MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 10 năm mở cửa thị trường, hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh, đóng góp đáng kể cho việc giảm thiểu các rủi ro trong sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội. Tính đến năm 2006, tổng doanh thu toàn thị trường đã tăng trưởng với con số 17.752 tỷ đồng, bằng 1,82% GDP; trong đó, riêng doanh thu bảo hiểm nhân thọ đã đóng góp 8.483 tỷ đồng (1). Ngành bảo hiểm ngày càng khẳng định là một lĩnh vực dịch vụ
107 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1684 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tài chính quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong thời kỳ đất nước ta đã gia nhập WTO và chủ động hội nhập nhập kinh tế quốc tế.
Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã ra đời, tính đến nay đã có 7 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ hoạt động trong đó có 1 doanh nghiệp nhà nước (Bảo Việt Nhân thọ) và 6 doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (Prudential, AIA, Manulife, Prevoir, ACE, Dai-ichi). Hoạt động của các doanh nghiệp này đã đem đến những thay đổi tích cực cho thị trường như: tăng doanh thu phí bảo hiểm; nâng cao năng lực tài chính; tăng cường chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ; thu hút thêm lao động; tạo lập môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Song bên cạnh những mặt tích cực, thì việc gia nhập thị trường của các tập đoàn tài chính hàng đầu trên thế giới có tiềm lực tài chính và kinh nghiệm kinh doanh, đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, cụ thể là Bảo Việt Nhân thọ. Nếu như năm 2004, Bảo Việt Nhân thọ còn đứng ở vị trí số 1 trên thị trường bảo hiểm nhân thọ, thì đến năm 2005, Bảo Việt Nhân thọ đã bị giảm thị phần, chỉ còn đứng ở vị trí số 2 (2). Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để có thể nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân thọ nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam.
Thực tế năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ như thế nào và Bảo Việt Nhân thọ cần phải làm gì để nâng cao năng lực tài chính nhằm vượt qua được những thách thức đang phải đối mặt cũng như tận dụng được những cơ hội đang mở ra trong quá trình hội nhập? Đây không chỉ là câu hỏi đặt ra cho riêng Bảo Việt Nhân thọ mà còn là vấn đề mang tính thời sự của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cũng như các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình chuyển đổi để hướng tới một quá trình hội nhập sâu rộng hơn với khu vực và thế giới.
Xuất phát từ thực tế trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ” làm nội dung nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ.
Vấn đề về năng lực tài chính của các doanh nghiệp nói chung và của doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng đã từng được đề cập nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau trong các tạp chí nghiên cứu khoa học, luận văn cao học, luận án tiến sỹ và các đề tài nghiên cứu cấp bộ… Tuy nhiên cho đến nay, chúng tôi chưa tiếp cận được với bất cứ công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân thọ trong giai đoạn 2007 - 2010.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa và góp phần làm rõ hơn cơ sở khoa học cơ bản của hoạt động đầu tư kinh doanh tài chính và nâng cao năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ trong những năm qua, làm rõ những thành công và những tồn tại hạn chế.
- Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ trong giai đoạn 2007 - 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn về tài chính và năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ.
Nghiên cứu về hoạt động tài chính của một doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là một vấn đề rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực; do vậy, đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu chủ yếu của luận văn là chỉ tập trung nghiên cứu về nguồn vốn và khả năng sinh lời của doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ. Các vấn đề khác có liên quan được đề cập đến chỉ nhằm đảm bảo tính logíc cho luận văn.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Hệ thống hóa và góp phần làm rõ hơn cơ sở khoa học về vấn đề tài chính và nâng cao năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
- Làm rõ thực trạng và có những đánh giá cụ thể về hoạt động kinh doanh tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ cũng như năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ trong thời gian qua. Xác định rõ những thành công và những tồn tại bất cập về cơ chế, chính sách và những thách thức trong việc nâng cao năng lực tài chính trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường bảo hiểm nhân thọ.
- Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO nhằm nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ trong giai đoạn 2007 - 2010.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Mục lục, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu theo ba chương:
Chương 1: Năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Chương 2: Thực trạng năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ.
CHƯƠNG 1: NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA
DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Khái quát về hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Ngay từ rất xa xưa trong cuộc đấu tranh sinh tồn của con người, ý tưởng về hoạt động dự trữ, bảo hiểm đã xuất hiện nhằm giúp đề phòng và hạn chế những tổn thất gây ra do những rủi ro về thiên tai, dịch bệnh...
Đến nay, bảo hiểm đã trở thành một ngành dịch vụ tài chính có phạm vi hoạt động rộng, không chỉ liên quan đến mọi khía cạnh trong đời sống hàng ngày của con người mà còn liên quan đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Bảo hiểm được hiểu là một cơ chế chuyển giao rủi ro, qua đó số đông người có nguy cơ rủi ro cùng nhau đóng góp phí bảo hiểm vào một quỹ chung để bù đắp cho tổn thất của những người không may gặp rủi ro đó.
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Bằng cách chia nhỏ tổn thất của một hay một số ít người gặp rủi ro cho nhiều người cùng tham gia đóng góp, hậu quả xảy ra do rủi ro gây nên đối với một hoặc một số ít người lẽ ra có thể rất nặng nề và nghiệm trọng sẽ trở thành không đáng kể, bởi tổn thất đã được cả cộng đồng những người tham gia bảo hiểm cùng chia sẻ.
Hoạt động của bảo hiểm thương mại gồm hai lĩnh vực là bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ.
Bảo hiểm phi nhân thọ (General Insurance) là một lĩnh vực hoạt động của bảo hiểm thương mại có đối tượng bảo hiểm rộng, bao gồm mọi loại hình tài sản, trách nhiệm dân sự và sức khoẻ, tính mạng con người. Một đặc điểm quan trọng của bảo hiểm phi nhân thọ là hợp đồng bảo hiểm ngắn hạn, thường là một năm.
Bảo hiểm nhân thọ (Life Insurance) là lĩnh vực còn lại của hoạt động bảo hiểm thương mại, trong đó đối tượng bảo hiểm là sức khoẻ, tính mạng của con người. Một đặc điểm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng bảo hiểm dài hạn, thường có thời hạn từ năm năm trở lên.
Khái niệm bảo hiểm nhân thọ thường được xem xét trên hai phương diện: phương diện pháp lý và phương diện kỹ thuật.
Xét trên phương diện pháp lý, bảo hiểm nhân thọ bao gồm các hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, theo đó để nhận được phí của người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng bảo hiểm một khoản tiền nhất định hoặc những khoản trợ cấp định kỳ trong trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời điểm nhất định hoặc tử vong trước một thời điểm nhất định đã được ghi rõ trên hợp đồng bảo hiểm.
Xét trên phương diện kỹ thuật, bảo hiểm nhân thọ là nghiệp vụ bao hàm những cam kết mà sự thi hành những cam kết này phụ thuộc vào tuổi thọ con người. Liên quan đến tuổi thọ của con người, các cam kết trong bảo hiểm nhân thọ có mục đích thanh toán một khoản trợ cấp hoặc một số tiền bảo hiểm cho sự kiện sống hoặc sự kiện chết của người được bảo hiểm. Chẳng hạn trong trường hợp sống, rủi ro được bảo hiểm là sự kiện sống của người được bảo hiểm đến một thời điểm quy định. Ngược lại trong trường hợp chết, người thụ hưởng sẽ được trả một số tiền nhất định nếu người được bảo hiểm bị chết trước hoặc tại một thời điểm đã được ấn định, hoặc bất kỳ thời điểm nào tuỳ thuộc vào sự cam kết thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm gắn liền với sức khoẻ và tuổi thọ của con người. Do vậy, khác với các loại hình bảo hiểm khác chỉ có chức năng bảo vệ, bảo hiểm nhân thọ có hai chức năng: vừa bảo vệ, vừa tích luỹ tài chính. Bảo hiểm nhân thọ là một loại hình bảo hiểm duy nhất chi trả quyền lợi bảo hiểm trong cả hai trường hợp: có rủi ro và không có rủi ro.
Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ ra đời từ rất sớm, ban đầu khi một người chẳng may qua đời, những người thân, hàng xóm thường đứng ra quyên góp vật chất tiền bạc để trợ giúp gia đình người đó vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Tuy nhiên cách thức này bộc lộ những hạn chế như số tiền quyên góp không đủ, phụ thuộc vào sự từ thiện của mọi người... Trước nhu cầu đó, bảo hiểm nhân thọ ra đời như một phương thức hiệu quả cung cấp tài chính khi một người không may gặp rủi ro liên quan đến bản thân và gia đình.
Vào thế kỷ thứ II sau công nguyên, ở thành Roma, Italia nhà luật học Ulpien đã lập ra một bảng tỷ lệ tử vong đầu tiên trên thế giới. Đây là tiền đề hết sức quan trọng cho sự ra đời của bảo hiểm nhân thọ. Bằng bảng tỷ lệ tử vong này, người ta có thể ước tính một người ở độ tuổi nào đó, còn có thể sống thêm được bao nhiêu năm nữa.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở nước Anh, năm 1583, do công dân Luân đôn là ông William Gybbon tham gia. Năm 1662, John Graunt, một thanh niên trẻ tại London đã đăng tải một số bài báo về lượng sinh tử của người London. Phát hiện này đã được các nhà toán học thời đó quan tâm và nghĩ đến việc thành lập bảng ghi nhận tỷ lệ tử vong của nhân loại, một công cụ rất hữu ích cho ngành bảo hiểm nhân thọ sau này. Năm 1693, các nhà toán học như Edmund Halley, Newton, Demoire đã nghĩ cách tính phí dựa vào tuổi tác.
Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trong giai đoạn đầu hình thành được bán một cách rộng rãi và không tính toán. Người ta mua bảo hiểm cho nhau và tìm cách hại nhau để kiếm tiền bồi thường. Vì lý do đó, năm 1740, chính phủ Anh đã ra chỉ thị bán bảo hiểm nhất thiết phải căn cứ trên "Quyền lợi có thể được bảo hiểm", tức là người chủ hợp đồng và người được bảo hiểm phải có quan hệ ruột thịt, hôn nhân hay bảo hộ hợp pháp.
Cho đến năm 1762 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Equitable là doanh nghiệp đầu tiên ở Anh áp dụng thành công phương pháp tính phí bảo hiểm. Bản hợp đồng bảo hiểm đầu tiên của doanh nghiệp này là “hợp đồng trọn đời”.
Năm 1844 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng khác trong ngành bảo hiểm nhân thọ. Khi chứng kiến việc các khách hàng mua bảo hiểm muốn ngưng hợp đồng giữa chừng nhưng không được doanh nghiệp bảo hiểm nào trả lại tiền cho họ, ông Elizur Wright, nhà tính phí bảo hiểm người Mỹ đã cho rằng điều này không công bằng. Từ đó ông nghĩ ra công thức toán học tính giá trị giải ước để hoàn lại phí cho khách hàng một cách hợp lý.
Có thể nói rằng nước Anh là chiếc nôi của ngành bảo hiểm thế giới. Cho đến nay, đây vẫn là trung tâm của các hoạt động bảo hiểm.
Hiện nay, bảo hiểm nhân thọ phát triển hết sức mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những lợi ích của bảo hiểm nhân thọ mang lại đã tạo ra cho ngành kinh doanh này một vị trí vững vàng trong đời sống kinh tế- xã hội.
Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm nhân thọ
Là một ngành kinh doanh đặc thù - kinh doanh rủi ro, do vậy kinh doanh bảo hiểm phải dựa trên các nguyên tắc nhất định. Hoạt động của bảo hiểm nhân thọ dựa trên ba nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, chia sẻ tổn thất: Giống như hoạt động bảo hiểm nói chung, bảo hiểm nhân thọ hoạt động theo nguyên tắc nhiều người chia sẻ tổn thất của một người, nhờ đó mà tổn thất lẽ ra vượt quá sức chịu đựng của người đó đã trở nên chịu đựng một cách dễ dàng hơn với nhiều người. Mua bảo hiểm nhân thọ, vô hình chung, mọi người đã tập hợp lại thành một cộng đồng tương hỗ. Tất cả các thành viên trong cộng đồng tương hỗ đều có nhiệm vụ đóng góp xây dựng quỹ chung. Mức đóng góp tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro và khả năng tài chính của mỗi người. Quỹ chung sẽ được sử dụng để chi trả quyền lợi bảo hiểm cho những người bị tổn thất.
Thứ hai, công bằng: người có rủi ro cao, số tiền bảo hiểm cao thì phí bảo hiểm cao. Với nguyên tắc này sẽ không xảy ra tình trạng không công bằng giữa những người được bảo hiểm, sẽ không có người nào được hưởng lợi một cách không chính đáng từ quỹ bảo hiểm. Vì vậy, việc tham gia bảo hiểm cũng như việc chi trả bảo hiểm luôn được các doanh nghiệp bảo hiểm thẩm định chặt chẽ để xác định mức độ rủi ro của mỗi người cũng như tính chân thực của khiếu nại đòi chi trả quyền lợi bảo hiểm.
Thứ ba, luật số đông (hay còn gọi là Luật số lớn): Luật số lớn trong bảo hiểm được hiểu như sau: Khi số lớn các đơn vị rủi ro tương tự nhau và độc lập với nhau tăng lên thì tính chính xác tương đối của các dự đoán về những kết quả tương lai dựa vào các đơn vị rủi ro đó cũng tăng lên.
Nhà bảo hiểm dựa vào quy luật số lớn để dự đoán về những tổn thất được bảo hiểm mà một nhóm người được bảo hiểm có thể gặp phải trong thời gian tham gia bảo hiểm. Bằng cách sử dụng bảng tỷ lệ tử vong và bảng thương tật, các nhà bảo hiểm nhân thọ có thể dự tính được tỷ lệ tổn thất tiềm năng trong một nhóm người, các nhà bảo hiểm sử dụng những tỷ lệ được dự đoán này để xây dựng tỷ lệ phí hợp lý đảm bảo khả năng chi trả quyền lợi bảo hiểm.
Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
Để đáp ứng được nhiều nhu cầu của người tham gia, các doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện đa dạng hoá các loại hợp đồng nhằm thoả mãn những nhu cầu đó, có 5 loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản:
Bảo hiểm sinh kỳ
Bảo hiểm nhân thọ sinh kỳ là bảo hiểm nhân thọ trong trường hợp người được bảo hiểm còn sống đến hết hạn hợp đồng, được ký kết chỉ để bảo hiểm cho khả năng sống xảy ra khi hết một khoảng thời gian đã quy định cụ thể trong hợp đồng. Thực chất của loại hình bảo hiểm này là nhà bảo hiểm cam kết sẽ chi trả cho người được bảo hiểm những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời khi người được bảo hiểm sống hết khoảng thời gian đó. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào.
Bảo hiểm tử kỳ
Bảo hiểm nhân thọ tử kỳ là bảo hiểm nhân thọ chỉ bảo hiểm cho khả năng chết xảy ra trong thời gian quy định cụ thể trong hợp đồng. Khi người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, nhà bảo hiểm sẽ trả số tiền bảo hiểm. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được bảo hiểm không nhận được bất kỳ một khoản hoàn phí nào từ số phí bảo hiểm đã đóng. Điều đó, cũng có nghĩa là nhà bảo hiểm không phải thanh toán số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm. Ngược lại, nếu cái chết xảy ra trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, thì nhà bảo hiểm thanh toán số tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định.
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là loại hình bảo hiểm kết hợp giữa bảo hiểm nhân thọ tử kỳ và bảo hiểm nhân thọ sinh kỳ, theo đó nhà bảo hiểm cam kết chi trả một khoản tiền đã đăng ký trong trường hợp người được bảo hiểm còn sống đến khi hết hạn hợp đồng hoặc khi người được bảo hiểm bị tử vong trong khoảng thời gian hợp đồng còn hiệu lực.
Khi triển khai bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể đa dạng hoá loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng có chia lãi và hợp đồng không chia lãi và các loại hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế.
Bảo hiểm nhân thọ trọn đời
Bảo hiểm nhân thọ trọn đời là loại hình bảo hiểm nhân thọ theo đó nhà bảo hiểm cam kết chi trả một khoản tiền đã đăng ký trong trường hợp người được bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó. Đối với loại hình bảo hiểm này, nhà bảo hiểm cam kết chi trả cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm một số tiền bảo hiểm đã được ấn định trong hợp đồng, khi người được bảo hiểm chết vào bất cứ thời điểm nào kể từ ngày ký kết hợp đồng. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời là loại hình có hợp đồng bảo hiểm dài hạn, không bị giới hạn về ngày hết hạn hợp đồng. Như vậy, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trọn đời sẽ đảm bảo cho người được bảo hiểm cho đến khi họ tử vong.
Bảo hiểm nhân thọ trả tiền định kỳ (bảo hiểm niêm kim nhân thọ)
Bảo hiểm nhân thọ trả tiền định kỳ là loại hình bảo hiểm theo đó doanh nghiệp bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền cố định cho người được bảo hiểm khi đến một độ tuổi nhất định. Bảo hiểm niêm kim là loại hình có hợp đồng đóng phí bảo hiểm một lần hoặc nhiều lần và từ một thời điểm nhất định, theo định kỳ, người được bảo hiểm nhận được một khoản tiền chi trả từ doanh nghiệp bảo hiểm (niên kim).
Khoản tiền thanh toán, thường được mô tả là khoản tiền hàng năm, mặc dù trong thực tế nó có thể được trả nửa năm, hàng quí hoặc hàng tháng. Niên kim có thể được trả ngay vào thời điểm ký kết hợp đồng bảo hiểm hoặc trả sau, khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực trong một quãng thời gian nhất định.
Ngoài các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản trên đây, khi triển khai các loại hình bảo hiểm nhân thọ, các doanh nghiệp bảo hiểm còn nghiên cứu, đưa ra các điều khoản bổ sung như: bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm miễn nộp phí khi thương tật, bảo hiểm cho người đóng phí…để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân và tăng tính hấp dẫn cho các sản phẩm bảo hiểm.
Những hoạt động cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Hoạt động khai thác bảo hiểm
Hoạt động khai thác bảo hiểm trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được coi là một quá trình liên hoàn từ khâu tìm kiếm thị trường, nhận giấy yêu cầu, đánh giá rủi ro đến phát hành và chuyển giao hợp đồng bảo hiểm. Đây được coi là hoạt động cơ bản, là nền tảng cho các hoạt động khác của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Quy trình khai thác bảo hiểm được các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ thực hiện chủ yếu thông qua đại lý bảo hiểm. Nếu khách hàng tiềm năng đồng ý mua bảo hiểm, đại lý thực hiện bước hoàn tất hợp đồng bằng cách hướng dẫn khách hàng tiềm năng kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm và chứng kiến khách hàng ký vào giấy yêu cầu.
Sau khi đại lý thu phí bảo hiểm đầu tiên của khách hàng, hồ sơ yêu cầu bảo hiểm sẽ được Bộ phận thẩm định thực hiện, chịu trách nhiệm đánh giá và phân loại mức độ rủi ro của một người hay một nhóm người yêu cầu được bảo hiểm, đồng thời đưa ra các quyết định liên quan đến việc có bảo hiểm cho rủi ro đó hay không. Quyết định mà chuyên viên thẩm định đưa ra khi phân loại rủi ro và tính toán mức phí bảo hiểm cho hợp đồng có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp bảo hiểm. Khi phát hành hợp đồng, doanh nghiệp bảo hiểm thường chuyển hợp đồng cho đại lý, người có trách nhiệm giao hợp đồng cho khách hàng. Có thể nói, thông qua kết quả của hoạt động khai thác bảo hiểm trực tiếp (hay còn gọi là bảo hiểm gốc), doanh nghiệp có được doanh thu phí bảo hiểm. Doanh thu phí bảo hiểm là nguồn tài chính để doanh nghiệp thực hiện chiến lược phát triển kinh doanh dài hạn và bền vững, tăng cường hoạt động đầu tư nhằm mang lại lợi nhuận cho khách hàng (người tham gia bảo hiểm) và bản thân doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm
Các doanh nghiệp bảo hiểm không thể chấp nhận tất cả các rủi ro có yêu cầu được bảo hiểm mà không tính đến khả năng tài chính của bản thân doanh nghiệp. Do vậy, để đảm bảo tình hình tài chính ổn định và chấp nhận rủi ro tới mức tối đa có thể chấp nhận được, các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm.
Về bản chất, tái bảo hiểm là một phương thức chia sẻ rủi ro của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm bao gồm hoạt động nhận tái bảo hiểm và hoạt động nhượng tái bảo hiểm. Quyền lợi của doanh nghiệp nhượng là nghĩa vụ của doanh nghiệp nhận và ngược lại: khi doanh nghiệp nhượng muốn chuyển giao một phần hoặc toàn bộ rủi ro được bảo hiểm cho doanh nghiệp nhận, tương ứng với phần trách nhiệm phải chi trả quyền lợi bảo hiểm nếu có sự kiện bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp nhận sẽ nhận được một khoản phí bảo hiểm từ doanh nghiệp nhượng được gọi là phí tái bảo hiểm, đây chính là nguồn thu từ hoạt động nhận tái bảo hiểm. Ngược lại, để bù đắp các chi phí mà doanh nghiệp bảo hiểm gốc đã bỏ ra để ký kết được hợp đồng bảo hiểm với khách hàng, doanh nghiệp nhận phải chi trả cho doanh nghiệp nhượng một khoản chi phí nhất định, được gọi là hoa hồng nhận tái bảo hiểm, đây chính là một nguồn thu bổ sung từ hoạt động nhượng tái bảo hiểm.
Tóm lại, hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm là mảng hoạt động kinh doanh không thể thiếu của một doanh nghiệp bảo hiểm, hoạt động nhận tái bảo hiểm góp phần tăng nguồn thu phí bảo hiểm cho doanh nghiệp, đặc biệt là thu ngoại tệ, đồng thời giúp doanh nghiệp bảo hiểm phân tán rủi ro, chủ động tính toán được giới hạn trách nhiệm tài chính tối đa tại một thời điểm xác định bất kỳ; tạo lập năng lực tài chính lành mạnh để phát triển hoạt động kinh doanh bảo hiểm trực tiếp.
Hoạt động chi trả quyền lợi bảo hiểm
Hoạt động đánh giá và thanh toán tiền bảo hiểm cho các hợp đồng bảo hiểm được gọi là hoạt động chi trả quyền lợi bảo hiểm (hay còn gọi là giải quyết quyền lợi bảo hiểm).
Quản lý hoạt động chi trả quyền lợi bảo hiểm là công việc quan trọng trong doanh nghiệp bảo hiểm. Việc tổ chức chi trả quyền lợi bảo hiểm một cách có hiệu quả cho phép doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện cam kết thanh toán tiền bảo hiểm cho những hồ sơ đích thực một cách nhanh chóng, cẩn thận và đảm bảo chắc chắn rằng doanh nghiệp bảo hiểm không trả tiền cho các trường hợp trục lợi bảo hiểm và không trả tiền sai. Bằng việc loại bỏ những hồ sơ không đúng, hoạt động chi trả quyền lợi bảo hiểm đã bảo vệ doanh nghiệp, các chủ hợp đồng và ngành bảo hiểm, chống lại những hành động trục lợi bảo hiểm và kiểm soát được chi phí trong bảo hiểm, góp phần nâng cao năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư
Doanh nghiệp bảo hiểm là một trong những tổ chức đầu tư quan trọng trên thị trường tài chính. Xét trên góc độ kết quả lợi nhuận, về lâu dài hoạt động đầu tư sẽ mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm cao hơn hoạt động khai thác bảo hiểm trực tiếp. Thu nhập đầu tư cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ giảm chi phí bảo hiểm, chi trả quyền lợi bảo hiểm và chi phí hoạt động, đồng thời góp phần đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Do thường xuyên có một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi lớn từ các quỹ dự phòng cũng như lợi nhuận để lại nên doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng nguồn vốn đó để đầu tư. Thông thường, doanh nghiệp bảo hiểm có thể đầu tư vào nhiều loại tài sản khác nhau để quản lý mức độ rủi ro tổng thể của danh mục đầu tư. Đa dạng hoá là một chiến lược đầu tư giúp cho doanh nghiệp bảo hiểm đạt được lợi nhuận tối đa và rủi ro phải gánh chịu là tối thiểu. Doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện theo các quy định giới hạn về hình thức và khối lượng đầu tư.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có hai nguồn quỹ: quỹ chủ sở hữu của doanh nghiệp và quỹ chủ hợp đồng bảo hiểm: “Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phải tách riêng nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn phí bảo hiểm thu được của bên mua bảo hiểm”, theo điều 23 Nghị định 46/2007/NĐ-CP của Chính phủ .
Vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu sau: vốn điều lệ ban đầu, lợi nhuận không chia và tăng vốn bổ sung. Khi doanh nghiệp được thành lập thì chủ doanh nghiệp có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông - chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu thông qua việc tăng vốn (bổ sung) vốn điều lệ. Tuỳ thuộc vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó mà có cách thức huy động vốn phù hợp theo quy định của pháp luật. Ngoài ra doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ còn có nguồn vốn bổ sung từ các quỹ dự trữ bắt buộc theo luật định hoặc từ quỹ dự trữ tự nguyện của doanh nghiệp.
Ký quỹ: Theo điều 6 Nghị định 46/2007/NĐ-CP của Chính phủ, Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm phải sử dụng một phần vốn điều lệ đã góp để ký quỹ tại một ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam. Tiền ký quỹ được hưởng lãi theo thoả thuận với ngân hàng nơi ký quỹ. Mức tiền ký quỹ của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ bằng 2% vốn pháp định. Doanh nghiệp chỉ được sử dụng tiền ký quỹ để đáp ứng các cam kết đối với bên mua bảo hiểm khi khả năng thanh toán bị thiếu hụt và phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản. Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày sử dụng tiền ký quỹ, doanh nghiệp có trách nhiệm bổ sung tiền ký quỹ đã sử dụng. Đây là công cụ quan trọng để Nhà nước kiểm tra và giám sát khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các cam kết đối với bên mua bảo hiểm.
Nợ phải trả: Nợ là một khoản tài chính hoặc một nghĩa vụ tài chính tương lai của doanh nghiệp. Các khoản dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nợ phải trả của doanh nghiệp. Các khoản vốn vay trực tiếp hoặc qua phát hành trái phiếu của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là rất ít và hầu như không có. Các khoản nợ phải trả khác của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chủ yếu là khoản tiền bồi thường, tiền chi trả bảo hiểm của các sự kiện bảo hiểm đã được giải quyết nhưng người nhận tiền chưa kịp nhận, nên doanh nghiệp không phải trả chi phí vốn.
Dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm: Khoản nợ quan trọng nhất của một doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là các khoản dự phòng. Các khoản dự phòng là những khoản cùng với phí bảo hiểm tương lai và lãi suất đầu tư giả định, được dự kiến là sẽ đủ để thanh toán cho các quyền lợi hợp đồng đáo hạn. Doanh nghiệp luôn phải có một lượng tài sản lớn hơn các khoản nợ phải trả. Chính vì thế, doanh nghiệp bảo hiểm phải giữ mức dự phòng ở một mức tối thiểu có thể đảm bảo khả năng thanh toán tất cả các nghĩa vụ hợp đồng của doanh nghiệp khi đến hạn. Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đều giữ mức dự phòng cao hơn mức tối thiểu bắt buộc.
Xét về cơ cấu vốn của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng vốn của doanh nghiệp không lớn do tỷ trọng các khoản dự phòng nghiệp vụ chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng vốn.
Hoạt động đầu tư tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Hoạt động đầu tư để hình thành nên tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Cơ cấu các tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có đặc điểm sau:
Tài sản đầu tư tài chính chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản do hoạt động bảo hiểm nhân thọ luôn gắn với hoạt động đầu tư tài chính, nguồn tiền nhàn rỗi từ các khoản dự phòng nghiệp vụ và vốn chủ sở hữu khá lớn và bắt buộc phải sử dụng để đầu tư tài chính nhằm sinh lời cho doanh nghiệp và đảm bảo sức mạnh tài chính cho các cam kết chi trả tiền bảo hiểm.
Tài sản dự trữ của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chiếm tỷ trọng nhỏ, chủ yếu là ấn phẩm tuyên truyền, quảng cáo tồn kho; các hoá đơn thu phí bảo hiểm chưa sử dụng.
Về các tài sản ít có tính lỏng thì chủ yếu là các bất động sản (trụ sở Doanh nghiệp và các chi nhánh nhằm đảm bảo độ tin cậy với khách hàng) và hệ thống công nghệ thông tin do khối lượng dữ liệu của doanh nghiệp rất lớn đòi hỏi quá trình xử lý thông tin phức tạp và độ bảo mật cao.
Hoạt động thu chi của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Hoạt động thu chi của doanh nghiệp bao gồm hai hoạt động chính là: hoạt động kinh doanh bảo hiểm và hoạt động đầu tư tài chính. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn có hoạt động khác (không thường xuyên)
Hoạt động bảo hiểm có các khoản thu, chi như sau:
Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm: là số tiền phải thu phát sinh trong kỳ sau khi đã trừ các khoản phải chi để giảm thu phát sinh trong kỳ bao gồm: doanh thu phí bảo hiểm gốc, phí nhận tái bảo hiểm; thu hoa hồng nhượng tái bảo hiểm, thu phí về dịch vụ đại lý bao gồm giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng bồi thường 100%; thu phí giám định tổn thất không kể giám định hộ giữa các đơn vị thành viên hạch toán nội bộ trong cùng một doanh nghiệp bảo hiểm hạch toán độc lập trừ đi các khoản phải chi để giảm thu như: hoàn phí bảo hiểm, giảm phí bảo hiểm; phí nhượng tái bảo hiểm, hoàn phí nhận tái bảo hiểm, giảm phí nhận tái bảo hiểm, hoàn hoa hồng nhượng tái bảo hiểm; giảm hoa hồng nhượng tái bảo hiểm
Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm: là số tiền phải chi, phải trích phát sinh trong kỳ sau khi đã trừ các khoản phải thu để giảm chi phí phát sinh trong kỳ, bao gồm: trả tiền bảo hiểm, chi bồi thường nhận tái bảo hiểm; trích lập dự phòng nghiệp vụ; chi hoa hồng bảo hiểm; chi giám định tổn thất; chi quản lý đại lý bảo hiểm; chi đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất; chi đánh giá rủi ro của đối tượng bảo hiểm; các khoản chi, trích khác theo quy định của pháp luật trừ đi các khoản phải thu để giảm chi phí phát sinh trong kỳ bao gồm: thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư tài chính có các khoản thu, chi như sau:
Doanh thu hoạt động đầu tư tài chính là các khoản doanh thu từ các hoạt động: mua bán chứng khoán, góp vốn, góp cổ phần,kinh doanh bất động sản, cho thuê tài sản, gửi tiền tại ngân hàng và các tổ chức tín dụng, cho vay và các khoản doanh thu tài chính khác.
Chi phí hoạt động đầu tư tài chính là các khoản chi phí từ các hoạt động: trích lập một phần quỹ dự phòng toán học và toàn bộ quỹ dự phòng chia lãi đầu tư tài chính.
Hoạt động khác (không thường xuyên):
Doanh thu hoạt động khác bao gồm: thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định; các khoản nợ khó đòi đã xoá nay thu hồi được; thu khác theo quy định của pháp luật.
Chi phí hoạt động khác._. bao gồm: chi nhượng bán, thanh lý tài sản cố định; chi phí cho việc thu hồi nợ phải thu khó đòi đã xoá nay thu hồi được; chi, trích khác theo quy định của pháp luật.
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm kết quả của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, kết quả hoạt động đầu tư tài chính và kết quả hoạt động khác. Lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được xác định là khoản chênh lệch dương giữa tổng doanh thu trừ tổng chi phí.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Khái niệm về năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
"Năng lực" (3) là "khả năng đủ để làm một công việc nào đó", là "những điều kiện đủ hoặc vốn có để thực hiện một hoạt động nào đó". Do vậy có thể hiểu năng lực là khả năng các cá nhân hoặc các tổ chức thực hiện các chức năng một cách có hiệu quả, là sức mạnh (của các cá nhân, các tổ chức...) để thực hiện và kinh doanh.
Tài chính doanh nghiệp là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra trong mỗi doanh nghiệp, phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế phát sinh của doanh nghiệp trong phân phối các nguồn tài chính qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của doanh nghiệp.
Chính vì vậy, năng lực tài chính của một doanh nghiệp có thể hiểu là khả năng về nguồn lực tài chính của doanh nghiệp đó, là khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời,... đủ để đảm bảo và duy trì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành bình thường.
Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là loại hình doanh nghiệp thực hiện kinh doanh dịch vụ tài chính. Vì thế, năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có thể hiểu là khả năng về tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, thể hiện ở quy mô vốn chủ sở hữu, chất lượng các khoản dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, khả năng sinh lời và khả năng thanh toán đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh.
Mọi doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đều có hai mục tiêu kinh doanh cơ bản. Thứ nhất, với tư cách người được uỷ thác phải bảo đảm lòng tin của khách hàng, doanh nghiệp bảo hiểm phải có khả năng đáp ứng tất cả các nghĩa vụ tài chính của mình khi các nghĩa vụ đó phát sinh hoặc đến hạn. Trong đó nhu cầu tài chính để thực hiện được các cam kết với chủ hợp đồng được coi là những khoản chi chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính này của doanh nghiệp được gọi là khả năng thanh toán. Thứ hai, với tư cách là một chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp luôn phải nỗ lực để tối đa hoá giá trị của bản thân doanh nghiệp vì lợi ích của các cổ đông. Mức độ thành công của doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi nhuận cho những người chủ của doanh nghiệp - bao gồm cả khả năng của doanh nghiệp về tạo ra lợi nhuận và nâng cao giá trị của doanh nghiệp - được gọi là khả năng sinh lời.
Bảo vệ khả năng thanh toán và nâng cao khả năng sinh lời đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải duy trì một sự cân bằng thận trọng giữa việc chấp nhận các rủi ro hợp lý và tránh các rủi ro bất hợp lý. Một thách thức lớn đối với doanh nghiệp là cần phải duy trì được sự cân bằng này trong khi vẫn đưa ra được các sản phẩm bảo hiểm hấp dẫn, giữ được tính cạnh tranh trong ngành bảo hiểm, và đảm bảo những trách nhiệm của mình.
Nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chính là quá trình thực hiện việc nâng cao khả năng về tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, thể hiện ở quy mô vốn chủ sở hữu, chất lượng các khoản dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt là khả năng sinh lời và khả năng thanh toán nhằm đảm bảo sự an toàn, hiệu quả và bền vững trong hoạt động kinh doanh.
Các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ:
Năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có thể được đánh giá dựa vào các yếu tố định lượng. Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có bao gồm quy mô vốn, chất lượng dự phòng nghiệp vụ, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời.
Hệ thống các chỉ tiêu tài chính mang tính định lượng có thể đánh giá được một cách tổng quan về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ kinh doanh nhất định. Thông qua đó, người ta có thể đánh giá được năng lực tài chính của doanh nghiệp, từ đó có những giải pháp về quản lý, đầu tư thích hợp để xây dựng chiến lược phát triển của doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất trong ngắn hạn cũng như dài hạn, đặc biệt trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ hiện nay. Các chỉ tiêu tài chính cơ bản thường được sử dụng bao gồm:
Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu sau: vốn điều lệ ban đầu, lợi nhuận không chia và tăng vốn bổ sung vốn điều lệ.
Vốn điều lệ ban đầu của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được các cổ đông đóng góp. Vốn điều lệ của doanh nghiệp không được thấp hơn vốn pháp định theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Theo khoản 1 điều 4 Nghị định 46/2007/NĐ-CP của Chính phủ, "Mức vốn pháp định của doanh nghiệp bảo hiểm:
Kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: 300.000.000.000 đồng Việt Nam
Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ: 600.000.000.000 đồng Việt Nam"
Thông thường, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đều có vốn điều lệ ban đầu cao hơn so với vốn pháp định theo quy định của pháp luật.
Theo thông lệ chung, doanh nghiệp bảo hiểm thường phải trích lập một quỹ dự trữ bắt buộc từ lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp để bổ sung vào vốn chủ sở hữu nhằm đảm bảo mức độ an toàn và thận trọng hơn. Theo điều 31 Nghị định 46/2007/NĐ-CP của Chính phủ, “doanh nghiệp bảo hiểm phải trích 5% lợi nhuận sau thuế hàng năm để lập quỹ dự trữ bắt buộc. Mức tối đa của quỹ dự trữ bắt buộc bằng 10% mức vốn điều lệ của doanh nghiệp”.
Vốn chủ sở hữu cung cấp năng lực tài chính cho doanh nghiệp trong quá trình tăng trưởng, mở rộng quy mô hoạt động, cũng như việc phát triển và khuyếch trương các sản phẩm dịch vụ mới; tạo niềm tin, sự cam kết và gây dựng uy tín với chủ hợp đồng. Vốn chủ sở hữu có chức năng bảo vệ doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp chống lại các rủi ro về khả năng thanh toán, phá sản, bù đắp những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ; bảo vệ chủ hợp đồng trước những cam kết đã được thiết lập với doanh nghiệp. Do đó, có thể khẳng định, vốn chủ sở hữu là yếu tố quan trọng đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, thể hiện sức mạnh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, doanh nghiệp không chỉ kinh doanh ở thị trường trong nước mà còn vươn ra các thị trường khu vực và quốc tế, thì vốn chủ sở hữu là cơ sở, là nền tảng để doanh nghiệp mở rộng hoạt động tới các thị trường tài chính quốc tế và khu vực.
Dự phòng nghiệp vụ
Như đã đề cập, dự phòng nghiệp vụ là một đặc thù riêng có của hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng. Đó là khoản dự trữ liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm, tương ứng với trách nhiệm của từng hợp đồng bảo hiểm. Theo điều 96 Luật kinh doanh bảo hiểm, dự phòng nghiệp vụ là:
"1. Dự phòng nghiệp vụ là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập nhằm mục đích thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác định trước và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết.
2. Dự phòng nghiệp vụ phải được trích lập riêng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và phải tương ứng với phần trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm.
3. Bộ Tài chính quy định cụ thể về mức trích lập, phương pháp trích lập dự phòng nghiệp vụ đối với từng nghiệp vụ bảo hiểm."
Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ phải trích lập dự phòng nghiệp vụ cho từng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tương ứng với trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm. Theo điều 9 Nghị định 46/2007/NĐ-CP của Chính phủ, dự phòng nghiệp vụ bao gồm:
Dự phòng toán học: là khoản chênh lệch giữa giá trị hiện tại của số tiền bảo hiểm và giá trị hiện tại của phí bảo hiểm sẽ thu được trong tương lai, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm đối với những trách nhiệm đã cam kết khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Dự phòng phí chưa được hưởng: được sử dụng trả tiền bảo hiểm sẽ phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trong năm tiếp theo.
Dự phòng bồi thường: được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm nhưng đến cuối năm tài chính chưa được giải quyết.
Dự phòng chia lãi: được sử dụng để trả lãi mà doanh nghiệp bảo hiểm đã thoả thuận với bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm
Dự phòng bảo đảm cân đối: được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm do có biến động lớn về tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật.
Quỹ dự phòng nghiệp vụ được tích luỹ qua từng năm làm tăng nguồn vốn của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, dự phòng nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Do sự gia tăng tích luỹ qua các năm của quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ nên lượng vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cũng tăng theo tương ứng, doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm để đầu tư theo các quy định của pháp luật. Điều này góp phần làm tăng khả năng sinh lời của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Chính vì thế chất lượng của hoạt động dự phòng nghiệp vụ được coi là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Theo Thông tư 99/2004/TT-BTC ngày 19/10/2004 của Bộ Tài chính, phương pháp trích lập dự phòng toán học đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ như sau:
* Dự phòng toán học:
- Phương pháp trích lập: theo phương pháp phí bảo hiểm thuần được điều chỉnh bởi hệ số Zillmer 3% số tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm thuần được điều chỉnh dùng để tính dự phòng không được cao hơn 90% phí bảo hiểm thực tế thu được.
- Nguyên tắc tính dự phòng: dự phòng toán học theo phương pháp phí bảo hiểm thuần được điều chỉnh Zillmer 3% số tiền bảo hiểm tính theo nguyên tắc sau:
Dự phòng toán học
=
Giá trị hiện tại của tổng số tiền bảo hiểm sẽ phải trả trong tương lai.
-
Giá trị hiện tại của tổng số phí bảo hiểm thuần điều chỉnh Zillmer 3% số tiền bảo hiểm sẽ thu trong tương lai.
- Cơ sở tính dự phòng: doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ sử dụng các cơ sở sau đây để tính dự phòng toán học:
+ Bảng tỷ lệ tử vong quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư này (Bảng tỷ lệ tử vong CSO 1980)
+ Lãi suất kỹ thuật tối đa bằng 80% lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất trước thời điểm xin phê chuẩn phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng.
- Dự phòng toán học được coi là bằng 0 trong trường hợp tính theo phương pháp và cơ sở nêu trên cho ra kết quả là số âm.
Khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán đóng vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp bảo hiểm trong việc duy trì hoạt động kinh doanh và đáp ứng yêu cầu của các bên liên quan như cổ đông, các chủ hợp đồng… Do vậy đây là một chỉ tiêu quan trọng thể hiện năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán theo nghĩa chung là khả năng của doanh nghiệp đáp ứng ngay các nghĩa vụ tài chính phát sinh. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, khả năng thanh toán mang một ý nghĩa cụ thể hơn; nó đề cập đến khả năng duy trì vốn và lợi nhuận để lại cao hơn mức tiêu chuẩn tối thiểu về vốn và lợi nhuận để lại do luật định. Tại Việt Nam, chỉ tiêu này được gọi là chỉ tiêu khả năng thanh toán. Việc không đáp ứng được tiêu chuẩn này có thể dẫn đến việc các cơ quan quản lý ngành bảo hiểm sẽ kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Việc thiếu khả năng duy trì mức tiêu chuẩn tối thiểu bắt buộc về vốn và lợi nhuận để lại của một doanh nghiệp bảo hiểm được gọi là mất khả năng thanh toán.
Tiêu chuẩn tối thiểu pháp định về vốn và lợi nhuận dự trữ thay đổi giữa các doanh nghiệp bảo hiểm, và được dựa trên cơ sở mức độ rủi ro gắn với các hoạt động đầu tư của một doanh nghiệp bảo hiểm và các sản phẩm kinh doanh cụ thể mà doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp. Một doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện các hoạt động đầu tư có nhiều rủi ro hơn sẽ có một tiêu chuẩn tối thiểu pháp định về vốn và lợi nhuận để lại cao hơn so với một doanh nghiệp bảo hiểm khác. Bằng cách đặt ra các tiêu chuẩn về mức vốn và lợi nhuận để lại tối thiểu dựa trên rủi ro như vậy, kết hợp với quan điểm thận trọng thể hiện trong việc định ra các mức dự trữ chính sách pháp định, các cơ quan quản lý ngành bảo hiểm đã cố gắng đảm bảo rằng mỗi doanh nghiệp bảo hiểm có đủ nguồn lực để thanh toán các khoản thụ hưởng theo hợp đồng và các nghĩa vụ tài chính khác đúng hạn.
Theo Quyết định số 153/2003/QĐ-BTC của Bộ Tài chính, chỉ tiêu khả năng thanh toán áp dụng đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam được cụ thể như sau:
"Chỉ tiêu khả năng thanh toán được tính bằng tỷ lệ giữa nguồn vốn, quỹ xác định biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm và biên khả năng thanh toán tối thiểu theo quy định hiện hành. Nguồn vốn, quỹ để xác định biên khả năng thanh toán là nguồn vốn, quỹ trừ đi số vốn góp vào doanh nghiệp bảo hiểm khác và nợ không có khả năng thu hồi."
Biên khả năng thanh toán tối thiểu bằng tổng của 4% dự phòng nghiệp vụ và 0,1 % số tiền bảo hiểm chịu rủi ro (đối với hợp đồng có thời hạn dưới 5 năm) hoặc 0,3% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro (đối với hợp đồng trên 5 năm).
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Chỉ tiêu khả năng thanh toán
Nguồn vốn, quỹ xác định biên khả năng thanh toán
=
Biên khả năng thanh toán tối thiểu
Khả năng sinh lời
Như chúng ta đã biết, lợi nhuận là phần chênh lệch giữa doanh thu với chi phí. Một doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận ổn định không những đứng vững trong kinh doanh mà còn tăng trưởng doanh thu và tăng thêm tài sản, hoặc giá trị, của doanh nghiệp.
Mặc dù khả năng sinh lời có thể đạt được và đo lường trong một thời kỳ ngắn hạn, nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải luôn nỗ lực theo đuổi khả năng sinh lời dài hạn. Khả năng sinh lời dài hạn giúp cho một doanh nghiệp bảo hiểm có thể:
Có các nguồn tài chính để tài trợ đầu tư
Trả lãi chia cho các hợp đồng có chia lãi
Trả cổ tức cho các cổ đông và tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu doanh nghiệp đối với các nhà đầu tư
Nâng cao thứ hạng từ các tổ chức đánh giá xếp hạng
Cung cấp nguồn tài chính cho việc phát triển sản phẩm, các nhóm sản phẩm, và các kênh phân phối
Cung cấp nguồn tài chính để mở rộng và mua lại các doanh nghiệp khác
Thước đo khả năng sinh lời sử dụng cả báo cáo kết quả kinh doanh và bảng tổng kết tài sản là tỉ lệ lợi tức trên vốn (ROE), đây là một tỉ lệ so sánh giữa các khoản thu nhập sau thuế của doanh nghiệp bảo hiểm với lượng vốn chủ sở hữu tương ứng của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Tỉ lệ này thường được biểu diễn như sau:
ROE = Thu nhập sau thuế/Vốn chủ sở hữu
Tỉ lệ lợi tức trên vốn thể hiện doanh nghiệp bảo hiểm đã sử dụng vốn và lợi nhuận để lại hiệu quả đến mức nào trong việc tạo ra lợi nhuận trong một thời kỳ xác định. Nhìn chung, tỉ lệ lợi tức trên vốn càng cao thì doanh nghiệp càng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thu lợi nhuận. Các tỉ lệ lợi tức trên vốn có thể được tính cho toàn bộ doanh nghiệp, cho từng lĩnh vực kinh doanh, cho một sản phẩm cụ thể, hoặc cho một hệ thống phân phối.
Khi sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT nhằm đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính nhà phân tích có thể thực hiện việc tách ROE như sau:
ROE = (Thu nhập sau thuế)/(Tài sản) x (Tài sản/Vốn chủ sở hữu)
= ROA x EM
= (Thu nhập sau thuế)/(Doanh thu) x (Doanh thu)/(Tài sản) x (Tài sản)/(Vốn chủ sở hữu)
= PM x AU x EM
trong đó:
ROA: Doanh lợi tài sản là một chỉ tiêu tổng hợp được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư, phản ánh mức sinh lời của toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp - khả năng quản trị tài sản của các nhà quản lý doanh nghiệp.
PM: Hiệu suất doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh thu của doanh nghiệp. Khi PM tăng, điều đó thể hiện doanh nghiệp quản lý doanh thu và quản lý chi phí có hiệu quả
AU: Hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu.
EM: Hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn huy động từ bên ngoài.
Trên cơ sở phân tích chi tiết các chỉ số tài chính trên, chúng ta có thể xác định các nguyên nhân cụ thể làm tăng, giảm ROE của doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có được những biện pháp quản trị tài chính hiệu quả góp phần nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Các nhân tố bên ngoài
Doanh nghiệp bảo hiểm không có nhiều khả năng kiểm soát những yếu tố bên ngoài mà thường phải chấp nhận chúng và hoạt động trong đó. Thông qua việc phân tích các nhân tố bên ngoài, doanh nghiệp sẽ trả lời một phần cho câu hỏi: doanh nghiệp đang trực diện với những gì?
Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là yếu tố đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ của các doanh nghiệp. Tình hình kinh tế của đất nước với những đặc điểm về giai đoạn hiện tại của nền kinh tế trong chu kỳ kinh tế (suy thoái, bão hoà hay tăng trưởng), có thể ảnh hưởng đến năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Tỷ lệ lạm phát, lãi suất, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá hối đoái, tốc độ tăng trưởng GDP, triển vọng đầu tư của các ngành nghề kinh tế, cơ cấu chuyển dịch giữa các khu vực kinh tế, khả năng hội nhập với thị trường khu vực và quốc tế, cán cân thanh toán quốc tế… có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh, đến sự biến động tăng giảm về dòng tiền vào, dòng tiền ra của doanh nghiệp và do vậy sẽ ảnh hưởng đến năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Môi trường chính trị pháp luật
Các yếu tố chính trị và pháp luật có ảnh hưởng ngày càng to lớn đến hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm: hệ thống các quan điểm chính sách của Chính phủ, hệ thống luật pháp hiện hành, các xu hướng ngoại giao của Chính phủ, những diễn biến chính trị trong nước, khu vực và trên toàn thế giới. Doanh nghiệp phải tuân thủ theo các quy định về thuế, cho vay, an toàn tài chính, ... Thông qua hệ thống pháp luật, Nhà nước tạo dựng môi trường pháp lý đầy đủ, minh bạch và công bằng để các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động bình đẳng trong kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng trước pháp luật.
Môi trường văn hoá xã hội
Môi trường văn hoá xã hội bao gồm những chuẩn mực và giá trị được chấp nhận và tôn trọng bởi một xã hội hoặc một nền văn hoá cụ thể. Sự tác động của các yếu tố văn hoá xã hội thường có tính dài hạn và tinh tế hơn so với các yếu tố khác, nhiều lúc khó nhận biết được. Tuy nhiên môi trường văn hoá xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thường là các yếu tố sau: quan niệm về thẩm mỹ, đạo đức, lối sống, nghề nghiệp; những phong tục, tập quán, truyền thống; những quan tâm ưu tiên của xã hội; trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội. Doanh nghiệp thông qua đó có thể thiết kế những sản phẩm phù hợp với văn hoá, lối sống, phong tục nhằm nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Môi trường công nghệ
Môi trường công nghệ là một trong những yếu tố rất năng động, chứa đựng nhiều cơ hội và đe doạ đối với các doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp luôn phải cập nhật đối với các công nghệ mới vì bên cạnh những lợi ích mà sự phát triển công nghệ đem lại, nó có thể làm cho sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp lạc hậu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, tác động đến doanh thu sản phẩm, chất lượng dịch vụ và ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Mức độ cạnh tranh trên thị trường
Mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào mối tương quan của các yếu tố như: số lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, mức độ tăng trưởng của ngành và mức độ đa dạng hoá sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, đối thủ không chỉ là những doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ mà còn bao gồm cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính khác như ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các hãng đầu tư, các doanh nghiệp quản lý quỹ, doanh nghiệp chứng khoán... Đặc biệt, trong môi trường toàn cầu hoá và quốc tế hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sự xâm nhập thị trường của các tập đoàn tài chính quốc tế sẽ tạo nên áp lực cạnh tranh và thách thức rất lớn đối với doanh nghiệp trong nước.
Các nhân tố bên trong
Phát triển sản phẩm.
Không phải tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm đều bán tất cả các loại sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Một số doanh nghiệp ban đầu bán nhiều loại sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhưng sau đó chỉ tập trung bán một số loại sản phẩm nhất định có lợi thế vượt trội mà họ có kinh nghiệm và chuyên môn sâu hơn các doanh nghiệp khác.
Vì vậy, một doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ khi gia nhập thị trường cần xác định những cơ hội kinh doanh, khả năng của doanh nghiệp để có những đầu tư ban đầu cần thiết về tài chính, nguồn nhân lực, đồng thời xác định đúng những sản phẩm có thể triển khai, giới hạn một số sản phẩm có thể bán để thiết kế, tính toán phí và các yếu tố tài chính hợp lý nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh mong muốn cũng như góp phần đảm bảo năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Hệ thống phân phối.
Kênh phân phối chính là cầu nối giữa khách hàng và doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ nếu không có kênh phân phối các doanh nghiệp không thể đạt được mục đích kinh doanh với hiệu quả cao.
Với đặc thù của thị trường bảo hiểm là các sản phẩm bảo hiểm rất dễ bắt chước do vậy việc giành được lợi thế cạnh tranh rất khó khăn. Tuy nhiên, nếu tập trung phát triển mạng lưới kênh phân phối để tiêu thụ sản phẩm một cách hợp lý sẽ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm duy trì được lợi thế cạnh tranh dài hạn, bền vững. Tuy nhiên việc tạo lập và phát triển kênh phân phối đòi hỏi phải có thời gian, trí tuệ, sức lực, tiền vốn nên không đễ dàng bị các doanh nghiệp khác làm theo. Chính vì thế năng lực tài chính của doanh nghiệp sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến việc mở rộng và phát triển hệ thống phân phối. Ngược lại, việc triển khai hệ thống phân phối thành công sẽ góp phần nâng cao doanh thu, hiệu quả của doanh nghiệp, từ đó góp phần nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Khả năng phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng đối với sự thành công của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Vì chính con người thu thập dữ liệu, thiết kế sản phẩm, hoạch định mục tiêu, dự báo thị trường, lựa chọn và thực hiện các chiến lược của doanh nghiệp, phát triển hệ thống phân phối, đánh giá rủi ro... và để có kết quả tốt thì không thể thiếu những con người làm việc hiệu quả. Các yếu tố về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, tay nghề và tư cách đạo đức của cán bộ nhân viện; các chính sách nhân sự của doanh nghiệp; khả năng cân đối giữa mức độ sử dụng nhân lực ở mức tối đa và tối thiểu; năng lực, mức độ quan tâm và trình độ của đội ngũ lãnh đạo, quản lý,... chính là những yếu tố phát triển nguồn nhân lực có thể tác động không nhỏ đến kết quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng như năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Công nghệ thông tin
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm phụ thuộc vào hệ thống máy tính hiện đại để tính phí và đánh giá rủi ro, ký kết hợp đồng và giải quyết quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng và cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Họ cũng đầu tư rất nhiều vào việc phát triển hệ thống mạng lưới thị trường, phân phối sản phẩm để những đại diện phân phối có thể tiếp cận khách hàng tiềm năng ngày càng hiệu quả hơn, mang lại doanh thu và hiệu quả ngày càng nhiều. Do vậy có thể nói năng lực tài chính tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp mở rộng và phát triển hệ thống công nghệ thông tin và ngược lại lựa chọn công nghệ thông tin hiệu quả sẽ thúc đẩy doanh nghiệp giảm chi phí quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ, phát triển doanh thu từ đó nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TÀI CHÍNH
CỦA BẢO VIỆT NHÂN THỌ
Khái quát về Bảo Việt Nhân Thọ
Lịch sử phát triển của Bảo Việt Nhân Thọ
Tiền thân của Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Bảo Việt ngày nay là Công ty bảo hiểm Việt Nam (tên thương mại là Bảo Việt) được thành lập theo Quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964.
Trải qua quá trình phát triển, Bảo Việt đã trở thành một Tập đoàn tài chính bảo hiểm kinh doanh đa ngành trên nhiều lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm nhân thọ và đầu tư tài chính.
Sự ra đời của Bảo Việt Nhân Thọ được bắt đầu khi Bảo Việt thành lập doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tại Hà Nội và vào tháng 08/1996 hợp đồng đầu tiên được phát hành, đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam.
Giai đoạn đầu, Bảo Việt đã đầu tư mạnh mẽ cho phát triển mạng lưới kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Năm 2001, Bảo Việt đã thành lập được 61 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, chi nhánh bảo hiểm nhân thọ tại tất cả các tỉnh trên toàn quốc. Sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ đã thể hiện bước đi đúng đắn của Bảo Việt trong việc đáp ứng nhu cầu của đông đảo người dân.
Bảo Việt Nhân thọ chính thức hoạt động và hạch toán độc lập vào ngày 01/01/2004 sau khi Bộ Tài chính đã ký quyết định số 3668/QĐ/BTC ngày 04/12/2003 về việc thành lập Bảo Hiểm Nhân Thọ Việt Nam (tên viết tắt là Bảo Việt Nhân thọ), trực thuộc Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (tên viết tắt là Bảo Việt), với số vốn điều lệ là 1.500 tỷ đồng.
Bảo Việt Nhân thọ là doanh nghiệp hàng đầu trên thị trường bảo hiểm nhân thọ và là doanh nghiệp Việt Nam duy nhất kinh doanh trên thị trường bảo hiểm nhân thọ, am hiểu thị trường, văn hoá, con người Việt Nam nên Bảo Việt Nhân thọ đã thiết kế và cung cấp một hệ thống các sản phẩm bảo hiểm phù hợp, đa dạng về chủng loại, phong phú về quyền lợi, linh hoạt về quá trình tham gia, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của các nhóm khách hàng mục tiêu khác nhau. Bảo đảm lợi ích người Việt- đó là sứ mệnh, phương châm và mục tiêu phấn đấu của Bảo Việt Nhân thọ. Mọi hoạt động của Bảo Việt Nhân thọ luôn hướng tới đảm bảo lợi ích tốt nhất cho khách hàng, luôn là doanh nghiệp gần gũi thân thiết và tin cậy với người dân Việt Nam.
Bộ máy tổ chức hoạt động kinh doanh của Bảo Việt Nhân Thọ
Thực hiện định hướng chuyển đổi từ Tổng công ty thành Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm của Bộ Tài chính, Bảo Việt đã dần thay đổi cơ cấu tổ chức và phát triển theo hướng hình thành Tập đoàn kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Mô hình tổ chức bộ máy của Bảo Việt Nhân Thọ đến thời điểm 31/12/2006 được khái quát hoá theo sơ đồ 2.1 như sau:
Phòng Tài chính Kế toán
Văn phòng
Phòng Xây dựng cơ bản
Phòng Tổ chức cán bộ
Phòng Phát triển đại lý
Phòng Quản lý - đào tạo đại lý
Phòng Nghiên cứu & Phát triển kinh doanh
Trung tâm thông tin
Phòng Marketing
Phòng Quản lý rủi ro
Phòng Quản lý nghiệp vụ
Phòng Phát triển sản phẩm
Ban giám đốc
61 công ty bảo hiểm nhân thọ thành viên
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức bộ máy của Bảo Việt Nhân Thọ
Tình hình hoạt động kinh doanh của Bảo Việt Nhân Thọ
Giai đoạn 2003 - 2006, tình hình tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ nhìn chung lành mạnh, hoạt động kinh doanh tăng trưởng và phát triển tương đối ổn định, đã thực hiện được đa số mục tiêu đề ra (bảng 2.1):
Bảng 2.1: Tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh
của Bảo Việt Nhân thọ giai đoạn 2003-2006
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
1
Tài sản và nguồn vốn
1.1
Tổng tài sản
7.134
9.368
11.015
12.618
1.2
Vốn chủ sở hữu
724
739
755
759
2
Kết quả kinh doanh
2.1
Tổng doanh thu
3.105
3.764
3.871
4.113
2.2
Tổng chi phí
3.099
3.727
3.717
3.882
2.3
Lợi nhuận
6
37
154
231
3
Chỉ tiêu tài chính
3.1
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/Tổng tài sản
0,084%
0,395%
1,398%
1,831%
3.2
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/Vốn chủ sở hữu
0,83%
5,01%
20,4%
30,43%
Nguồn: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam
Trong đó:
Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ: Doanh thu phí bảo hiểm gốc tăng từ 2.671 tỷ đồng năm 2003 lên 3.110 tỷ đồng năm 2006 (tăng 16,44%), tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ bình quân 4 năm đạt 5,37%. Lợi nhuận trước thuế năm 2006 đạt 231 tỷ đồng (năm 2003 là 6 tỷ đồng). Tỷ lệ trả tiền bảo hiểm trên doanh thu phí bảo hiểm bình quân 45,48%/ năm. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/vốn chủ sở hữu của Bảo Việt Nhân Thọ năm 2006 đạt 30,43%.
Đầu tư tài chính: Doanh thu đầu tư tài chính năm 2006 đạt 1.001 tỷ đồng gấp 2,31 lần so với doanh thu đầu tư tài chính năm 2003 đạt 434 tỷ đồng. Tăng trưởng doanh thu đầu tư cao hơn mức tăng trưởng nguồn vốn đầu tư. Hoạt động đầu tư đảm bảo an toàn, hiệu quả và tăng trưởng vững chắc.
Thực trạng năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân thọ
Khả năng về vốn
Nguồn vốn chủ sở hữu là vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp mới được thành lập thì vốn chủ sở hữu do các thành viên đóng góp và hình thành vốn điều lệ. Khi doanh nghiệp đang hoạt động thì ngoài vốn điều lệ còn có một số nguồn khác cùng thuộc nguồn vốn chủ sở hữu như: lợi nhuận không chia, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính,...
Với vốn điều lệ ban đầu là 1.500 tỷ đồng, Bảo Việt Nhân Thọ trở thành doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có vốn điều lệ lớn nhất trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam. (Xem bảng 2.2)
Bảng 2.2: Vốn chủ sở hữu của Bảo Việt Nhân Thọ và các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ khác trên thị trường giai đoạn 2004-2006
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Doanh nghiệp
Vốn điều lệ tính đến thời điểm 2006
Vốn chủ sở hữu
2004
2005
2006
1
Bảo Việt Nhân thọ
1500 tỷ đồng
739
755
759
2
Dai-ichi*
25triệu USD ( 405 tỷ đồng)
149
184
213
3
Prudential
75triệu USD (1215 tỷ đồng)
974
974
1.491
4
Manulife
25triệu USD (405 tỷ đồng)
186
229
484
5
AIA
25triệu USD (405 tỷ đồng)
105
163
101
6
ACE
20triệu USD (324 tỷ đồng)
211
165
7
Prevoir
10triệu USD (1._.ượng tiền mặt tối đa các công ty địa phương, chi nhánh được phép giữ lại.
Thứ hai, trích đúng, đủ các quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện theo quy định của pháp luật
Thứ ba, đảm bảo thực hiện thu phí đủ, kịp thời đúng hạn, hạn chế thấp nhất lượng phí nộp quá hạn. Bảo Việt Nhân Thọ cần xây dựng chương trình thi đua khen thưởng linh hoạt đối với đội ngũ đại lý chuyên thu phí nhằm khuyến khích năng suất làm việc của họ.
Thứ tư, nghiên cứu và thực hiện việc nộp phí bảo hiểm hoặc thanh toán trả tiền bảo hiểm không dùng tiền mặt đối với khách hàng, hướng tới việc giảm dần tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt.
Thứ năm, duy trì và nâng cao mối quan hệ tỷ lệ giữa tốc độ tăng trưởng doanh thu và tốc độ tăng trưởng chi quản lý sao cho tốc độ tăng trưởng doanh thu luôn lớn hơn tốc độ tăng trưởng chi quản lý nhằm đảm bảo khả năng cân đối ngân quỹ của Bảo Việt Nhân Thọ
Thứ sáu, hiện nay hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt Nhân Thọ có số tiền bảo hiểm tương đối thấp, nằm trong hạn mức chấp nhạn rủi ro của Bảo Việt Nhân Thọ. Do vậy, Bảo Việt Nhân Thọ chưa thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm nhân thọ. Tuy nhiên, Bảo Việt Nhân Thọ cần nghiên cứu thực hiện các phương án tái bảo hiểm hợp lý trong dài hạn khi thu nhập người dân ngày càng cao và hợp đồng bảo hiểm có số tiền lớn có xu hướng xuất hiện nhiều nhằm đảm bảo an toàn cho quỹ dự trữ bắt buộc.
Nâng cao trình độ và năng lực thẩm định dự án của cán bộ
Hoạt động đầu tư đóng vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Do đó, năng lực thẩm định các dự án đầu tư của cán bộ là một vấn đề hết sức quan trọng, sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Vì thế, Bảo Việt Nhân Thọ cần tạo dựng và phát triển đội ngũ cán bộ đầu tư năng động, giỏi chuyên môn, am hiểu các lĩnh vực đầu tư để thực hiện đa dạng hoá danh mục đầu tư của doanh nghiệp nhằm bảo toàn vốn, hạn chế mức độ rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời của các dự án. Bảo Việt Nhân Thọ có thể thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ đầu tư của Bảo Việt Nhân Thọ là lực lượng cán bộ trẻ, có nền tảng kiến thức tốt do vậy có thể đẩy mạnh đào tạo và cọ xát với các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thẩm định, quản lý các dự án đầu tư, đầu tư cho cán bộ học các chương trình đạt chuẩn quốc tế về tài chính (chẳng hạn như CFA),...
Thứ hai, kiên toàn mô hình tổ chức bộ máy, thực hiện chuyên môn hoá lĩnh vực đầu tư nhằm đảm bảo mỗi cán bộ đầu tư là một chuyên gia trong từng lĩnh vực đầu tư của Bảo Việt Nhân Thọ.
Thứ ba, đẩy mạnh đầu tư công nghệ thông tin cho quá trình quản lý nghiệp vụ nhằm hỗ trợ các cán bộ đầu tư trong công việc phân tích, thực hiện, thẩm định và đánh giá các dự án đầu tư.
Các giải pháp về nâng cao năng lực quản lý và phát triển nguồn nhân lực
Quản trị doanh nghiệp là một trong những yếu tố nền tảng để xây dựng và phát triển doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp có thể sẽ gia tăng hay giảm sút nếu như doanh nghiệp đó được đánh giá tích cực hay tiêu cực về khả năng quản trị. Do vậy để có thể nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ không thể không nói đến các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị và phát triển nguồn nhân lực của Bảo Việt Nhân Thọ
Nâng cao năng lực quản trị tài chính trong doanh nghiệp
Giải pháp đầu tiên để có thể thực hiện nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ trong nhóm giải pháp này chính là việc đầu tư nâng cao năng lực quản trị tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ:
Thứ nhất, không ngừng nâng cao ý thức chấp hành kỷ cương, pháp luật và năng lực chuyên môn của đội ngũ kế toán, tài chính trong việc tổ chức công tác kế toán một cách hiệu quả, phù hợp với chuẩn mực kế toán nhà nước của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và thông lệ quốc tế góp phần gia tăng giá trị của doanh nghiệp và chiếm lĩnh được lòng tin của nhà đầu tư.
Thứ hai, thực hiện cải cách về quản trị nhân sự thông qua việc bổ nhiệm giám đốc tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ, theo đó thực hiện đào tạo và phát triển để nâng cao năng lực của giám đốc tài chính. Giám đốc tài chính là người dựa trên cơ sở các báo cáo tài chính để kiểm soát được ngân sách của doanh nghiệp, thông qua phân tích để nắm rõ tình tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm chỉ rõ những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp từ đó đánh giá và quyết định phương án tài chính tối ưu khi quyết định các dự án đầu tư và đưa ra các giải pháp hiệu quả huy động ngân quỹ.
Thứ ba, Bảo Việt Nhân Thọ cần chủ động hoạch định chiến lược tài chính trên cơ sở đánh giá tác động của các nhân tố tài chính đến chiến lược phát triển của doanh nghiệp, chủ động xây dựng chiến lược tài trợ cho các dự án có sự cân nhắc đánh giá khả năng sinh lời. Điều cốt yếu là Bảo Việt Nhân Thọ phải xây dựng được một cơ cấu nguồn vốn hợp lý, duy trì và đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp đồng thời đảm bảo có đủ nguồn lực tài chính để thực hiện kinh doanh và mở rộng phát triển các sản phẩm dịch vụ mới.
Nâng cao năng lực quản trị điều hành của đội ngũ quản lý
Với số lượng nhân viên lên tới gần 2.000 người và hệ thống đội ngũ đại lý bảo hiểm nhân thọ chuyên nghiệp trên 20.000 người, để thực hiện tốt về quản trị nhằm đạt được các mục tiêu trong kế hoạch kinh doanh, Bảo Việt Nhân Thọ cũng cần chú trọng đến giải pháp nâng cao năng lực quản trị điều hành của đội ngũ quản lý. Các giải pháp cụ thể là:
Thứ nhất, thực hiện tái cơ cấu Bảo Việt Nhân Thọ theo mô hình tổ chức quản trị nhân sự hiện đại theo đó quyền và trách nhiệm của từng vị trí quản lý được phân định rõ ràng và cụ thể, đảm bảo sự sáng tạo và chủ động của từng thành viên đồng thời vẫn gắn kết thành viên với toàn hệ thống qua một loạt các chỉ tiêu kinh doanh được xác định cụ thể và có tính định lượng theo lộ trình thích hợp nhằm đảm bảo sự chuyển đổi theo hướng tích cực mà không phá vỡ hệ thống.
Thứ hai, ứng dụng các giải pháp ERP (giải pháp về lập kế hoạch quản trị các nguồn lực của doanh nghiệp) vào quản trị doanh nghiệp của Bảo Việt Nhân Thọ. ứng dụng ERP có nội dung chính là đưa ra giải pháp tổng thể cho tin học hoá tác nghiệp và quản trị trong doanh nghiệp. Việc triển khai được ứng dụng ERP sẽ là công cụ hiệu quả giúp cho các nhà lãnh đạo trong việc quản lý các nguồn lực khác nhau (nhân lực - tài lực - vật lực) và tác nghiệp, đồng thời giúp Bảo Việt Nhân Thọ có thể hội nhập các tiêu chuẩn quản lý quốc tế.
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động đào tạo và phát triển năng lực quản lý đối với đội ngũ quản lý cấp trung của Bảo Việt Nhân Thọ về kỹ năng quản trị và chuyên môn. Xây dựng, quy hoạch và phát triển đội ngũ quản lý kế cận nhằm đảm bảo tính ổn định của hệ thống.
Đẩy mạnh hoạt động đào tạo của doanh nghiệp
Với mô hình tổ chức trong Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Bảo Việt có Trung Tâm đào tạo chuyên thực hiện công tác đào tạo trong hệ thống Bảo Việt, Bảo Việt Nhân Thọ sẽ có lợi thế hơn so với các doanh nghiệp khác khi thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nhằm phát triển doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, kênh phân phối chủ yếu để thực hiện phát triển doanh thu được thông qua hệ thống đại lý bảo hiểm nhân thọ. Để nâng cao chất lượng đội ngũ đại lý về kỹ năng bán hàng và quản lý bán hàng, nâng cao chất lượng của đội ngũ nhân viên bao gồm cả nhân viên quản lý đại lý và nhân viên thực hiện các hoạt động nghiệp vụ, việc đẩy mạnh hoạt động đào tạo và phát triển là giải pháp không thể thiếu. Bảo Việt Nhân Thọ cần kết hợp với Trung Tâm Đào tạo thực hiện:
Thứ nhất, rà soát lại các chương trình đào tạo, đánh giá kết quả đào tạo nhằm đảm bảo kế hoạch đào tạo được thực hiện đúng hướng, đảm bảo sự tiến bộ về kỹ năng bán và quản lý bán của hệ thống đại lý bảo hiểm nhân thọ chuyên nghiệp cũng như các kỹ năng công việc của nhân viên.
Thứ hai, thiết kế các chương trình đào tạo mới và tổ chức các hội thảo có sự tham gia, hợp tác của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ở các nước để tạo điều kiện cho đội ngũ đại lý, nhân viên học hỏi kinh nghiệm của các nước bạn,...
Thứ ba, thực hiện thiết kế các chương trình đào tạo sao cho đội ngũ đại lý hoặc nhân viên của Bảo Việt Nhân Thọ nhận thấy mình được tưởng thưởng cho kết quả làm việc hăng say và nhiệt tình sau một thời gian lao động miệt mài thông qua các khoá học thú vị và bổ ích.
Thứ tư, đầu tư mạnh vào đào tạo chuyên sâu các lĩnh vực như actuary (tính phí bảo hiểm), marketing, tài chính, đầu tư theo các chương trình đào tạo đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm hình thành nên một đội ngũ các chuyên gia giỏi phục vụ quá trình phát triển lâu dài của Bảo Việt Nhân Thọ.
Đầu tư phát triển, hiện đại hoá hệ thống công nghệ thông tin
Thiết kế sản phẩm, đánh giá rủi ro, trích lập dự phòng, quản lý hợp đồng, ... là các hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Tuy nhiên các hoạt động trên sẽ không thể thực hiện được nếu không có các phần mềm tin học thống kê và xử lý các dữ liệu thông tin. Chính vì thế, giải pháp hỗ trợ để nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ chính là quá trình hiện đại hoá hệ thống công nghệ thông tin theo hướng tiên tiến, đồng bộ, có tiêu chuẩn quốc tế. Thông qua đó, Bảo Việt Nhân Thọ mới có thể đảm bảo được mức độ chính xác hơn về các số liệu tài chính, trích lập dự phòng, biên khả năng thanh toán nhằm đảm bảo sự tin cậy về các chỉ số tài chính của doanh nghiệp khi đánh giá năng lực tài chính.
Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào trong quản trị, dịch vụ khách hàng, triển khai kênh phân phối sản phẩm mới,... sẽ góp phần tạo đòn bẩy cho sự phát triển của Bảo Việt Nhân Thọ, tạo điều kiện hội nhập mạnh mẽ hơn vào khu vực và quốc tế, gia tăng giá trị của doanh nghiệp, từ đó góp phần nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ.
Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy theo mô hình công ty mẹ - công ty con sau khi cổ phần hoá Bảo Việt
Đẩy mạnh hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy theo mô hình công ty mẹ - công ty con sau khi hoàn tất quá trình cổ phần hoá Bảo Việt theo lộ trình, theo đó:
Thứ nhất, tiến hành thành lập lại doanh nghiệp Bảo Việt Nhân Thọ theo loại hình doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn một thành viên nhằm đảm bảo tư cách pháp nhân đầy đủ cho Bảo Việt Nhân Thọ với các quy định rõ ràng và cụ thể theo Luật Doanh Nghiệp, góp phần đảm bảo sự chủ động cho Bảo Việt Nhân Thọ trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh
Thứ hai, xây dựng và thiết lập quy chế quản lý người đại diện vốn góp tại các doanh nghiệp con do doanh nghiệp mẹ đầu tư vốn theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành nhằm đảm bảo sự phân cấp và phân quyền giữa doanh nghiệp mẹ và doanh nghiệp con, góp phần đảm bảo sự chủ động cho Bảo Việt Nhân Thọ, tránh tình trạng quản lý và phân cấp chưa rõ ràng và đôi khi bằng hành chính mệnh lệnh như tình trạng trước cổ phần hoá.
Các giải pháp hoàn thiện về cơ chế, chính sách
Đồng thời với việc thực hiện các giải pháp nêu trên, để nâng cao năng lực tài chính của các doanh nghiệp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam nói chung và Bảo Việt Nhân thọ nói riêng, Chính phủ cần quan tâm giải quyết tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, Chính phủ cần có chính sách động viên tài chính hướng mạnh và giải phóng triệt để và khơi thông các nguồn lực trong xã hội, khuyến khích mọi thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển kinh doanh để tạo ra năng lực sản xuất, hạ tầng kinh tế - xã hội, trên cơ sở đó nâng cao tiềm lực tài chính của quốc gia.
Thông qua việc xây dựng, ban hành, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Chính Phủ cần chú trọng đảm bảo sự phát triển ổn định của thị trường chứng khoán bao gồm cả thị trường thứ cấp và thị trường sơ cấp, tạo niềm tin lâu dài cho các cá nhân cũng như các tổ chức đầu tư, trong đó có Bảo Việt Nhân Thọ thực hiện các chiến lược đầu tư lâu dài.
Từng bước hoàn thiện và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về bất động sản, thực hiện các chính sách quản lý nhà nước về bất động sản nhằm hình thành thị trường bất động sản theo hướng thị trường. Điều này sẽ rất quan trọng để các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nói chung và Bảo Việt Nhân Thọ nói riêng thực hiện đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình thông qua việc đầu tư vào lĩnh vực bất động sản nhiều tiềm năng tăng trưởng về lợi nhuận nhưng cũng khá nhiều rủi ro.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam. Nhằm định hướng và tạo khung pháp lý cho thị trường bảo hiểm Việt Nam , thúc đẩy sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ, trong những năm tới, môi trường pháp lý cho hoạt động bảo hiểm ở nước ta cần phải có bước cải thiện tích cực theo hướng sau đây:
Rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật bảo hiểm, sửa chữa những vấn đề chưa nhất quán hoặc không còn phù hợp, bổ sung các văn bản pháp luật để tạo tính đồng bộ của hệ thống, Bộ Tài chính cần nhanh chóng ban hành các Thông tư quy định chi tiết Nghị định 45 và Nghị định 46 ban hành năm 2007 của Chính phủ với những quy định có tính chặt chẽ, đầy đủ và hiệu quả hơn trong việc giám sát và quản lý các doanh nghiệp bảo hiểm, nâng cao chất lượng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, đề xuất với Chính phủ điều chỉnh theo hướng dần nới lỏng, bãi bỏ những quy định ràng buộc cứng nhắc làm hạn chế sự phát triển của thị trường bảo hiểm như: rút ngắn thời gian và thủ tục đăng ký, cấp phép lưu hành sản phẩm mới.
Điều chỉnh khung tỷ lệ hoa hồng theo Luật kinh doanh bảo hiểm - áp dụng đối với từng sản phẩm tuỳ thuộc vào mức độ phức tạp trong quá trình khai thác đồng thời bổ sung tăng hoa hồng đối với các dòng sản phẩm mới.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các vấn đề lý luận về bảo hiểm và tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, luận văn đã đề cập những vấn đề cơ bản về năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ thông qua các chỉ tiêu tài chính về quy mô vốn, dự phòng nghiệp vụ, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó luận văn cũng nghiên cứu về những tác động của các nhân tố bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp ảnh hưởng đến năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Luận văn đã nghiên cứu thực trạng năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ trong giai đoạn vừa qua (2004-2006) để từ đó nhận thấy rằng Bảo Việt Nhân Thọ cho dù là một trong những doanh nghiệp nhà nước lớn nhất của Việt Nam song quy mô vốn còn nhỏ, chất lượng hoạt động kinh doanh còn chưa tốt, các chỉ tiêu về khả năng thanh toán và khả năng sinh lời cần cải thiện, khả năng chiếm lĩnh thị trường còn hạn chế. Do vậy, chỉ có thể thông qua việc nâng cao năng lực tài chính, Bảo Việt Nhân Thọ mới có thể đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu tài chính cho việc nâng cao chất lượng về dịch vụ, mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng cường đa dạng hoá danh mục đầu tư... góp phần tăng trưởng doanh thu, chiếm lĩnh thị phần, tăng cường về khả năng cạnh tranh từ đó cải thiện về chất lượng của các chỉ số tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ, thúc đẩy Bảo Việt Nhân Thọ hướng mạnh mẽ đến công cuộc hội nhập với khu vực và thế giới.
Luận văn đã đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ thông qua các nhóm giải pháp về tăng quy mô vốn chủ sở hữu, về nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tiếp, về nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vốn, về nâng cao năng lực quản lý và phát triển nguồn nhân lực cũng như một số giải pháp hoàn thiện về cơ chế chính sách.
Luận văn đã cố gắng nghiên cứu tổng hợp nguồn tài liệu trong và ngoài nước. Tuy nhiên do đối tượng, phạm vi và thời kỳ nghiên cứu của luận văn khá rộng và sâu, nên luận văn còn có những hạn chế do các nguyên nhân khách quan như: bảo hiểm nhân thọ là lĩnh vực kinh doanh mới thực sự hoạt động ở Việt Nam chưa lâu, Bảo Việt Nhân Thọ mới thực sự được tách ra hoạt động độc lập từ năm 2004 đến nay; sự thay đổi về cơ cấu tổ chức và cách thức quản lý thay đổi khá nhanh trong giai đoạn vừa qua; cơ chế quản lý và chính sách quản lý bảo hiểm nhân thọ đang trong quá trình hoàn thiện... nên các thông tin, số liệu phục vụ đánh giá tình hình tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ còn chưa đầy đủ, chưa phù hợp và đồng bộ để có thể đánh giá toàn diện. Do vậy luận văn cần được tiếp tục nghiên cứu kỹ hơn trong thời gian tới khi mà ngành bảo hiểm nhân thọ Việt Nam phát triển ổn định hơn, môi trường phát triển của doanh nghiệp bảo hiểm ngày một hoàn thiện hơn. Luận văn hy vọng sẽ giúp ích cho việc nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của Bảo Việt Nhân Thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng như hội nhập với khu vực và thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Bộ Tài chính (2005), Thị trường bảo hiểm Việt Nam 2005, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, (2), tr 11-13.
Bộ Tài chính (2006), Thị trường bảo hiểm Việt Nam 2006, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, (1), tr 7.
Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 99/2004/TT-BTC ngày 19 tháng 10 năm 2004 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2001 của Chính phủ quy định Chế độ Tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
Bộ Trưởng Bộ Tài chính (2005), Quyết định số 153/2003/QĐ-BTC ngày 22 tháng 9 năm 2003 ban hành hệ thống chỉ tiêu giám sát doanh nghiệp bảo hiểm.
Chính Phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.
Chính Phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Nghị định số 46/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
Chính Phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Nghị định số 139/2007/NĐ-CP ngày 5 tháng 9 năm 2007 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp.
David Bland (1998), Bảo hiểm - Nguyên tắc và thực hành, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
PGS.TS Lưu Thị Hương (chủ biên) (2005), Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Trần Thị Mai Hương (2006), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
Lưu Phương Lan (2005), Giải pháp nâng cao năng lực tài chính để tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm cổ phần ở Việt Nam, luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
Hiệp hội bảo hiểm, Bản tin hiệp hội năm 2003, 2004, 2005, 2006
Học viện Tài chính (2005), Giáo trình nghiệp vụ bảo hiểm, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
Navigos Group (2007), Hướng dẫn bổ sung cho báo cáo khảo sát lương Việt nam 2007 kỳ hạn báo cáo từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2007.
Lê Hải Phong (2006), Hệ thống chỉ tiêu đánh giá tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam, luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khoá X, kỳ họp thứ 8 (2000), Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khoá XI, kỳ họp thứ 8 (2005), Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005.
Tập đoàn Bảo Việt, Điều lệ Tập đoàn Bảo Việt, 2007
Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg ngày 29 tháng 08 năm 2003 phê duyệt "Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010"
Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (2003, 2004, 2005, 2006), Báo cáo thường niên 2003, 2004, 2005, 2006, Hà Nội
Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (2004, 2005, 2006), Báo cáo tài chính Bảo Việt Nhân Thọ , Hà Nội
Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (2007), Bản công bố thông tin Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam tổ chức thực hiện đấu giá, Hà Nội.
Trường đại học kinh tế quốc dân (2003), Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Trường đại học kinh tế quốc dân (2003), Giáo trình bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản văn hoá thông tin, Hà Nội, (3), tr 1172.
(trích phát biểu của Thủ tướng Chính phủ tại Hội thảo), (5)
Tiếng Anh
Business Monitor International (2007), Vietnam Insurance Report Q4 2006 (including 5-years industry forecasts), Business Monitor International ltd, (6)
LOMA 280: John P.Burger, Beth Burnett-Balga, Donna L.Dorris, Gene Stone, Principles of Insurance: Life, Health and Annuities, Printed in USA, Copyright 1999.
LOMA 290: Gene Stone, Life and Health Insurance Company Operations, Printed in USA, Copyright 2000.
LOMA 301: Jane Lightcap Brown, Kristen L. Falk, Insurance Administration, Printed in USA, Copyright 2002.
LOMA 351: Frederic S.Mishkin, Stanley G.Eakins, Financial Services Environment, Printed in USA, Copyright 1998.
LOMA 356: Lawrence J.Gitman, Michael D.Joehnk, Investment Principles and Institutional Investing, Printed in USA, Copyright 2004.
28/9/2007, (4)
PHỤ LỤC I : TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VÀ KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA BẢO VIỆT NHÂN THỌ
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
I. Tổng tài sản
7.134.749
9.368.068
11.015.309
12.617.920
1. Tài sản đầu tư và tài sản cố định
6.846.898
8.722.593
10.276.497
11.553.858
2.Tài sản lưu động và tài sản khác
287.851
645.475
738.812
1.064.062
II. Tổng nguồn vốn
7.134.749
9.368.068
11.015.309
12.617.920
1. Nguồn vốn chủ sở hữu
724.200
739.291
755.039
759.486
2. Trích dự phòng nghiệp vụ
6.326.871
8.449.009
9.915.732
11.156.029
3. Nợ phải trả
83.678
179.768
344.538
702.405
III.Tổng thu
3.105.354
3.764.503
3.870.991
4.113.111
1. Doanh thu phí bảo hiểm gốc
2.671.446
3.043.312
3.063.564
3.110.509
2. Doanh thu đầu tư tài chính
433.858
720.751
806.406
1.001.157
3. Doanh thu khác
50
440
1.021
1.445
IV. Tổng chi
3.099.217
3.727.193
3.716.814
3.882.098
1. Chi trả tiền bảo hiểm
746.858
1.086.075
1.658.852
1.995.670
2. Chi phí hoạt động
491.846
887.267
592.781
648.441
3. Trích lập dự phòng
1.860.513
1.753.851
1.465.181
1.237.987
III. Lợi nhuận trước thuế
6.137
37.310
154.177
231.013
1. Lợi nhuận từ kinh doanh BH
-15,606
-2,746
94,684
81,140
2. Lợi nhuận từ đầu tư tài chính
22,005
39,619
58,516
148,489
3. Lợi nhuận khác
-0,262
0,437
0,977
1,384
IV. Lợi nhuận sau thuế
4,419
26,863
111,007
166,329
Nguồn: Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam 2003-2006
PHỤ LỤC II: TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG CỦA VỀ TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA BẢO VIỆT NHÂN THỌ
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
2004/2003
2005/2004
2006/2005
Bình quân
I. Tổng tài sản
31.30%
17.58%
14.55%
21.14%
1. Tài sản đầu tư và tài sản cố định
27.39%
17.81%
12.43%
19.21%
2.Tài sản lưu động và tài sản khác
124.24%
14.46%
44.02%
60.91%
II. Tổng nguồn vốn
31.30%
17.58%
14.55%
21.14%
1. Nguồn vốn chủ sở hữu
2.08%
2.13%
0.59%
1.60%
2. Trích dự phòng nghiệp vụ
33.54%
17.36%
12.51%
21.14%
3. Nợ phải trả
114.83%
91.66%
103.87%
103.45%
III. Tổng thu
21.23%
2.83%
6.25%
10.10%
1. Doanh thu phí bảo hiểm gốc
13.92%
0.67%
1.53%
5.37%
2. Doanh thu đầu tư tài chính
66.13%
11.88%
24.15%
34.05%
3. Doanh thu khác
780.00%
132.05%
41.53%
317.86%
IV. Tổng chi
20.86%
-0.77%
4.45%
8.14%
1. Chi trả tiền bảo hiểm
45.42%
52.74%
20.30%
39.49%
2. Chi phí hoạt động
80.40%
-33.19%
9.39%
18.86%
3. Trích lập dự phòng
-5.73%
-16.46%
-15.51%
-12.57%
V. Lợi nhuận trước thuế
507.95%
313.23%
49.84%
290.34%
1.Lợi nhuận từ kinh doanh BH
-14.30%
2.Lợi nhuận từ đầu tư tài chính
80.05%
47.70%
153.76%
93.83%
3.Lợi nhuận khác
123.57%
41.66%
Nguồn: Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam 2003-2006
PHỤ LỤC III: MỘT SỐ CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH
CỦA NGÀNH BẢO HIỂM NHÂN THỌ TRÊN THẾ GIỚI
(Benchmark of life insurance from www.reuters.com updated 28/9/2007)
Chỉ tiêu tài chính
Tỷ lệ
Doanh thu 1 năm
15.7%
Doanh thu 5 năm
9.9%
ROA 1 năm
2.0%
ROA 5 năm
1.0%
ROE 1 năm
19.4%
Nợ/Vốn chủ sở hữu 1năm
66.9%
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
2.1
Tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của Bảo Việt Nhân Thọ giai đoạn 2003-2006
33
2.2
Vốn chủ sở hữu của Bảo Việt Nhân Thọ và các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ khác trên thị trường giai đoạn 2004-2006
35
2.3
Một số chỉ tiêu tài chính vốn chủ sở hữu của Bảo Việt Nhân Thọ và các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ khác trên thị trường giai đoạn 2004-2006
36
2.4
Dự phòng nghiệp vụ Bảo Việt Nhân Thọ giai đoạn 2003-2006
39
2.5
Tỷ trọng trích lập dự phòng nghiệp vụ Bảo Việt Nhân Thọ giai đoạn (2003-2006)
40
2.6
Tỷ trọng tổng dự phòng nghiệp vụ trong tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trên thị trường Việt Nam(giai đoạn 2004-2006)
42
2.7
Một số chỉ tiêu về khả năng thanh toán của Bảo việt nhân thọ (giai đoạn 2003-2006)
44
2.8
Một số chỉ tiêu tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ (Giai đoạn 2003-2006)
48
Số hiệu
Tên bảng
Trang
2.9
Doanh thu của Bảo Việt Nhân Thọ (Giai đoạn 2003-2006)
49
2.10
Lợi nhuận của Bảo Việt Nhân Thọ (Giai đoạn 2003-2006)
52
2.11
Chi phí của Bảo Việt Nhân Thọ (Giai đoạn 2003-2006)
53
2.12
Cơ cấu đầu tư của Bảo Việt Nhân Thọ(giai đoạn 2004 - 2006)
54
2.13
Tỷ trọng cơ cấu đầu tư của Bảo Việt Nhân Thọ (giai đoạn 2004 - 2006)
55
2.14
Cơ cấu doanh thu đầu tư của Bảo Việt Nhân Thọ (giai đoạn 2004 - 2006)
57
2.15
Hiệu quả hoạt động đầu tư của Bảo Việt Nhân Thọ (giai đoạn 2004 - 2006)
58
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hiệu
Tên sơ đồ
Trang
2.1
Mô hình tổ chức bộ máy của Bảo Việt Nhân Thọ
32
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các bảng biểu
Danh mục các sơ đồ
Tóm tắt luận văn
MỞ ĐẦU 1
Chương 1- Năng lực tài chính của các doanh nghiệp Bảo Hiểm Nhân Thọ 4
1.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ 4
1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ 6
1.1.2. Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm nhân thọ 7
1.1.3. Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ 8
1.1.4. Những hoạt động cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 10
1.1.4.1. Hoạt động khai thác bảo hiểm 10
1.1.4.2. Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm 11
1.1.4.3. Hoạt động chi trả quyền lợi bảo hiểm 12
1.1.4.4. Hoạt động đầu tư 12
1.2. Năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 13
1.2.1. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 13
1.2.1.1. Hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 13
1.2.1.2. Hoạt động đầu tư tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 15
1.2.1.3. Hoạt động thu chi của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 15
1.2.2. Năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 17
1.2.2.1. Khái niệm về năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 17
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 18
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 25
1.3.1. Các nhân tố bên ngoài 25
1.3.2. Các nhân tố bên trong 27
Chương 2- Thực trạng năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân thọ 30
2.1. Khái quát về Bảo Việt Nhân Thọ 30
2.1.1. Lịch sử phát triển của Bảo Việt Nhân Thọ 30
2.1.2. Bộ máy tổ chức hoạt động kinh doanh của Bảo Việt Nhân Thọ 31
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Bảo Việt Nhân Thọ 33
2.2. Thực trạng năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân thọ 34
2.2.1. Khả năng về vốn 34
2.2.2. Tình hình trích lập dự phòng nghiệp vụ Bảo Việt Nhân Thọ 38
2.2.3. Khả năng thanh toán 43
2.2.4. Khả năng sinh lời 47
2.2.4.1. Hiệu suất sinh lời của doanh thu (PM) 48
2.2.4.2. Suất sinh lời của tài sản(ROA) 49
2.2.4.3. Đòn bẩy tài chính 50
2.2.4.4. Suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE) 50
2.2.4.5. Hoạt động đầu tư của Bảo Việt Nhân Thọ 53
2.3. Đánh giá năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ trên thị trường bảo hiểm nhân thọ hiện nay 58
2.3.1. Những kết quả tích cực đạt được 58
2.3.2. Hạn chế 59
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế 61
2.3.3.1. Nguyên nhân từ bản thân doanh nghiệp 61
2.3.3.2. Nguyên nhân từ bên ngoài doanh nghiệp 64
Chương 3- Giải pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân thọ 67
3.1. Mục tiêu chiến lược phát triển của Bảo Việt Nhân Thọ 67
3.1.1. Cơ hội đối với Bảo Việt Nhân Thọ 67
3.1.1.1. Điều kiện kinh tế Việt Nam 67
3.1.1.2. Điều kiện văn hóa xã hội 68
3.1.1.3. Công nghệ thông tin 69
3.1.1.4. Môi trường pháp luật 69
3.1.1.5. Cải cách doanh nghiệp nhà nước 69
3.1.1.6. Mở cửa thị trường 70
3.1.1.7. Sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam 70
3.1.1.8. Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Bảo Việt 71
3.1.2. Thách thức đối với Bảo Việt Nhân thọ 71
3.1.2.1. Mở cửa thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế 71
3.1.2.2. Môi trường pháp luật 72
3.1.2.3. Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội 72
3.1.2.4. Môi trường đầu tư 73
3.1.2.5. Sản phẩm thay thế 73
3.1.2.6. Công nghệ thông tin 73
3.1.2.7. Nguồn nhân lực 74
3.1.3. Mục tiêu chiến lược phát triển của Bảo Việt Nhân thọ trong giai đoạn 2006-2010 74
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt Nhân thọ 76
3.2.1. Các giải pháp tăng quy mô vốn chủ sở hữu 76
3.2.1.1. Tăng vốn chủ sở hữu thông qua quá trình cổ phần hóa Bảo Việt 77
3.2.1.2. Bổ sung vốn từ nguồn lợi nhuận để lại 78
3.2.1.3. Cổ phần hóa Bảo Việt Nhân Thọ 78
3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tiếp 79
3.2.2.1. Thực hiện nghiên cứu, đổi mới và phát triển các sản phẩm mới 79
3.2.2.2. Xây dựng chiến lược Marketing hiệu quả 80
3.2.2.3. Thực hiện tốt công tác đánh giá rủi ro 82
3.2.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vốn 83
3.2.3.1. Thực hiện đa dạng hóa hoạt động đầu tư 83
3.2.3.2. Thực hiện có hiệu quả quản lý ngân quỹ 84
3.2.3.3. Nâng cao trình độ và năng lực thẩm định dự án của cán bộ 85
3.2.4. Các giải pháp về nâng cao năng lực quản lý và phát triển nguồn nhân lực 86
3.2.4.1. Nâng cao năng lực quản trị tài chính trong doanh nghiệp 86
3.2.4.2. Nâng cao năng lực quản trị điều hành của đội ngũ quản lý 87
3.2.4.3. Đẩy mạnh hoạt động đào tạo của doanh nghiệp 88
3.2.4.4. Đầu tư phát triển, hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin 89
3.2.4.5. Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy theo mô hình công ty mẹ - công ty con sau khi cổ phần hóa Bảo Việt 89
3.2.5. Các giải pháp hoàn thiện về cơ chế, chính sách 90
KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
PHỤ LỤC 98
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0072.doc