Lời giới thiệu
Với sự phát triển mạnh mẽ của các công ty bảo hiểm nhân thọ cạnh tranh đã và đang tạo ra những tác động không nhỏ tới Bảo Việt theo cả hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực: Việc cạnh tranh với những đối thủ có bề dày kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ trên thị trường thế giới, có công nghệ kĩ thuật hiện đại, có phương pháp quản lý tiên tiến đã giúp cho Bảo Việt tự nhìn nhận, đánh giá lại mình để rút ra những điểm còn hạn chế, nhằm đề ra nhữn
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực quản lý tại Công ty Bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g giải pháp khắc phục. Bên cạnh đó đây còn là điều kiện tốt để Bảo Việt tiến hành xem xét, nghiên cứu và chắt lọc những điểm tiến bộ của đối thủ để áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của mình. Tuy nhiên, việc phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trên thị trường cũng đồng nghĩa với việc sức ép cạnh tranh đối với Bảo Việt ngày càng tăng cao và hệ quả tất yếu là sự chia sẽ về khách hàng và thị phần,là khó khăn trong tuyển dụng đại lý...Và mặc dù trong những năm qua với sự tăng trưởng và phát triển như vũ bảo của bảo hiểm Việt Nam, song so với các ngành khác thì Bảo Việt vẫn còn bộc lộ những hạn chế chứng tỏ sự non nớt của mình trên thị trường tài chính Việt Nam. Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu tại công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá. Tôi thấy rằng điểm hạn chế nhất đó chính là vấn đề quản lý công ty. Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài “Nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy quản lý ở công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá” Với mục tiêu đóng góp một số ý kiến của mình, hy vọng làm một điều gì đó nhằm khắc phục những hạn chế mà công ty đang gặp phải để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trong môi trường cạnh tranh đầy khốc liệt của thị trường tài chính Việt Nam
Chuyên đề này tôi chỉ xin trình bày trong một phạm vi nhất định.Cơ cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
+ Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ và bộ máy quản lý
+ Chương II: Thực trạng về năng lực hoạt động của bộ máy quản lý trong công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hóa hiện nay
+ Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy quản lý
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp ở công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hóa và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tâm của phó giáo sư tiến sĩ Đoàn Thị Thu Hà đã giúp tôi hoàn thiện đề tài này.
Phần nội dungchương I
Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ và bộ máy quản lý của công ty
I . Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ
1 . Khái niệm về bảo hiểm nhân thọ
Có thể hiểu một cách ngắn gọn, bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, trong đó:
Công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm khi có sự kiện định trước liên quan đến cuộc sống con người xảy ra như: người được bảo hiểm bị chết, người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, người được bảo hiểm sống đến một thời điểm xác định trước
Người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm theo quy định cho công ty bảo hiểm.
Bảo hiểm nhân thọ nói chung có nhiều loại: Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, bảo hiểm suốt cuộc đời, bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn, bảo hiểm hiểm trợ cấp hưu trí v.v Ngoài ra còn có các điều khoản bổ sung cho các hợp đồng chính : bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm chi phí nằm viện, bảo hiểm các bệnh hiểm nghèo
2. Những đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ:
Năm 1996 được sự uỷ quyền của thủ tướng chính phủ, Bộ tài chính ra quyết định thành lập lại tổng công ty bảo hiểm việt nam, được nhà nước xếp loại” doanh nghiệp nhà nước xếp hạng đặc biệt”. Sở dĩ được xếp hạng đặc biệt là vì bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng có những đặc điểm rất khác biệt so với các sản phẩm khác
Thứ nhất: Bảo hiểm nhân thọ là một loại hình dịch vụ tài chính, một sản phẩm vô hình, người mua bảo hiểm đóng tiền ( thường là đóng định kỳ) cho doanh nghiệp bảo hiểm nhưng chỉ nhận lại một lời cam kết sẽ được trả tiền khi những sự kiện bảo hiểm được xác định trước ( sống đến một thời điểm, chết ,thương tật) phát sinh mà không biết chắc sự kiện đó có xảy ra hay không cũng như không biết chắc sự kiện đó có xảy ra hay không cũng như không xác định được thời điểm phát sinh sự kiện đó( trừ trường hợp sống). Do vậy khác với các hàng hoá thông thường, người mua BHNT không thể dùng thử để để biết chất lượng sản phẩm mà chỉ có thể dùng thật, đã dùng thật là dùng trong thời hạn dài. Hơn thế nữa, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ còn là một sản phẩm khá phức tạp và có tính trừu tượng cao, nên nhiều khi người mua bảo hiểm không thể hình dung hết được về sản phẩm bảo hiểm
Thứ hai: Bảo hiểm nhân thọ có đối tượng kinh doanh rất đặc biệt, đó là rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống sức khoẻ con người( có thể nói, BHNT gắn liền với chu kì” sinh, lão, bệnh, tử” của con người), do vậy BHNT không thể bù đắp lại được những tổn thất về sinh mạng, sức khỏe khả năng lao động và tinh thần cho người được bảo hiểm và người thân của họ mà chỉ bù đắp lại một phần nào những thiệt hại về mặt tài chính mà những tổn thất này gây ra. Chính vì vậy,với trường hợp phạm vi bảo hiểm chỉ là rủi ro, BHNT là một trong số ít sản phẩm mà người mua rồi không mong muốn được nhận quyền lợi bảo hiểm , thay vào đó là họ muốn tìm sự thanh thản , sự bảo vệ, cảm giác đầy trách nhiệm trước người thân. Cũng do có đối tượng kinh doanh rất đặc biệt, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cũng cần biết cảm thông, chia sẽ trước những rủi ro, mất mát của khách hàng. Đây chính là chủ nhân trong kinh doanh BHNT. Đồng thời với cơ chế bù đắp tài chính, khắc phục hậu quả của rủi ro, hỗ trợ tài chính khi không còn khả năng lao động( Đặc biệt là qua các sản phẩm hưu trí), chúng ta có thể thấy, BHNT còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Thứ ba: Nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ là nhu cầu thụ động, khách hàng rất ít khi chủ động tìm đến doanh nghiệp để mua bảo hiểm nhân thọ mà thường chỉ mua bảo hiểm sau khi được người bán bảo hiểm thuyết phục, vận động (thường là qua rất nhiều lần). Một điểm đáng chú ý nữa là, theo thống kê tại các thị trường BHNT lớn như Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan, người quyết định mua bảo hiểm nhân thọ phần lớn không dưới 75% là phụ nữ.
Thứ tư: Bảo hiểm nhân thọ là sản phẩm dài hạn, thời hạn bảo hiểm là 5 năm, 10 năm, 20 năm, nhiều khi là cả đời người . Do vậy khi tham gia bảo hiểm nhân thọ khách hàng luôn đặt ra những câu hỏi liên quan đến tương lai ( tương lai xa, rất xa) như: liệu đến khi hợp đồng đáo hạn doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ còn tồn tại hay không? doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán tiền bảo hiểm đã cam kết hay không Thực tế triển khai BHNT của Bảo Việt cũng như của các công ty bảo hiểm nhân thọ khác hoạt động tại thị trường Việt Nam cho thấy, các sản phẩm ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu. Vừa là một sản phẩm dài hạn lại vừa là sản phẩm hình thức nên càng làm cho bảo hiểm nhân thọ càng trở nên đặc biệt, do đó việc tạo lòng tin nơi khách hàng đóng vai trò tối quan trọng trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Kinh nghiệm triển khai bảo hiểm nhân thọ tại thị trường Việt Nam đã cho thấy uy tín doanh nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định việc tham gia bảo hiểm nhân thọ của khách hàng
Thứ năm: Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là sản phẩm bán lẻ là chủ yếu, đại đa số khách hàng là cá nhân quyết định mua BHNT của họ rất ít chịu tác động, chi phối bởi yếu tố quyền lực hay các yếu tố khác, do vậy việc khách hàng tham gia tại doanh nghiệp nào phụ thuộc rất lớn vào khả năng chinh phục nhân tâm công chúng của doanh nghiệp đó.
Do những đặc điểm đó mà các doanh nghiệp phải cần xây dựng hình ảnh doanh nghiệp và quảng cáo trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ có những nét khác biệt so với các lĩnh vực khác
3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ
BHNT có vai trò rất quan trọng đối với mỗi cá nhân, mỗi gia đình, đối với từng doanh nghiệp và toàn xã hội.
Đối với từng cá nhân, gia đình:
Xét trên khía cạnh tinh thần, tham gia BHNT thể hiện sự quan tâm, lo lắng của người chủ gia đình đối với những người phụ thuộc, của cha mẹ đối với con cái làm cho tình cảm gia đình thêm keo sơn, thắm thiết và hạnh phúc. Đồng thời, BHNT còn góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống cho các cá nhân và gia đình bằng sự hỗ trợ về tài chính khi không may họ gặp phải rủi ro. Từ đó, BHNT là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân giúp họ yên tâm lao động sản xuất.
Mặt khác, BHNT còn góp phần rất lớn để từng gia đình thực hiện kế hoạch tài chính thông qua tiết kiệm, tạo quỹ giáo dục giành cho con cái, có tiền chi dùng khi về hưu...Từ cơ chế thu phí, các doanh nghiệp BHNT buộc họ phải thực hiện tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch nhờ khoản phí bảo hiểm họ phải đóng định kỳ.
Đối với các cơ quan, doanh nghiệp:
Lợi ích đầu tiên đối với các doanh nghiệp là ở chỗ nó làm ổn định tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đề tài chính. Nếu vì một lý do nào đó người chủ chốt trong các có quan, doanh nghiệp bị chết hay thương tật vĩnh viễn thì họ sẽ nhận được một số tiền để lo chi phí cho người bị thiệt mạng và một khoản để có thể tuyển dụng người khác thay thế tiếp tục công việc
Hai là khi người chủ sử dụng lao động tham gia BHNT cho người lao động của mình thì không những quyền lợi của người lao động tăng lên mà còn thể hiện được sự quan tâm, lo lắng của họ đối với người làm công. Từ đó làm giảm bớt khoảng cách, xoa dịu mâu thuẫn giữa chủ và thợ, kích thích người lao động gắn bó hơn với doanh nghiệp và làm việc hiệu quả hơn, mang về cho doanh nghiệp nhiều lợi hơn.
Đối với xã hội:
Một trong những vai trò của BHNT đối với xã hội chính là nâng cao phúc lợi cộng đồng. Khi tham gia BHNT tức là người dân đã tuân theo quy luật số đông - rủi ro của họ sẽ được san sẻ cho nhiều người. Mặt khác, cuộc sống của người dân khi về già gặp không ít khó khăn, với sự ra đời của BHNT đặc biệt là sản phẩm “niên kim nhân thọ” sẽ giảm bớt một phần nỗi lo âu về tài chính của họ, bớt đi gánh nặng trách nhiệm của con cái và xã hội.
Không thể không đề cập tới vai trò tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi từ trong dân chúng của BHNT. Mỗi cá nhân mua BHNT là một cách tự bảo vệ mình, đồng thời còn tạo ra một quỹ tiết kiệm cho mình. Đối với doanh nghiệp BHNT thì mỗi một quỹ tiết kiệm góp lại thành quỹ bảo hiểm tập trung - một quỹ đầu tư dài hạn, đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Cũng từ đó mà làm tăng nhu cầu tuyển dụng lao động của các ngành, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động, tránh hiện tượng lãng phí nguồn nhân lực. Ngoài ra, bản thân sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp BHNT cũng đã giải quyết công ăn việc làm cho rất nhiều người, chính là mạng lưới đại lý rộng khắp và ngày càng gia tăng không ngừng của các doanh nghiệp này.
4. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ:
Hiện nay ở trên thế giới và Việt Nam đều tồn tại 3 loại hình bảo hiểm như sau:
+ Bảo hiểm trong trường hợp chết.
+ Bảo hiểm trong trường hợp sống.
+ BHNT hỗn hợp.
Đấy là ba loại hình bảo hiểm cơ bản tồn tại trên thị trường bảo hiểm hiện nay. Tuy nhiên trong quá trình tham gia bảo hiểm thì người mua bảo hiểm còn áp dụng các điều khoản bổ sung như: Bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm không nộp phí khi thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạ ... a. Bảo hiểm trong trường hợp chết:
Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành hai nhóm: Bảo hiểm tử kỳ và Bảo hiểm nhân thọ trọn đời.
- Bảo hiểm tử kỳ.
Loại hình bảo hiểm này còn được gọi là bảo hiểm sinh mạng có thời hạn: Nó tiến hành bảo hiểm cho cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào như: Tai nạn, bệnh tật .v.v...miễn là thời điểm xảy ra tai nạn trong thời gian hợp đồng bảo hiểm vẫn còn hiệu lực.Nếu tai nạn xảy ra vào lúc hợp đồng còn hiệu lực thì nhà kinh doanh bảo hiểm phải trả cho người tham gia bảo hiểm một khoản tiền đúng bằng số tiền bồi thường như trong hợp đồng đã cam kết. Nếu tai nạn xảy ra vào thời điểm hợp đồng đã hết hiệu lực thì nhà kinh doanh bảo hiể
-Bảo hiển nhân thọ trọn đời:
BHNT trọn đời, hay còn gọi là bảo hiểm trường sinh. Hình thức bảo hiểm của loại hình này là: Cam kết trả một khoản tiền bồi thường đúng như trong hợp đồng quy định khi người tham gia bảo hiểm sống đến hết cuộc đời của mình. Vì thời điểm chết của người tham gia bảo hiểm là không xác định nên thời hạn hợp đồng là không xác định
Loại hình bảo hiểm này có một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Thời hạn bảo hiểm không xác định.
+ STBH trả một lần khi người được bảo hiểm chết bất cứ lúc nào.
+ Phí bảo hiểm của loại này lớn hơn của Bảo hiểm tử kỳ.
+ Phí đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm.
BHNT trọn đời được triển khai nhằm thoả mãn nhiều mục đích khác nhau:
+ Đảm bảo cuộc sống của gia đình và người thân sau cái chết của người được bảo hiểm.
+ Giữ gìn tài sản cho thế hệ sau.
+ Mua sắm tài sản cho gia đình và người thân theo kế hoạch đã định trước.
+ Tiết kiệm.
b. Bảo hiểm trong trường hợp sống:
Bảo hiểm trong trường hợp sống hay còn gọi là bảo hiểm sinh kỳ, là loại hình bảo hiểm mà thực chất là người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thí sẽ không được chi trả bất cứ một khoản tiền nào.
Bảo hiểm sinh kỳ có một số đặc điểm chính sau:
+ Thời hạn bảo hiểm có thể xác định (gọi là niên kim nhân thọ tạm thời), có thể không xác định (gọi là niên kim nhân thọ trọn đời).
+ Phí bảo hiểm đóng một lần.
+ STBH được chi trả nhiều lần nên còn gọi là trợ cấp định kỳ
Loại bảo hiểm này nhằm thoả mãn những mục đích sau:
+ Đảm bảo cuộc sống khi về già hoặc về hưu.
+ Đảm bảo thu nhập cố định sau khi hết tuổi lao động.
+ Giảm nhẹ gánh nặng phụ thuộc vào con cái và phúc lợi xã hội khi tuổi già.
c. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp:
Đây là loại hình bảo hiểm được kết hợp giữa hai loại hình bảo hiểm trên( Bảo hiểm trong trường hợp chết và bảo hiểm trong trường hợp sống). Vì tính ưu điểm của nó là tiết kiệm và rủi ro nên nó được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới
BHNT hỗn hợp có một số đặc điểm chính sau:
+ Thời hạn bảo hiểm luôn xác định.
+ STBH được trả một lần khi có các SKBH xảy ra (người bảo hiểm chết hoặc khi hết hạn hợp đồng mà người được bảo hiểm còn sống).
+ Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm.
+ Có thể được chia lãi hoặc có thể được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia.
+ Khách đông và có thể ở mọi lứa tuổi
Loại hình bảo hiểm này được triển khai nhằm nhiều mục đích khác nhau :
+ Đảm bảo cuộc sống cho gia đình và người thân
+ Thực hiện tiết kiệm từ ngân sách gia đình để tạo lập quỹ gia đình cho con cái, mua sắm tài sản.
+ Dùng làm vật thế chấp vay vốn hoặc khởi nghiệp kinh doanh.
Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hoá loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi nhuận và các loại hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế.
5. Các lĩnh vực hoạt động của bảo hiểm nhân thọ:
Hiện nay bảo hiểm nhân thọ hoạt động trên 4 lĩnh vực đó là:
-Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ:
Đây là nghiệp vụ chủ yếu của một công ty bảo hiểm. Nguyên tắc kinh doanh là “ Lấy số nhiều bù số ít”. Lợi nhuận thu được của công ty là nhờ vào sự chênh lệch về doanh thu phí bảo hiểm và chi phí bồi thường cho khách hàng. Doanh thu sẽ thu được từ phí bảo hiểm do nhiều người tham gia bảo hiểm đóng góp
-Tái bảo hiểm nhân thọ:
Trên thực tế triển khai, tái bảo hiểm giữ vai trò quan trọng trong việc chuyển giao rủi ro. Khi một công ty bảo hiểm gốc nhận bảo hiểm cho một dịch vụ có giá trị bảo hiểm lớn, vượt mức bồi thường( mức giữ lại của mình), muốn đảm bảo khả năng thanh toán khi xảy ra rủi ro, tổn thất cho dịch vụ này cũng như để bảo toàn vốn và sự tồn tại của công ty, công ty bảo hiểm này cần kí một hợp đồng tái bảo hiểm để chuyển giao rủi ro từ công ty mình sang một công ty bảo hiểm / tái bảo hiểm khác có năng lực tài chính( khả năng thanh toán) lớn hơn. Trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, tái bảo hiểm là không còn xa lạ đối với nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
- Đầu tư tài chính:
Nghiệp vụ đầu tư tài chính của bảo hiểm đã phát triển từ lâu trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam thì nghiệp vụ này chưa được các công ty bảo hiểm áp dụng rộng rãi. Đây là nghiệp vụ hoạt động giống như nghiệp vụ của một ngân hàng. Công ty bảo hiểm sẽ đầu tư hoặc cho một cá nhân, một tổ chức nào đó vay. Lợi nhuận mà công ty thu được đó chính là lãi suất. Các công ty bảo hiểm nhân thọ có khả năng tài chính lớn thường phát triển về nghiệp vụ này
II . Lý luận về bộ máy quản lý và năng lực hoạt động của bộ máy quản lý
1. Bộ máy quản lý
a. Khái niệm về bộ máy quản lý:
Bộ máy quản lý là một cơ quan chức năng trong một tổ chức nó bao gồm hệ thống các phòng ban chức năng có nhiệm vụ cơ bản giúp giám đốc quản lý, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất
Tổ chức là sự liên kết những phần tử, những quá trình , những hoạt động trong hệ thống nhằn thực hiện mục đích đề ra của hệ thống dựa trên các cơ sở các nguyên tắc và các quy tắc của quản trị quy định
Hệ thống là tập hợp các phần tử và những mối quan hệ giữa các phần tử nhằm tạo ra một đặc trưngđó là tính trồi của phần tử mà tính chất này không thể có đượ từ những phần tử đơn lẻ
Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến hệ thống nhằm tổ chức và phối hợp hoạt động của họ nhằm đạt mục tiêu đề ra của tổ chức với hiệu quả cao nhấ
Điều hành là một trong các chức năng quản lý nhằm tác động lên hành vi của hệ thống hướng hệ thống vào thực hiện mục đích và mục tiêu quản lý theo đướng lối, chiến lược đã định. Điều hành là chức năng chủ yếu của hoạt động quản lý
b. Yêu cầu của bộ máy quản lý:
Mặc dù có rất nhiều hình thức tổ chức bộ máy quản lý để đáp ứng với từng điều kiện cụ thể của một tổ chức song nhìn chung để đảm bảo dược tính hiệu quả cao nhất thì bộ máy quản lý cần đáp ứng những yêu cầu sau đây:
Một là: Phải đảm bảo thực hiện đầy đủ, toàn diện những chức năng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu chung đã đề ra: hoàn thành toàn diện kế hoach với chi phí ít và hiệu quả kinh tế nhiều nhất
Hai là: Phải đảm bảo nghiêm túc và tuyệt đối chế độ một thủ trưởng chế độ trách nhiệm cá nhân trên cơ sở đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của tập thể lao động trong doanh nghiệp
Ba là: Phải tạo được điều kiện để phát huy tối đa tính tự chủ và sáng tạo của đội ngũ cán bộ công nhân viên thông qua việc giao quyền và phân quyền
Bốn là: Phải phù hợp với quy mô sản xuất, thích ứng với đặc điểm kinh tế và kĩ thuật của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp có quy mô lớn, công tác của các phòng chức năng được chuyên môn hoá sâu hơn do đó cần thiết và có thiể tổ chức nhiều phòng chức năng hơn các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Những đặc điểm kinh tế kĩ thuật như loại hình sản xuất, tính chất sản phẩm, tính chất công nghệ, vị trí doanh nghiệp trong phân công lao động xã hội đều được xem là những căn cứ để xây dựng bộ máy quan lý của doanh nghiệp
Năm là: Bộ máy quản lý phải được tinh giảm một cách có hiệu quả; nghĩa là khi tinh giảm bộ vẫn đảm bảo được tính vững trắc trong việc liên kết các phần tử, sự hoạt động vững trắc của tổ chức... mà không ảnh hưởng xấu đến vai trò cũng như năng lực hoạt động của bộ máy
c. Vai trò và chức năng của bộ máy quản lý:
Vai trò:
Bộ máy quản lý có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp nó quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp. Với một bộ máy quản lý gọn nhẹ, có trình độ có phương pháp quản lý phù hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp có hướng đi đúng, có sự tổ chức kinh doanh hợp lý, cũng như có sự chỉ đạo , kiểm tra và điều chỉnh nhanh chóng và chính xác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhờ đó mà doanh nghiệp phát huy được những điểm mạnh, khắc phục được những điểm yếu của mình thích ứng nhanh chóng với điều kiện kinh tế thị trường đầy biến động và ngày càng phát triển hơn.
Chức năng:
Bộ máy quản lý là cơ quan đầu não của một doanh nghiệp. Như vậy bộ máy quản lý phải thực hiện chức năng như một đầu tầu để kéo đẩy con tầu đi đúng hướng an toàn về bến. Nếu căn cứ vào chức năng vào nội dung quản lý thì bộ máy quản lý có5 chức năng chính:
Bộ máy quản lý của công ty có chức năng lập kế hoạch: Đây là chức năng đầu tiên nó đề ra phương hướng và mục tiêu hoạt động chung cho toàn doanh nghiệp. Kế hoạch có thể là kế hoạch dài hạn cũng có thể là kế hoạch ngắn hạn. Theo kế hoạch đó thì từng thành viên trong doanh nghiệp sẽ nhận thức được nhiệm vụ cụ thể của mình như thế nào. Họ sẽ biết mình cẩn phải làm gì để hoành thành nhiệm vụ mà công ty giao phó. Đây là khâu cực kì quan trọng trong hoạt động quản lý, nó quyết định đến sự thành bại của công ty và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển trong tương lai của công ty. Do vậy các cán bộ quản lý phải xây dựng được các kế hoạch sao cho không có sự mâu thuẫn với nhau cũng như phải có sự điều chỉnh các kế hoạch sao cho phù hợp với sự biến động của hệ thống môi trường
Chức năng tổ chức: Việc thiết lập một bộ máy quản lý quản lý của doanh nghiệp phụ thuộc vào yêu cầu hoạt động của doanh nghiệp, mục tiêu đã đặt ra của doanh nghiệp, nguồn lực của doanh nghiệp, các yếu tố khách quan tác động đến tác động đến doanh nghiệp. Dựa trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ xác lập một cơ cấu sản xuất phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Trong đó mỗi bộ phận, từng cá nhân đều có quyền hạn , trách nhiệm và nghĩa vụ nhất định, có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để đạt được mục tiêu chung mà doanh nghiệp đề ra.
Chức năng điều hành: Mọi kế hoạch khi đã được lập ra và tổ chức xong thì phải điều hành công việc để hoàn thành kế hoạch đó. Để điều hành có hiệu quả thì cần phải có sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ trong quản lý, có như vậy các bộ phận trong bộ máy quản lý, cũng như trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mới được tiến hành tốt nhiệm vụ của mình
Chức năng điều khiển điều chỉnh: Thực hiện chức năng này các nhà quản lý sẽ sữa chữa những sai lầm trong quá trình sản xuất kinh doanh, thay đổi công việc cho phù hợp, phát huy các điểm mạnh của doanh nghiệp
d. Các hình thức tổ chức bộ máy quản lý
Hiện tại có rất nhiều hình thức tổ chức bộ máy quản lý. Tuy nhiên tuỳ từng điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà chọn những mô hình sao cho hiệu quả nhất. Một số hình thức tổ chức bộ máy đó là:
-Kiểu cơ cấu tổ chức quản lý theo trực tuyến:
Nguyên tắc của kiểu tổ chức này là mọi công việc quyền hành đều được giao cho từng đơn vị và quan hệ quyền hành đều được phân định rõ ràng với một cấp trên trực tiếp
Mô hình quản lý trực tuyến
Lãnh đạo tổ chức
Người
Thực hiện 1
Người
Thực
Hiện 2
Người
Thực
Hiện 3
Người
Thực
Hiện 4
-Kiểu cơ cấu quản lý chức năng:
Mô hình này phù hợp với xí nghiệp nhỏ hoạc các đơn vị sự nghiệp. Nhưng đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, quản lý phức tạp thì không nên áp dụng
Ưu điểm:
+ Hiệu quả tác nghiệp cao
+ Phát huy được những thế mạnh của chuyên môn hoá ngành nghề
+Đơn giản hoá việc đào tạo
+ Chú trọng hơn đến tiêu chuẩn nghề nghiệp và tư cách nhân viên
+ Tạo điều kiện cho việc kiểm tra chặt chẽ của cấp cao hơn
Nhược điểm:
+ Thường dẫn đến các mâu thuẫn giữa các đơn vị chức năng khi đề ra chỉ tiêu chiến lược,
+ Thiếu sự phối hợp giữa các phòng ban chức năng
+ Chuyên môn hoá quá mức và tạo ra cách nhìn quá hẹp ở các cán bộ quản lý
+ Hạn chế việc phát triển đội ngũ cán bộ quản lý chung
+Đổ trách nhiệm về vấn đề thực hiện mục tiêu chung của tổ chức cho cấp lãnh đạo cao nhất.
Mô hình tổ chức bộ phận theo chức năng tương đối dễ hiểu và được hầu hết các tổ chức sử dụng trong một giai đoạn phát triển nào đó, khi tổ chức có quy mô vừa và nhỏ hoạt động trong một lĩnh vực đơn sản phẩm, đơn thị trường
Giám đốc
Trưởng phòng nhân sự
Trợ lý giám đốc
p.giám đốc
maketing
P.giám đốc
Kỹ thuât
P.giám đốc
Sản xuất
P.giám đốc
Tài chính
N.cứu thị trường
Quản lý
Nhân sư
Lập k/h
Sản xuất
Lập k/h
Tài chính
Lập k/h
maketing
Thiết kế
Dụng cụ
Ngân quỹ
Quản cáo
Kỹ thuật điện
Phân xưởng 1
Kế toán chung
Quản lý
Bán hàng
Kỹ thuật
cơ khí
Phân xưởng 2
Kế toán chi phí
Bán hàng
Kiểm tra chất lượng
Phân xưởng 3
Thống kê và xử lý sl
Mô hình tổ chức bộ phận theo chức năng
-Kiểu quản lý trực tuyến chức năng:
Ưu điểm:
+ Phát huy được năng lực chuyên môn hoá của các bộ phận chức năng, đồng thời vẫn đảm bảo được quyền chỉ huy của hệ thống trực tuyến
+ Tạo được điều kiện cho các chuyên gia đóng góp vào hoạt động quản lý của doanh nghiệp
+ Giải quyết cho các cấp quản lý điều hành khỏi công tác phân tích chi tiết từng khía cạnh.
+ Tạo điều kiện đào tạo cho chuyên gia
Nhược điểm:
+ Rễ gây hỗn độn như mô hình chức năng nếu như không có sự phân định rõ ràng về quyền hạn
+ Hạn chế năng lực sử dụng nghiệp vụ của các chuyên viên
+ Rễ tạo ra xu hướng tập trung hoá đối với các nhà quản trị cao cấp
+Có thể xảy ra mâu thuẫn giữa lãnh đạo các tuyến với nhau, do không thống nhất quyền hạn và quan điểm
Lãnh đạo tổ chức
Phòng chức năng 1
Phòng chức năng 2
Phòng chức năng 3
Phòng chức năng 4
Lãnh đạo tuyến A
Lãnh đạo tuyến B
Mô hình cơ cấu trực tuyến- chức năng
- Mô hình tổ chức bộ phận thêo quá trình
Mô hình ma trận là sự kết hợp của hai hay nhiều mô hình tổ chức bộ phận khác nhau. Ví dụ, mô hình theo chức năng kết hợp với mô hình theo sản phẩm
Ưu điểm:
+Định hướng các hoạt động theo kết quả cuối cùng
+Tập trung nguồn lực vào khâu xung yếu
+ kết hợp được năng lực của nhiều cán bộ quản lý và chuyên gia, tạo điều kiện đáp ứng nhanh chong với những thay đổi của môi trường.
Nhược điểm:
+ Hiện tượng song trùng lãnh đạo dẫn đến sự không thống nhất mệnh lệnh
+ Cơ cấu phức tạp và không bền vững
+ Có thể gây tốn kém
Cách tổ chức theo ma trận mang lại nhiều triển vọng lớn cho nhiều tổ chức trong điều kiện môi trường thay đổi nhanh với nhiều yếu tố bất định. Điểm mấu chốt làm cho cơ cấu ma trận phát huy được tác dụng là sự rõ ràng của mối quan hệ quyền hạn giữa các cán bộ quản lý và cơ chế phối hợp
Đây là sơ đồ tổ chức theo ma trận trong kĩ thuật
Tổng giám đốc
P.TGĐ
Kỹ thuật
P.TGĐ
Tài chính
P.TGĐ
Sản xuất
P.TGĐ
maketing
Trưởng p
Thiết kế
Trưởng p
Kỹ thuật
Trưởng.p
điện
Trưởng.p
Thuỷ lực
C.nhiệm đề án A
C.nhiệm đề án B
C.nhiệm đề án C
Tổ chức theo ma trận trong kĩ thuật
2. Năng lực hoạt động của bộ máy quản lý
a. Khái niệm về năng lực hoạt động của bộ máy quản lý
Năng lực hoạt động của bộ máy quản lý là khả năng được thể hiện trong quá trình bộ máy quản lý thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để đạt mục tiêu chung của tổ chức
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của bộ máy quản lý
* Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực hoạt động của bộ máy quản lý của công ty. Nếu công ty có một cơ cấu tổ chức hợp lý, phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp, phù hợp với môi trường, phù hợp với đối tượng kinh doanh...; Đặc biệt nếu có một kết cấu hợp lý, xây dựng được mối liên kết giữa các phần tử thì bộ máy quản lý sẽ phát huy được hiệu lực của nó. Nhưng nếu cơ cấu không hợp lý, bộ máy quản lý cồng kềnh thì nó không thể phát huy được tính sáng tạo của các cán bộ nhân viên và gây ra sự lãng phí tốn kém thậm chí dẫn đến sự sụp đổ của công ty
* Thể chế
Có nhiều quan niệm khác nhau về thể chế, như quan điểm của Thorstein Veblen đưa ra năm 1914; của Douglass C. North: ”Thể chế là những luật lệ được hình thành trong đời sống xã hội, hay đúng hơn, đó là những luật lệ do con người tạo ra để điều tiết và định hình các quan hệ của con người ”; ” thể chế bao gồm những ràng buộc phi chính thức (điều thừa nhận, cấm đoán theo phong tục, tập quán và truyền thống đạo lý) , những quy tắc( giới hạn) chính thức ( hiến pháp, luật, quyền sở hữu)”. Trong từ điển Tiếng Việt, do Hoàng Phê chủ biên (1992), thể chế là những ”quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo( nói một cách tổng quát )”. Tuy có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng nói chung các quan niệm về thể chế đều bao hàm các vấn đề quan trọng nhất: Luật chơi( chính thức và phi chính thức); cơ chế thực hiện và các tổ chức ( gắn với hành vi của chúng), bao gồm các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội và các tổ chức giáo dục. Nếu có một thể chế thông thoáng, phù hợp thì đó sẽ là một điều kiện lý tưởng để một tổ chức phát huy sức mạnh của mình và do đó năng lực quản lý của bộ máy tổ chức sẽ được nâng lên. Nhưng nếu một thể chế bất hợp lý thì đó sẽ là một sự cản trở vô cùng lớn đối với sự tồn tại và phát triển của một tổ chức.
* Cán bộ quản lý
Cán bộ quản lý có một vai trò cực kì quan trọng đối với năng lực hoạt động của bộ máy quản lý. Cán bộ quản lý ở đây được xác định là người có trách nhiệm tạo ra những điều kiện cần thiết giúp cho nhân viên xây dựng thực hiện và kiểm tra theo dõi các nhiệm vụ, các hoạt động. Như vậy, họ không chỉ chịu trách nhiệm với các hoạt động của đơn vị, với vấn đề tài chính mà còn có trách nhiệm với các thành viên của tổ chức. Họ phải có trách nhiệm tổ chức các hoạt động các nhiệm vụ của đơn vị mình, đồng bộ với các hoạt động khác của cả tổ chức; cùng đơn vị xây dựng tầm nhìn và mục đích đồng thời đảm bảo rằng các mục đích đó đã được theo đuổi; các hoạt động của đơn vị phải được thực hiện tốt, được phát triển và làm chúng thích ứng các điều kiện, hoàn cảnh nhu cầu, lĩnh vực mới của hoạt động; có trách nhiệm tạo ra những điều kiện cần thiết để cho nhân viên chủ động tham gia vào các hoạt động và cố gắng làm cho các hoạt động phát triển; luôn tăng cường và phát triển và làm thích nghi với các kỹ năng quản lý đáp ứng với tình hình mới.
Mỗi loại hình tổ chức đều có những đặc điểm khác nhau và nó đặt ra những đòi hỏi có những điểm khác nhau đối với cán bộ quản lý của tổ chức đó. Hoạt động trong một môi trường rộng và tương đối phức tạp nên vai trò của người quản lý ở đây cũng có những yêu cầu khác. Họ được xác định có những vai trò sau:
- Vai trò của người khai phá: Luôn quan tâm, xem xét nghiên cứu đối với các xu hướng và sự thay đổi của môi trường, có những kết luận cần thiết về đơn vị tổ chức về hoạt động của tổ chức mình trên cơ sở của sự thay đổi của môi trường này.
- Vai trò của người thông đạt thông tin, giao tiếp: Luôn đòi hỏi có sự hiểu biết về cả tình hình bên trong và bên ngoài, thực hiện và giữ các cuộc trao đổi là vấn đề quan trọng để theo đuổi mục tiêu định hướng chung
- Vai trò của người huấn luyện: Luôn tạo điều kiện, ủng hộ cho phép nhân viên đáp ứng được với yêu cầu của nhiệm vụ, tạo điều kiện cho nhân viên mở rộng hoạt động và nâng cao kĩ năng nghiệp vụ của họ
-Vai trò làm xúc tác cho sự thay đổi: Luôn khuyến khích với những ý tưởng mới, xây dựng đề xuất để làm cho thay đổi và thực hiện thay đổi
- Vai trò của người kiến tạo nhữn._.g cơ hội học tập: Luôn chú trọng vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng một tổ chức học tập.
- Vai trò của người ra quyết định: Khi được phân quyền thì họ phải chịu trách nhiệm đối với các quyết định của họ cũng như những hậu quả của chúng.
Như vậy, cán bộ quản lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển của tổ chức, thực hiện kế hoạch phát triển nhân viên và họ là nhân tố quyết đến quá trình đạt được mục tiêu của tổ chức, đạt năng suất, hiệu quả của tổ chức. Do vậy, cán bộ quản lý có ý nghĩa quyết định đến năng lực hoạt động của bộ máy quản lý trong công ty
* Các chỉ tiêu đánh giá về năng lực hoạt động của bộ máy quản lý trong công ty
Quản lý là hoạt động mang tính chất toàn diện. Điều này thể hiện trong công ty bộ máy quản lý sẽ tham gia quản lý ở tất cả các lĩnh vực. Do vậy hiệu quả của hoạt động quản lý phải được đánh giá qua rất nhiều chỉ tiêu như:
- Kết quả về doanh thu:
Doanh thu là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, bởi vì nó là nguồn gốc của lợi nhuận do đó công ty sẽ nổ lực để đạt được doanh thu cao nhất trong khả năng của mình. Khi doanh thu đạt chỉ tiêu thì công ty sẽ có lợi nhuận. Lợi nhuận sẽ được tích lũy để duy trì sự hoạt động của doanh nghiệp. Nếu doanh thu thấp thì có thể dẫn đến sự phá sản của công ty. Kết quả về doanh thu sẽ phản ánh một phần rất lớn đối với năng lực hoạt động của bộ máy trong công ty
- Công tác đánh giá rủi ro
Đối với hoạt động bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng thì công tác đánh giá rủi ro cũng là một hoạt động mang ý nghĩa quan trọng. Nếu công tác này làm không tốt sẽ dễ gây nên tình trạng trục lợi bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm nhằm mục tiêu kiếm lời. Và như vậy thì lợi ích của công ty sẽ bị thiệt hại. Nếu công ty quản lý tốt vấn đề này thì quền lợi của họ sẽ được đảm bảo
- Tình hình giải quyết quyền lợi trên địa bàn:
Đây là hoạt động nhằm đáp ứng quyền lợi của khách hàng trên địa bàn khi mà rủi ro xảy ra đúng như trong hợp đồng đã cam kết. Đồng thời trong công tác này công ty cũng sẽ thực hiện công tác giám định để tránh những trường hợp trục lợi bảo hiểm của khách hàng
- Công tác phát triển đại lý
Việc có đạt được doanh thu cao hay không phụ thuộc rất nhiều vào công tác phát triển đại lý. Công tác phát triển đại lý mà làm tốt thì doanh thu bảo hiểm sẽ tăng. Một công ty bảo hiểm chỉ thực sự mạnh khi có một mạng lưới đại lý rộng rãi có trình độ về chuyên môn nghiệp vụ tốt cộng với lòng hăng say, nhiệt tình trong công tác của đội ngũ nhân viên khai thác bảo hiểm
Ngoài các chỉ tiêu trên để đánh giá năng lực hoạt động của bộ máy quản lý người ta còn căn cứ vào các chỉ tiêu như: Công tác sản phẩm, công tác quản lý nguồn tài chính, tình hình quản lý nguồn nhân lực, công tác tin học...
- Chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ phận chức năng trong công ty:
Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng. Nó thể hiện; trong một công ty mỗi cán bộ quản lý cần phải làm những gì và giới hạn về quyền hành để thực hiện công việc đó là ở mức nào. Nếu nhiệm vụ quá cao và phức tạp mà quyền hành trong tay người cán bộ lại thấp thì chắc chắn công việc sẽ khó mà hoàn thành được. Do vậy cần phải có một quyền hạn hợp lý cho mỗi chức năng và nhiệm vụ cụ thể
- Năng lực của người cán bộ quản lý:
Có thể nói đây là một yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn đến năng lực hoạt động của bộ máy tổ chức. Năng lực ở đây bao gồm: Năng lực lãnh đạo, năng lực chuyên môn, năng lực giao tiếp, phẩm chất đạo đức- chính trị...Một bộ máy quản lý sẽ không bao giờ vận hành có hiệu quả nếu tồn tại một đội ngũ cán bộ kém năng lực
Chương II
Thực trạng hoạt động của bộ máy quản lý hiện
tại trong công ty Bảo Hiểm nhân thọ thanh hoá
I. Vài nét về công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá
1. lịch sử phát triển của công ty
Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam có tiền thân là Công Ty Bảo Hiểm Việt Nam gọi tắt là Bảo Việt- Thành lập theo quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964 của tPhủ tướng chính phủ, chính thức đi vào hoạt động ngày15/01/1965.
Năm 1996 được sự uỷ quyền của thủ tướng chính phủ, bộ Tài Chính đã ra quyết định thành lập lại tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, được Nhà nước xếp loại “Doanh nghiệp nhà nước xếp hạng đặc biệt” và trở thành một doanh nghiệp bảo hiểm lớn nhất Việt Nam. Với 122 đơn vị thành viên, có mạng lưới phủ khắp 61 tỉnh, thành trong cả nước; đã triển khai hơn 90 sản phẩm bảo hiểm các loại. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế xã hội chưa cho phép, nên bảo hiểm nhân thọ ra đời tương đối muộn tại Việt Nam, năm 1996 Bảo Việt chính thức triển khai bán sản phẩm nhân thọ đầu tiên.
Tại Thanh Hoá bảo hiểm nhân thọ cũng được triển khai ngay từ ngày đầu. Một sản phẩm bảo hiểm mới, rất đặc biệt và còn xa lạ với người dân Việt Nam; Tuy nhiên được sự lãnh đạo , chỉ đạo của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, sự quan tâm, ủng hộ,tạo điều kiện của các đồng chí lãnh đạo Tỉnh, các ban ngành, các huyện/ thị, xã/ phường/ thị trẩntên địa bàn toàn tỉnh; đặc biệt là sự tin tưởng của khách hàng đối với bảo việt, nên chỉ trong một thời gian ngắn hoạt động bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt nhân thọ Thanh Hoá đã đạt được kết quả đáng khích. Nếu năm 1996 tức năm đầu tiên triển khai bảo hiểm nhân thọ) tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tại Thanh Hoá mới chỉ đạt gần 20 đồng với 57 hợp đồng, thì đến năm 1999 doanh thu gần 13 tỷ đồng với 7603 hợp đồng
Để tương xứng với tốc độ phát triển nhanh chóng của Bảo hiểm nhân thọ và đáp ứng nhu cầu mua bảo hiểm nhân thọ ngày một tăng của nhân dân; Mặt khác thực hiện chủ trương chuyên môn hoá trong hoạt động bảo hiểm nhân thọ của Bảo việt. Trước yêu cầu đó, Bộ Tài chính đã ra quyết định số 46/2000QĐ-BTC ngày 27/3/2000 về việc thành lập 27 công ty bảo hiểm nhân thọ trực thuộc tổng công ty bảo hiểm Việt Nam( Bảo Việt).Thực hiện quyết định của bộ tài chính ngày 14/4/2000 Công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá( Bảo Việt nhân thọ Thanh Hoá) chính thức khai trương trên cơ sở tách nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ từ công ty bảo hiểm Thanh Hoá.
Năm 2000 trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá cũng là năm thị trường bảo hiểm nhân thọ xuất hiện sự cạnh tranh bởi các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài cùng hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo chu đáo để đón nhận và coi cạnh tranh như tăng thêm động lực để phát triển, Bảo Việt nhân thọ Thanh Hoá đã có những bước tiến vượt bậc:
Doanh thu năm 1999( trước khi thành lập) đạt gần 13 tỷ đồng, với 7603 hợp đồng, thì năm 2000 doanh thu đạt gần 23 tỷ đồng, với 18454 hợp đồng; Năm 2001 doanh thu đạt gần 41 tỷ đồng, với 31717 hợp đồng; Năm 2002 doanh thu đạt gần 63 tỷ đồng, với gần 43000 hợp đồng còn hiệu lực, chiếm 95% thị phần bảo hiểm nhân thọ tại Thanh Hoá. Năm 2003 doanh thu đạt trên 88,2 tỷ đồng, với 55000 hợp đồng còn hiệu lực
Với những thành tích đã đạt được trên công ty nhiều năm được bộ tài chính và tổng công ty bảo hiểm Việt nam tặng cờ và bằng khen: Năm 2001 được tổng công ty tặng cờ đơn vị khá toàn ngành; năm 2002 được bộ tài chính tặng bằng khen và tổng công ty tặng cờ đơn vị suất sắc toàn ngành.
Hoạt động kinh doanh hàng năm ổn định, tốc độ tăng trưởng cao, song nơi làm việc cho cán bộ viên chức thì quá chặt trội. Trước tình hình bức bách về nơi làm việc của công ty; Năm 2001, lãnh đạo tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ra quyêt định cho Bảo Việt nhân thọ Thanh Hoá được phép khảo sát, thiêt kế để xây dựng trụ sở công ty và ngày 25 tháng 2 năm 2002, công trình chính thức được khởi công xây dựng. Sau một năm xây dựng với sự giúp đỡ tạo điều kiện của lãnh đạo tỉnh, các ban ngành, thành phố Thanh Hoávà phường Điện Biên, trụ sở của công ty 5 tầng khang trang, toạ lạc trên địa điểm 666 đường Bà Triệu, Phường Điện Biên, thành phố Thanh Hoá đã chính thức đi vào sử dụng tháng 3/2003.
Nhờ phát triển kinh doanh tốt, sản phẩm phù hợp với thị hiếu, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân, nên thị trường bảo hiểm ngày càng được mở rộng; đặc biệt là cơ hội để thu hút lao động vào làm việc. Tính đến nay bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá đã thu hút được hơn 700 lao động có việc làm ổn định, thu nhập cao; Lực lượng lao động này hàng năm đã thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cho ngân sách nhà nước hàng trăm triệu đồng( Năm 2002 thu nộp gần 300 triệu đồng). Điều này cũng nói lên hoạt động của Bảo Việt nhân thọ Thanh Hoá trong những năm qua có tốc độ phát triển vượt bậc, đã tạo ra các lợi ích kinh tế và ý nghĩa xã hội sâu sắc trên một địa phương mà nền kinh tế xã hội chưa phát triển mạnh so với các tỉnh trong cả nước.
Bên cạnh hoạt động kinh doanh, trong những năm qua , hưởng ứng chủ trương của Trung ương và Địa phương về công tác xã hội, từ thiện. Bảo Việt nhân thọ Thanh Hoá đã tích cực tham gia với các chương trình như: Phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại huyện Hậu Lộc, đóng góp các quỹ chất độc màu da cam, Quỹ học sinh nghèo vựot khó, Quỹ khuyến học, trao phần thưởng cho các cháu học sinh giỏi, ủng hộ đồng bào bão lụt
Mặc dù, Trong thời gian qua Bảo Việt nhân thọ Thanh Hoá đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong hoạt động kinh doanh của mình; chất lượng các dịch vụ trước và sau bán hàng đang được người dân trong tỉnh đánh giá cao. Song công ty vẫn ý thức rằng, để tiếp tục phát triển và đứng vững trong cơ chế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi ban lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên, tư vấn viên, thu ngân viên BHNT Thanh Hoá phải không ngừng cải tiến, đổi mới từ suy nghĩ , cách làm, chất lượng các dịch vụ cần cụ thể hơn nữa và thực hiện tốt phương trâm của Bảo Việt “phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển”, hướng tới mục tiêu “Bảo đảm lợi ích của ngưòi Việt”. Huy vọng Bảo Việt nói chung và Bảo Việt nhân thọ Thanh Hoá nói riêng sẽ tiếp tục nhận được sự ủng hộ, quan tâm giúp đỡ quý báu của lãnh đạo tỉnh, các Sở , ban ngành cấp tỉnh; lãnh đạo các Huyện/ Thành phố/ Thị xã,các xã / Phường/Thị trấn trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
2.Những cơ hội và thách thức đối với sự hoạt động và phát triển của công ty:
Là môt đơn vị trực thuộc của tổng công ty bảo hiểm việt nam hoạt động trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá có những thuận lợi và khó khăn nhất định đối với sự phát triển
Những thuận lợi:
Trong năm 2004 tình hình nền kinh tế của đất nước nói chung và tỉnh Thanh Hoá nói riêng đang trên đà tăng trưởng( Năm 2004 tăng trưởng gần 10%) đó là điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Đặc biệt Thanh Hoá là một tỉnh có số dân lớn so với toàn quốc, nên đó là một thị trường tiềm rất lý tưởng cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
Được sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trên mọi lĩnh vực về công tác tổ chức, chính sách, chế độ, nghiệp vụ, công tác triển khai các sản phẩm phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.
Những khó khăn:
Trên thị trường tỉnh Thanh Hoá có nhiều công ty cùng hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ như công ty BH Bảo Minh, công ty prudential, AIA cho nên không tránh khỏi tình trạng cạnh tranh và chia sẽ thị phần khai thác hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Bảng tổng hợp tình hình cạnh tranh của các công ty bảo hiểm nhân thọ
STT
Nghiệp vụ
prudential
AIA
Bảo Minh
1
Mở rộng mạng lưới văn phòng
Có 1 văn phòng giao dịch tại TP Thanh Hoá
Không
Có trụ sở tại TP Thanh Hoá
2
Phát triển, tuyển dụng đại lý
Có 10 nhóm và khoảng gần 450 đại lý
Không đáng kể
Không đáng kể
3
Các hoạt động quảng cáo, tuyên truyền tài trợ
Lập quỹ khuyến học tại trường đại học Hồng Đức, Trường PTTH Lam Sơn
Không
Không
4
Các sản phẩm mới, hình thức dịch vụ mới đối với khách hàng
Sản phẩm không có gì mới so với các sản phẩm đã triển khai.
- Chủ yếu là tặng quà khuyến mại và tặng thiếp sinh nhật, lịch
Không
Không
Mặt bằng kinh tế và thu nhập của người dân trong tỉnh Thanh Hoá so với toàn quốc còn thấp, phần lớn làm nông nghiệp nên tích luỹ chưa được nhiều
Địa bàn dân cư rộng, trình độ dân trí chưa cao, hiểu biết về hoạt động bảo hiểm nhân thọ của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh còn hạn chế, nhất là vùng trung du, miền núi chưa quan tâm, hiểu biết sâu sắc về bảo hiểm nhân thọ.
Mặc dù có những khó khăn như vậy nhưng với sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, kịp thời năng động của chi bộ, ban lãnh đạo công ty và tinh thần đoàn kết, quyết tâm cao của toàn thể cán bộ nhân viên, trong năm 2004 Công ty đã hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh tổng công ty giao và nhiệm vụ khác trên địa bàn tỉnh thanh hoá.
II. Phân tích thực trạng hoạt động của bộ máy quản lý của công ty
Những kết quả đạt được nhờ hoạt động của bộ máy quản lý:
Kể từ khi thành lập đến nay, công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá không ngừng phát triển về mọi mặt và đã trở thành một doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm chiếm thị phần lớn nhât trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Qua đó liên tục được tổng công ty trao tặng bằng khen danh hiệu đơn vị kinh doanh xuất sắc. Sở dĩ được như vậy là nhờ một phần lớn vào sự năng động của bộ máy quản lý của công ty. Cụ thể là:
1. Những kết quả đạt được nhờ sự hoạt động của bộ máy quản lý
a. Kết quả về doanh thu:
Năm 2004 công ty vẫn giữ tốc độ tăng trưởng và đạt hiệu quả trong kinh doanh, thực hiện tốt kế hoạch tổng công ty giao và đạt được những kết quả đáng khích lệ:
Doanh thu thực hiện: 95 tỷ đồng
+Sovới kế hoạch đạt: 100.9%
+So với cùng kì năm 2003 đạt: 122.74%
Doanh thu phí đầu tiên: 12 tỷ đồng
+So với cùng kì năm 2003: 136.8%
Số hợp đồng khai thác mới: 16.650 hợp đồng
+So với cùng kì năm 2003: 119.88%
Tỷ lệ duy trì hợp đồng: 97.57%
Tỷ lệ thu phí bình quân trong kì: `95.2%
Số hợp đồng còn hiệu lực cuối kỳ: 61.450 hợp đồng
Mức trách nhiệm bảo hiểm hợp đồng chính: 760 tỷ đồng.
Số đại lý tuyển dụng mới: 600 nguười
Nhìn chung công ty đã biết vận dụng thế mạnh của Bảo Việt, tính ưu Việt của sản phẩm nhân thọ để triển khai kịp thời, sâu rộng tới các tầng lớp dân cư trong tỉnh mà chủ yếu tập chung vào các đối tượng như: CBCNV chức nhà nước, giáo viên, các doanh nghiệp, học sinh, những người buôn bán v.v... là những người có thu nhập cao, ổn định để đáp ứng nhu cầu tham gia bảo hiểm nhân thọ. Bởi vậy tất cả các sản phẩm BHNT đều có khách hàng tham gia với số lượng hợp đồng ngày càng tăng.
Có thể nói kể từ ngày thành lập đến nay công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá đã có một tốc độ tăng trưởng về doanh thu và cả số lượng hợp đồng là rất lớn. Điều đó thể hiện qua đồ thị sau ( đơn vị: tỷ đồng)
đồ thị 1
b. Công tác đánh giá rủi ro
Tỷ lệ kiểm tra sức khoẻ khách hàng trước khi chấp nhận bảo hiểm: khoảng 9%, do địa bàn tỉnh rộng, gồm 31 huyện thị, địa hình phức tạp nên việc khám sức khoẻ cho khách hàng hết sức khó khăn, so với quy định tỷ lệ đánh giá rủi ro ở công ty đang còn thấp, Công ty công ty đang áp dụng phương pháp kiểm tra sức khoẻ chọn mẫu, Quy định mức kiểm tra tối thiểu đối với hợp đồng có số tiền bồi thường lớn, chỉ cử bác sĩ bác sĩ kiểm tra tại nhà trong truờng hợp có nghi vấn từ đó dẫn đến khách hàng dễ trục lợi bảo hiểm. Để nâng cao hiệu qủa kinh doanh của công ty cần phải tiến hơn nữa quy trình đánh giá rủi ro, tuyển thêm cán bộ là bác sỹ
c.Tình hình giải quyết quyền lợi trên địa bàn
Cho vay theo hợp đồng:
+Tổng số hợp đồng vay: 5.700 hợp đồng
+Tổng số tiền cho vay: 17.500 triệu đồng.
Chi đáo hạn: 24.597 triệu đồng
Tỷ lệ đáo hạn: 30%
Chi bồi thường: 950 triệu đồng
Huỷ hợp đồng: 3.915 hợp đồng
Huỷ trong vòng 14 ngày: 288 hợp đồng
+Huỷ giải ước: 2.142 hợp đồng
+Huỷ bỏ: 1.485 hợp đồng
Những biện pháp đã triển khai nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Trong năm qua Công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá liên tục mở rộng thị trường trên địa bàn toàn tỉnh. Ngoài hệ thống đại lý phân phối đều khắp các huyện trong toàn tỉnh, Công ty đã mở thêm các văn phòng phục vụ khách hàng khu vực. Hệ thống các văn phòng này có thể quản lý trực tiếp quản lý đội ngũ tư vấn viên và thu ngân viên trên địa bàn phục vụ khách hàng có nhu cầu tham gia hợp đồng, thu nhận các yêu cầu giải quyết quyền lợi khách hàng, lắng nghe và thu thạp thông tin phản hồi từ phía khách hàng để công ty có những quyết sách phù hợp nhằm phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển.
Thường xuyên tuyên truyền giáo dục người dân tích cực tham gia bảo hiểm bằng nhiều hình thức như: tổ chức hội nghị khách hàng, tham gia hỗ trợ triển lãm, thường xuyên có các bài báo, phóng sự truyền hình về Bảo Việt và các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
Sử dụng các cơ chế hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn khi tiếp tục duy trì hợp đồng một cách hiệu quả như cơ chế cho vay theo hợp đồng, chuyển đổi sản phẩm, giải quyết dừng đóng phí chuyển sang số tiền bảo hiểm giảm, giảm số tiền bảo hiểm, các thay đổi có liên quan đến hợp đồng. Rút ngắn quy trình nhận tiền đáo hạn, vay, giải ước
Hệ thống trang thiết bị văn phòng đã được hoàn thiện. Trụ sở xây dựng khang trang sạch sẽ, hệ thống máy vi tính được phân bổ đầy đủ theo các phòng ban. Tạo cảm giác an toàn, tin cậy co khách hàng khi tham gia bảo hiểm.
Nâng cao trình độ sử dụng vi tính của cán bộ trong công ty, Lưu trữ hồ sơ có tính khoa học để tiện lợi trong tra cứu, kiểm tra, đối chiếu
+Những vướng mắc trong quá trình giải quyết, những hạn chế trục lợi bảo hiểm.
Việc nhận và giải quyết quyền lợi bảo hiểm ngoài việc thực hiện đúng theo quy trình được quy định của bảo hiểm nhân thọ Việt Nam, Công ty còn thông qua trách nhiệm đại lý theo dõi hợp đồng, cán bộ văn phòng khu vực và cán bộ xác minh
Hướng dẫn đại lý trong công tác xác minh sơ bộ, lập hồ sơ giải quyết quyền lợi bảo hiểm để công ty giải quyết quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng được nhanh chóng . Không để khách hàng phải chờ đợi đi lại nhiều lần hoạc giảm thiểu tối đa các trường hợp trục lợi bảo hiểm.
Kết hợp với các ban ngành có liên quan như bệnh viện, công an, chính quyền các địa phương trong việc xác minh giám định các hồ sơ yêu cầu giải quyết các quyền lợi bảo hiểm được chính xác nhằm tránh việc khách hàng có ý định trục lợi không thể khép kín hồ sơ giải quyết quyền hạn bảo hiểm
Những biện pháp nhằm nâng cao tỷ lệ tái tục mà công ty đã áp dụng.
Đối với những hợp đồng đáo hạn thì giao lại như mời nhận tiềncho đại lý khai thác cũ để có thể dựa trên quan hệ cũ mà tái tục hợp đồng. Cử cán bộ giao tiền đáo hạn đến tận nhà nếu khách hàng có yêu cầu để vận động tái tục. Những hợp đồng đáo hạn có số tiền bảo hiểm lớn thì khi nhận tiền đều có quà tặng để động viên khách hàng tiếp tục tham gia.
Tổ chức các buổi lễ đáo hạn tập trung tại địa bàn nơi khách hàng sinh sốngvà làm việc nhằm trực tiếp tiếp xúc để vận đồng khách hàng tái hợp đồng. Thông qua đó tổ chức thuyết trình tuyên truyền về Bảo Việt và sản phẩm bảo hiểm nhân thọ tạo tâm lý phấn khởi và tin tưởng cho khách hàng để tiếp tục tham gia hợp đồng mới.
Cải tiến phương pháp phục vụ khách hàng luôn tận tình chu đáo hướng dẫn, giải thích mọi thắc mắc của khách hàng, để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng khi đến giao dịch với công ty. Không gây phiền hà cản trở hay đòi hỏi khách hàng. Xây dựng tác phong làm việc hiện đại và hiệu quả nhằm tạo hình ảnh tốt đẹp về công ty đối với khách hàng .
Đưa ra những hình thức thưởng khác nhau đối với những đại lý khai thác được những hợp đồng lớn . Khen thưởnng kịp thời cho những đại lý hoàn thành kế hoạch trong từng tháng, quý, kỳ
Mở hội nghị khách hàng , tham gia hội chợ , tham gia các cuộc tiếp xúc với khách hàng vào những dịp hội họp, để mở rộng thị trường tiềm năng, tuyên truyền quảng cáo
Tình hình khiếu nại và giải quyết khiếu nại của khách hàng :
Công ty luôn cố gắng hạn chế khiếu nại của khách hàng bằng nhiều biện pháp khác nhau cho nên trong năm qua chỉ có rất ít những trường hợp khiếu nại của khách hàng :
Trường hợp khiếu nại chủ yếu là do khách hàng chưa thực sự tìm hiểu kỹ những thông tin và sản phẩm BHNT và những quy định trong điều khoản hợp đồng. Mặc dù đội ngũ tư vấn viên đã giải thích vận động trước khi tham gia bảo hiểm nhưng trong thời gian hợp đồng có hiệu lực bản thân khách hàng vẫn còn thắc mắc, công ty đã cử các cán bộ nghiệp vụ trực tiếp hoặc soạn thảo công văn giải thích cho khách hàng rõ.
• Cũng có những khiếu nại của khách hàng liên quan đến thái độ phục vụ của một số TVV, TNV . Công ty đã xác định rõ nguyên nhân cụ thể từ đó dùng các biện pháp nhắc nhở, cảnh cáo, thanh lý hợp đồng lao động đối với những đại lý tái phạm nhiều lần .
d. Công tác phát triển đại lý
Đến 30/11/2004 công ty tuyển được 891 người , đào tạo được 11 khoá với 833 người và đã có 589 người có kết quả đủ quy định để ký HĐ với công ty .
Tỷ lệ số người có kết qủa doanh thu đạt quy định chiếm 71 % so với số người theo học và chiếm 66% so với số hồ sơ tuyển dụng.
Số đại lý nghỉ việc trong năm là 122 người, số đại lý có mặt cuối năm là 1067 người
Phương pháp tuyển dụng : Công ty giao chỉ tiêu cho các Ban , nhóm tuyển dụng theo tiêu chuẩn của ngành . Hàng tháng thông báo kết quả đạt được cho từng ban nhóm và các đại lý được giao “ Phụ trách “ để thúc đẩy hoàn thành chỉ tiêu.
Đào tạo nâng cao :
- Đào tạo thuyết trình viên : 40 người
- Bảo việt thăng tiến : 50 người
Bảo việt thành đạt : 52 người
Marketing : 60 người
Tổ chức và quản lý hệ thống đại lý: Đầu năm có 4 ban và 15 nhóm có nhóm lên tới 40 người, thấy vậy công ty đã thí điểm tách thêm 2 ban, 4 nhóm . Thấy có kết quả nên tháng 5/2004 tách thêm 9 ban, 13 nhóm và đến tháng 7/2004 tách thêm 1 ban và 7 nhóm . Từ tháng 8/2004 các ban nhóm tự tách theo quy chế . Chọn các đại lý có khả năng để phát triển (Điều hành được nhóm, có FYP >= 30 triệu )làm phụ trách và được hưởng 50% phụ cấp theo quy chế . Thường xuyên thông báo kết quả các chỉ tiêu đạt được theo quy chế để đôn đốc họ phấn đấu đủ chỉ tiêu thăng tiến theo quy chế . Hàng tháng đều có các đại lý được thăng tiến theo quy chế
Hiện tại công ty có 16 ban và 45 nhóm khai thách và 4 tổ chuyên thu, có 92 chuyên thu viên, tỷ lệ thu phíđạt 95,2% , có chuyên thu viên thu bình quân 100 triệu đồng/tháng .
Thực hiện quy chế thăng tiến và quy chế sửa đổi bổ sung như quy định của ngành. Có một số vấn đề vận dụng được ngành cho phép là: Từ 01/10/2003 đến 31/03/2004 trả phụ cấp cho các trưởng ban, nhóm theo mức bình quân. Các đại lý được chỉ định phụ trách nhóm, ban chưa đủ theo quy chế thăng tiến chỉ hưởng 50% phụ cấp theo quy chế. Thù lao tuyển dụng là 400.000đ/người vẫn áp dụng đến 31/12/2004.
e. Công tác sản phẩm
Các sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ đang triển khai trên địa bàn là tương đối phù hợp, đáp ứng các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, đặc biệt là 2 sản phẩm An sinh giáo dục và An gia thịnh vượng có sức hấp dẫn cao đối với khách hàng và có sức cạnh tranh với các đối thủ. Riêng đối với các sản phẩm hưu trí, trọn đời khai thác tại địa phương phát triển rất chậm. Tổng công ty khuyến khích sản phẩm D2 và D3. Tất cả khách hàng muốn tham gia hợp đồng bảo hiểm đều phải có chứng minh thư nhân dân
f. Về tình hình tài chính kế toán
Trong năm vừa qua căn cứ vào định mức chi hoa hồng và chi quản lý do bảo hiểm nhân thọ giao, Công ty có kế hoạch chi hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả. Có chế độ khen thưởng phù hợp kích thích sự phát triển, tăng doanh thu của đại lý phù hợp với tình hình kinh doanh của đơn vị nhưng vẫn đảm bảo trong định mức được giao.
Công nợ tại đơn vị không lớn, chủ yếu là khách hàng nợ phí và tạm ứng để chị trả quyền lợi cho khách hàng tại các văn phòng phục vụ khách hàng khu vực. Công ty không có các khoản nợ khó đòi. Về công tác cho vay, công ty quản lý rất chặt chẽ, thu đúng kì hạn cả gốc và lãi.
Chính sách khuyến mại, tồn kho vật phẩm: Hiện tại đơn vị bán hàng trợ giá cho đại lý giảm 10% giá mua vào để tặng, biếu khách hàng, một số hợp đồng có mức bảo hiểm lớn đơn vị trực tiếp đến thăm và biếu khách hàng vật phẩm thích hợp, các vật phẩm mua về đều bán hết, không có vật phẩm nào tông đọng với số lượng lớn, vật phẩm tồn kho trong năm giá trị không lớn trung bình khoảng 50 triệu đồng.
g. Về tình hình quản lý nguồn nhân lực
Hiện nay công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá có một đội ngũ cán bộ viên chức rất hùng hậu:
• Tổng số viên chức của công ty gồm 52 người được đào tạo ở các trình độ đại học, cao đẳng và có năng lực chuyên môn tốt
• Có 1259 tư vấn viên và thu ngân viên được công ty đào tạo tốt về nghiệp vụ, có lòng nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm cao
h. Về tình hình quản lý maketing
• Công tác tuyên truyền quảng cáo:
Công ty đã viết bài đọc trên đài phát thanh huyện, thị về bảo hiểm nhân thọ và các loại hình bảo hiểm nhân thọ, đưa tin về hoạt động sơ kết tình hình kinh doanh 6 tháng đầu năm của công ty, Quảng cáo trên báo khoa học Thanh Hoá. Với trang quảng cáo thiết kế đẹp, nội dung hay đã thu hút được sự quan tâm của độc giả.
Tổ chức sự kiện tài trợ cho chương trình “Thanh niên với diễn đàn Hồ Chí Minh”, “Bảo Việt hưởng ứng tháng hành động vì trẻ em”. Công ty đã tổ chức nhiều buổi lẽ trao quà như ở Thọ Xuân, Hoàng Hoá thông qua đó công ty đã treo băng rôn quảng cáo, quay phim chụp ảnh làm tư liệu để phát trên đài truyền thanh, truyền hình các cấp. Chương trình đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các cấp lãnh đạo, các tầng lớp nhân dân, hiệu quả đem lại cao nên cần phải có thêm kinh phí để tổ chức. Hưởng ứng cuộc vận động của ban thường vụ tỉnh uỷ, công ty đã hỗ trợ xây dựng 2 căn nhà trị giá 10 triệu đồng cho người nghèo.
• Công tác dịch vụ chăm sóc khách hàng :
• Thiếp sinh nhật: Hàng tháng gửi thiếp sinh nhật tới cho khách hàng thông qua 2 hình thức: Thông qua tư vấn viên, chuyên thu viên và qua đường bưu điện. Dịch vụ gửi thiếp đã đem lại hiệu quả khá tốt góp phần làm hữu hình hoá các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, tăng thêm niềm tin của khách hàng đối với công ty. Tổng công ty nên xem xét tặng thiếp sinh nhật cho cả người tham gia và người được bảo hiểm, cải tiến mẫu mã, hình thức của thiêp sinh nhật, nghiên cứu thêm mẫu thiếp chúc mừng 8/3, 20/11.
• Thẻ ưu đãi: Vào đầu tháng công ty tiến hành tập hợp số liệu khách hàng đủ tiêu chuẩn cấp thẻ từ 50 triệu đồng trở lên, đã triển khai tặng thẻ Bảo việt card cho khách hàng có số tiền bảo hiểm từ 31 triệu đông trở lên từ tháng 10/2004, Nhìn chung hiệu quả của việc tặng thẻ chưa cao, chưa thực sự đêm lại sự ưu đãi cho khách hàng, vì vậy tổng công ty nên tăng thêm quyền lợi khi sử dụng thẻ ưu đãi, đa dạng hình thức sử dụng thẻ.
Tặng quà cho khách hàng: Quà tặng phù hợp với khách hàng, luôn cung cấp kịp thời nhu cầu quà tặng cho đại lý phục vụ công tác chăm sóc trước, trong và sau khi hợp đồng kết thúc.
• Công tác nghiên cứu thị trường và hỗ trợ khai thác:
• Luôn thu thập tin tức của đối thủ cạnh tranh về tình hình triển khai sản phẩm, phát triển đại lý , Thu thập tình hình phát triển kinh tế xã hội tại địa phương. Thành phố Thanh Hoá lên thành phố cấp 2, kinh tế xã hội phát triển ổn định là cơ sở vững chắc để phát triển BHNT tại địa phương.
• Thị trường bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá chủ yếu là sự cạnh tranh giữa bảo việt và Pru, Pru chủ yếu tập trung vào tâm lý khách hàng thích lãi cao, thường sử dụng hình thức tặng quà, tổ chức hội nghị khách hàng ở những khách sạn lớn để phô trương thông qua đó tuyển đại lý. Pru tiếp tục tiếp tục trao học bổng cho cho sinh viên, học sinh, hỗ trợ 100 triệu đồng cho trung tâm phục hồi chức năng, thuê những phòng khám chất lượng cao để khám sức khoẻ cho khách hàng.
• Công ty đã hỗ trợ máy vi tính cho đại lý đi thuyết trình, xây dựng và thiết kế SILE đẹp, gọn, ấn tượng, truyền tải thông tin đến khách hàng nhiều nhất. Khi khách hàng tham gia với số tiền bảo hiểm lớn, đóng phí dài hạn đích thân các đồng chí trong ban giám đốc đi đến tận nhà khách hàng hỗ trợ, thuyết phục, giải thích với khách hàng. Công ty đã khai thác được hợp đồng theo nhóm cụ thể là công ty in báoThanh Hoá với 139 hợp đồng, phí thu hàng tháng gần 14 triệu đồng.
• Thường xuyên bám sát địa bàn, sử lý nhưng tình huống như xuống tậ địa phương giải thích về quyền lợi khi khách hàng có ý định huỷ hợp đồng hàng loạt, chua tin vào bảo hiểm nên huỷ 14 ngày kịp thời, tạo lợi thế tốt cho hoạt động kinh doanh của công ty.
i. Về công tác tin học
Nhìn chung nhu cầu trang bị mới thiết bị tin học đều mới và tốc độ, đáp ứng của trung tâm thông tin về bảo hành, bảo trì máy móc thiết bị đều tốt.
Các phần mềm như BV_LIFE, quản lý công văn, chương trình kế toánvà các phần mềm khác đều hoạt động tốt và đáp ứng được nhu cầu quản lý kinh doanh của công ty. Trong công việc công ty cũng nhận được sự hỗ trợ tích cực của các đồng chí tin học tổng công ty đảm bảo quá trình kinh doanh không bị gián đoạn. Tuy nhiên công ty cũng kiến nghị với trung tâm thông tin về các phần mềm hiện đang được sử dụng khi có thay đổi thiết kế về một hay một số MUDEL của chương trình nên tập huấn ngay cho cán bộtin học địa phương để kịp hỗ trợ chương trình tại công ty.
k. Kế hoạch năm 2005
Phấn đấu hoàn thành 100% kế hoạch tổng công ty giao, cụ thể:
Doanh thu thực hiện năm 2005 :110.260 triệu đồng.
Doanh thu phí khai thác mới :19.600 triệu đồng
Số hợp đồng kinh tế mới :16.800 hợp đồng
Tuyển dụng tư vấn viên :550 người
2. Cơ cấu tổ chức
Công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá là đơn vị trực thuộc của công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam thuộc tổng công ty bảo hiểm Việt Nam(Bảo Việt), kể từ ngày thành lập đến nay công ty đã không ngừng tiến cơ cấu để thích nghi với điều kiện mới và nâng cao hiệu quả quản lý
a. Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy hiện tại của công ty.
Dưới đây là sơ đồ cơ cấu tổ chức hiện taị của công ty
Ban
giám đốc
Phòng
Tổng hợp
Phòng tài chính kế toán
Phòng
Quản lý
đại lý
Phòng
Dịch vụ khách hàng
Phòng
Chấp nhận bảo hiểm
Phòng
maketing
Phòng
Tin học
Thọ Xuân
Thiệu Hoá
Bỉm Sơn
Tĩnh Gia
Hoàng Hoá
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty
Qua sơ đồ trên ta thấy, cấp lãnh đạo của Công ty trực tiếp quản lý và chịu trách nhiệm về sự tồn tại và phát triển của Công ty. Với cơ cấu tổ chức này, đòi hỏi người lãnh đạo phải có được một kiến thức toàn diện và trình độ quản lý chuyên môn tốt. Thế nhưng , cơ cấu tổ chức này có một nhược điểm là ít phát huy được tính năng động của nhân viên nếu gặp phải sự chuyên quyền, áp đặt của người cán bộ lãnh đạo trong điều hành công việc. Đây là điều mà tổng công ty bảo hiểm Việt Nam phải có phương án để bổ sung sung nhằm phát huy tối đa tính hiệu quả trong cơ cấu bộ máy quản lý
b. Chức năng nhiệm vụ các phòng được quy định như sau:
Ban giám._.c
a. Cán bộ viên chức
Ưu điểm:
Theo đồ thị 2 và đồ thị3 trên ta thấy rõ ràng tỷ lệ cơ cấu như vậy là khá hợp hợp lý.
Nhược điểm:
Tuy nhiên điều bấp cập ở đây là số lượng đội ngũ cán bộ viên chức còn ít chưa đủ đáp ứng được nhu cầu của công ty và tỷ lệ cán bộ trong độ tuổi 22-30 là hơi ít . Hơn thế nữa có nhiều cán bộ viên chức còn phải làm việc trái với ngạch đào tạo của mình nên hiệu quả làm việc chưa cao. Do vậy trong thời gian sắp tới tổng công ty bảo hiểm Việt Nam cần có những biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế trên . Có như vậy thì năng lực hoạt động của bộ máy quản lý của công ty mới được phát huy được hết khả năng của mình
b. Về đội ngũ tư vấn viên và thu ngân viên ở các đại lý
Mặc dù đội ngũ tư vấn viên và thu ngân viên ở công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hóa là tương đối đông song Thanh Hóa là một tỉnh có diện tích rộng và dân số đông thuộc hàng đầu Việt Nam thì số lượng đó vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu khai thác. Hơn nữa một số đại lý vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu về nghiệp vụ, lòng ham mê với công việc chưa cao. Đây là điểm mà công ty cần có kế hoạch để điều chỉnh trong thời gian sắp tới
Qua việc phân tích và đánh giá thực trạng năng lực hoạt động cuả bộ máy quản lý ở phần trên. Ta thấy công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá đã có những bước tiến rất dài và khá vững trắc kể từ khi thành lập đến nay. Bên cạnh những thành công đó vẫn còn tồn tại những hạn chế trong bộ máy quản lý. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ bốnđề lớn:
- Thứ nhất là trong cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
- Thứ hai là trong năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ nhân viên chức
- Thứ ba là thể chế còn nhiều điều chưa hợp lý
- Thứ tư là sự quan tâm từ phía tổng công ty
Dưới đây là những giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại trên, nhằm nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy quản lý để đưa công ty phát triển hiệu quả và toàn diện hơn
Chương III.
Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy quản lý trong công ty bảo hiểm nhân thọ thanh hoá
I. Những giải pháp trong việc điều chỉnh bộ máy tổ chức:
Kinh nghiệm triển khai nghiệp vụ trên thế giới cho thấy, mặc dù tên gọi có thể khác nhau nhưng đáp ứng được các yêu cầu và thông thường nên tổ chức theo sơ đồ sau
-Tổ chức mô hình công ty bảo hiểm nhân thọ phải đảm bảo đáp ứng tốt nhất nhu cầu cho khách hàng tham gia bảo hiểm
-Tổ chức mô hình công ty bảo hiểm nhân thọ phải tạo điều kiện để phát huy tối đa tính tự chủ và sáng tạo của đội ngũ cán bộ công nhân viên thông qua việc giao quyền, phân quyền.
-Tổ chức bảo hiểm nhân thọ phải đáp ứng các yêu cầu chuyên môn hoá
-Tổ chức công ty bảo hiểm nhân thọ phải tiết kiệm
• Tổ chức mô hình công ty bảo hiểm nhân thọ theo chức năng nhiệm vụ:
Đây là mô hình tổ chức trong đó các phòng ban liên quan của công ty được sắp xếp, bố trí theo tính chất của công việc hoạc theo các hoạt động của công ty. Theo mô hình này thì công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ bao gồm các phòng: Tin học, nhân sự, kế toán, maketing, dịch vụ khách hàng, đánh giá rủi ro, tính phí, chi trả bảo hiểm và đầu tư
Ban giám đốc
Tài chính kế toán
Nhân sự
Dịch vụ khách hàng
Chi trả bảo hiểm
Tin học
maketing
Tính phí
Đánh giá rủi ro
Đầu tư
• Tổ chức mô hình bảo hiểm nhân thọ theo sản phẩm:
Với cách tổ chức theo sản phẩm, các công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ bao gồm các phòng chung là: Tài chính kế toán, tin học, nhân sự và đầu tư và các phòng được bố trí riêng cho mỗi loại hình sản phẩm là: maketing, dịch vụ khách hàng, đánh giá rủi ro, tính phí và chi trả bảo hiểm
Ban giám đốc
Tài chính kế toán
Đầu tư
Bảo hiểm nhóm
Tin học
Nhân sự
Bảo hiểm cá nhân
Maketing
Tính phí
Đ.giá RR
Dịch vụ Kh
Chi trả BH
Maketing
Tính phí
Đ.giá RR
D.V KH
Chi trả bh
tổ chức mô hình bảo hiểm nhân thọ theo sản phẩm
• Tổ chức mô hình công ty bảo hiểm nhân thọ theo khu vực
Cùng với quá trình phát triển, các công ty không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động quá rộng, mô hình tổ chức theo khu vực
Ban giám đốc
Khu vực A
Khu vực B
Khu vực C
Tài chính kế toán
Đầu tư
Bảo hiểm nhóm
Tin học
Nhân sự
Bảo hiểm cá nhân
maketingg
DV.Kh
Tính phí
C.trả bh
Đ.giá RR
maketing
tính phí
Đ.giá RR
DV.KH
C.trả bh
Tổ chức công ty bảo hiểm nhân thọ theo khu vực
Thanh Hoá là một tỉnh có diện tích rộng thuộc loại nhất nước. Tiềm năng của việc khai thác bảo hiểm nhân thọ là rất lớn. Hơn nữa xu hướng chung của các công ty bây giờ là tổ chức theo chức năng, nhiệm vụ từng bộ phận. Như vậy, mô hình tổ chức theo chức năng nhiệm vụ kết hợp với mô hình tổ chức theo khu vực la sự kết hợp lý tưởng nhất. Công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá nên cố gắng điều chỉnh cơ cấu bộ máy theo sự kết hợp này là hợp lý
Mặt khác trong thời gian tới, theo tôi công ty cần bổ sung thêm một phòng nữa là phòng pháp chế có nhiệm vụ : Tư vấn cho lãnh đạo công ty những vấn đề liên quan đến luật pháp, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành, phối hợp với phòng chi trả bảo hiểm giải quyết các trường hợp từ chối hoạc phát sinh kiện tụng, phối hợp với phòng tài chính kế toán thực hiện các yêu cầu về thuế, phối hợp với các phòng ban liên quan xây dựng điều khoản của hợp đồng bảo hiểm
II. Những giải pháp về quản lý nguồn nhân lực
Trên cơ sở đề xuất quá trình quản lý kinh doanh của công ty, kết cấu tổ chức và phân định các tổ hợp chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của bộ máy quan lý cần được hoàn chỉnh.
Việc nâng cao cơ cấu chất lượng lao động quản lý của công ty không thể trong một thời gian ngắn có thể cải cách ngay được, vì thế phải tìm khâu then chốt để đột phá nhằm từ đó vừa đảm bảo được yêu cầu trước mắt, vừa từng bước đáp ứng được yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ cho lâu dài. Theo quan điểm của tôi việc nâng cao đội ngũ cán bộ quản lý của công ty cần tập trung vào 3 khâu quyết định đó là: Các nhà lãnh đạo kinh doanh, đội ngũ kinh doanh tác nghiệp kinh doanh và các chuyên gia tham mưu tư vấn.
Đối với đội ngũ các nhà lãnh đạo kinh doanh là những người điều hành đơn vị trong toàn công ty hoạt động theo chế độ tự chủ hạch toán kinh doanh, vai trò của họ rất quan trọng, là người trực tiếp tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo ra của cải cho xã hội. Nhưng thực tế thì cơ cấu chất lượng đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của công ty hiện nay còn yếu về số lượng và thấp về tiêu chuẩn trình độ học vấn, thậm chí nhiều đồng chí vừa tuổi cao vừa trưởng thành từ kinh nghiệm thực tế chưa qua đào tạo cơ bản. Muốn có đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh giỏi làm nguồn thay thế bổ xung, trước hết phải quan tâm đến công tác tuyển chọn những người có điều kiện và khả năng trở thành những nhà kinh doanh giỏi. Đó là những người có khiếu kinh doanh, có điều kiện tiếp xúc với nhiều hoạt động kinh doanh cơ chế thị trường, có tham vọng làm nghề kinh doanh, giám mạo hiểm và chấp nhận rủi ro, có lòng tự tin vào khả năng kinh doanh thành công của mình. Tuỳ theo vị trí và tầm quan trọng khác nhau của cán bộ quản lý kinh doanh mà có yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực. Cách thức tuyển chọn rất đa dạng và phong phú.
Công ty cần tập trung sức lực và trí tuệ vào việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ và kinh doanh, đặc biệt là những nhà lãnh đạo, kinh doanh của ba cấp trong tổ chức công ty. Bên cạnh đó cần tạo thêm những điều kiện thuận lợi cho những người làm công tác kinh doanh được học tập nâng cao trình độ, phát triển năng lực tiềm tàng về kinh doanh và quản lý kinh doanh nhằm bổ xung và củng cố phát triển đội ngũ lao động làm công tác kinh doanh của toàn công ty. Mặt khác, với vai trò là những chuyên gia xây dựng và củng cố bộ tham mưu là những nhà chuyên gia, tư vấn để tạo điều kiện cho công ty phát triển những bước dài trong tương lai.
1. Về công tác tuyển dụng cán bộ:
Tuyển dụng cán bộ quản lý kinh tế trong công ty là hoạt động nhằm mục đích lấy người bổ sung vào các chỗ trống của công ty sau khi đánh giá người đó có đủ tiêu chuẩn và điều kiện quy định cho một công việc cụ thể nào đó trong tổ chức. Đây là khâu rất quan trọng, nên khi tuyển dụng công ty bảo hiểm nhân thọ phải căn cứ vào những điều kiện nhất định đối với người tham gia dự tuyển:
a.Về tiêu chuẩn cán bộ:
- tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị: Có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, xây dựng bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết chống lại những tệ nạn xấu trong hoạt động quản lý như: tham mô, hối lộ, quan liêu
Có đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trong sáng, lối sống lành mạnh, cần kiệm liêm chính chí công vô tư, trung thực, thẳng thắn, có ý thức tổ chức kĩ thuật, giữ gìn sự đoàn kết nội bộ, tôn trọng sự lãnh đạo của tập thể.
-Về năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ
các cán bộ phải nắm vững đường lối, chiến lược chung của tổng công ty bảo hiểm Việt Nam và biết cụ thể hoá thành chiến lược, kế hoạch cụ thể của công ty. Đặc biệt là nắm vững các chính sách, quy chế pháp luật của Nhà nước.
-Có khả năng cụ thể hoá đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, truyền đạt, hướng dẫn thuyết phục có năng lực chủ trì và kết luận các quyết định của tập thể lãnh đạo và tổ chức thực hiện đúng đắn, sáng tạo, có hiệu quả các chủ trương đó.
Có tư duy nhạy bén biết phát hiện kịp thời những vấn đề mới những cơ hội mới, những thử thách mới để đề ra các kế hoạch, biện pháp xử lý kịp thời
-Về sức khoẻ và độ tuổi:
Đội ngũ cán bộ nhân viên đều có sức khoẻ tốt để hoàn thành nhiệm vụ và đảm bảo độ tuổi theo quy định từng chức danh và đều được đảm bảo theo quy tắc sau:
+ Bộ máy lãnh đạo đảm bảo 3 độ tuổi
+ Từng chức danh cụ thể cũng đảm bảo theo quy định về độ tuổi
Về các chức danh cụ thể:
- Giám đốc: Giám đốc phải là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực nghiên cứu; tiếp thu vận dụng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, có quy định của ngành, của tổng công ty có nhiệt tâm gắn bó với đơn vị, có phương pháp làm việc khoa học, dân chủ, có ý thức kĩ luật, chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách pháp luật của Nhà nước, các quy định của Đảng, các nguyên tắc của cấp uỷ, hiểu biết và đóng góp tích cực vào công tác xây dựng Đảng. Có quan điểm quần chúng đúng đắn; có bản lĩnh giám làm, giám chịu, chủ động, quyết đoán, nhạy bén với thị trường, có tầm nhìn xa, nắm bắt những thành tựu kinh tế- kĩ thuật công nghệ tiên tiến. Có phong cách và mối quan hệ giao tiếp rộng với các bạn hàng trong và ngoài nước ,có phong cách đạo đức và lối sống lành mạnh.Có trình độ lý luận chính trị và đặc biệt là đã kinh qua làm công tác quản lý
- Phó giám đốc:Là người đang phấn đấu theo tiêu chuẩn giám đốc cụ thể như
+ Có trình độ đại học chuyên môn nghiệp vụ
+ Có trình độ chuyên sâu về lĩnh vực phụ trách; được bồi dưỡng về kinh tế thị trường, pháp luật, quản lý kinh tế, có khả năng đề xuất tổ chức một lĩnh vực cụ thể. Có trình độ kiểm tra cấp dưới, có kiến thức tổng hợp, có mối quan hệ giao tiếp rộng rãi, được tập thể tín nhiệm
+ Có trình độ ngoại ngữ , lý luận chính trị
+ Đã kinh qua các chức vụ quản lý như trưởng phòng, kế toán trưởn...và có nhiều kinh nghiệm trong quản lý
-Kế toán trưởng:
Kế toán trưởng của công ty là người có năng lực, đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn theo đúng quy định:
+ Có trình độ đại học tài chính kế toán
+ Trung cấp lý luận chính trị
+ Ngoại ngữ tiếng anh trình độ B
+ Đã qua lớp bồi dưỡng kế toán trưởng theo chương trình của bộ tài chính và được cấp chứng chỉ
+ Chuyên sâu về lĩnh vực tài chính
-Trưởng phòng đơn vị thành viên:
+ Có trình độ chuyên môn kĩ thuật nghiệp vụ, có bằng A tiếng anh, trình độ lý luận sư, trung cấp; qua bồi dưỡng quản lý kinh tế, qua thực tế công tác nhiều năm
+ Có khả năng hoạt động độc lập trong phạm vi nhiệm vụ được giao.
+ Có trình độ tổng hợp hướng dẫn các vấn đề chuyên môn
+ Có trình độ tin học, sử dụng thành thạo máy tính
-Phó trưởng phòng:
+ Có trình độ trình độ đại học chuyên môn nghiệp vụ.
+ Có trình độ ngoại ngữ tiếng anh trình độ B, lý luận trung cấp,và có khả năng sử dụng máy tính thành thạo
+ Có trình độ tổng hợp về chuyên môn nghiệp vụ của lĩnh vực đang quản lý, có khả năng theo dõi và kiểm tra tình hình thực hiện thuộc phạm vi đang quản lý
b. Nguyên tắc tuyển dụng:
-Nguyên tắc tuyển dụng theo nhu cầu về cán bộ, viên chức
Theo nguyên tắc này việc tuyển dụng cán bộ vào công ty phải thuộc chỉ tiêu biên chế hàng năm của tổng công ty bảo hiểm Việt Nam. Công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá cần có những quy hoạch cụ thể để biết được nhu cầu cán bô trong từng bộ phận cụ thể của công ty ,để từ đó lập danh sách gửi lên tổng công ty. Tổng công ty sẽ có những chính sách và những quyết định giao cho công ty tuyển chọn cán bộ. Theo quan điểm của tôi công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá cần bổ sung thêm một phó giám đốc vào trong ban giám đốc để giảm bớt sự quá tải trong công việc của 1 phó giám đốc hiện nay đồng thời cũng để tăng thêm sự tác nghiệp cho giám đốc công ty.
-Nguyên tắc dân chủ và công bằng:
Theo nguyên tắc này công ty thực hiện việc tuyển dụng căn cứ vào kế hoạch tuyển dụng đã được xét duyệt công bố công khai những yêu cầu, tiêu chuẩn, thời gian xét chọn và các điều kiện ràng buộc để bất cứ ai có nhu cầu và hội đủ các điều kiện đều có thể ứng tuyển. Khi xét chọn phải phải thành lập hội đồng công khai và đảm bảo tính khách quan trong tuyển chọn cán bộ nhân viên chức. Đồng thời phải chống tình trạng tuỳ tiện lạm dụng chức quyền để đưa con cháu, người thân vào làm việc mà không tính đến tiêu chuẩn, hoạc dùng tiền bạc hối lộ những người có trách nhiệm để biến việc tuyển dụng thành quan hệ mua bán
- Nguyên tắc tuyển dụng theo tài năng qua thi tuyển:
Theo nguyên tắc này tất cả những người đã đủ điều kiện tuyển dụng muốn trở thành cán bộ viên chức phải tham gia một kì thi tuyển; những người những người đạt kết quả qua kì thi này thì mới trở thành cán bộ viên chức của công ty
- Nguyên tắc tuyển dụng có điều kiện, tiêu chuẩn, yêu cầu rõ ràng:
Theo nguyên tắc này những người muốn trở thành cán bộ viên chức phải hội đủ những điều kiện do cơ quan tuyển dụng đưa ra và phải đáp ứng được các yêu cầu , tiêu chuẩn của công ty. Đồng thời các điều kiện, tiêu chuẩn đó phải được thông báo công khai để đảm bảo tính dân chủ
2. Về công tác đào tạo và phát triển nhân viên đại lý:
Doanh thu của một công ty bảo hiểm phụ thuộc rất nhiều vào khả năng khai thác của đại lý, vì vậy việc đào tạo và phát triển các đại lý là công tác cơ bản của một công ty. Trước kia thì công tác đào tạo đại lý hoàn toàn thuộc vê tổng công ty bảo hiểm Việt Nam. Nhưng kể từ khi công tác này được chuyển một phần cho các công ty bảo hiểm thành viên, điều này đã giúp cho các công ty chủ động hơn. Tuy nhiên thực tế hiện nay đội ngũ làm công tác đào tạo ở công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá chưa đều tay, khả năng sư phạm chưa cao và dường như cũng mới chỉ đào tạo được những gì mình có, chưa thực sự đáp ứng được mong đợi của người đại lý. Thiết nghĩ công ty cần đổi mới và cải tiến nhiều hơn nữa:
- Về phía trung tâm đào tạo:
+ Tập trung nghiên cứu, tổng hợp kinh nghiệm để đào tạo ” thầy” là chính, tức là đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên cho những người làm công tác đào tạo của công ty
+ Đẩy mạnh công tác đào tạo từ xa qua các bản tin hoạc đưa ra chủ đề tham luận, nghiên cứu...
- Về phía những người làm công tác đào tạo tại công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá:
+ Yêu cầu người làm công tác đào tạo cần đáp ứng được một số yêu cầu: Phải hiểu sâu sắc và đầy đủ về bảo hiểm nhân thọ, về các sản phẩm bảo hiểm của Bảo Việt về các công ty khác;
+ Phải có kiến thức thực tế, đặc biệt là kĩ năng bán hàng. Hàng quý nên dành thời gian để trực tiếp làm nghiệp vụ bán hàng của người đại lý;
+ Ham học hỏi và thường xuyên gần gũi với đại lý.
Như vậy, người làm công tác đào tạo ngoài những cán bộ công ty, nếu có thêm những đại lý giỏi cùng tham gia thì chất lượng đào tạo sẽ cao.
ã Cách thức đào tạo: Việc đào tạo được tiến hành theo hai cách thức
Đào tạo bắt buộc: Đó là chương trình đào tạo có tính chất bắt buộc mà bất kì đại lý nào cũng phải trải qua và nắm vững những kiến thức cơ bản làm cơ sở tiếp nhận và phát triển các kiến thức khác như chương trình đào tạo đại lý cấp 1, đại lý cấp 2, 3... tuy nhiên, ngay cả trong chương trình đại lý cấp 1 cũng cần chia thành một số giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Đào tạo cho đại lý tương lai những kiến thức cơ bản về bảo hiểm và bảo hiểm nhân thọ, tập trung vào các sản phẩm bảo hiểm chủ lực hiện nay của công ty. Phần kĩ năng chỉ mang tính chất giới thiệu những bước công việc.
+ Giai đoanh 2: Sau khi đại lý đã thực hành bán hàng trong thời hạn nhất định( khoảng 15 ngày đến 1 tháng), nếu chúng ta trang bị lại và sâu hơn các kiến thức về bảo hiểm nhân thọ để có thể giúp họ vận dụng trả lời khách hàng trong các tình huống cụ thể thực tế. Đồng thời, giới thiệu thêm các sản phẩm bảo hiểm còn lại và giúp đại lý ý thức được một chu trình đầy đủ về khai thác bảo hiểm nhân thọ.
+ Giai đoạn 3: Hệ thống hoá toàn bộ kiến thức của chương trình bảo hiểm cấp 1, giúp đại lý có thể ghi nhớ một cách hệ thống những kiến thức được cung cấp. Giai đoạn này người đại lý thường ở trạng thái ” khủng hoảng” do các mối quen biết sẵn có bắt đầu khô cạn, do vậy cần hỗ trợ họ bằng quy trình khai thác hoàn thiện hơn.
Đào tạo theo yêu cầu: Là hình thức nhằm đào tạo đúng những kiến thức cần thiết mà đại lý đang mong đợi. Nó giúp tiết kiệm thời gian và làm tăng nhanh quá trình hoàn thiện và nâng cao trình độ nghiệp vụ của người đại lý. Đây là công việc rất quan trọng, quyết định người đại lý có trở thành” chiến sĩ giỏi ” hay không. Người làm công tác đào tạo dựa trên yêu cầu của các phòng ban nghiệp vụ và của chính đại lý để xây dựng và thiết kế chương trình đào tạo phù hợp.
+ Đào tạo theo yêu cầu của các phòng ban nghiệp vụ: Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý của mình, các phòng ban chức năng sẽ nhân biết được người đại lý còn khiếm khuyết nào trong tác nghiệp và yếu ở khâu nào trong kĩ năng để đặt ra yêu cầu cần đào tạo bổ sung thêm phần thiếu và yếu đó, giúp đại lý hoàn thiện được kỹ năng và đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
+ Đào tạo theo yêu cầu của đại lý: Trong công việc thực tế, chỉ có đại lý mới nhận thấy họ cần phải có thêm kiến thức gì. Yêu cầu này lại không giống nhau giữa các đại lý. Do vậy, nếu người làm công tác đào tạo thực hiện được yêu cầu này thì đại lý sẽ hào hứng hơn trong việc học tập, đón nhận kiến thức nhanh hơn và cũng tránh được tư tưởng đi học do công ty bắt buộc.
Việc đào tạo theo yêu cầu không cần tổ chức thành các lớp đào tạo, mà người làm công tác đào tạo có thể tiến hành trực tiếp với 1, 2, 3... đại lý có nhu cầu, hoạc tổ chức thông qua các buổi sinh hoạt tổ; nếu có điều kiện thì tổ chức các buổi giao lưu . Điều này vừa tiết kiệm thời gian, vừa tạo ra sự hứng thú của người học, vừa học vừa chơi.
Nếu được như vậy chắc chắn chúng ta sẽ có được một đội ngũ những người đại lý ” thiện xạ” và lúc đó được đào tạo mới là nhu cầu không thể thiếu đối với họ
III . giải pháp về thể chế
Nhà nước phải xây dựng các văn bản, hướng dẫn thi hành luật kinh doanh bảo hiểm, các văn bản này phải thể hiện rõ được chính sách của Nhà nước và vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đảm bảo tính công khai minh bạch để tạo môi trường bình đẳng trong kinh doanh.
Kể từ ngày thành lập tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đến nay, đã có rất nhiều sự điều chỉnh nhằm hoàn thiện các văn bản pháp luật về bảo hiểm của nhà nước cũng như từ phía tổng công ty bảo hiểm Việt Nam để nâng cao hiệu quả của việc phát triển ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng. Các văn bản pháp luật cũng là môi trường có tác động rất lớn đến năng lực hoạt động của bộ máy quản lý ở các công ty bảo hiểm thành viên nói chung và công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá nói riêng. Nếu các văn bản hợp lý thì sẽ là điều kiện lý tưởng để bộ máy quản lý phát huy hết năng lực của mình. Nhưng mỗi khi các văn bản mà không hợp lý thì cũng là một hàng rào ngăn cản, kìm hãm khả năng của bộ máy quản lý của công ty, từ đó sẽ ảnh hưởng xấu đến kinh doanh của công ty và tổng công ty.
Ngày 29/8/2003, thủ tướng chính phủ đã kí quyết định số 175/2003/QĐ-TTg phê duyệt” chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến 2010”. Những chỉ tiêu chủ yếu là: Tổng doanh thu phí bảo hiểm bình quân tăng khoảng 28%/ năm; Trong đó bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/ năm và bảo hiểm nhân thọ tăng khoảng 28%/năm. Tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm của toàn ngành so với GDP là 2,5% năm 2005 và 4,2% năm 2010. Tạo công ăn việc làm cho khoảng 150.000 người vào năm 2010. Nộp ngân sách nhà nước giai đoạn 2003-2010 tăng bình quân 20%/ năm. Tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002
Theo quan điểm của tôi thì việc đề ra chỉ tiêu tổng doanh thu phí bảo hiểm bình quân hàng năm là 28% là hơi thấp. Bởi vì trong thời gian đó chắc chắn nhiều người dân Việt Nam cũng đã hiểu rất nhiều về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng, cho nên công tác khai thác bảo hiểm sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Sẽ có nhiều hợp đồng bảo hiểm hơn được kí kết . Mặt khác thu nhập bình quân đầu người của người dân cũng ngày một được nâng lên nên chắc chắn trị giá của mỗi hợp đồng bảo hiểm cũng sẽ lớn hơn trước rất nhiều làm cho doanh thu phí bảo hiểm tăng mạnh. Và thiết ngĩ doanh thu phí bảo hiểm bình quân hàng năm tăng khoảng 30- 32% là phù hợp. Điều đó sẽ làm cho các công ty bảo hiểm thành viên phải cố gắng hơn trong việc khai thác bảo hiểm và có như vậy thì năng lực hoạt động của bộ máy quản lý của công ty mới mới phát huy hết công suất của mình
Trong quyết định của tổng công ty bảo hiểm Việt Nam về việc đào tạo các đại lý hiện nay, thì quyết định chủ yếu vẫn thuộc về tổng công ty. Điều này cần phải được sữa đổi để giao dần nhiệm vụ đó cho các công ty thành viên. Có như vậy các công ty sẽ chủ động hơn và công tác quản lý của bộ máy sẽ thuận tiện hơn
Cùng với hoạt động bảo hiểm, kinh doanh của Bảo Việt sẽ hướng mạnh vào phát triển các dịch vụ tài chính đa dạng trước hết là hình thành và phát triển các quỹ đầu tư công ty quản lý quỹ, đáp ứng không chỉ nhu cầu đầu tư của mình, mà còn đáp ứng nhu cầu đầu tư của dân cư và các doanh nghiệp khác. Trong tương lai cũng không có gì cản trở để Bảo Việt hình thành những dịch vụ tài chính mới như cho thuê tài chính, thẻ thanh toán và ngân hàng... Với chiến lược phát triển đó thì nhà nước cần phải soạn thảo một văn bản mới để tạo môi trường pháp lý để hướng dẫn cho các công ty hoạt động trong một khuôn khổ an toàn. Đồng thời cũng là để tạo điều kiện cho bộ máy quản lý của các công ty phải biết làm gì thực hiện thành công chiến lược chung của tổng công ty trong môi trường pháp luật
Mặt khác đó trong bộ máy tổ chức; quy định về chức năng và quyền hạn của các bộ phận chức năng vẫn còn chặt chẽ chưa thông thoáng. Nên trong thời gian tới tổng công ty bảo hiểm Việt nam cần có những sữa đổi để mở rộng hơn nữa nhiệm vụ và quyền hạn nhằm tạo nên sự linh động cho cán bộ nhân viên của công ty thực hiện chức năng của mình. Có như vậy thì năng lực quản lý của bộ máy mới được nâng cao
Trong thời gian tới nước ta sẽ chính thức trở thành thành viên của WTO. Đây là một cơ hội, đồng thời cũng là những thách thức vô cùng khó khăn; Sự cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, sẽ có nhiều sự xuất hiện của các công ty nước ngoài cùng hoạt động trên địa phận nước ta. Điều đó có nghĩa là thị phần sẽ bị chia sẽ, công tác khai thác bảo hiểm sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Do vậy nhà nước cần có những chính sách nhằm ưu đãi các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước chẳng hạn như chính sách về thuế, hay chính sách về đầu tư tài chính cho các công ty bảo hiểm . Có như vậy các doanh nghiệp trong nước mới có thể tồn tại và cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài
Bên cạnh đó Nhà nước cần tăng cường hiệu lực quản lý về kinh doanh bảo hiểm:
+ Bộ tài chính xây dựng quy chế nhằm đạt năng lực quản lý bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế, xây dựng chiến lược và chính sách quản lý bảo lý bảo hiểm, đẩy mạnh phát triển thị trường bảo hiểm Việt nam
+ Xây dựng bộ phận quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm phù hợp với quy mô thị trường bảo hiểm, đồng thời với việc đào tạo và đào tạo lại các cán bộ về kinh doanh bảo hiểm để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
+ Tăng cường công tác kiểm tra giám sát hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, đảm bảo an toàn về tài chính cũng như khả năng thanh toán của các doanh nghiệp, đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. ở đây nhà nước quản lý theo pháp luật, không can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
+ Tăng cường vai trò chủ đạo của nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Nhà nước sẽ có các chính sách nhằm quan tâm , ủng hộ các doanh nghiệp bảo hiểm của nhà nước để các doanh nghiệp này phát huy hết vai trò của mình
IV. những giải pháp từ phía tổng công ty bảo hiểm việt nam
Bảo hiểm nhân thọ thanh hóa là một đơn vị thành viên của tổng công ty bảo hiểm việt nam hạch toán phụ thuộc vào tổng công ty. Để công ty phát triển thì tổng công ty cần phải sát xao hơn trong vấn đề quản lý. Tổng công ty cần đặt một kế hoạch cụ thể cho công ty như: kế hoạch về doanh thu, công tác phát triển đại lý, công tác nhân sự....
Từ trước đến nay thì công tác đào tạo các đại lý vẫn thường do tổng công ty trực tiếp thực hiện. Điều này sẽ có rất nhiều hạn chế vì tổng công ty khó nắm được nhu cầu đại lý của các đơn vị thành viên. Do đó tổng công ty nên giao công việc này cho các đơn vị thành viên thực hiện, có như vậy các công ty đơn vị thành viên sẽ chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn nhân lực và bố trí công việc
Tổng công ty cần quan tâm hơn nữa đến sự phát triển của các cán bộ viên chức và đặc biệt là các đại lý. Có chế độ khen thưởng thõa đáng cho những cán bộ viên chức giỏi, các tư vấn viên và thu ngân viên có lòng nhiệt tình với công việc cũng nên có chế độ khen thưởng cho dù trình độ chuyên môn của họ là còn hạn chế
kết luận
Trên cơ sở hệ thống tri thức về khoa học kết hợp với thực tiễn trong chươn trình đào tạo cử nhân quản lý kinh tế của Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội. Bằng phương pháp phân tích trên cơ sở tư duy về kinh tế. Tôi đã thấy được vai trò của bộ máy quản lý trong công ty là vô cùng to lớnư. Nó chính là yếu tố để vận hành một hệ thống, đưa hệ thống theo đúng mục tiêu đã định. Chính vì thế việc nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy quản lý của công ty phải được xem như một công tác thường xuyên trong một tổ chưc
Từ những thành tựu đã đạt được, với truyền thống nhất trí cao, trí tuệ tập thể. Công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hóa đã và đang phấn đấu không biết mệt mỏi hoàn thành tốt nhiệm vụ mà tổng công ty bảo hiểm Việt Nam giao phó, kinh doanh bảo hiểm đạt hiệu quả cao nhất, góp phần đắc lực vào sự phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh chuyển sang cơ chế thị trường.
Với khuôn khổ và góc độ của một bài thực tập, tôi hy vọng những ý kiến trong đề tài này sẽ được xem xét và có thể vận dụng một phần nào đó vào thực tiễn mà trước tiên là ở công ty bảo hiểm nơi tôi thực tập để có thể góp một phần nhỏ vào công cuộc thực hiện chiến lược phát triển của tổng công ty bảo hiểm Việt nam mà chiến lược trước mắt là: Phát triển thành một tập đoàn tài chính tổng hợp, đứng đầu trong lĩnh vực bảo hiểm cũng như dịch vụ tài chính Việt Nam; Sớm đưa nước ta thực hiện thành công con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo Tại lễ khai trương trụ sở mới và hội nghị khách hàng năm 2003( Thanh Hóa, tháng 10/2003)
2. Báo cáo tổng kết năm 2004 và phương hướng kinh doanh năm 2005 ở công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hóa
3. Văn bản quy định chức năng nhiệm vụ của các phòng( Thanh Hóa ngày 25 thánh 06 năm 2002)
4. Bảo Việt- 40 năm xây dựng và phát triển- Nhà xuất bản văn hóa thông tin- tháng1/2005
5. Giáo trình khoa học quản lý- pgs.ts đoàn thị thu hà- ts. nguyễn thị ngọc huyền- nhà xuất bản khoa học kĩ thuật hà nội-2002
6. Giáo trình quản lý học kinh tế quốc dân-gs.ts đỗ hoàng toàn- pgs.ts mai văn bưu-nhà xuất bản khoa học kỹ thuật hà nội-2002
7. Tạp chí : bảo hiểm- số 3-năm 2001
8. tạp chí : bảo hiểm- số 3- năm 2002
9. Tạp chí :bảo hiểm - số 2- năm 2000
10. Tạp chí : tài chính- số 2- năm 1996
11. tạp chí : tổ chức nhà nước- số 4 năm 2004
12. lý luận chính trị- số 9- năm 2004
Mục lục
Lời giới thiệu 1
Phần nội dung 3
Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ và bộ máy quản lý của Công ty 3
I. Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ 3
1. Khái niệm về bảo hiểm nhân thọ 3
2. Những đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ 3
3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ 5
4. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ 7
5. Các lĩnh vực hoạt động của bảo hiểm nhân thọ 9
II. Lý luận về bộ máy quản lý và năng lực hoạt động của bộ máy quản lý 10
1. Bộ máy quản lý 10
2. Năng lực hoạt động của bộ máy quản lý 18
Chương II: Thực trạng hoạt động của bộ máy quản lý hiện
tại trong công ty Bảo Hiểm nhân thọ thanh hoá 22
I. Vài nét về công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá 22
1. Lịch sử phát triển của công ty 22
2. Những cơ hội và thách thức đối với sự hoạt động và phát triển của công ty 25
II. Phân tích thực trạng hoạt động của bộ máy quản lý của công ty 27
1. Những kết quả đạt được nhờ sự hoạt động của bộ máy quản lý 27
2. Cơ cấu tổ chức 36
3. Năng lực hd của đội ngũ cán bộ nhân viên của bộ máy quản lý 53
III. Đánh giá về năng lực hoạt động của bộ máy quản lý 54
1. Những kết quả đạt được 55
2. Về cơ cấu tổ chức 57
3. Về nguồn nhân lực 58
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy quản lý trong công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá 60
I. Những giải pháp trong việc điều chỉnh bộ máy tổ chức 60
II. Những giải pháp về quản lý nguồn nhân lực 64
1. Về công tác tuyển dụng cán bộ 65
2. Về công tác đào tạo và phát triển nhân viên đại lý 69
III. Giải pháp về thể chế 71
IV. Những giải pháp từ phía Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam 74
Kết luận 75
Tài liệu tham khảo 76
Nhận xét của cơ quan thực tập
(Công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá)
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9164.doc