đến trình độ học vấn của họ. Vai trò của phụ nữ trong nông nghiệp Hiện nay, Việt Nam có hơn 12 triệu nữ nông dân (Trung tâm thông tin, 2005) và chỉ riêng con số khổng lồ này cũng đủ để coi họ là một ưu tiên. Hầu như tất cả những người mới tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp đều là phụ nữ (ADB, 2005) và điều này có thể chỉ ra rằng trong tương lai, phụ nữ sẽ gánh vác trách nhiệm lớn hơn trong sản xuất nông nghiệp. Nhiều công việc đang được tiến hành để cung cấp dịch vụ cho nữ nông dân và 30% cán bộ khuyến nông là phụ nữ. Hộp 1.1: Vắn tắt về Phụ nữ trong nông nghiệp - Nam nông dân chiếm 40% tổng lực lượng lao động (18 - 64 tuổi) và nữ nông dân chiếm 49% tổng lực lượng lao động nữ. Ở nông thôn, 62% phụ nữ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và 87% phụ nữ dân tộc thiểu số làm nông nghiệp (NHTG 2006). - 92% lao động mới tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp trong thời gian từ năm 1993 đến năm 1998 là phụ nữ, trong khi số nam nông dân giảm dần (0,3% hàng năm) (ADB 2005). - Theo bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2005, 30% cán bộ khuyến nông là nữ giới. Một điều tra của viện KHXH Việt Nam cho thấy ít hơn một nửa nữ nông dân đã từng tham gia các lớp học khuyến nông (Viện KHXH Việt Nam 2006). Nguồn:Đánh giá tình hình giới ở Việt Nam (2006). WB, ADB, Vụ Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh và Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada. Với những đặc điểm và vị trí mà người phụ nữ Việt Nam đang có có thể cho ta thấy được những thay đổi to lớn của phụ nữ nông thôn hiện nay. Họ đang dần trở thành những bà chủ trong nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. 1.1.3 Yêu cầu nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho PNNT Thị trường là một trong những yếu tố quan trọng cơ bản trong chiến lược sinh kế của hầu hết các hộ nông dân trong đó có người phụ nữ, bất kể giàu hay nghèo. Thị trường là nơi mà người sản xuất nói chung và người người phụ nữ nói riêng mua các loại vật tư đầu vào và bán ra sản phẩm cây trồng, vật nuôi họ sản xuất được. Thị trường cũng là nơi người tiêu dùng mua lương thực, thực phẩm thiết yếu và các loại hàng hoá khác phục vụ cuộc sống của gia đình. Riêng trong nông nghiệp, mục tiêu của sản phẩm nông sản được sản xuất ra là đến được tay người tiêu dùng thông qua thương mại hoá. Và như vậy, thị trường được xem như một bước đi trung gian, để chuyển tải hàng hoá từ nhà sản xuất (người nông dân nói chung và người phụ nữ nói riêng), trực tiếp hoặc gián tiếp tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Và rất nhiều phụ nữ nhận ra rằng một trong những nguyên nhân làm cho họ khó có thể cải thiện và nâng cao mức sống của gia đình mình đó là: tiếp cận thị trường. Hậu quả đem lại của việc thiếu khả năng tiếp cận thị trường là: Các hộ nông dân không biết được nhu cầu của thị trường, sản xuất ra những mặt hàng không được thị trường chấp nhận. Thông tin trao đổi giữa các thị trường gặp nhiều trở ngại. Kết quả là, hầu hết các thị trường chỉ giới hạn trong khu vực địa phương, không thông thương.   Các hộ nông dân, phần lớn là người nghèo, thiếu thông tin về giá cả thị trường các vật tư và sản phẩm, nên gặp khó khăn chọn lựa đầu tư vào cây trồng vật nuôi có lợi nhất, dẫn đến việc phân bố nguồn lực không hiệu quả. Mặt khác, toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại mang lại nhiều cơ hội để nông dân trong đó có người phụ nữ kết nối với thị trường nhưng đồng thời cũng đem lại nhiều rủi ro do tính cạnh tranh cao, dao động bất thường của giá cả, và về lâu dài làm giảm giá của các mặt hàng nông sản. Hơn nữa, người nông dân cũng như người phụ nữ sản xuất nhỏ không chỉ phải cạnh tranh với các đối thủ lớn có tiềm lực vốn mà còn phải đối mặt với sự méo mó của thị trường do có sự can thiệp của Nhà nước. Lúc đó các mối quan hệ thương mại sẽ bị tác động bởi vô số người bán và người mua, và khi đó giá mua vật tư đầu vào và giá bán sản phẩm có sự thương thảo trong phạm vi rộng. Ngoài ra thông tin thị trường đem lại lợi ích bằng cách tăng khả năng cạnh tranh của các thị trường. Càng nhiều thông tin đến được với người mua và người bán hàng càng hạn chế được nguy cơ các nhà buôn hay Công ty lũng đoạn thị trường hoặc lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người phụ nữ để trục lợi. Việc cung cấp thông tin giá cả - thị trường chắc chắn sẽ làm tăng thu nhập của họ. Do là lực lượng sản xuất chính nên phụ nữ thường yêu cầu có các thông tin cần thiết về vật tư và sản phẩm nông nghiệp. Họ bị lẫn lộn về chất lượng sản phẩm, các loại cây trồng và vật nuôi khác nhau và họ không biết loại nào thì thích hợp với họ. Một số vấn đề phổ biến mà người phụ nữ thường đặt ra là: Có rất nhiều loại giống cây trồng khác nhau và tôi cần nhiều thông tin hơn để biết nên dùng loại nào. Có rất nhiều loại giống vật nuôi khác nhau và tôi cần nhiều thông tin hơn để biết nên dùng loại nào. Khi được giới thiệu về một loại phân bón mới, tôi cần có thông tin về việc sử dụng nó như thế nào Tôi mong muốn có nhiều và trực tiếp hơn về những thông tin đối với các cơ hội tín dụng Tôi gặp khó khăn khi phân biệt chất lượng vật tư tốt hay xấu và do vậy tôi cần nhiều thông tin hơn. Nếu có thông tin về việc tiêu thụ sản phẩm, nếu có cơ hội phát triển thị trường với một giá cả phù hợp thì người phụ nữ sẽ tập trung sản xuất mà không cần khuyến khích gì nhiều. Nếu tôi có nhiều thông tin về giá của những nông sản, thì tư thương sẽ không ép giá tôi được. Trước những bối cảnh và yêu cầu như trên thì việc nâng cao năng lực TCTT cho phụ nữ ở nông thôn là một việc làm cần thiết và quan trọng. Hiểu biết càng nhiều về thị trường thì người phụ nữ sẽ càng có nhiều cơ hội giảm giá đầu vào, tăng giá đầu ra góp phần cải thiện cuộc sống cho chính gia đình họ và tăng trưởng kinh tế của đất nước. 1.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực TCTT của PNNT 1) Trình độ lao động và khả năng tham gia phát triển kinh tế của phụ nữ: Nói đến chất lượng của lao động nữ không thể không xem đến trình độ văn hoá của họ. Nói chung, so với nam giới, phụ nữ thường có trình độ thấp hơn. Ở nông thôn, điều này càng rõ nét. Có những nguyên nhân kinh tế có những nguyên nhân thuộc về tâm lý xã hội. Tâm lý “trọng nam khinh nữ” tồn tại lâu đời khiến phụ nữ luôn chịu thiệt thòi về học vấn. Trong xã hội truyền thống, việc đào tạo và giáo dục kiến thức trước hết ưu tiên cho con trai, người sẽ kế thừa sản nghiệp và nối dõi tông đường. Nếu cho cả con gái và con trai đi học thì phần lớn học lên cao hơn vẫn là con trai. Tình trạng này thể hiện rõ nét ở tầng lớp nông dân trung niên trở lên. Với những phụ nữ nông thôn trẻ, thời kỳ tập thể hoá đã tạo cho họ nhiều cơ hội học vấn hơn, nhưng tình trạng học hết cấp 2 ở nhà làm ruộng vẫn là phổ biến. Sự chuyển đổi cơ chế, xoá bỏ bao cấp về giáo dục đồng thời với khó khăn trong tìm kiếm việc làm đã gây trở ngại lớn cho sự tiến bộ về học vấn của phụ nữ khu vực nông thôn trong những năm gần đây. Bên cạnh đó khoán 10 đã đưa các em gái lùi về trình độ học vấn thấp ở nhiều nơi. Con gái chỉ cần biết chữ, ở nhà giúp cha mẹ đẻ và khi đi lấy chồng lại trông nom công việc nhà chồng. Thực tế này đã trở thành một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc nhận thức về nền kinh tế thị trường và làm giảm năng lực tiếp cận thị trường của PNNT. 2) Thời gian: Ở nông thôn hầu hết phụ nữ đều rất bận rộn. Họ phải làm rất nhiều việc từ việc gia đình hằng ngày cho đến tham gia sản xuất. Những công việc này có lẽ đã chiếm hết tâm trí của họ nên việc tìm hiểu những thông tin về thị trường như giá cả đầu ra, đầu vào, nhu cầu của người mua sản phẩm là những việc làm không quan trọng. Họ cho rằng mua, bán theo số đông là được, do đó đã hạn chế rất lớn đến năng lực TCTT của họ. 3) Nguồn tài chính: Đây là một yếu tố thể hiện cho điều kiện kinh tế của gia đình người phụ nữ cũng như bản thân người phụ nữ. Nếu có kinh tế khá giả thì tần suất đi chợ cũng nhiều và việc nắm bắt những thông tin về giá cả, về nhu cầu cũng như các sản phẩm mới sẽ tốt hơn những phụ nữ ít đi chợ. Họ sẽ cảm thấy việc tìm hiểu những thông tin này là một việc làm có lợi cho việc mua hay bán một sản phẩm nào đó. Nên kinh phí là một yếu tố cũng ảnh hưởng khá nhiều tới năng lực TCTT của PNNT. 4) Môi trường thông tin kinh tế - xã hội: Môi trường kinh tế - xã hội như môi trường sống quanh khu vực sống của người phụ nữ, phong tục tập quán,… đều có ảnh hưởng tới năng lực TCTT của PNNT. Ví dụ nếu khu vực sống của người phụ nữ gần với các khu vực đông dân cư, có nhiều hàng quán, có chợ thì năng lực tiếp cận thị trường của họ sẽ tốt hơn rất nhiều so với những phụ nữ sống ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, thông tin không phát triển. 5) Cơ sở hạ tầng: Sự thiếu hụt phương tiện lưu thông dẫn đến thị trường sẽ làm giảm khả năng của người sản xuất trong việc mua bán hàng hoá, và kết quả là chi phí vận chuyển và chi phí giao dịch tăng cao. Chi phí vận chuyển cao cùng với trở ngại trong khâu bảo quản thường là nguyên nhân chính dẫn đến việc phụ nữ trong gia đình có xu hướng bán rau quả và nông sản dễ hư thối tại địa phương. Khoảng cách xa xôi tới thị trường với sự kém phát triển của hệ thống giao thông làm giảm sự lựa chọn của nông dân mà kết quả là giới hạn cơ hội thị trường, giảm giá bán tại chỗ và chi phí vật tư đầu vào tăng. Do vậy CSHT là một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp cận thị trường của nông dân nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng. Ngoài những yếu tố trên cũng còn nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến năng lực TCTT của người PNNT như nhu cầu tham gia thị trường của họ, tần suất ra khỏi địa phương hoặc vị trí của họ trong gia đình,… 1.2 Cơ sở thực tiễn nâng cao năng lực TCTT cho PNNT 1.2.1 Kinh nghiệm của nước đang phát triển về việc nâng cao năng lực TCTT nông sản cho PNNT. Hiện nay toàn cầu hoá đang diễn ra rất mạnh mẽ, bởi vậy học tập và áp dụng theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển là một yêu cầu cần phải thực hiện ngay. Và dưới đây là một bài báo nói về kinh nghiệm nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ của Uganda. Uganda là một nước nằm ở Đông Phi với diện tích: 236.040 km2 dân số: 30,2 triệu (2006). Nông nghiệp là lĩnh vực quan trọng của đất nước, thu hút trên 80% lực lượng lao động. Sản phẩm chính trong nông nghiệp là cà-phê, chè, ngô, chuối, đường. Ngoài ra, Uganda còn có thế mạnh về chăn nuôi gia súc và đánh bắt cá. Đây là một nước trước kia là thuộc địa của Anh và có nền kinh tế chưa thực sự phát triển. Phụ nữ ở đây trước cũng phải chịu nhiều phong tục và luật lệ hà khắc. Tuy nhiên hiện nay đất nước này đang có nhiều thay đổi đáng kể để phát triển đất nước, điển hình là việc đưa công nghệ cao về với phụ nữ nông thôn. Từ bài báo này ta có thể thấy đây là một kinh nghiệm rất hay và rất có triển vọng nhất là trong thời đại công nghệ thông tin ngày càng phát triển như hiện nay. Phụ nữ nông thôn Uganda tiếp cận công nghệ cao Trung tâm Nakaseke Telecentre, trụ sở nằm cách thủ đô Kampala của Uganda 50 km về phía bắc, vừa ra mắt CD-ROM tương tác dành cho phụ nữ ở khu vực nông thôn. Giờ đây, nhiều chị em nông dân đã trở thành những nhà nông giỏi nhờ sử dụng CD-ROM này. Điều phối viên của Telecentre, bà Rita Mijumbi, cho biết: “Trên Internet không có nhiều thông tin liên quan đến đời sống và tình hình sản xuất của nhà nông. Đó là lý do thúc đẩy chúng tôi cho ra đời CD-ROM này”. Đĩa CD đã đưa ra lời khuyên thực tế dành cho chị em nông dân về các biện pháp tăng sản lượng thu hoạch và quản lý tốt việc chăn nuôi. Nó còn nêu ra những ý tưởng về việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mới, cách hợp tác làm việc với bạn bè hay hàng xóm để có được nhiều thứ hơn ngoài những mảnh ruộng nhỏ. Theo bà Mijumbi, đa số nông dân Uganda có trình độ học vấn hạn chế, thậm chí có người còn không biết đọc. Vì thế CD-ROM này có cả lời, giúp họ nghe được.Khi lần đầu sử dụng máy tính, nhiều chị em sợ sẽ làm hỏng nên phải mất một thời gian khá dài họ mới làm quen được. Và đến nay, nhiều người đã là khách hàng thường xuyên của Telecentre và tỏ ra thích thú khi được biết nhiều về nghề nông.Kể từ khi được giới thiệu, CD này đã đem lại thành công lớn và cải thiện đáng kể mức sống của những người sử dụng nó. Một trong những “ngôi sao” của trung tâm Nakaseke là cụ Anastasia Namisango, 70 tuổi. “Tất cả những ý tưởng mà tôi có được là nhờ nó (CD-ROM). Tôi đã áp dụng nó thành công trong công việc của mình như trồng trọt và chăn nuôi gia súc”. Cụ tâm sự: “Trước đây tôi chỉ có 1 con gà và 1 con lợn. Nhưng khi đọc được trên CD-ROM về cách chăn nuôi, tôi quyết định làm theo và đến nay tôi đã có 20 con gà và 5 con lợn rồi đấy”. Cụ Namisango còn tự hào khoe: “Nhiều người đã rất khâm phục tôi, không chỉ thân nhân trong gia đình mà cả những người cùng làm với tôi”. Ngoài ra, Telecentre còn hướng dẫn nông dân cách định giá nông sản tốt hơn. Trước đây, họ thường phải dựa vào thông tin về giá cả từ những lái buôn. Nay tại trung tâm này, họ có thể theo dõi thông tin ở Kampala để từ đó xác định giá bán một cách phù hợp. Bà Rita Mijumbi cho biết lúc đầu các ông chồng của những người phụ nữ này không đồng ý cho vợ mình đến trung tâm vì sợ "mất thì giờ". Nhưng với những thành công hôm nay, họ đã thay đổi quan điểm của mình. “Khi phụ nữ trở về nhà, họ thường bàn luận về những ý tưởng mới và về CD-ROM. Giờ đây, chị em nông dân Uganda không còn phải phụ thuộc nhiều vào các đức ông chồng nữa, mà họ đã có thể làm chủ bản thân. Nguồn: Thanh Tú (theo BBC) ngày 07/03/2002 Truy cập tại Từ bài báo trên ta thấy được một thực tế đó là khả năng học tập và thực hành của người phụ nữ nói chung không thua kém gì so với nam giới và nhiều khi có phần trội hơn trong một số lĩnh vực như chăn nuôi, trồng trọt. Phụ nữ Việt Nam có nhiều nét khá giống với phụ nữ Uganda như trình độ học vấn chưa cao, chịu nhiều thiệt thòi do sống dưới một số hủ tục lạc hậu, tham gia sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Do vậy cách đưa những thông tin về giá cả, thời tiết, cách tăng sản lượng thu hoạch qua những đĩa CD - ROM có cả hình và tiếng là một sáng kiến độc đáo và hiệu quả cho phụ nữ ở nông thôn. Kinh nghiệm này có thể nói là rất phù hợp và nên được áp dụng rộng rãi ở nông thôn Việt Nam 1.2.2 Kinh nghiệm nâng cao năng lực TCTT nông sản ở nước ta. Khu vực nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam có vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Đây cũng là khu vực trọng điểm, quan trọng trong chiến lược giảm đói nghèo của quốc gia. Phát triển nông nghiệp đồng nghĩa với việc nâng cao đời sống người dân trong khu vực nông thôn. Trước kia khái niệm tiếp cận thị trường còn khá mới mẻ đối với nông dân nước ta. Tuy nhiên trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi nước ta gia nhập WTO thì những kiến thức về thị trường cho người nông dân mới dần được chú trọng. Thực tế ở nước ta cũng có rất nhiều bài học thất bại từ việc thiếu hiểu biết về thị trường của nông dân như vụ kiện nông dân bán phá giá cá tra, cá basa, thương hiệu cafe Trung Nguyên bị nước khác đăng ký bản quyền,…khiến cho nông dân của chúng ta bị thiệt hại rất nặng nề. Nhận thấy được tầm quan trọng của việc tiếp cận thị trường, trong nhiều năm qua ở nước ta đã có rất nhiều hoạt động cụ thể đã diễn ra nhằm nâng cao năng lực TCTT cho nhiều đối tượng như người nghèo, phụ nữ nghèo, nông dân, thanh niên,… Cụ thể: - Chính phủ Việt Nam đã ban h._.ành quyết định số 80/ 2002/ QĐ - TTg ngày 24/6/2002 về chính sách tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. Thông qua quyết định này, chính quyền địa phương ở các tỉnh đã chú trọng thúc đẩy sự liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân như đề ra chính sách liên kết bốn nhà, xây dựng và triển khai các đề án về tổ chức lại sản xuất, gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên phương thức sản xuất theo hợp đồng nhìn chung vẫn còn chưa phổ biến đối với đa số nông dân Việt Nam. - Năm 2007, Bộ NN và PTNT, Intel VN và chương trình PT Liên Hợp Quốc (UNDP) đã khởi xướng một kế hoạch nhằm phổ biến những thông tin về giá cả nông sản, thời tiết, các thông tin về thị trường nông sản trong nước và thế giới cũng như có thể tham khảo thông tin khoa học và công nghệ nông nghiệp tiên tiến trên thế giới. Để biết được những thông tin này nông dân sẽ phải đến các trung tâm thông tin cơ sở, nhân viên của các trung tâm này sẽ thông báo cho những người có nhu cầu và phát trên hệ thống truyền thông cộng đồng. Hiện kế hoạch này đang được triển khai ở 10 tỉnh trên cả nước với 13 bộ máy tính cá nhân cho 13 trung tâm thông tin nông thôn. - Cuối năm 2006 Quỹ PT nông nghiệp quốc tế (IFAD) đang chuẩn bị triển khai dự án “Cải thiện sự tham gia thị trường cho người nghèo” tại hai tỉnh Bến Tre và Cao Bằng, với số tiền cho vay 10 triệu USD và 5 triệu USD viện trợ không hoàn lại cho mỗi tỉnh. Ngoài ra, còn có vốn đối ứng của tỉnh và các khoản đóng góp của người dân. Dự án sẽ chọn những hộ nghèo dễ bị rủi ro, nhiều người trong gia đình thiếu việc làm, có tài sản ít ỏi; những phụ nữ và các hộ gia đình do phụ nữ làm chủ; tầng lớp thanh niên thiếu việc làm và người dân tộc; những hộ gia đình có tiềm năng sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, dự án sẽ hỗ trợ và nâng cao năng lực cho các Trung tâm dạy nghề để đào tạo nghề cho người nghèo, giúp họ tìm việc làm, cải thiện cuộc sống. Dự án sẽ được triển khai trong 5 năm, từ 2007 đến 2011. - Ngày 8/6/2008, tại Hà Nội, TW Hội Nông dân Việt Nam (NDVN) và Mạng lưới PT nguồn nhân lực châu Á (Asia DHRRA) đã tổ chức Diễn đàn khu vực và tập huấn gắn kết nông dân sản xuất nhỏ với thị trường do Quỹ ASEAN tài trợ. Đa số người nghèo ở ASEAN chính là người nông dân, họ cũng là những người sản xuất nhỏ. Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng tới họ như: chính sách, khí hậu, TCTT, chi phí cao, phải cạnh tranh với những lĩnh vực sản xuất lớn. Những người sản xuất nhỏ cần phải được cung cấp kiến thức, thông tin để đưa ra quyết định sản xuất cái gì, cho ai, như thế nào, bao nhiêu... đây là những yêu cầu quan trọng để người sản xuất nhỏ thu lợi. Họ cũng cần có các kỹ năng: tiêu thụ, maketing, đóng gói... Dự án Gắn kết người nông dân sản xuất nhỏ với thị trường do Quỹ ASEAN tài trợ, được triển khai tại Philippin, Campuchia, Việt Nam nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng cho lãnh đạo, cán bộ và nông dân của tổ chức nông dân trong tiếp cận thị trường. - Ngoài ra còn có Chương trình PT Nông thôn Miền núi Việt Nam - Thuỵ Điển (MRPD) tài trợ Mô hình Hệ thống Thông tin thị trường tiến hành từ tháng 6/1998 ở Tỉnh Phú Thọ diễn ra trên 3 huyện: Thanh Sơn (xã Địch Quả), huyện Đoan Hùng (xã Ngọc Quan), huyện Yên Lập (xã Xuân Thuỷ). Tại các xã này sẽ được đặt các bảng thông tin về: Giá cả thị trường vật tư, sản phẩm của vùng dự án và trung tâm tỉnh; Thông tin tình hình sản xuất và giá cả thị trường nông lâm sản trong nước và quốc tế; Dự báo thị trường trong nước và quốc tế. Các bảng này sẽ được đặt ở trung tâm của xã hoặc tại các chợ để nông dân có thể dễ dàng nắm bắt được để có hướng sản xuất phù hợp. Bên cạnh đó còn có một đội ngũ cán bộ chuyên đi thu thập và xử lý các thông tin về phản ứng của nông dân trước thị trường để có kế hoạch xử lý. Nhờ đó mà nông dân ở các khu vực này nắm bắt diễn biến giá cả thị trường, xu hướng biến động giá ở khu vực nơi họ sống và những vùng phụ cận. Và kết quả là họ phản ứng hiệu quả hơn với những diễn biến của thị trường, thông tin thị trường được cung cấp có thể được dùng như tín hiệu định hướng nông dân phát triển các loại cây, con đem lại lợi ích kinh tế, và hơn nữa còn giảm đi đáng kể hiện tượng tư thương ép giá nông dân. Tất cả những dự án, hoạt động trên đã và đang được áp dụng ở Việt Nam và cần phải được mở rộng hơn nữa để mọi nông dân, người nghèo, phụ nữ có thể tăng thêm thu nhập cho gia đình, cải thiện cuộc sống, hướng tới một nền sản xuất hàng hoá rộng lớn hơn. PHẦN 2 - ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Hải Nam 2.1.1 Đặc điểm tự nhiên 2.1.1.1 Vị trí địa lý, địa hình Hải Nam là một xã nằm ở phía đông bắc huyện Hải Hậu, cách trung tâm huyện khoảng 10 km. Vị trí của xã có tiếp giáp như sau: - Phía Bắc giáp huyện Xuân Trường. - Phía Nam giáp các xã : Hải Phúc, Hải Hà và Hải Thanh. - Phía Đông giáp huyện Giao Thủy. - Phía Tây giáp xã Hải Vân và xã Hải Hưng. Xã Hải Nam có diện tích rộng lớn với 16 thôn, cùng với hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh, có hai phía giáp với các huyện Giao Thuỷ và Xuân Trường, một phần của xã nằm trên trục đường 21 nên có nhiều điều kiện để PT kinh tế - xã hội, trao đổi hàng hoá, giao lưu buôn bán với các xã lân cận và các xã của huyện khác. Địa hình xã Hải Nam tương đối bằng phẳng. Đất đai phì nhiêu tạo điều kiện phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt và NTTS. 2.1.1.2 Khí hậu Hải Nam là một xã ven biển, chịu ảnh hưởng chung của vùng nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều. Mùa đông nhiệt độ xuống thấp lại ít mưa, mùa nóng kéo dài từ tháng 6 đến tháng 9 nhiệt độ cao và mưa nhiều. Hàng năm chia làm bốn mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). * Nhiệt độ: nhiệt độ trung bình hàng năm từ 230C – 240C. - Mùa đông nhiệt độ trung bình là 18,90C. - Mùa hè nhiệt độ trung bình là 270C. * Độ ẩm: Độ ẩm không khí tương đối cao, trung bình hàng năm từ 80 - 85%. * Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình trong năm từ 1700 - 1800 mm, lượng mưa phân bố không đều trong năm ảnh hưởng đến gieo trồng cây vụ đông và mưa sớm ảnh hưởng đến thu hoạch vụ chiêm xuân. * Nắng: Hàng năm trung bình có tới 250 ngày nắng, tổng số giờ nắng từ 1650 - 1700 giờ. Vụ hè thu có số giờ nắng cao khoảng 1100 - 1200 giờ, chiếm 70% số giờ nắng trong năm. * Gió: Hướng gió thịnh hành thay đổi theo mùa, tốc độ gió trung bình cả năm là 2 - 2,3 m/s. - Mùa đông hướng gió thịnh hành là gió Đông Bắc với tần suất 60 - 70%, tốc độ gió trung bình 2,4 - 2,6 m/s. Những tháng cuối mùa đông gió có xu hướng chuyển dần về phía Đông. - Mùa hè hướng gió thịnh hành là gió Đông Nam thổi từ biển về mang theo nhiều hơi nước, với tần suất 50 - 70%, tốc độ gió trung bình 1,9 - 2,2 m/s. * Bão: Do nằm trong vùng vịnh Bắc Bộ nên hàng năm thường chịu ảnh hưởng của bão hoặc áp thấp nhiệt đới, bình quân 4 - 6 trận/ năm. Nhìn chung khí hậu ở Hải Nam rất thuận lợi cho môi trường sống, sự phát triển của hệ sinh thái động, thực vật. Vì vậy đó cũng là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển sản xuất của ngành nông nghiệp. Cùng với điều kiện đất đai tương đối màu mỡ, ít bị ảnh hưởng chua mặn nên Hải Nam có thể trồng 3 - 4 vụ/ năm, NTTS cả nước ngọt lẫn nước mặn đều tốt. 2.1.1.3 Thuỷ văn, sông ngòi Hải Nam có hệ thống sông ngòi tương đối dày với hai con sông chính là sông Sò và sông Rộc. Hai con sông này có tổng chiều dài 6,3 km, là nguồn cung cấp nước chính cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Ngoài ra trong xã còn có hệ thống các kênh mương cấp II, cấp III phân bố đều trên địa bàn xã. Do tất cả hệ thống cây trồng của xã đều được cung cấp nước tưới vào vụ thông qua hệ thống các kênh thuỷ lợi nên rất hiếm xảy ra tình trạng khan hiếm nước cho cây trồng vào mùa khô. Tất cả các dòng chảy đều chảy theo hướng Bắc - Nam đổ ra biển. Nguồn nước mặt của xã rất dồi dào bởi mạng lưới sông ngòi và lượng nước mưa hàng năm. Ngoài ra còn có hệ thống ao hồ trong khu dân cư đủ cung cấp nước tưới cho cây trồng, vật nuôi và sinh hoạt của nhân dân 2.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội xã Hải Nam 2.1.2.1 Tình hình chung Là một xã nằm trong vùng có truyền thống thâm canh trong sản xuất nông nghiệp, với điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển đa dạng về cây trồng vật nuôi nên Hải Nam là một xã có nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong sản xuất. Năm 2008 tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,6%, giá trị tổng sản phẩm năm 2008 đạt 30,6 tỷ đồng. Cụ thể giá trị sản phẩm được thể hiện qua bảng sau Bảng 2.1: Giá trị sản phẩm của xã trong 3 năm (2006 - 2008) ĐVT: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2006 2007 2008 SL CC (%) SL CC (%) SL CC (%) Nông nghiệp 16,9 70,1 18,1 66,6 19,8 64,7 Công nghiệp- xây dựng 4,0 16,6 5,2 19,1 6,0 19,6 Dịch vụ-Thương mại 3,2 13,3 3,9 14,3 4,8 15,7 Tổng 24,1 100 27,2 100 30,6 100 Nguồn: Ban thống kê xã Hải Nam Qua bảng 2.1 ta thấy trong 3 năm nền kinh tế của xã có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp từ 70,1% năm 2006 xuống còn 64,7% năm 2008, tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và ngành dịch vụ. Tuy nhiên giá trị ngành nông nghiệp vẫn có xu hướng tăng, điều này chứng tỏ đã có sự tiến bộ trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp của nông dân trong xã. Giá trị ngành công nghiệp - xây dựng năm 2008 tăng 1,5 lần so với năm 2006. Hiện trên địa bàn xã vẫn chưa có khu công nghiệp. Tiểu thủ công nghiệp phát triển nhanh với quy mô nhỏ chủ yếu là các cơ sở sản xuất đồ mộc dân dụng và cơ khí nhỏ. Ngành dịch vụ - thương mại có xu hướng tăng nhanh với nhiều thành phần kinh tế, hàng hoá đa dạng, phong phú nhất là các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, vật tư phục vụ ngành trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng cơ bản. 2.1.2.2 Tình hình đất đai Nhìn vào bảng 2.2 ta thấy: Đến năm 2008 tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 774,21 ha, trong đó đất nông nghiệp là 580,86 ha chiếm 75,03%. Trong đất nông nghiệp thì đất canh tác có diện tích lớn nhất là 425,48 ha chiếm 73,25 %, đất vườn tạp có diện tích nhỏ nhất với 4,60 ha chiếm 0,79 %. Điều này chứng tỏ rằng nông nghiệp có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế của xã. Qua 3 năm tình hình đất đai của xã cũng có một số biến động. Cụ thể, trong tổng diện tích đất tự nhiên thì đất nông nghiệp có xu hướng giảm (bình quân giảm 0,07%), đất chưa sử dụng cũng đang giảm dần do nhu cầu về nhà ở và xây dựng một số công trình công cộng nên bình quân 3 năm giảm 7,52%, trong khi đó đất chuyên dùng và đất thổ cư lại có xu hướng tăng. Trong đất nông nghiệp thì chỉ có diện tích mặt nước NTTS có xu hướng tăng do một số hộ chuyển đổi đất trồng lúa sang đất NTTS (bình quân tăng 0,4%), còn lại diện tích các loại đất: đất canh tác, đất trồng cây lâu năm, đất vườn tạp đều có xu hướng giảm và giảm mạnh nhất là diện tích đất vườn tạp với 2,7% qua 3 năm. Vậy là đã có sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi của người dân trong xã. NTTS đã dần được một số người dân chú ý mở rộng thêm quy mô do nắm bắt được nhu cầu ngày càng cao về thuỷ, hải sản của con người đặc biệt là ở các thị trấn, thành phố. Bên cạnh đó, sự gia tăng dân số hằng năm đã tác động đến việc sử dụng đất do việc lấy đất để cấp cho những hộ mới phát sinh có nhu cầu đất ở và những hộ xin tách hộ xây dựng nhà ở. Việc phát triển kinh tế kéo theo phải xây dựng nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, các công trình công cộng, phúc lợi xã hội phục vụ đời sống dân sinh đã ảnh hưởng lớn đến quỹ đất. Chính điều này đã làm cho một số chỉ tiêu như bình quân đất nông nghiệp/ hộ nông nghiệp, bình quân đất canh tác/ khẩu nông nghiệp,… đều có xu hướng giảm. Như vậy để thực hiện được chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của xã, xã cần phải xem xét kỹ lưỡng việc khai thác, sử dụng quỹ đất một cách khoa học, hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả. Bảng 2.2: Tình hình sử dụng đất đai của xã Hải Nam Chỉ tiêu ĐVT Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tốc độ PT (%) SL CC (%) SL CC (%) SL CC (%) 07/06 08/07 BQ A - Tổng diện tích đất tự nhiên Ha 774,21 100 774,21 100 774,21 100 100 100 100 I - Đất nông nghiệp - 581,61 75,12 581,11 75,06 580,86 75,03 99,91 99,95 99,93 1. Đất canh tác - 426,64 73,35 425,88 73,28 425,48 73,25 99,82 99,90 99,86 2. Đất cây lâu năm - 44,88 7,71 44,88 7,72 44,71 7,70 100 96,62 98,30 3. Đất vườn tạp - 4,86 0,84 4,63 0,80 4,60 0,79 95,27 99,35 97,30 4. Diện tích mặt nước NTTS - 105,23 18,10 105,72 18,20 106,07 18,26 100,46 100,33 100,40 II - Đất chuyên dùng - 114,34 14,77 114,57 14,80 115,01 14,85 100,20 100,38 100,29 III - Đất thổ cư - 75,01 9,68 75,39 9,74 75,76 9,76 100,50 100,22 100,36 IV - Đất chưa sử dụng - 3,25 0,43 3,14 0,40 2,78 0,36 96,61 88,53 92,48 B - Một số chỉ tiêu bình quân 1. Bq đất canh tác/ hộ nn m2 2588,00 2547,00 2528,00 98,53 99,25 98,89 2. Bq đất canh tác/ khẩu nn - 574,60 570,00 568,00 99,20 99,65 99,42 3. Bq đất canh tác/ lao động nn - 1207,00 1210,57 1216,70 100,30 100,50 100,40 4. Bq đất nn/ hộ nn - 3525,00 3475,54 3451,00 98,60 99,30 98,95 5. Bq đất nn/ khẩu nn - 783,31 777,72 775,62 99,30 99,73 99,50 6. Bq đất nn/ lao động nn - 1646,68 1652,00 1661,00 100,32 100,54 100,43 Nguồn: Ban địa chính xã Hải Nam 2.1.2.3 Tình hình dân số, lao động Bảng 2.3 thể hiện tình hình dân số - lao động của xã trong 3 năm gần đây (2006 - 2008). Tính đến 31/12/2008, toàn xã có 2143 hộ với 8902 khẩu, tốc độ phát triển dân số của xã năm 2008 là 1,00%. Do nông nghiệp là ngành chủ đạo nên số hộ nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ khá cao, năm 2008 là 78,53% tương đương 1683 hộ nên số khẩu nông nghiệp cũng có tỷ lệ lớn. Mặc dù trong những năm gần đây chủ trương CNH nông thôn diễn ra khá mạnh nhưng số hộ thuần nông ở Hải Nam năm 2008 vẫn là 1427 hộ chiếm 84,79%. Qua 3 năm số hộ phi nông nghiệp có biến động khá mạnh ( bình quân tăng 3,67%) làm cho số khẩu phi nông nghiệp cũng tăng. Bên cạnh đó số hộ nông nghiệp cũng có xu hướng tăng nhưng không nhiều (0,99%). Về lao động trong xã: Từ năm 2006 đến năm 2008 số lao động tăng lên 79 người với tốc độ phát triển bình quân qua 3 năm là 0,83%. Điều này cho thấy lực lượng lao động trong toàn xã không có sự thay đổi nhiều và khá ổn định. Trong tổng số lao động thì lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn khá nhiều và đang giảm dần do có sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Nguồn lao động chủ yếu là lao động nông nghiệp do đó sau mùa vụ số lao động nông nhàn khá cao, tình trạng dư thừa sức lao động khá phổ biến, trong khi đó các ngành nghề khác thu hút sức lao động chưa thực sự phát triển mạnh. Bảng 2.3: Tình hình dân số - lao động xã Hải Nam Chỉ tiêu ĐVT Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tốc độ PT (%) SL CC (%) SL CC (%) SL CC (%) 07/06 08/07 BQ I. Tổng số hộ Hộ 2078 100 2115 100 2143 100 101,78 101,32 101,55 1. Hộ nông nghiệp - 1650 79,40 1672 79,05 1683 78,53 101,33 100,66 100,99 - Hộ thuần nông - 1402 84,97 1420 84,93 1427 84,79 101,28 100,49 100,88 - Hộ nn kiêm ngành nghề dịch vụ - 248 15,03 252 15,07 256 25,21 101,61 101,58 101,59 2. Hộ phi nông nghiệp - 428 20,60 443 20,95 460 21,47 103,50 103,84 103,67 II. Tổng số nhân khẩu người 8761 100 8846 100 8902 100 100,97 100,63 100,80 1. Khẩu nông nghiệp - 7425 84,75 7472 84,46 7489 84,13 100,63 100,23 100,43 2. Khẩu phi nông nghiệp - 1336 15,25 1374 15,54 1413 25,87 102,84 102,84 102,84 III. Tổng lao động Lđ 4722 100 4778 100 4801 100 101,18 100,48 100,83 1. Lao động nông nghiệp - 3532 74,80 3518 73,63 3497 72,84 99,60 99,40 99,50 - Lao động thuần nông - 3084 87,31 3032 86,18 3002 85,80 98,31 99,01 98,66 - Lđ kiêm ngành nghề dịch vụ - 448 13,69 486 13,82 495 14,20 108,48 101,85 105,11 2. Lao động phi nông nghiệp - 1190 25,20 1260 26,37 1304 27,16 105,88 103,49 104,68 IV. Một số chỉ tiêu bình quân 1. Bq lao động nn/ hộ nn Lđ 2,14 2,10 2,07 98,13 98,57 98,35 2. Bq khẩu nn/ hộ nn - 4,50 4,47 4,45 99,33 99,55 99,44 Nguồn: Ban thống kê xã Hải Nam 2.1.2.4 Tình hình cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp của xã Trong những năm gần đây với chủ trương CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước ta nên tình hình phát triển CSHT ở khu vực nông thôn có nhiều bước cải thiện rõ rệt. Qua bảng 2.4 ta thấy tình hình phát triển CSHT ở Hải Nam cũng khá tốt. Về đường giao thông: Đến năm 2008 toàn bộ hệ thống đường bao gồm cả đường trục và đường dong với tổng chiều dài 17,1 km đã được bê tông hoá do nhân dân đóng góp kinh phí để xây dựng nên. Chính vì vậy mà việc đi lại, giao lưu buôn bán với các địa phương khác diễn ra rất thuận lợi. Hiện xã có 11,8 km đường quốc lộ chạy qua nhưng phần lớn lại chạy qua những cánh đồng của nhân dân trong xã nên nhân dân chưa có điều kiện thuận lợi để phát triển dịch vụ. Về hệ thống chợ: Chợ còn là một khó khăn rất lớn đối với Hải Nam bởi trong rất nhiều năm qua nhân dân trong xã vẫn chưa có chợ cho riêng mình. Họ phải sang những xã lân cận như Hải Vân, Hải Hưng để mua bán, trao đổi hàng hoá. Điều này đã hạn chế lớn đến việc tiếp cận thị trường của nhiều phụ nữ trong xã do tâm lý ngại đi xa hoặc không có phương tiện đi lại. Về HTX dịch vụ: Trên địa bàn xã hiện có 3 HTX dịch vụ đang được duy trì và hoạt động rất tốt. Ban chủ nhiệm HTX thường xuyên cung cấp vật tư nông nghiệp cho nông dân trong xã với hình thức bán chịu đến mùa thu hoạch. Ngoài ra thì các hệ thống điện, các trường mẫu giáo, cấp I, cấp II,… đều được cán bộ và nhân dân trong xã quan tâm đầu tư và nâng cấp như: 100% số dân trong xã được sử dụng điện, 100% số trẻ em được đi học, trạm bơm được duy trì hoạt động và hoạt động rất tốt,… Bảng 2.4: Tình hình CSHT của xã Hải Nam trong 3 năm (2006 - 2008) Chỉ tiêu ĐVT 2006 2007 2008 1. Đường giao thông Km 25,8 27,1 28,9 - Đường quốc lộ Km 11,8 11,8 11,8 - Đường bê tông Km 14,0 15,3 17,1 2. Thuỷ lợi - Máy bơm nước Máy 4 4 5 3. Điện - Trạm biến áp lớn nhỏ Trạm 3 3 3 - Tỷ lệ hộ dùng điện % 100 100 100 4. HTX dịch vụ HTX 3 3 3 5. Các công trình phúc lợi - Trường mẫu giáo Trường 5 5 5 - Trường tiểu học Trường 3 3 3 - Trường THCS Trường 2 2 2 - Trạm y tế Trạm 1 1 1 - Chợ Cái 0 0 0 Nguồn: Ban thống kê xã Hải Nam 2.1.2.5 Nhận xét chung *) Lợi thế: Lợi thế của xã Hải Nam là có địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ. Là một xã nằm trong vùng có truyền thống thâm canh nông nghiệp, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp. Hải Nam có nguồn lao động khá dồi dào, ngành nghề thủ công, dịch vụ thương mại đang trên đà phát triển. *) Hạn chế: Hải Nam có mật độ dân số đông, diện tích đất canh tác bình quân trên đầu người còn thấp, nhân dân sống chủ yếu bằng nghề nông, cây lúa vẫn là chủ đạo, công nghiệp - dịch vụ còn yếu. Đời sống nhân dân chưa cao, lao động dư thừa khi hết thời vụ còn nhiều, bố trí sắp xếp công ăn việc làm còn gặp nhiều khó khăn. 2.2 Phương pháp nghiên cứu 2.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu, chọn mẫu điều tra - Điểm nghiên cứu: Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên toàn địa bàn xã Hải Nam. - Mẫu điều tra: Đề tài tiến hành điều tra 60 phụ nữ đại diện cho 60 hộ trong xã, những phụ nữ này có thể là chủ hộ trong gia đình hoặc không phải là chủ hộ. 60 hộ này đều là những hộ thuần nông, 40 hộ trồng lúa và 20 hộ NTTS. Căn cứ vào tiêu chí đánh giá giàu nghèo và kết quả báo cáo về tỷ lệ giàu nghèo của xã năm 2008 (10% hộ nghèo, 40% hộ TB, 30% hộ khá, 20% hộ giàu) để tiến hành phân loại hộ và điều tra. Cụ thể: +) 6 hộ nghèo trong đó 4 hộ trồng lúa, 2 hộ NTTS +) 24 hộ TB trong đó 16 hộ trồng lúa, 8 hộ NTTS +) 18 hộ khá trong đó 12 hộ trồng lúa, 6 hộ NTTS +) 12 hộ giàu trong đó 8 hộ trồng lúa, 4 hộ NTTS 2.2.2 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu - Số liệu thứ cấp: Tài liệu thứ cấp được thu thập từ các phòng, ban của xã; các báo cáo tổng kết kinh tế - xã hội của địa phương trong các năm gần đây; các tài liệu giới thiệu chung về địa phương (điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, dân số, đất đai,…) - Số liệu sơ cấp + Điều tra phỏng vấn hộ bằng bộ câu hỏi soạn thảo sẵn + Phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với những đối tượng được hỏi 2.2.3 Phương pháp xử lý số liệu Số liệu thu thập được sẽ được xử lý qua phương tiện chủ yếu là máy tính bỏ túi 2.2.4 Phương pháp phân tích - Phương pháp thống kê mô tả: mô tả lại dựa vào những gì đã quan sát được về điều kiện tự nhiên, CSHT, con người ở xã Hải Nam - Sử dụng bộ công cụ của PRA : xây dựng lịch làm việc, phương pháp cho điểm để xếp hạng vấn đề, bảng ma trận SWOT để đánh giá thực trạng TCTT của phụ nữ nông thôn xã Hải Nam. - Phương pháp chuyên gia: tham vấn ý kiến của các bên liên quan như: hội phụ nữ, hội nông dân, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm HTX, các trưởng thôn, các kỹ thuật viên trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản,... 2.2.5 Phương pháp so sánh - So sánh năng lực TCTT của phụ nữ trong hộ trồng lúa với hộ NTTS - So sánh năng lực TCTT của phụ nữ giữa các loại hộ: hộ giàu, hộ khá, hộ TB, hộ nghèo. 2.2.6 Phương pháp tổng hợp Sau khi số liệu điều tra, thu thập xong kết hợp với thông tin phỏng vấn trực tiếp sẽ tiến hành tổng hợp và phân tích. Từ đó rút ra những kết luận về thực trạng TCTT của phụ nữ Hải Nam. PHẦN 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1 Thông tin chung về phụ nữ nông thôn xã Hải Nam Hải Nam là một xã thuần nông và có truyền thống sản xuất nông nghiệp với tổng số dân năm 2008 là 8902 người với cơ cấu giới tính như sau: Bảng 3.1: Số lượng và cơ cấu về giới tính của xã Hải Nam năm 2008 Chỉ tiêu ĐVT Số lượng Cơ cấu (%) Tổng Người 8902 100 Nam Người 4237 47,6 Nữ Người 4665 52,4 Nguồn: Ban thống kê xã Hải Nam Nhìn vào bảng 3.1 ta thấy ở Hải Nam có tỷ lệ về giới tính khá đều (chênh lệch nhau 4,8% tương đương 428 người), trong đó nữ có tỷ lệ cao hơn nam.Đây chính là một lợi thế cho việc thực hiện nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho PNNT của xã Hải Nam. Bảng 3.2 : Số lượng và cơ cấu lao động phân theo giới tính xã Hải Nam Chỉ tiêu ĐVT Số lượng Cơ cấu (%) Tổng lao động Người 4801 100 Lao động nam Người 2189 45,6 Lao động nữ Người 2612 54,4 Nguồn: Ban thống kê xã Hải Nam Bảng 3.2 cho ta thấy số lao động phân theo giới tính của xã Hải Nam có sự chênh lệch khá lớn. Số lao động nữ chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số lao động chiếm 54,4%, trong khi đó số lao động nam chỉ chiếm 45,6%. Sự chênh lệch này chứng tỏ rằng Hải Nam có nguồn lao động nữ rất dồi dào - một lực lượng quan trọng trong lĩnh vực nông nghiệp hiện nay. Đây chính là một điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp và nâng cao năng lực TCTT cho phụ nữ nông thôn ở Hải Nam bởi vì phụ nữ là đối tượng chính tham gia sản xuất nông nghiệp ở nông thôn hiện nay. Bảng 3.3: Tuổi tác của PNNT xã Hải Nam năm 2008 Độ tuổi ĐVT Số lượng Cơ cấu 18 - 30 Người 617 29,7 30 - 45 - 928 44,6 45 - 60 - 535 25,7 Tổng - 2080 100 Nguồn: Hội LHPN xã Hải Nam Như vậy tuổi tác của phụ nữ Hải Nam đa số là nằm trong độ tuổi trung niên từ 30 - 45 tuổi chiếm 44,6%, độ tuổi 18 - 30 chiếm 29,7%, độ tuổi 45 - 60 chiếm 25,7%. Phụ nữ trung niên thường đã có phần nào kinh nghiệm, trưởng thành hơn so với phụ nữ độ tuổi 18 - 30 nên năng lực TCTT của họ sẽ tốt hơn. Tuy nhiên đây lại là những phụ nữ đã từng được sống ở thời bao cấp, họ vẫn chịu những thiệt thòi nhất định trong việc nâng cao trình độ học vấn. Nên mặc dù có nhiều kinh nghiệm nhưng vẫn chưa được tiếp cận nhiều với nền sản xuất hàng hoá. Bên cạnh đó ở Hải Nam đang có 29,7% số phụ nữ nằm trong độ tuổi từ 18 - 30. Đây là tầng lớp phụ nữ mới được sinh ra trong thời đại mới nên được chú trọng học hành hơn, được tiếp xúc với nhiều cái mới, nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật hơn (có thể ở mức thấp). Do đó họ cũng có nhiều lợi thế khi tham gia vào các thị trường và tiếp cận thị trường có ưu thế hơn. Bảng 3.4: Trình độ học vấn của phụ nữ xã Hải Nam năm 2008 Trình độ học vấn ĐVT Số lượng Cơ cấu Mù chữ + Tiểu học Người 341 16,4 Trung học cơ cở - 1011 48,6 Trung học phổ thông - 510 24,5 Trên trung học phổ thông - 218 10,5 Tổng - 2080 100 Nguồn: Hội LHPN xã Hải Nam Nhìn vào bảng 3.4 ta thấy học vấn của phụ nữ Hải Nam vẫn chưa thực sự cao. Số phụ nữ ở trình độ trung học cơ sở là phổ biến với 48,6 % tương đương với 1011 người. Bên cạnh đó số phụ nữ mù chữ và tiểu học còn chiếm tỷ lệ khá cao (16,4%) so với nền kinh tế - xã hội hiện nay. Những phụ nữ bị mù chữ và học hết tiểu học này hầu hết đều nằm trong độ tuổi từ 50 - 60, sống ở thời chiến tranh cộng với những hủ tục phong kiến lạc hậu nên không được học hành nhiều. Đây là một trở ngại rất lớn cho việc nâng cao năng lực TCTT cho PNNT ở Hải Nam. Tuy nhiên số phụ nữ có trình độ học hết trung học phổ thông cũng không phải là một con số nhỏ với 24,5%. Đây là một điều đáng mừng đánh dấu sự thay đổi về trình độ học vấn của phụ nữ ở nông thôn. Bên cạnh đó số phụ nữ có trình độ trên trung học phổ thông chỉ chiếm 10,5%, chủ yếu là những phụ nữ tham gia công tác xã hội như giáo viên cấp 1, cấp 2 và những phụ nữ này hầu như không tham gia vào việc sản xuất nông nghiệp. Điều này có nghĩa là phụ nữ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và trình độ còn thấp còn chiếm phần lớn ở Hải Nam. Như vậy để nâng cao được năng lực TCTT cho phụ nữ ở Hải Nam cần phải chú ý đến khía cạnh này để có phương pháp phù hợp. Hải Nam là một xã thuần nông, các nghề phụ hầu như rất ít. Để có thêm thu nhập cho gia đình mình có đến 70% đàn ông trong các gia đình ở Hải Nam hầu hết đều lên thành phố hoặc các tỉnh lân cận như Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình để làm thuê, chạy xe ôm, phụ hồ, thợ nề,….Do vậy trong gia đình phụ nữ Hải Nam chính là người quyết định mọi công việc từ phương hướng sản xuất, cách thức sản xuất, mua - bán sản phẩm,….nên việc tham gia các thị trường đầu ra hay đầu vào đều có mặt của đa số phụ nữ. Chính vì vậy, người vợ trở thành người lao động chính trong sản xuất nông nghiệp và là người quyết định trồng loại cây gì, nuôi con gì, mua vật tư, công cụ sản xuất gì hoặc bán sản phẩm ra sao, số lượng là bao nhiêu. Đây là một điều rất thuận lợi cho việc nâng cao năng lực TCTT cho PNNT xã Hải Nam. 3.2 Thực trạng tiếp cận thị trường của PNNT xã Hải Nam Ở nông thôn đa số phụ nữ đều tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi. Do vậy họ sẽ được tiếp cận với rất nhiều loại thị trường. Nắm rõ về thị trường mình tham gia sẽ giúp cho người sản xuất kinh doanh có hướng đi phù hợp với điều kiện của mình để có thể đạt được kết quả cao nhất. Nhìn chung PNNT ở Hải Nam tiếp cận chủ yếu với hai loại thị trường chính là thị trường các yếu tố đầu vào và thị trường các yếu tố đầu ra (thị trường tiêu thụ sản phẩm). Vậy những PNNT xã Hải Nam đang tiếp cận ở mức độ nào và năng lực tiếp cận ra sao trong các loại thị trường ? 3.2.1 Tiếp cận thị trường các yếu tố đầu vào Đầu vào là những yếu tố mà người sản xuất đầu tư vào trong quá trình sản xuất để thu được lợi nhuận. Do vậy người sản xuất cần phải cân nhắc, lựa chọn những yếu tố này sao cho chi phí đầu vào phải nhỏ nhất nhưng lại đem đến hiệu quả cao nhất. Trồng lúa và NTTS là hai thế mạnh ở Hải Nam nên thị trường các yếu tố đầu vào đối với họ chủ yếu là: thị trường vật tư nông nghiệp như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, đặc biệt là việc tiếp cận nguồn vốn của họ - một yếu tố rất quan trọng trong các yếu tố đầu vào. 3.2.1.1 Tiếp cận nguồn vốn Ở Hải Nam các hộ có thể tiếp cận vốn từ nhiều nguồn khác nhau như từ Ngân hàng NN & PTNT, Ngân hàng CSXH, hội nông dân, hội phụ nữ,… hay từ các nguồn vay không chính thống như vay bạn bè, hàng xóm, vay tư nhân, hội, phường,…Hình thức vay và số lượng vay còn phụ thuộc vào điều kiện của gia đình và mục đích sản xuất. Do nam giới trong gia đình thường xuyên vắng mặt nên việc tìm nguồn vay, làm thủ tục vay vốn, phân phối mục đích sử dụng vốn vay hầu hết đều do người phụ nữ đứng ra lo liệu. Bảng 3.5: Tình hình tiếp cận vốn của phụ nữ Hải Nam Nguồn vốn vay Hộ giàu Hộ khá Hộ TB Hộ nghèo SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) SL (hộ) CC (%) Ngân hàng NN & PTNT 10 83,3 13 72,2 15 62,5 2 33,3 Ngân hàng CSXH - - 3 16,7 20 83,3 6 100 Hội phụ nữ 3 25,0 5 41,7 18 75,0 6 100 Họ hàng/ bạn bè 4 33,3 15 83,3 16 66,7 4 66,7 Tư nhân 7 58,3 16 88,9 19 79,2 6 100 Hội/ phường 12 100 18 100 24 100 6 100 Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra Từ bảng 3.5 ta có thể thấy rằng những phụ nữ nông thôn ở Hải Nam đã tiếp cận nguồn vốn rất tốt thông qua nhiều hình thức khác nhau. Trong các hình thức thì tham gia hội/ phường là hình thức phổ biến hiện nay và lôi kéo nhiều chị em phụ nữ tham gia (100% số phụ nữ được hỏi). Đây là hình thức các thành viên góp vốn cho một thành viên và thành viên đó sẽ trả dần số tiền đó trong một khoảng thời gian. Với hình thức này đã giúp cho nhiều gia đình có một số vốn lớn để phát triển kinh tế và có thời gian xoay xở. Số phụ nữ tiếp cận được với nguồn vay của Ngân hàng NN & PTNT chỉ tập trung nhiều ở hộ giàu và hộ khá do hình thức vay này đòi hỏi phải có điều kiện thế chấp cao và thủ tục khá phức tạp. Bởi vậy những phụ nữ ở hộ TB và hộ nghèo chọn cách tiếp cận nguồn vốn thông qua Ngân hàng CSXH với lãi suất ưu đãi và thủ tục đơn giản hơn. Tuy nhiên khi tiếp cận với các nguồn vốn chính thống như Ngân hàng NN & PTNT, Ngân hàng CSXH đòi hỏi phải có chủ hộ đứng tên vay vốn nên những phụ nữ muốn vay vốn phải có sự ủy quyền của chủ hộ là người chồng, dẫn đến nhiều chị em thấy ngại khi phải thực hiện những thủ tục rườm rà đó. Bên cạnh đó nguồn vay tư nhân cũng được nhiều phụ nữ tiếp cận. Đây là hình thức vay phi chính thống, không đòi hỏi thủ tục, không hạn chế số lượng vay, thời gian vay linh động nhưng lãi suất cao hơn lãi suất Ngân hàng. Khi tiếp cận hình thức vay này chị em phụ nữ phải tự tìm nơi có thể cho mình vay, phải tính toán, cân nhắc mục đích sử dụng vốn thật tốt. Ngoài những hình thức tiếp cận với nguồn vốn trên PNNT ở Hải Nam còn tiếp cận được với các hình thức khác như: vay vốn từ hội Phụ nữ (thông qua dự án Việt - Bỉ, đây là dự án được tài trợ bởi Vương quốc Bỉ được thực hiện từ năm 1997 đến nay nhằm hỗ trợ vốn sản xuất cho phụ nữ nghèo), qua hàng xóm, bạn bè thân qu._.ớp học này vẫn chưa chú trọng đến đối tượng quan trọng ở nông thôn là phụ nữ nên chưa nhận được sự hưởng ứng nhiều của các chị em trong xã. Bên cạnh đó tuy có một số lớp học đã chú trọng đến đối tượng tham gia là phụ nữ nông thôn nhưng lại không bố trí thời gian tập huấn hợp lý khiến cho nhiều chị em muốn tham gia nhưng lại bị hạn chế về thời gian. Một điều quan trọng nữa là hầu hết các lớp tập huấn đều chú trọng nhiêu đến các vấn đề về kỹ thuật nên không thu hút được chị em. Chính những điều này đã ảnh hưởng đến lòng tự tin của phụ nữ khi tham gia các hoạt động xã hội khiến cho cơ hội tiếp cận thị trường của họ bị giảm đi. 3.4.2 Các yếu tố chủ quan - Trình độ học vấn của người phụ nữ Đây là yếu tố có tính chất quyết định tới năng lực tiếp cận thị trường của mỗi phụ nữ. Như chúng ta đã biết phụ nữ Hải Nam có trình độ học vấn còn ở mức độ thấp, khả năng tính toán mới chỉ dừng lại ở mức độ đơn giản hoặc không quá phức tạp. Số phụ nữ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, kể cả trồng lúa và NTTS có trình độ cao hầu như không có. Thực tế này là một khó khăn rất lớn trong việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ nông thôn Hải Nam. - Tâm lý của người phụ nữ Do phụ nữ Hải Nam hầu hết đều tham gia vào hoạt động sản xuất của gia đình nên họ rất quen thuộc với những công việc mua bán như giống, phân bón, thức ăn,....Đây là những công việc gần như thành thói quen trong mỗi vụ sản xuất. Bởi vậy ở phụ nữ nông thôn Hải Nam không hề xuất hiện tâm lý ngại ngùng, e dè khi tham gia hoạt động nào liên quan đến thị trường. Tuy nhiên đối với các hoạt động xã hội như tham gia lớp tập huấn về kỹ thuật mới thì vẫn còn một số phụ nữ không muốn tham gia vì họ tự ti về trình độ của mình. - Vị trí trong gia đình Việc xác định vị trí trong gia đình cũng là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ. Nếu trong gia đình người phụ nữ là người cầm chìa khoá, có kế hoạch chi tiêu thì họ sẽ có năng lực TCTT tốt hơn những phụ nữ có chồng nắm giữ kinh tế trong gia đình. Khi đó người phụ nữ cầm chìa khoá sẽ chủ động tiếp cận mà không phải phụ thuộc quá nhiều vào người chồng. Ở nông thôn hiện nay vẫn còn có trường hợp người vợ không bao giờ đi chợ và không biết đếm tiền. Tuy nhiên ở Hải Nam hiện tượng này đã không còn nữa và người phụ nữ đã chủ động hơn rất nhiều. PHẦN 4: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN Xà HẢI NAM 4.1 Những giải pháp để nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho nông dân Việt Nam Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và công nghệ : CSHT giao thông, liên lạc và thị trường có vai trò quan trọng trong quá trình thu mua, trao đổi hàng hoá. Phát triển hệ thống giao thông vận tải có thể làm tăng lượng người tham gia vào thị trường, rút ngắn thời gian vận chuyển và làm giảm chi phí sản xuất cho người sản xuất. Phát triển hệ thống thông tin liên lạc có thể làm tăng sức mạnh liên lạc của nông dân do giảm sai lệch thông tin hai chiều, giảm chi phí và rủi ro do sai lệch thông tin mang lại. Phát triển thiết bị công nghệ, đặc biệt là công nghệ sau thu hoạch nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật sẽ làm cho vị thế của nông dân trong chuỗi sản xuất ngày càng được nâng cao. Phát triển hệ thống thông tin thị trường: Một hệ thống cung cấp thông tin thị trường hiệu quả có thể làm giảm chi phí giao dịch và góp phần giảm thiểu rủi ro sản xuất cho nông dân. Việc cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, với những dự đoán, định hướng xu hướng tiêu dùng sẽ giúp cho từng nông dân quyết định chính xác quy mô sản xuất, chủng loại hàng hoá và thoả mãn các yêu cầu kỹ thuật liên quan. Thông tin về giá cả hàng hoá cũng giúp nông dân tăng khả năng mặc cả của chính họ trên thương trường. Một trong những con đường được xem là rất nhanh và rất hữu hiệu để phát triển thông tin thị trường cho người dân chính là tăng cường phổ biến thông tin hữu ích đến nông dân, nông thôn qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Những năm gần đây, báo chí nước ta phát triển nhanh, không ngừng được cải tiến về nhiều mặt, ngày càng bám sát cuộc sống để phản ánh, phân tích, nghị luận, định hướng dư luận và phục vụ thiết thực cho sự phát triển đất nước. Nhờ đó, ngày càng có nhiều thông tin hữu ích như: các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; những tiến bộ kỹ thuật trong canh tác nông, lâm, ngư nghiệp; kiến thức về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, giữ gìn vệ sinh môi trường, mua sắm, tiêu dùng... được chuyển tải đến nông dân - nông thôn, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cả vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên do một bộ phận nông dân còn hạn chế về trình độ học vấn, dẫn đến nhận thức hạn chế, không tận dụng được các nguồn thông tin; do điều kiện khó khăn, không có đủ sách báo, phương tiện nghe nhìn để nắm thông tin; do không có cán bộ hướng dẫn khai thác sử dụng các thông tin hữu ích phục vụ sản xuất, đời sống; cũng có trường hợp do vùng sâu vùng xa, phương tiện giao thông đi lại khó khăn nên “đói” thông tin... Những nguyên nhân đó khiến nhiều nông dân, nhiều vùng nông thôn rơi vào tình trạng “đói” thông tin, khó phát triển nhanh, tiếp tục tạo ra sự cách biệt ngày càng lớn giữa nông thôn và thành thị. Bởi vậy để khắc phục tình trạng này mỗi địa phương cần phải có những giải pháp cụ thể nhằm đưa thông tin về tận nơi cho nông dân như: hình thành các điểm đọc sách báo và giao cho các tổ chức như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh...ở mỗi xã phụ trách. Nguồn sách báo sẽ do ngân sách đầu tư, do nông dân tự nguyện đóng góp để mua trực tiếp ít nhất 3-5 loại báo thật cần thiết; Tại mỗi điểm nêu trên, nếu có điều kiện nên trang bị máy vi tính và nối mạng internet để nông dân có thể khai thác thông tin kinh tế, chính trị, giáo dục, kỹ thuật nông nghiệp, pháp luật... Có thể cho tư nhân cộng tác khai thác các dịch vụ trên cơ sở qui định giá dịch vụ hợp lý và thống nhất quan điểm là: nội dung phải đảm bảo mục tiêu nâng cao trình độ nông dân, nhất là về kiến thức khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế. Mỗi điểm đọc sách báo, khai thác thông tin trên internet nêu trên cũng có thể là nơi sinh hoạt khoa học kỹ thuật, giúp nông dân có điều kiện trao đổi thông tin trong sản xuất, đời sống. Phát triển các mối quan hệ thị trường theo chiều dọc: Quan điểm thương trường là chiến trường vẫn luôn luôn tồn tại. Tuy nhiên cải thiện và phát triển mối quan hệ giữa nông dân và đối tượng trung gian trong chuỗi giá trị sẽ phần nào làm giảm sự khắc nghiệt của cạnh trạnh trên thị trường, làm chuyển hướng cạnh tranh để tồn tại thành cạnh tranh để phát triển. Trong thị trường nông sản, mối quan hệ này được thể hiện bằng sự hợp tác giữa nông dân với thương lái; nông dân với nhà máy, cơ sở chế biến thông qua giao kèo hoặc hợp đồng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên mối quan hệ này chỉ thực hiện tốt được với những người sản xuất lớn vì họ có thể đảm bảo được sản lượng đầu vào theo yêu cầu, giảm chi phí vận chuyển và chi phí quản lý đồng thời thuận tiện cho quá trình truy nguyên nguồn gốc sản phẩm khi cần. Do vậy những hộ nông dân sản xuất đơn lẻ sẽ gặp khó khăn trong mối quan hệ này. Thay vào đó sự kết hợp giữa các hộ sản xuất đơn lẻ với các cơ sở sản xuất chế biến thông qua hợp đồng bao tiêu sản phẩm có thể làm tăng lợi nhuận cho cả hai phía đối tác. Hợp đồng bao tiêu sản phẩm có thể là một trong những phương thức hiệu quả giúp nông dân kết nối với thị trường bất kể sản phẩm họ làm ra phục vụ cho thị trường nội địa hay xuất khẩu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các loại hợp đồng này dường như không phát triển nhiều ở thị trường các nước đang phát triển do sự bấp bênh về giá cả và thiếu một khuôn khổ thể chế, pháp lý đi kèm để có thể rang buộc hai bên thực hiện tốt nghĩa vụ hợp đồng. Bởi vậy để hợp đồng bao tiêu sản phẩm có hiệu quả ở nước ta cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chính sách, thể chế pháp lý đi kèm. Phát triển các mối quan hệ sản xuất theo chiều ngang (nhóm sản xuất nông hộ): Trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá, việc phát triển theo hướng đơn lẻ, cá nhân sẽ không mang lại kết quả lâu dài, bền vững, ngay cả đối với nông dân, đối tượng được cho là sản xuất độc lập, tự phát ở hầu hết các nước đang phát triển. Do vậy họ cần phải phối hợp với nhau thành một khối tổ chức để tăng sức mạnh thương thảo trên thị trường, tăng khả năng đàm phán để mua sản phẩm đầu vào và bán sản phẩm đầu ra với giá hợp lý, đảm bảo quyền lợi của chính bản thân họ. Nhóm sản xuất nông hộ được xem như là một trong những chiến lược trọng yếu để nông dân nắm bắt và tận dụng các cơ hội kinh tế, cơ hội tham gia thị trường ở một tư thế mạnh hơn, ổn định và bền vững hơn. Ngoài ra nhóm sản xuất nông hộ này còn có thể ứng dụng những dịch vụ mang tính định hướng thị trường như quản lý chất lượng sản phẩm, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, cấp giấy chứng nhận nhãn mác hàng hoá, sản phẩm,… 4.2 Những giải pháp để nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ nông thôn 4.2.1 Những giải pháp chung Người phụ nữ nông thôn cũng chính là những nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp ở nông thôn. Tuy nhiên họ là phụ nữ - là đối tượng phải chịu nhiều thiệt thòi về mọi thứ từ trước đến nay như: ít được học hành hơn, làm nhiều công việc hơn, ít được quan tâm, là đối tượng của nhiều định kiến,....Khi tham gia vào nền sản xuất hàng hoá hiện nay những điều đó đã tác động không nhỏ đến phụ nữ đặc biệt là phụ nữ nông thôn. Bởi vậy bên cạnh những giải pháp nâng cao năng lực TCTT cho nông dân thì song song với những giải pháp đó cần phải có giải pháp riêng để giúp người phụ nữ nông thôn hoà nhập với nền kinh tế thị trường hiện nay mà không phải chịu thiệt thòi. Chủ động hơn trong việc xây dựng các giải pháp sáng tạo nhằm hỗ trợ nữ nông dân: Nhìn chung các dịch vụ khuyến nông cần được cải thiện, mở rộng phạm vi để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người nông dân trong các hệ thống nông nghiệp đa dạng. Cần có bước cải tiến để đáp ứng trực tiếp hơn nữa nhu cầu của nữ nông dân. Ví dụ, qua các chương trình phát thanh nhằm vào thính giả là nữ giới và thông qua các chương trình phát thanh này có thể lồng ghép những kiến thức về thị trường cho nông dân nói chung và phụ nữ ở nông thôn nói riêng. Hỗ trợ việc đào tạo kỹ năng cho phụ nữ: Hoà nhập kinh tế và thương mại không có nghĩa là phụ nữ đã được đảm bảo an toàn về công việc. Để đảm bảo chắc chắn sự an toàn trong điều kiện hiện nay cần phải tạo cơ hội cho phụ nữ nâng cao kỹ năng và trình độ giáo dục của mình. Cần tiến hành đánh giá hiệu quả các chương trình hiện có và các chương trình cần được xem xét và điều chỉnh để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu tương lai về kỹ năng trong nền kinh tế thị trường định hướng xuất khẩu, nhất là kỹ năng tiếp cận thị trường. Tạo cơ hội cho phụ nữ tiếp cận với các nguồn lực tài chính Tài chính chính là điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất để phụ nữ nông thôn có thể tham gia vào thị trường. Để phụ nữ có cơ hội này, trước hết cần thực hiện Luật đất đai mới, đảm bảo cho 100% phụ nữ được đứng tên trong giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất. Chỉ có như vậy, khi có điều kiện, chị em mới có thể chủ động sử dụng quyền sở hữu nhà đất để đi vay vốn sản xuất mà không phải phụ thuộc nhiều vào quyết định của người chồng. Bên cạnh đó, các kênh tín dụng của Nhà nước và Hội phụ nữ cần tạo điều kiện thuận lợi cho chị em tiếp cận được với các nguồn vốn để sản xuất, kinh doanh và có cơ hội nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho chính bản thân mình. Nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh của phụ nữ nhằm nâng cao vị thế kinh tế của phụ nữ trong gia đình dẫn đến nâng cao năng lực TCTT cho chị em. Để thực hiện được điều này đòi hỏi vai trò rất lớn của Hội Phụ nữ kết hợp với các tổ chức đoàn thể xã hội khác như Hội nông dân, Tổ chức khuyến nông ...trong việc hỗ trợ về vốn, về kỹ thuật sản xuất v.v... Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế là một trong 6 chương trình lớn của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Mở ra các cơ hội kinh tế đối với phụ nữ Phụ nữ Việt Nam là lực lượng lao động cần cù, tích cực ở mọi ngành nghề, đặc biệt trong ngành nông nghiệp của nước ta hiện nay (ngành có số lao động đông nhất), khi nhiều nam giới rời bỏ nông thôn ra thành phố kiếm việc làm thì 70% lao động trong nông nghiệp là phụ nữ. Những bà me, chủ gia đình, những nữ thanh niên đi tiên phong trong lao động, sản xuất cải tạo giống, tăng năng suất cây trồng,... Tại các ngành buôn bán và kinh doanh, dịch vụ phụ nữ tham gia cũng rất đông. Vì vậy, việc tạo cơ hội ngang bằng cho nam nữ trong hoạt động kinh tế là yêu cầu cấp bách. Cần tạo cơ hội cho phụ nữ tiếp cận với các ngành nghề mới, kỹ thuật mới, tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế. Trên thực tế phụ nữ bị hạn chế về trình độ và năng lực không phải vì họ nhận thức kém hơn nam giới, mà do gia đình chưa thực sự quan tâm cũng như Nhà nước thiếu những chính sách chú ý đến việc đào tạo bồi dưỡng lao động nữ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. 4.2.2 Những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ nông thôn Hải Nam. 4.2.2.1 Phát triển kinh tế xã hội xã Hải Nam Về kinh tế: Như chúng ta đã biết, Hải Nam là một xã sản xuất nông nghiệp truyền thống. Trồng lúa trở thành một tập quán canh tác có từ lâu đời của người dân nơi đây, còn NTTS mới phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Chính vì thế nền kinh tế ở Hải Nam vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, công nghiệp - dịch vụ phát triển còn rất chậm. Khu nhà dân không nằm trên trục đường quốc lộ nên các hoạt động buôn bán, trao đổi không diễn ra sôi nổi, nhộn nhịp. Đây chính là một yếu tố khách quan ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ nông thôn Hải Nam. Do vậy để có nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ nông thôn Hải Nam cần phải có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Như vậy chính quyền xã Hải Nam cần phải có những phương hướng phát triển mới, khuyến khích nền kinh tế hàng hoá phát triển ở địa phương như: mở rộng đường liên xã, liên thôn để vận chuyển hàng hoá được dễ dàng, nhanh chóng; xây dựng chợ ngay tại trung tâm xã để người dân trong xã có thể trao đổi, buôn bán với nhau và thu hút những người dân ở các xã lân cận. Ngoài ra xây dựng chợ sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động dịch vụ phát triển mạnh, hàng hoá nhiều hơn người dân sẽ được tiếp cận với nhiều loại sản phẩm nên cơ hội lựa chọn cao hơn. Do đó sẽ nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho người phụ nữ. Về mặt xã hội: Tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả trẻ em trong xã đều được đi học, không để tình trạng thất học xảy ra đối với các bé gái. Đây là vấn đề có tính chiến lược lâu dài để nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ nông thôn trong tương lai. Bên cạnh đó xã cần khuyến khích các em đang học cấp II (nhất là học sinh nữ) không nên bỏ học mà tiếp tục học lên. Điều này tuy rất khó khăn vì nó liên quan tới tâm lý, quan điểm của các bậc phụ huynh và hoàn cảnh gia đình các em nên cần phải có biện pháp lâu dài. Đối với những phụ nữ nông thôn Hải Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ xã cần quan tâm đến những phụ nữ nghèo, hỗ trợ vốn sản xuất, kết hợp với tổ chức khuyến nông của xã mở các lớp tập huấn cho chị em, nhất là những lớp về tiếp cận thị trường. Những hoạt động này sẽ củng cố thêm lòng tin cho chị em phụ nữ trong xã giúp họ tham gia sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tốt hơn. 4.2.2.2 Nâng cao vai trò của phụ nữ trong việc tiếp cận thị trường Phụ nữ nông thôn Hải Nam là người có vai trò quyết định trong lĩnh vực sản xuất của gia đình. Tuy nhiên trong vai trò là người quyết định họ vẫn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhất là trong việc tiếp cận nguồn vốn. Đối với các nguồn vốn phi chính thống, không đòi hỏi thủ tục rườm rà thì uy tín của người phụ nữ chính là điều kiện cơ bản để tiếp cận được. Chỉ cần người vay vốn cam kết sẽ trả lãi suất hàng tháng và trả gốc đúng thời hạn là được. Nguồn vốn này ở nông thôn thường do người vợ trong nhà đứng ra lo liệu. Nhưng đối với nguồn vốn chính thống như các Ngân hàng, tổ chức thì một mình người vợ không thể thực hiện được vì họ không phải là chủ hộ trong gia đình. Do không là chủ hộ thêm vào đó là quyền sở hữu đất đai lại chỉ đứng tên người chồng nên nếu người chồng không đồng ý vay thì người vợ cũng không thể thay đổi được. Không có vốn sản xuất thì cơ hội để tiếp cận với các loại thị trường sẽ ít đi. Như vậy để nâng cao vai trò của phụ nữ trong tiếp cận thị trường thì cần nâng cao được vai trò của họ trong việc tiếp cận với các nguồn vốn. Điều này đồng nghĩa với việc để người vợ và người chồng có quyền như nhau trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ). Khi đó vai trò của người phụ nữ sẽ được nâng cao lên rất nhiều. 4.2.2.3 Nâng cao chất lượng và thương hiệu cho nông sản của xã Đây là một giải pháp quan trọng và cần thiết trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, nhất là thương hiệu của sản phẩm. Tại Việt Nam có nhiều địa phương đã thành công trong việc xây dựng thương hiệu cho nông sản của mình như: nhãn lồng Hưng Yên, bưởi Diễn, bưởi Phúc Trạch,.... Có được những thương hiệu này việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trở nên rất dễ dàng với người dân nơi đó. Ở Hải Hậu hiện đã có một nông sản được xây dựng thương hiệu, đó là gạo tám Hải Hậu được nhiều người biết đến và ưa chuộng. Sản phẩm này thường được bán tại các siêu thị với giá rất cao. Đây là một thị trường hấp dẫn cho người dân trồng lúa tám. Tuy nhiên Hải Nam là một xã không có điều kiện thuận lợi để trồng được gạo tám ngon nhưng không thể vì thế mà không chú ý đến thương hiệu của các loại sản phẩm còn lại như gạo Bắc Thơm, cá vược, tôm hùm. Trước hết thương hiệu phải được xây dựng trên cơ sở chất lượng của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm tốt sẽ được nhiều người tiêu dùng biết đến và thị trường tiêu thụ sẽ được mở rộng. Như vậy giải pháp này cần phải được xúc tiến hoạt động, cần phải cho người sản xuất thấy được tầm quan trọng của việc làm này để họ thay đổi thái độ và phương thức sản xuất sao cho phù hợp với nhu cầu của thị trường chứ không phải chỉ để phù hợp với nhu cầu của bản thân. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hoá mỗi đối tượng tham gia đều phải hiểu về thị trường và tiếp cận được nó. Ở nước ta phụ nữ là lực lượng chính tham gia trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp hiện nay. Tuy nhiên khả năng hiểu biết về thị trường của phụ nữ ở nông thôn còn khá ít do trình độ học vấn chưa cao, tâm lý tự ti về bản thân vẫn còn tồn tại. Do đó để nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như kinh doanh cho phụ nữ thì nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho những phụ nữ ở nông thôn là một điều cần thiết. Hải Nam là một xã thuần nông của huyện Hải Hậu, trong đó trồng lúa và NTTS là hai thế mạnh của xã, dịch vụ chưa phát triển. Do vậy đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực tiếp cận thị trường của những phụ nữ nơi đây. Qua điều tra, phân tích chúng tôi thấy năng lực tiếp cận thị trường của PNNT Hải Nam chưa thực sự tốt trong nền kinh tế phát triển như hiện nay. Với hai thế mạnh là trồng lúa và NTTS thì phụ nữ nông thôn Hải Nam tiếp cận với hai loại thị trường chính là: thị trường đầu vào (giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, đặc biệt là vốn), thị trường đầu ra (các sản phẩm chủ yếu là lúa, cá, tôm). Nguồn vốn được nhiều chị em chọn tiếp cận là thông qua chơi phường/ hội và vay tư nhân. Đây là cách tiếp cận rất tiện lợi, số tiền một lần vay lớn (trung bình 12 triệu đồng/ hội) nên chị em có thể dùng vào đầu tư sản xuất, phát triển kinh tế cho gia đình mình mà không phải chờ trong thời gian dài. Như vậy phụ nữ Hải Nam đã tiếp cận rất hợp lý vốn sản xuất cho gia đình. Đối với phụ nữ trong hộ trồng lúa thì nguồn tiếp cận các vật tư nông nghiệp như giống lúa, phân bón, thuốc BVTV phần lớn từ ba HTX nông nghiệp của xã với hình thức mua chịu đến mùa thu hoạch trả tiền, chịu lãi suất bằng lãi suất của Ngân hàng. Vì diện tích trồng lúa của mỗi hộ đều không nhiều nên số lượng đầu vào không lớn, do đó hình thức tiếp cận từ HTX là cách tiếp cận tối ưu vừa đảm bảo chất lượng vừa đảm bảo có vốn sản xuất đến mùa thu hoạch. Đối với phụ nữ của hộ NTTS thì phải đi rất xa để mua giống ở các trại giống như sang Giao Thuỷ, Xuân Trường, xuống Hải Quang thì mới có giống tốt, chất lượng cao. Mặc dù xa nhưng 100% phụ nữ NTTS ở Hải Nam chọn những địa điểm này là nơi cung cấp giống. Ngoài ra họ còn tiếp cận tốt với thị trường cám, thuốc BVTV sao cho phù hợp với điều kiện, quy mô và nhu cầu sản xuất mình. Tất cả những vật tư nông nghiệp này đều được các chị em mua khi cần chứ không mua về để dự trữ do họ không có nhiều vốn và một phần do thói quen sản xuất được hình thành từ rất lâu. Điều này đã phần nào hạn chế tính chủ động trong việc mua đầu vào nhất là trong điều kiện giá cả bấp bênh như hiện nay Khi có nhu cầu bán sản phẩm thì phần lớn phụ nữ Hải Nam đều bán thông qua các đối tượng trung gian như người bán buôn, người thu gom là chủ yếu (chiếm khoảng 60% lượng sản phẩm bán ra). Đối tượng này rất linh hoạt, thu mua với bất kể số lượng nào và thường thanh toán tiền ngay nên được ưa chuộng hơn. Bởi vậy thị trường tiêu thụ của phụ nữ Hải Nam phần lớn là ở ngay tại địa phương. Tuy nhiên chỉ ở Hải Nam mà ở hầu hết các vùng nông thôn Việt Nam do đa số họ tiếp cận khi tiếp cận với hình thức tiêu thụ này phụ nữ Hải Nam đã làm giảm đi một phần lợi nhuận mà họ tạo ra được. Đây là hiện tượng rất phổ biến không với một số nguồn thông tin phi chính thống như từ chợ, thương lái, hàng xóm. Khi tiếp cận với các nguồn thông tin này thì khả năng xử lý chưa cao nên phụ nữ Hải Nam vẫn lâm vào tình trạng “mua đắt, bán rẻ”. Như vậy năng lực tiếp cận thị trường của phụ nữ nông thôn Hải Nam thực sự vẫn chưa có sự tiến bộ so với sự phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hoá hiện nay của nước ta. Trước thực trạng trên chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ nông thôn Hải Nam. 2. Kiến nghị - Đối với Nhà nước: cần có những chính sách hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn cho phụ nữ nông thôn, chính sách CSHT để giảm chi phí đầu vào rút ngắn khoảng cách giữa giá cổng trại và giá thị trường; chính sách chuyển giao kỹ thuật cho nông dân mà đối tượng hướng tới của chính sách là những phụ nữ nông thôn, đặc biệt là những phụ nữ nghèo; tiếp tục có những Dự án, chương trình hợp tác với các tổ chức nhằm nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho nông dân trong đó có phụ nữ nông thôn. - Đối với chính quyền xã: Cần tăng cường đầu tư để xây dựng chợ trên địa bàn xã tạo điều kiện cho nhân dân giao lưu buôn bán. Hoàn thiện hệ thống khuyến nông xã để đưa tiến bộ kỹ thuật mới cho nông dân, tập trung vào đối tượng phụ nữ. Bên cạnh đó cần đầu tư một hệ thống thông tin như loa phát thanh, bảng thông tin nhằm thông báo những thông tin liên quan đến thị trường cho nông dân. Ngoài ra UBND xã và tổ chức Khuyến nông xã nên tổ chức liên kết với các xã lân cận để tổ chức những buổi trao đổi kinh nghiệm làm ăn giữa nông dân nói chung và phụ nữ nói riêng. - Đối với bản thân phụ nữ nông thôn Hải Nam: Cần tiếp cận thông tin nhiều, đa dạng hơn. Nên cập nhật thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và chọn lọc thông tin chính xác nhất sao cho không bị ép giá, không bị “mua đắt, bán rẻ”. Ngoài ra các chị em nên năng động, chủ động hơn trong việc tiếp cận với thị trường đầu vào và đầu ra. Một điều quan trọng nữa là tích cực tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật, các lớp kỹ năng tiếp cận thị trường nếu xã tổ chức. Đây là cơ hội rất lớn để nâng cao năng lực TCTT của chị em và phát triển kinh tế gia đình. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Lân (1996). Phụ nữ nghèo nông thôn trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu (2002). Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. Đỗ Long, Vũ Dũng (2002). Tâm lý nông dân trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Lê Trọng (2001). Kinh tế hợp tác của nông dân trong nền kinh tế thị trường, NXB Văn hoá dân tộc Mai Ngọc Cường (2001). Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia. Đinh Văn Đãn (2005). Giáo trình kinh tế thương mại - dịch vụ, NXB Nông nghiệp Hà Nội Mai Thanh Cúc, Quyền Đình Hà (2005). Giáo trình phát triển nông thôn, NXB Nông nghiệp Hà Nội. Đưa vấn đề giới vào phát triển (2001). Báo cáo Nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin Hà Nội Đánh giá tình hình giới ở Việt Nam (2006). WB, ADB, Vụ Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh và Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada. Chiến lược giới trong phát triển nông nghiệp và nông thôn đến năm 2010. Ngân hàng Phát triển Châu Á. Sổ tay đánh giá nghèo đói và thị trường có sự tham gia. Ngân hàng phát triển Châu Á (2005). Báo cáo tổng hợp tin thị trường và phát triển (2007). Ngân hàng phát triển Châu Á Nguyễn Phương Thảo (2004). “ Giới và vấn đề việc làm của phụ nữ”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ - Số 5, trang 13 - 20. Bùi Thị Gia, Phạm Tiến Dũng, Đặng Việt Quang (2004). “Khả năng tiếp cận thị trường với sản xuất và tiêu thụ nông lâm sản ở bản Tát, xã Tân Minh, huyện Đà Bắc, Hoà Bình”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật nông nghiệp - Tập II, số 4 - 2004. Vũ Thành Hiếu (2004). Một số giải pháp xâm nhập và mở rộng thị trường thức ăn chăn nuôi của công ty ESAT HOPE Việt Nam tại Bắc Ninh, Luận văn Thạc sỹ nông nghiệp, Trường ĐHNN I Hà Nội. Nguyễn Thị Thu Hà (2005).Thực trạng và những giải pháp nâng cao trình độ tiếp cận thị trường cho các chủ trang trại huyện Gia Lâm - Hà Nội trong quá trình hội nhập kinh tế. Báo cáo tốt nghiệp, Trường ĐHNN I Hà Nội. Hồ Thị Minh Hợp (2007). “Xâm nhập thị trường - Giải pháp phát triển và nâng cao thu nhập nông hộ.” - Ngô Minh Đức, Nguyễn Như Thắng, Vũ Văn Liết, Nguyễn Lân Bàng. “Nhu cầu thông tin của người dân - cơ hội và trở ngại đối với tiếp cận thông tin.” Sơn Nghĩa (Sài Gòn tiếp thị). “Vì sao nông dân tin vào thương lái hơn thông tin của đài báo?” Ngày truy cập 06/10/2008 Phạm Quang Diệu ( 1998). “Mô hình thông tin thị trường Phú Thọ”. Nguồn: Văn Trí (2007). “IFAD giúp đỡ người nghèo tiếp cận thị trường”. Nguồn: ngày truy cập 16/01/2007 bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o tr­êng ®¹I häc n«ng nghiÖp hµ néi ------› ¶ š------ luËn v¨n tèt nghiÖp ®¹i häc NÂNG CAO NĂNG LỰC TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN Xà HẢI NAM HUYỆN HẢI HẬU TỈNH NAM ĐỊNH Tên sinh viên : TỐNG THỊ HUỆ Chuyên ngành đào tạo : PTNT & KN Lớp : PTNT & KN 50 Niên khoá : 2005 - 2009 Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS. QUYỀN ĐÌNH HÀ HÀ NỘI - 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn đầy đủ, cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 22 tháng 5 năm 2009 Sinh viên Tống Thị Huệ LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Ban chủ nhiệm khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn cùng các Thầy Cô giáo đã dạy dỗ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và tu dưỡng tại trường. Từ đáy lòng mình tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình ông bà Robbert ở số 4b ngõ Yên Thế - Hà Nội đã giúp đỡ tôi cả về vật chất lẫn tinh thần để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn của mình. Đặc biệt tôi xin gửi tới lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS Quyền Đình Hà giảng viên khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn đã tận tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Qua đây tôi xin cảm ơn UBND xã Hải Nam, Ban chủ nhiệm HTX Hải Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Hải Nam cùng bạn bè đồng nghiệp và người thân đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian thực tập và nghiên cứu đề tài. Do trình độ và thời gian có hạn nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy rất mong nhận được sự thông cảm, góp ý của các Thầy Cô giáo và các độc giả để luận văn được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 22 tháng 5 năm 2009 Sinh viên Tống Thị Huệ MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADB BVTV Bq CC CSHT CSXH CNH; HĐH DNNN ĐVT HTX KHXH NHTG NTTS Lđ LHPN PNNT PT SL TB TCTT UBND Ngân hàng phát triển Châu Á Bảo vệ thực vật Bình quân Cơ cấu Cơ sở hạ tầng Chính sách xã hội Công nghiệp hoá; Hiện đại hoá Doanh nghiệp Nhà nước Đơn vị tính Hợp tác xã Khoa học xã hội Ngân hàng Thế giới Nuôi trồng thuỷ sản Lao động Liên hiệp Phụ nữ Phụ nữ nông thôn Phát triển Số lượng Trung bình Tiếp cận thị trường Ủy ban nhân dân DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Giá trị sản phẩm của xã trong 3 năm (2006 - 2008) 23 Bảng 2.2: Tình hình sử dụng đất đai của xã Hải Nam 25 Bảng 2.3: Tình hình dân số - lao động xã Hải Nam 27 Bảng 2.4: Tình hình CSHT của xã Hải Nam trong 3 năm (2006 - 2008) 29 Bảng 3.1: Số lượng và cơ cấu về giới tính của xã Hải Nam năm 2008 32 Bảng 3.2 : Số lượng và cơ cấu lao động phân theo giới tính xã Hải Nam 32 Bảng 3.3: Tuổi tác của PNNT xã Hải Nam năm 2008 33 Bảng 3.4: Trình độ học vấn của phụ nữ xã Hải Nam năm 2008 34 Bảng 3.5: Tình hình tiếp cận vốn của phụ nữ Hải Nam 36 Bảng 3.6: Cơ cấu sử dụng vốn vay của phụ nữ nông thôn Hải Nam năm 2008 37 Bảng 3.7: Tình hình tiếp cận giống lúa của phụ nữ Hải Nam 39 Bảng 3.8: Tình hình tiếp cận giống thuỷ sản của phụ nữ Hải Nam 40 Bảng 3.9 : Vai trò của phụ nữ trong tiếp cận thuốc thú y, thức ăn trong NTTS 42 Bảng 3.10 : Khả năng tiếp cận thị trường thức ăn NTTS của phụ nữ Hải Nam 42 Bảng 3.11 : Tình hình tiếp cận thuốc thú y trong NTTS của phụ nữ Hải Nam 43 Bảng 3.12 : Thời điểm bán sản phẩm của phụ nữ Hải Nam 46 Bảng 3.13: Mức độ hạch toán kinh tế của phụ nữ nông thôn xã Hải Nam 49 Bảng 3.14 : Khó khăn trong quá trình tiếp cận thị trường của phụ nữ Hải Nam 51 Bảng 3.15 :Bảng SWTO phân tích những khó khăn, thuận lợi trong tiếp cận thị trường của phụ nữ Hải Nam. 53 Bảng 3.16 : Tình hình cập nhật thông tin về thị trường của phụ nữ Hải Nam 54 Bảng 3.17: Các phương tiện hỗ trợ tiếp cận thị trường của phụ nữ Hải Nam 59 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc23. bao cao sua lan 2 .tonghue.doc
  • doc23-phu nu.doc