Nâng cao năng lực nhận tài của VINARE trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới - WTO

Tài liệu Nâng cao năng lực nhận tài của VINARE trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới - WTO: MỞ ĐẦU Nền kinh tế tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao và ổn định, đầu tư nước ngoài được duy trì ở mức cao, nhiều dự án lớn về thuỷ điện và cơ sở hạ tầng được khởi công xây dựng…là những động lực mạnh mẽ thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển. Tuy nhiên với một nhu cầu bảo hiểm tăng cao như hiện nay, thêm vào đó là giá trị của đối tượng tham gia bảo hiểm ngày càng lớn trong khi vốn của các công ty bảo hiểm trong nước lại có hạn mà hoạt động tái bảo hiểm trong thời gian qua đã hết sức s... Ebook Nâng cao năng lực nhận tài của VINARE trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới - WTO

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực nhận tài của VINARE trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới - WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ôi động. Ra đời theo quyết định số 920/TC/QĐ/TCCB của Bộ Tài chính, Tổng công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (viết tắt là VINARE) đã chính thức đi vào hoạt động năm 1995 và là công ty duy nhất trên thị trường chỉ hoạt động chuyên trong lĩnh vực kinh doanh tái bảo hiểm. Nếu như trước đó phần lớn các dịch vụ bảo hiểm được chuyển ra nước ngoài, thì với sự có mặt của VINARE trên thị trường, tình trạng ấy đã được hạn chế phần nào. Trong suốt hơn 12 năm hoạt động, VINARE đã đạt được không ít thành công trong việc nâng dần tỷ lệ giữ lại cho thị trường trong nước, đồng nghĩa với đó là hạn chế được lượng ngoại tệ chảy ra nước ngoài. Mặt khác, VINARE cũng hoạt động khá hiệu quả trong việc cung cấp thông tin bảo hiểm/tái bảo hiểm, tư vấn hỗ trợ các công ty bảo hiểm trong nước thu xếp tái bảo hiểm… Song cũng cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng mặc dù tỷ lệ giữ lại cho thị trường nói chung cũng như cho VINARE nói riêng có tăng nhưng phần giữ lại đó vẫn chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn so với lượng phí bảo hiểm chuyển nhượng ra nước ngoài. Trong khi đó hội nhập đã đến, nhiều cam kết gia nhập WTO của ngành bảo hiểm đã bắt đầu có hiệu lực, cơ hội có nhiều nhưng những thử thách đối với hoạt động nhận tái của VINARE cũng sẽ không ít. Trước tình hình đó, để vừa tự khẳng định vai trò, vị thế của mình trên thị trường tái bảo hiểm trong và ngoài nước, vừa có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Chính phủ đã giao, thiết nghĩ việc “Nâng cao năng lực nhận tái của VINARE trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới - WTO” là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên với vốn kiến thức có hạn, khi đặt bút viết chuyên đề này em hoàn toàn không có tham vọng lật ngược tình thế hay nói cách khác là cải thiện ngay được kết quả hoạt động nhận tái của VINARE. Để làm được điều đó chắc chắn phải cần đến sự đóng góp nhiệt tình với tinh thần trách nhiệm cao của chuyên gia đầu ngành cũng như của lãnh đạo, cán bộ trong công ty. Về phần mình, chỉ với tư cách là một sinh viên khoa bảo hiểm, được học đôi chút về tái bảo hiểm, em thiết nghĩ mục đích đặt ra cho đề tài này không nhất thiết phải là quá lớn. Trước hết, đây phải là sự tổng hợp, hệ thống hoá kiến thức về tái bảo hiểm. Thứ đến là báo cáo kết quả thu được sau thời gian dài thực tập tại công ty. Cuối cùng, em cũng rất lấy làm vinh dự nếu như xét ở một góc độ nào đó, đề tài lại có thể góp phần gợi ra một hướng đi mới trong nghiên cứu về hoạt động nhận tái bảo hiểm tại VINARE. Do diễn biến thị trường cũng như bản thân VINARE đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là từ khi chuyển sang mô hình công ty cổ phần năm 2005, bài viết chỉ xin lấy bốn năm gần đây nhất là các năm 2004, 2005, 2006, 2007 để phản ánh hoạt động nhận tái của công ty. Để tiện theo dõi, chuyên đề này được chia làm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Riêng phần thứ hai - nội dung được chia làm ba chương, cụ thể là: Chương 1: Khái quát chung về tái bảo hiểm và năng lực nhận tái bảo hiểm Chương 2: Thực tiễn hoạt động kinh doanh nhận tái bảo hiểm của VINARE giai đoạn 2004 - 2007 Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực nhận tái của VINARE trong bối cảnh gia nhập WTO. Sinh viên: Nguyễn Thuỳ Dương CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁI BẢO HIỂM VÀ NĂNG LỰC NHẬN TÁI BẢO HIỂM I. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TÁI BẢO HIỂM 1. Sự cần thiết và bản chất của tái bảo hiểm 1.1 Sự cần thiết của tái bảo hiểm Cũng giống như bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, ngoài việc đáp ứng nhu cầu an toàn cho con người thì lợi nhuận luôn là mục tiêu của hoạt động bảo hiểm thương mại. Để đạt được mục tiêu đó thì một trong những nguyên tắc quan trọng mà khi tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn phải tuân thủ, đó là nguyên tắc phân tán rủi ro. Bởi sau khi nhận các rủi ro được chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm lúc này sẽ là người phải đối mặt với những tổn thất có thể rất lớn nếu rủi ro xảy ra. Mặc dù quĩ bảo hiểm là một quĩ tài chính lớn, được lập ra bởi sự đóng góp của nhiểu người theo nguyên tắc số đông và như vậy với tư cách là người huy động và quản lý quĩ, các công ty bảo hiểm có khả năng thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào công ty bảo hiểm cũng luôn đảm bảo được khả năng này. Rủi ro luôn tiềm ẩn trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và kinh doanh bảo hiểm không phải là trường hợp ngoại lệ. Điều này xuất phát từ chính đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm: Thứ nhất, bảo hiểm có chu kỳ kinh doanh đảo ngược, phí bảo hiểm thu trước trong khi việc chi trả bồi thường lại phát sinh sau. Hơn nữa xác suất rủi ro lại khó có thể dự báo một cách chính xác tuyệt đối khi tính phí bảo hiểm. Nên với trường hợp xác suất rủi ro thực tế lớn hơn xác suất rủi ro dự báo hay có những tổn thất xảy ra liên tục trong một thời gian dài và thậm chí có thể là những tổn thất mang tính thảm hoạ thì chính các nhà bảo hiểm sẽ phải gánh chịu những rủi ro. Thứ hai, kinh doanh bảo hiểm không chỉ đơn thuần là hoạt động kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận cho các nhà bảo hiểm mà còn là san sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm với nhau. Tuy nhiên có những đối tượng tham gia bảo hiểm hoạt động ở địa bàn xa dẫn đến công ty bảo hiểm không có khả năng kiểm soát và quản lý rủi ro dễ xảy ra tình trạng trục lợi bảo hiểm hoặc khi sự kiện bảo hiểm xảy ra để lại tổn thất lớn. Thứ ba, kinh doanh bảo hiểm còn phải đáp ứng các yêu cầu pháp luật về vốn và biên khả năng thanh toán…nhằm đảm bảo khả năng chi trả bồi thường cho người tham gia bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm. Những yêu cầu đó một mặt bảo vệ lợi ích cho người tham gia bảo hiểm, mặt khác đã hạn chế hoạt động kinh doanh của bảo hiểm. Bởi không phải công ty bảo hiểm nào cũng có đủ khả năng tài chính để chấp nhận tất cả các đơn yêu cầu bảo hiểm đặc biệt là đối với những đối tượng tham gia bảo hiểm có giá trị lớn. Mà việc từ chối bảo hiểm lại được coi là điều tối kị trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm vì khi đó việc mất khách hàng (những người có yêu cầu hiện tại và trong tương lai) là điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, để bảo vệ cho chính mình trước nguy cơ phá sản, mất các khách hàng lớn và bất ổn trong hoạt động kinh doanh, các công ty bảo hiểm sẽ phải phân tán rủi hay chuyển giao rủi ro cho các nhà bảo hiểm khác thông qua hai hình thức: đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. a. Đồng bảo hiểm: là phương thức bảo hiểm mà nhiều công ty bảo hiểm cùng lúc nhận đảm bảo cho cùng một rủi ro. Công ty ĐBH A Công ty ĐBH B Công ty ĐBH C Công ty ĐBH D Người được bảo hiểm Ưu điểm khi tiến hành đồng bảo hiểm là rủi ro được phân tán nhanh do khi xảy ra tổn thất, người được bảo hiểm có thể thu bồi thường từ các nhà tái bảo hiểm. Mặt khác, việc phân tán rủi ro qua hình thức đồng bảo hiểm cũng đơn giản, dễ hiểu và dễ tính toán. Tuy nhiên đồng bảo hiểm lại có những nhược điểm như ký kết hợp đồng gặp nhiều khó khăn và thời gian kéo dài do người được bảo hiểm phải cùng lúc đàm phán và ký kết hợp đồng với nhiều công ty bảo hiểm, do đó sẽ mất hết thời cơ trong kinh doanh. Mặt khác, khi tổn thất xảy ra việc giải quyết bồi thường sẽ rất khó tập trung được một lúc nên người tham gia bảo hiểm sẽ không có điều kiện tập trung vốn để khôi phục sản xuất kinh doanh và có thể dẫn đến việc nghi ngờ khả năng tài chính của các nhà bảo hiểm. b. Tái bảo hiểm: là phương thức bảo hiểm trong đó, một nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt một phần rủi ro cho một hoặc nhiều nhà bảo hiểm khác. Công ty nhận TBH A Công ty nhận TBH B Công ty nhận TBH C Công ty bảo hiểm gốc Người được bảo hiểm Tác dụng của tái bảo hiểm được thể hiện ở một số mặt sau: Rủi ro được phân tán nhanh do sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc có thể tiến hành thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm từ các công ty tái, do đó mà tránh phá sản cho các công ty bảo hiểm gốc đặc biệt trong những trường hợp rủi ro mang tính thảm hoạ hoặc sự kiện bảo hiểm xảy ra dồn dập. Từ đó giúp ổn định hoạt động kinh doanh của công ty. Tăng năng lực cho các công ty bảo hiểm gốc để chấp nhận các dịch vụ, giữ được khách hàng, từ đó nâng cao uy tín cho công ty bảo hiểm gốc. Công ty bảo hiểm gốc còn được hưởng một tỷ lệ hoa hồng nhất định từ các nhà nhận tái bảo hiểm (chỉ áp dụng trong tái bảo hiểm theo tỷ lệ). Ký kết hợp đồng được dễ dàng hơn, thời gian ngắn hơn. Góp phần tăng thu ngân sách cho Nhà nước thông qua thuế do các công ty bảo hiểm đóng góp, tăng thu ngoại tệ từ việc nhận tái bảo hiểm từ nước ngoài. Đồng thời góp phần đảm bảo đời sống cán bộ, công nhân viên của công ty bảo hiểm gốc. Do có tái bảo hiểm, các công ty bảo hiểm gốc sẽ tránh khỏi phá sản trong trường hợp rủi ro xảy ra quá lớn qua đó có tác dụng ổn định việc làm cũng như thu nhập của người lao động trong công ty và cho cả công ty. Từ đó gián tiếp bảo vệ quyền lợi cho người tham gia. Mặt khác tái bảo hiểm cũng góp phần tăng cường quan hệ kinh tế giữa các nước. Nhà tái bảo hiểm có thể là công ty trong nước hoặc nước ngoài. Khi đó hoạt động tái bảo hiểm sẽ diễn ra giữa nhiều tổ chức tái bảo hiểm của nhiều quốc gia. Như vậy, một tổn hại có tính thảm hoạ ở một nước, qua tái bảo hiểm sẽ được bù đắp từ những khoản tiền bồi thường mang tính quốc tế. Rủi ro được phân tán trên phạm vi rộng, việc gánh chịu tổn thất trở nên dễ dàng hơn. 1.2 Bản chất và chức năng của tái bảo hiểm. Như đã phân tích ở trên, tái bảo hiểm là nghiệp vụ thông qua đó một công ty bảo hiểm (công ty bảo hiểm gốc hay công ty nhượng tái bảo hiểm) chuyển cho một hoặc nhiều công ty bảo hiểm khác (công ty nhận tái bảo hiểm) một phần rủi ro đã nhận đối với một đối tượng bảo hiểm nhất định trên cơ sở chuyển nhượng bớt một phần số phí bảo hiểm đã nhận. Chính vì vậy bản chất của tái bảo hiểm có thể được xem như là một cơ chế phân tán rủi ro giữa các nhà bảo hiểm với nhau trên cơ sở các hợp đồng. Điều đó có nghĩa là các công ty bảo hiểm cũng muốn giảm bớt âu lo, tìm kiếm sự an toàn cho sự tồn tại của chính họ bằng việc mua tái bảo hiểm. Trong cùng một lúc dựa vào khả năng tài chính và mối quan hệ kinh doanh của họ trong thị trường bảo hiểm. Từ góc độ kỹ thuật, hoạt động tái bảo hiểm cho phép các công ty bảo hiểm phân tán bớt rủi ro cho các công ty bảo hiểm khác sau khi đã giữ lại phần rủi ro có thể đảm nhận. Mặt khác, nhìn từ góc độ tài chính, khả năng giữ lại của một công ty bảo hiểm phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh tài chính của nó. Phần vượt quá khả năng giữ lại đó cần phải được bù đắp, hỗ trợ của các công ty nhận tái bảo hiểm. Xuất phát từ bản chất trên mà khi xem xét chức năng của tái bảo hiểm cần phải được nhìn nhận dưới hai góc độ. Dưới góc độ các công ty bảo hiểm: Chức năng đối với các công ty nhượng tái bảo hiểm là san sẻ được những tổn thất lớn liên quan đến mình, phân tán được giữa những tổn thất lớn và những tổn thất nhỏ theo một biên độ đã dự kiến trước. Từ đó chủ động xác định mức giữ lại và tái đi một cách hợp lý. Còn đối với các công ty tái bảo hiểm, tái bảo hiểm có chức năng là mở rộng kinh doanh để tăng doanh thu và ngoại tệ từ các dịch vụ nhận tái. Việc giúp ổn định kinh doanh cho công ty bảo hiểm gốc cũng chính là giúp hoạt động kinh doanh của mình được ổn định. Dưới góc độ Nhà nước: Bên cạnh việc tạo sự ổn định cho các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm cũng gián tiếp giúp các doanh nghiệp, các cá nhân, các chủ thể nền kinh tế tham gia bảo hiểm ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó đảm bảo ổn định và sự phát triển vững chắc cho nền kinh tế trong nước. Ngoài ra, tái bảo hiểm cũng giữ Nhà nước đảm bảo chức năng đối ngoại trong các nền kinh tế mở từ đó đảm bảo ổn định thu ngân sách và ngoại tệ. 1.3 Lịch sử phát triển của tái bảo hiểm. Một điều có tính quy luật là kinh tế - xã hội càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân càng cao thì nhu cầu về bảo hiểm càng lớn. Như vậy, sự phát triển của bảo hiểm phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội. Trong khi đó tái bảo hiểm lại là hoạt động gắn bó chặt chẽ với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, là một phần cơ bản trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Chính vì vậy mà lịch sử phát triển của tái bảo hiểm không thể tách rời được với sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi thời kỳ. Theo đó, sơ lược phát triển của tái bảo hiểm có thể được chia làm ba giai đoạn: 1.3.1 Giai đoạn đầu phát triển của tái bảo hiểm (từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19). Theo tài liệu mà các nhà nghiên cứu thu thập được cho đến nay có thể khẳng định nước Ý là nước đầu tiên chứng kiến sự ra đời của dịch vụ tái bảo hiểm. Bản thoả ước cổ nhất có tính chất pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm được ký kết vào năm 1370 nhằm đảm bảo cho chuyến hàng hoá vận chuyển trên biển có hành trình từ Genés đến Bruges. Hợp đồng được ký kết giữa một bên hai thương nhân hoạt động với tư cách là nhà tái bảo hiểm với một bên là đại diện cho một nhà bảo hiểm. Sau này cùng với sự phát triển rộng rãi của những mối quan hệ thương mại giữa các thành phố của nước Ý và giữa các nước Bắc Âu, đặc biệt là nước Anh, dịch vụ tái bảo hiểm ngày càng có điều kiện phát triển. Do đây là giai đoạn đầu của thị trường tái bảo hiểm nên mới được thực hiện chủ yếu với các nghiệp vụ như hoả hoạn, hàng hải và nhân thọ. Và đặc điểm chủ yếu của giai đoạn này là hầu hết chỉ tái bảo hiểm trong nước với nhau với hình thức tái bảo hiểm chủ yếu là tuỳ ý lựa chọn. Đồng bảo hiểm được áp dụng nhiều hơn tái bảo hiểm. Ngoài ra quan hệ giữa công ty bảo hiểm gốc và các nhà nhận tái bảo hiểm được thực hiện trên cơ sở pháp luật của quốc gia mà công ty nhượng tái bảo hiểm tiến hành. Một đặc điểm nữa trong giai đoạn này là phương pháp tái bảo hiểm rất đơn giản, chủ yếu là tái bảo hiểm số thành và mức dôi. Tuy nhiên, sau đó đã xuất hiện nhiều vụ lạm dụng có tính chất con buôn gây ra nhiều phản ứng chống lại bản chất của tái bảo hiểm. Đó là những trường hợp mà các nhà tái bảo hiểm đã lợi dụng hình thức tái bảo hiểm để phân tán rủi ro nhưng theo tỷ lệ phí thấp hơn nhiều so với phí bảo hiểm gốc để kiếm lời. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự ra đời đạo luật cấm các hoạt động tái bảo hiểm hàng hải ở nước Anh trong một thời gian dài từ 1746 – 1864. Đạo luật này đã vô hình chung tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức Lloyd’s phát huy ảnh hưởng của mình bằng cách đồng bảo hiểm và sau 1864 đã nghiễm nhiên trở thành thị trường tái bảo hiểm quan trọng nhất thế giới. 1.3.2 Giai đoạn từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20. Giữa thế kỷ 19, nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa có những bước phát triển vượt bậc nhờ việc ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Giao lưu hàng hoá giữa các nước ngày càng mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường tái bảo hiểm trưởng thành và phát triển. Nhiều tổ chức tái bảo hiểm chuyên nghiệp ra đời, mà đầu tiên phải kể đến là nước Đức với công ty tái bảo hiểm Kohn thành lập năm 1846. Sau đó hàng loạt các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp có tên tuổi trên thị trường hiện nay cũng được thành lập như công ty tái bảo hiểm Thuỵ Sĩ năm 1863, Công ty tái bảo hiểm Luân Đôn năm 1869, Công ty tái bảo hiểm Munich năm 1880. Có thể nói đây là giai đoạn tái bảo hiểm phát triển rộng khắp ở các thị trường trên thế giới. Trong đó các nghiệp vụ thường áp dụng tái bảo hiểm nhiều nhất là hàng không, kỹ thuật và dầu khí. Mặt khác quan hệ giữa các công ty nhượng và các nhà tái bảo hiểm lúc này không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà đã mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Mà thị trường Lloyd’s vẫn là trung tâm thế giới về bảo hiểm và tái bảo hiểm. Giai đoạn này cũng chứng kiến sự xuất hiện đầy đủ tất cả các phương pháp và hình thức tái bảo hiểm. Tuy nhiên với hai cuộc chiến tranh thế giới cùng với các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát đã làm tổn hại lớn đến sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và ngành tái bảo hiểm nói riêng. Bị tổn hại nhiều nhât là các công ty tái bảo hiểm của Đức. Các giới tư bản độc quyền đã lấy vốn và quĩ tiền tệ bảo hiểm của các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm để chi tiêu trong chiến tranh. Chính vì vậy mà đến cuối giai đoạn này thị trường tái bảo hiểm thế giới bị trầm lắng hẳn. 1.3.3 Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc năm 1945 với thắng lợi thuộc về Hồng quân Liên Xô và các nước đồng minh. Cục diện thế giới thay đổi: hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời, phong trào giải phóng dân tộc của nhiều nước thuộc địa giành thắng lợi, chủ nghĩa đế quốc lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế mới…Tất cả đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế nói chung, ngành bảo hiểm – tái bảo hiểm nói riêng. Sự kiện này đã ảnh hưởng lớn đến chiều hướng phát triển của tái bảo hiểm quốc tế. Các nước xã hội chủ nghĩa đã thực hiện nhiều biện pháp mang tính độc quyền về tái bảo hiểm và hạn chế quan hệ với thị trường tái bảo hiểm tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật mà qui mô sản xuất kinh doanh ngày càng được mở rộng và những tài sản có giá trị lớn ngày càng tăng. Những bất đồng trong chiến tranh ngày càng được đẩy lùi vào quá khứ làm cho quan hệ quốc tế phát triển nhanh chóng và mang tính toàn cầu. Xã hội phát triển, nhiều ngành nghề mới ra đời nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Mặt khác một số dịch vụ liên quan đến con người có giá cả ngày càng đắt đỏ. Đó là những nguyên nhân chính giúp thị trường tái bảo hiểm thế giới giai đoạn này phát triển nhanh nhất chưa từng thấy. Đặc trưng chủ yếu của thị trường tái bảo hiểm giai đoạn này là thị trường tái bảo hiểm đi theo xu hướng toàn cầu hoá. Các công ty tái bảo hiểm của CHLB Đức đã phục hồi nhanh chóng, sớm khôi phục lại địa vị truyền thống của mình và thiết lập các mối quan hệ quốc tế rộng rãi. Nhiều công ty tái bảo hiểm mới được thành lập và ngày càng có nhiều công ty bảo hiểm tiến hành đồng thời dịch vụ tái bảo hiểm đã khiến cho thị trường tái bảo hiểm trở nên cạnh tranh rất gay gắt. Tuy nhiên tổng kết lại có thể thấy năm thị trường lớn nhất trên thế giới là Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh, Pháp và năm thị trường mới nổi là Trung Quốc, Brazin, Nga, Ấn Độ và Nam Phi. Mặt khác trong giai đoạn này các công ty bảo hiểm gốc và các nhà tái bảo hiểm có quan hệ chặt chẽ theo kiểu song phương và đa phương theo cấp quan hệ Chính phủ. Điển hình là sự ra đời của các tập đoàn tái bảo hiểm như Tái bảo hiểm Châu Phi, Tái bảo hiểm Châu Á, Tái bảo hiểm Asean…Các tập đoàn này vận hành dựa trên cơ sở nhượng bắt buộc hay tự nguyện với nhau giữa các thành viên. Cuối cùng thị trường tái bảo hiểm phát triển đã kéo theo sự phát triển của tất cả các hình thức và phương pháp tái bảo hiểm đặc biệt là các công ty nhượng luôn muốn kết hợp nhiều phương pháp tái bảo hiểm với nhau để thực hiện phân tán rủi ro nhanh hơn, giúp ổn định hơn trong hoạt động kinh doanh. 2. Các hình thức tái bảo hiểm 2.1 Tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn Đây là hình thức tái bảo hiểm đơn giản và cổ điển nhất. Theo hình thức này công ty nhượng có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải tái bảo hiểm và ngược lại nhà tái bảo hiểm có quyền chấp nhận hay từ chối rủi ro đó. Thông thường mỗi loại rủi ro đem tái đi hoặc chấp nhận có thể hình thành một hợp đồng tái bảo hiểm tách biệt. a. Thủ tục tiến hành khi tái bảo hiểm theo hình thức này bao gồm các bước: Trước hết công ty nhượng thông báo cho nhà tái bảo hiểm một dịch vụ bảo hiểm nào đó với các rủi ro có liên quan dưới hình thức là phiếu đề nghị có đầy đủ thông tin về số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, phần giữ lại của công ty nhượng, thủ tục phí tái bảo hiểm… Khi nhận được phiếu này, nhà tái bảo hiểm nghiên cứu, xem xét và có toàn quyền lựa chọn nhận toàn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó trên cơ sở rủi ro được đề nghị. Nếu chấp nhận, nhà tái bảo hiểm sẽ xác nhận phần tham gia của mình bằng cách ghi trực tiếp vào phiếu đề nghị và gửi lại cho công ty nhượng. Tuy nhiên trước khi chính thức chấp nhận hay từ chối, nhà tái bảo hiểm có thể yêu cầu biết thêm chi tiết khác để đánh giá rủi ro mà mình sẽ nhận như bản sao hợp đồng bảo hiểm gốc, hoặc những chi tiết về định giá phí bảo hiểm…Và chỉ khi nào nhận được thông báo chấp nhận của nhà tái bảo hiểm thì dịch vụ tái bảo hiểm theo hình thức tuỳ ý lựa chọn mới coi như hoàn thành, trừ trường hợp có sự thoả thuận khác giữa hai bên. Dịch vụ tái bảo hiểm này cũng sẽ tự động chấm dứt hiệu lực nếu đến ngày mãn hạn của hợp đồng bảo hiểm gốc mà không có sự tái tục hợp đồng; tuy nhiên dù hợp đồng bảo hiểm gốc có tái lập thì cũng không có nghĩa là nhà tái bảo hiểm buộc phải tiếp tục nhận hợp đồng tái bảo hiểm cho thời hạn kế tiếp, mà họ có quyền lựa chọn nhận hoặc từ chối không tham gia tiếp nữa, trừ trường hợp có những giao kết nào khác. b. Ưu điểm của hình thức này là: - Giúp công ty nhượng đặc biệt là những công ty mới thành lập còn non trẻ và ít kinh nghiệm có thể yên tâm trong việc nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro có giá trị lớn, vượt quá khả năng tài chính của họ - Giúp công ty nhượng cân đối được khả năng tài chính của mình bởi vì họ rất chủ động tái đi những đơn vị rủi ro cần thiết, chủ động xác định mức giữ lại hợp lý. - Tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn giúp cho công ty nhượng nhận những loại rủi ro mà có thể không được chấp nhận trong các hợp đồng tái bảo hiểm bắt buộc truyền thống của mình chẳng hạn như rủi ro về động đất, đình công, bạo loạn… - Tạo điều kiện cho công ty nhượng có thể cải thiện vận may rủi trong việc đạt được những lợi ích tối đa theo các điều kiện qui định trong các hợp đồng tái bảo hiểm của họ (như điều kiện về chia lãi, thục tục phí tái bảo hiểm theo thang luỹ tiến, thủ tục phí tái bảo hiểm theo lãi…). Bên cạnh đó, vận may rủi được chia sẻ giữa các bên là hoàn toàn khách quan, không gò ép bởi vậy tạo điều kiện quan hệ lâu dài giữa công ty nhượng và tái bảo hiểm. c. Nhược điểm của hình thức tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn: - Do tiết lộ thông tin nên các nhà tái bảo hiểm có thể biết được chiến lược cũng như mục tiêu kinh doanh, ý đồ của công ty nhượng. Điều này tạo sự bất lợi trong kinh doanh. - Công ty nhượng không có sự đảm bảo chắc chắn của thị trường tái bảo hiểm cho một rủi ro nào đó nhất là rủi ro có giá trị lớn. Do đó công ty nhượng có thể sẽ mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm hoặc không có khả năng để nhận bảo hiểm cho rủi ro có giá trị lớn, hay ít nhất cũng làm cho công ty nhượng mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời người được bảo hiểm. - Chi phí hành chính thủ tục giấy tờ tốn kém do phải thường xuyên đàm phán tái lập lại hợp đồng trước khi quyết định ký kết hợp đồng bảo hiểm gốc với khách hàng làm ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh. - Trong nhiều trường hợp hình thức tái bảo hiểm này chỉ được thực hiện với mức phí cao hơn mức phí gốc hoặc buộc phải giảm bớt thủ tục phí tái bảo hiểm. Ngoài ra khi thị trường tái bảo hiểm thế giới cung cầu đã bão hoà hay khả năng tiếp nhận rủi ro của thị trường đã gần đạt tới mức tối đa, dày đặc…thì tái bảo hiểm theo hình thức này sẽ rất bị hạn chế. Do những ưu và nhược điểm trên, hình thức tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn thường được áp dụng trong những trường hợp sau: + Phát sinh các dịch vụ lớn, vượt khỏi giới hạn khống chế bởi hợp đồng nhận tái bảo hiểm cố định do đó cần thiết phải thu xếp tái bảo hiểm cho phần vượt quá này. + Tái bảo hiểm tạm thời cho phép công ty bảo hiểm gốc nhận những dịch vụ nằm ngoài phạm vi khai thác thông thường theo yêu cầu đặc biệt của khách hàng. + Có những trường hợp người được bảo hiểm gốc không hiểu biết đầy đủ về một loại rủi ro nào đó và phải yêu cầu người nhận tái giúp đỡ. Khi đó người nhận tái sẽ là người xác định mức phí, các điều khoản… 2.2 Tái bảo hiểm bắt buộc Theo hình thức này công ty nhượng và các nhà tái bảo hiểm bắt buộc phải thoả thuận với nhau từ trước là công ty nhượng buộc phải tái đi cho nhà tái bảo hiểm tất cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc với hạn mức số tiền bảo hiểm hoặc số tiền bồi thường nhất định. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm cũng phải buộc mình chấp nhận toàn bộ những đơn vị rủi ro đó. a. Thủ tục tiến hành: Bước đầu tiên và cũng là bước quan trọng nhất là thoả thuận. Bước này tốn khá nhiều thời gian vì hai bên phải thoả thuận nhiều vấn đề có liên quan. Bước tiếp theo là cam kết, điều đó có nghĩa là sau khi đã thoả thuận, hai bên buộc mình phải cam kết với nhau theo tất cả nội dung thoả thuận Bước cuối cùng là thực hiện cam kết. Trong bước này, công ty nhượng có toàn quyền định phí bảo hiểm, nhà tái bảo hiểm không được can thiệp. Về nguyên tắc mọi điều khoản trong hợp đồng đều phải bắt buộc hai bên thực hiện. Nếu có thay đổi thì thông thường đến năm nghiệp vụ sau đó hoặc đến một kỳ tái tục bảo hiểm mới thì mới thay đổi. b. Ưu điểm của hình thức tái bảo hiểm bắt buộc: - Giúp công ty nhượng chủ động chấp nhận, định phí bảo hiểm cho rủi ro bảo hiểm gốc mà không phải mất thời gian tham khảo ý kiến của nhà tái bảo hiểm, do đó hợp đồng bảo hiểm sẽ nhanh chóng được ký kết. - Việc nhận tái bảo hiểm theo hợp đồng cố định cho phép công ty tái bảo hiểm nhận được nhiều dịch vụ hơn so với việc nhận từng hợp đồng tạm thời đơn lẻ. Nhà tái bảo hiểm có điều kiện thu được số phí lớn, phù hợp với nguyên tắc “Quy luật số đông” giúp họ đẩy mạnh tiến bộ kỹ thuật của ngành bảo hiểm bằng việc chấp nhận rủi ro mới. - Thủ tục kí kết hợp đồng trong hình thức tái bảo hiểm này được tiến hành nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm. c. Nhược điểm: - Đối với công ty nhượng còn non trẻ, mới thành lập, khả năng tài chính còn yếu kém, bao giờ cũng gặp nhiều bất lợi khi thoả thuận. Mặt khác khi tái bảo hiểm theo hình thức này, công ty nhượng phải đem tái đi mọi đơn vị rủi ro ngay cả đối với những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ nằm trong khả năng tài chính cho phép. - Nếu công ty nhượng thiếu kinh nghiệm, đặc biệt sơ suất trong việc ký kết hợp đồng bảo hiểm gốc thì hậu quả đối với các nhà tái bảo hiểm rất khó lường trước được. Chính từ những ưu nhược điểm trên mà trong thực tế, hình thức tái bảo hiểm cố định được áp dụng rất phổ biến trong nhiều loại nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau như trong bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng không. 2.3 Tái bảo hiểm lựa chọn - bắt buộc (Tái bảo hiểm để ngỏ) Theo hình thức này, công ty nhượng không bắt buộc phải nhượng tất cả dịch vụ mình có, ngược lại nhà tái bảo hiểm buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhượng tái cho. a. Thủ tục tiến hành: Trước hết, công ty nhượng tính toán, rút kinh nghiệm từ những năm trước để chọn ra những dịch vụ bảo hiểm bất lợi cho mình đem tái đi. Sau đó, thông báo cho các nhà tái bảo hiểm và đương nhiên họ phải chấp nhận và hợp đồng phải được kí kết. Nhà tái bảo hiểm có thể trao đổi lại với công ty nhượng một số vấn đề mang tính chất kỹ thuật như quản lý rủi ro, định phí… b.Ưu điểm: - Rất phù hợp với công ty nhượng mới thành lập, khả năng tài chính còn yếu kém, quan hệ hạn hẹp. - Giúp công ty nhượng có thể lựa chọn những rủi ro vượt quá khả năng tự giữ lại của mình để đem tái cho một nhà tái bảo hiểm duy nhất hay một số ít các nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn thay vì phải tái đi tất cả mọi đơn vị rủi ro như trong hình thức tái bảo hiểm bắt buộc. - Do nhà tái bảo hiểm buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhượng tái cho nên công ty nhượng luôn có sự đảm bảo chắc chắn trong thu xếp tái bảo hiểm với chi phí ít tốn kém. - Mặt khác, nhà tái bảo hiểm cũng có điều kiện tăng thu nhập từ nguồn phí nhận tái bảo hiểm lớn. c. Nhược điểm: - Nhà tái bảo hiểm bị bất lợi do không có quyền từ chối những rủi ro mà một khi công ty nhượng đã lựa chọn tái. - Hình thức này đôi khi gây ra trường hợp công ty nhượng cố tình đưa vào hợp đồng những rủi ro không hợp lý, phí thấp… hoặc có tư tưởng ỷ lại, không chú trọng trong khâu đánh giá rủi ro, từ đó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới kết quả kinh doanh của công ty nhận. - Nếu công ty nhượng gặp phải nhà tái bảo hiểm mà hoạt động kinh doanh của họ đang trong giai đoạn khó khăn hoặc thị trường tái bảo hiểm cung vượt quá cầu thì mức phí cũng như hoa hồng tái bảo hiểm phải thoả thuận lại, do đó phần nào cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty nhượng. 3. Các phương thức tái bảo hiểm 3.1 Tái bảo hiểm theo tỷ lệ Tái bảo hiểm theo tỷ lệ là phương pháp tái bảo hiểm mà trong đó trách nhiệm của công ty nhượng và các nhà tái bảo hiểm đối với các đơn vị rủi ro được bảo hiểm sẽ phân bổ theo theo tỷ lệ giữa các bên tham gia so với số tiền bảo hiểm. Đặc điểm của phương pháp tái này là đơn giản, dễ hiểu, dễ tính toán vì quĩ bảo hiểm và số tiền bồi thường đều được chia sẻ theo tỷ lệ mà các bên đã cam kết trên cơ sở số tiền bảo hiểm. Ngoài ra tái bảo hiểm theo tỷ lệ rất phù hợp với các công ty bảo hiểm còn non trẻ, mới thành lập. Tuy nhiên thủ tục phí hay hoa hồng đôi khi rất khó thống nhất giữa các bên tham gia hợp đồng. Có hai phương pháp cơ bản là: tái bảo hiểm số thành ( phân ngạch) và tái bảo hiểm mức dôi (thặng dư vốn). 3.1.1 Tái bảo hiểm số thành: Theo phương pháp này, công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ nhất định so với số tiền bảo hiểm, phần còn lại đem tái đi. Chính vì vậy, phí bảo hiểm và số tiền bồi thường cũng được phân bổ giữa các bên theo tỷ lệ tương ứng. a. Đặc điểm: - Tất cả các đơn vị rủi ro trong bảo hiểm gốc đều phải đem tái đi theo tỷ lệ tương ứng mà các bên đã thoả thuận. - Nếu số tiền tái đi quá nhiều công ty nhượng có thể tìm kiếm nhiều nhà tái bảo hiểm khác nhau để đảm bảo phân tán rủi ro nhanh hơn, giúp công ty ổn định kinh doanh. - Trong tái bảo hiểm số thành các bên tham gia hợp đồng cũng có thể đưa ra một giới hạn nhất định. Căn cứ vào giới hạn này buộc công ty nhượng phải tìm kiếm những bạn hàng mới. b. Ưu điểm: - Là phương pháp tái bảo hiểm đơn giản, dễ tính toán, chi phí quản lý tiết kiệm. - Đối với các nhà tái bảo hiểm, phương pháp này có tính cân đối và dễ chấp nhận hơn so với dạng tái bảo hiểm khác vì rủi ro phân tán dễ hơn so với các phương pháp khác. Đặc biệt nhà tái bảo hiểm có điều kiện tham gia vào mọi đơn vị rủi ro. Đồng thời công ty nhượng hoàn toàn yên tâm khi khách hàng tham gia bảo hiểm gốc chuyển giao rủi ro cho mình. - Thủ tục phí tái bảo hiểm (hoa hồng tái bảo hiểm) của dạng này là cao nhất. c. Nhược điểm: - Vì tất cả các đơn vị rủi ro đều đem tái đi nên công ty nhượng không giữ lại cho mình những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm mà khả năng tài chính của mình hoàn toàn cho phép. Do đó ít nhiều ảnh hưởng đến lợi nhuận và doanh thu._. của công ty nhượng. - Mức độ biến thiên của số tiền bảo hiểm và số tiền bồi thường đôi khi công ty nhượng không lường trước được. d. Trường hợp áp dụng: từ những ưu nhược điểm trên phương pháp tái bảo hiểm này thường được áp dụng trong những trường hợp sau: - Khi công ty nhượng mới bắt đầu triển khai một nghiệp vụ mà họ chưa có kinh nghiệm, thiếu thông tin thống kê và khả năng phân tích tiến triển của loại nghiệp vụ đó. - Khi công ty nhượng có ý đồ thu xếp tái bảo hiểm dưới hình thức trao đổi các dịch vụ với nhau để tạo ra những mối quan hệ đầu tiên. - Đối với những loại nghiệp vụ bảo hiểm mà công ty nhượng gặp nhiều khó khăn trong phân định rủi ro và đơn vị rủi ro (đặc biệt là trong bảo hiểm nông nghiệp và bảo hiểm kỹ thuật). - Nhằm mục đích giảm nhẽ khả năng nguy hiểm cho công ty nhượng đối với những hợp đồng bảo hiểm cho rủi ro thiên tai. - Đối với những nghiệp vụ bảo hiểm mà phạm vi hoạt động và qui mô của tổn thất không chắc chắn mặc dù các nhà bảo hiểm đã giới hạn trách nhiệm của mình. - Thường được áp dụng trong các nhóm liên doanh giữa các công ty bảo hiểm với nhau hoặc dưới hình thức chuyển nhượng tái bảo hiểm. 3.1.2 Tái bảo hiểm mức dôi Theo phương pháp này, công ty nhượng giữ lại cho mình một số tiền bảo hiểm nhất định, phần còn lại đem tái đi cho công ty khác. Bởi vậy phí bảo hiểm và số tiền bồi thường (nếu có) cũng được phân bổ theo tỷ lệ mỗi bên đảm nhiệm. a. Đặc điểm: - Không phải đơn vị rủi ro nào cũng phải đem tái đi, mà chỉ tái đi những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm vượt quá mức giữ lại. Và mức giữ lại được xác định dựa trên khả năng tài chính của công ty nhượng, xác suất rủi ro đối với nghiệp vụ này trong những năm trước đó, mức lãi suất thu được của công ty nhượng và tình hình kiểm soát rủi ro về nghiệp vụ đó. - Mức giữ lại tối đa trên mỗi đơn vị rủi ro thường là bằng nhau nên công ty nhượng luôn luôn khống chế được hạn mức trách nhiệm của mình một cách chắc chắn. - Tuy nhiên trong điều kiện ngày nay, đối tượng tham gia bảo hiểm thường có số tiền rất lớn và rất khác nhau trên mỗi đơn vị rủi ro. Bởi vậy nếu áp dụng phương pháp mức dôi thì số tiền còn dư thừa trên mỗi đơn vị rủi ro là không thể tránh khỏi. Để xử lý vấn đề này nhìn chung các công ty nhượng trên thế giới thường có 3 cách: Thứ nhất có thể tiến hành đàm phán lại, nếu các nhà tái bảo hiểm chấp nhận chúng ta lại phân bổ tiếp lần hai, lần ba…cho đến hết. Trường hợp các nhà tái bảo hiểm không đồng ý, số tiền bảo hiểm dư thừa sẽ quay về công ty nhượng chịu trách nhiệm toàn bộ. Ngoài ra để an toàn hơn, công ty nhượng có thể mở một hợp đồng tạm thời (hợp đồng để ngỏ). b. Ưu điểm: - Phương pháp này khá đơn giản và dễ hiểu. - Công ty nhượng thường phát huy tối đa khả năng tài chính của mình do có thể giữ lại cho mình những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nằm trong khả năng tài chính cho phép. - Mặc dù là một trong những phương pháp tái bảo hiểm cổ điển nhưng lại rất phù hợp với tất cả loại hình công ty bảo hiểm từ những công ty còn non trẻ đến những công ty đã kinh doanh được nhiều năm. c. Nhược điểm: - Nhìn chung chi phí quản lý tốn kém hơn so với phương pháp số thành. - Những tổn thất nhỏ phần lớn rơi vào công ty nhượng phải gánh vác. - Đối với những nghiệp vụ bảo hiểm mà sự biến thiên về số tiền bảo hiểm, số tiền bồi thường quá lớn thì áp dụng phương pháp mức dôi sẽ có nhiều hạn chế rơi vào công ty nhượng. d. Trường hợp áp dụng: Thông thường phương pháp này thường được áp dụng đối với các nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt liên quan, bảo hiểm tai nạn thân thể và bảo hiểm nhân thọ…vì số tiền bồi thường, số tiền bảo hiểm biến thiên không quá lớn. 3.1.3 Tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi Thực chất đây không phải là phương pháp tái bảo hiểm thuần tuý theo tỉ lệ mà là sự kết hợp giữa hai phương pháp với mục đích là nhằm phân tán rủi ro nhanh hơn,giúp công ty nhượng dễ dàng kí kết hợp đồng hơn, phù hợp với nhu cầu thực tiễn của ngành bảo hiểm là đối tượng tham gia bảo hiểm có số tiền bảo hiểm ngày càng lớn và rất đa dạng, mức độ biến thiên của từng nghiệp vụ ngày càng tăng. Xét về mặt kỹ thuật, phải phân bổ theo hợp đồng số thành trước sau đó mới phân bổ theo hợp đồng mức dôi. Nếu số tiền bảo hiểm còn dư thừa, nhìn chung đều quay về công ty nhượng gánh vác toàn bộ trừ trường hợp công ty nhượng tìm được một đối tác mới tin cậy và kí kết với họ những hợp đồng tạm thời. Ưu điểm của phương pháp tái bảo hiểm kết hợp số thành, mức dôi là giúp công ty nhượng đảm bảo khả năng gia tăng về nhận trách nhiệm bảo hiểm cho khách hàng một cách tự do mà không ảnh hưởng đến mức giữ lại của bản thân mình. Bên cạnh đó cũng giúp công ty nhượng kinh doanh ổn định hơn, đặc biệt là quan hệ trên thị trường tái bảo hiểm rộng lớn để từ đó học tập kinh nghiệm của họ. Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là chi phí hành chính tốn kém, phức tạp hơn so với những hợp đồng thuần tuý. Hơn nữa, hoa hồng công ty nhượng thu được từ hợp đồng mức dôi thường thấp hơn so với hợp đồng số thành trong dạng kết hợp này và so với hợp đồng mức dôi thuần tuý. Ngoài ra phần đem tái bảo hiểm cho hợp đồng mức dôi bao giờ cũng phải có bảng thông báo cụ thể. Trong thực tế phương pháp kết hợp này thường được áp dụng trong các nghiệp vụ bảo hiểm như hoả hoạn, xây dựng lắp đặt, thân tàu, hàng hóa, bảo hiểm tai nạn và sức khoẻ. 3.2 Tái bảo hiểm phi tỷ lệ Khái niệm: Tái bảo hiểm phi tỷ lệ là phương pháp tái bảo hiểm mà trong đó công ty nhượng ấn định một giới hạn bồi thường bằng một số tiền mà họ có thể tự gánh chịu cho những tổn thất là hậu quả của những rủi ro được bảo hiểm, phần tổn thất vượt quá giới hạn đó được chuyển cho các nhà tái bảo hiểm gánh chịu. Đặc điểm: - Trách nhiệm của các bên đối với mỗi tổn thất không phân chia theo số tiền bảo hiểm mà theo số tiền bồi thường. - Tiêu chuẩn cơ bản để phân định trách nhiệm giữa các bên là số tiền bồi thường. - Công ty nhượng phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất bằng hoặc dưới mức giữ lại và số tiền bồi thường được gọi là “mức tự bồi thường”. - Nhà tái bảo hiểm chỉ bồi thường cho phần tổn thất chênh lệch, phần này được tính từ mức tự bồi thường trở lên. Tuy nhiên nếu trong một hợp đồng có nhiều nhà tái bảo hiểm thì các nhà tái bảo hiểm cũng tự giới hạn trách nhiệm của mình trước khi kí kết hợp đồng. - Tái bảo hiểm phi tỷ lệ cũng có hai phương pháp cơ bản là tái bảo hiểm vượt mức bồi thường và tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường. 3.2.1 Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường Theo phương pháp này, công ty nhượng giữ lại cho mình một số tiền bồi thường nhất định, phần vượt quá đem tái đi cho các công ty khác. Mối quan hệ giữa các công ty ở đây liên quan trực tiếp tới mức tự bồi thường của công ty nhượng của công ty nhượng và các mức giới hạn trách nhiệm của các nhà tái bảo hiểm. Nếu số tiền tái đi quá nhiều, công ty nhượng phải quan hệ với nhiều đối tác cùng một lúc. Khi đó các nhà tái bảo hiểm phải được sắp xếp theo trật tự các lớp rất nghiêm ngặt. Trình tự thu xếp tái bảo hiểm vượt mức bồi thường: Công ty nhượng sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm gốc với người được bảo hiểm sẽ tìm kiếm nhà nhận tái phần trách nhiệm bồi thường vượt quá mức giữ lại của mình. Nếu như có nhiều người nhận tái tham dự hợp đồng, trách nhiệm của những nhà nhận tái cũng được xếp thành các lớp. Các lớp chính là mức nhận của mỗi nhà tái bảo hiểm, tương tự như trong tái bảo hiểm mức dôi, trách nhiệm bồi thường của các nhà nhận tái bảo cũng được xếp theo thứ tự lần lượt. Các nhà nhận tái của lớp sau chỉ bồi thường nếu thiệt hại phải bồi thường vẫn tồn tại khi người nhận lớp trước đã hoàn thành trách nhiệm của mình. Chính vì vậy đặc điểm cơ bản của phương pháp tái bảo hiểm vượt mức bồi thường là: Thứ nhất, quan hệ giữa các bên phải theo một trật nhất định không được thay đổi và mức bồi thường cao nhất của mỗi bên là cố định. Thứ hai, mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm gốc và các nhà nhận tái bảo hiểm theo phương pháp này chỉ thông qua số tiền bồi thường, không qua số tiền bảo hiểm. Thứ ba, phí tái bảo hiểm được tính toán trên cơ sở hạn mức trách nhiệm mà mỗi bên đảm nhận, xác suất rủi ro liên quan đến từng bên, thời điểm kí kết hợp đồng và thời hạn của hợp đồng liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm. Thứ tư, công ty tái bảo hiểm thuộc lớp nào thì khi tổn thất xảy ra sẽ bồi thường theo lớp đó. Vì vậy các khoản phí tạm giữ, các khoản bồi thường tạm giữ, trả ngay… hoàn toàn do sự thoả thuận giữa công ty nhượng với các lớp. Chính vì vậy, trong phương pháp tái bảo hiểm này, công ty nhượng ngay từ đầu năm nghiệp vụ phải đặt cọc cho các nhà tái bảo hiểm một số tiền nhất định gọi là phí đặt cọc. Về cơ bản phí đặt cọc được tính toán dựa vào những cơ sở nói trên. Nếu năm đó tổn thất không xảy ra công ty nhượng cũng không có quyền đòi lại số phí đặt cọc này. Ngược lại, nếu tổn thất xảy ra quá lớn, có thể hai bên phải tính toán thêm một mức phí điều chỉnh để đảm bảo hài hoà lợi ích giữa các bên. Cũng theo phương pháp này, các nhà tái bảo hiểm có thể đưa ra giới hạn nhất định hoặc vô hạn. Trong trường hợp này công ty nhượng phải ứng xử như sau: trước hết phải tìm hiểu kỹ lưỡng khả năng tài chính của nhà tái bảo hiểm. Ngoài ra cũng phải tìm hiểu mối quan hệ của nhà tái bảo hiểm này với các công ty bảo hiểm, các thị trường bảo hiểm khác. Cuối cùng là xem xét tình hình bồi thường của công ty này liên quan đến nghiệp vụ tái bảo hiểm của một số năm trước đó cũng như tiến độ bồi thường của công ty này nói chung. Thứ năm, công ty nhượng khi đàm phán kí kết hợp đồng với các nhà tái bảo hiểm cần phải xét đến thế mạnh của mỗi nhà tái bảo hiểm theo từng nghiệp vụ. Vì thế mạnh của họ giúp công ty nhượng học hỏi kinh nghiệm về đánh giá và tính toán số tiền đặt cọc, quản lý rủi ro và mối quan hệ trên thị trường bảo hiểm nói chung. Thứ sáu, phí tái bảo hiểm vượt mức bồi thường thường được chia làm hai phần: phí đặt cọc và phí điều chỉnh. Phí đặt cọc là phần phí cơ bản nhất, được xác định trên cơ sở là tổng số tiền tổn thất trong một số năm nào đó và tổng số phí thu được trong các năm đó của từng nghiệp vụ riêng biệt. Bộ phận này thực chất chính là phí thuần. Tỉ lệ phí thuần : Tổng số tổn thất trong một số năm T= Tổng số phí thu được Phí điều chỉnh được xác định nhằm hài hoà lợi ích giữa các bên tham gia hợp đồng; tính đến độ an toàn của các bên một cách hợp lý; giúp các bên xây dựng phương án, kế hoạch về chi phí môi giới, chi phí quản lý vì những khoản này trong thực tế đôi khi rất lớn. Kết hợp cả phí thuần và phí điều chỉnh các bên sẽ xây dựng được phương án tính phí hoàn chỉnh. Tuy nhiên trong thực tế để đơn giản hoá, người ta tính tỉ lệ biến động như sau: Tổng số tổn thất trong một số năm 100 Tỉ lệ biến động = * Tổng số phí thu được 80 Tỉ lệ biến động thường được áp dụng trong những trường hợp như tổn thất xảy ra trong năm nghiệp vụ là quá lớn so với tổn thất dự kiến ban đầu; khi tỉ lệ giữ lại, số tiền bảo hiểm, số tiền bồi thường giữ lại của công ty nhượng rất nhỏ, còn của các nhà tái bảo hiểm đảm nhận rất lớn hoặc những trường hợp đột xuất như thảm hoạ, thiên tai, tai nạn thảm khốc mà các nhà tái bảo hiểm của các nước kiến nghị đề xuất. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường gồm: a. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường cho mỗi đơn vị rủi ro Là một dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ trong đó mức tự bồi thường của công ty nhượng được ấn định sao cho khi một số nghiệp vụ tổn thất xảy ra thì nhà tái bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường. Loại này được áp dụng trên cơ sở từng đơn vị rủi ro và cũng chia làm hai hình thức: Đảm bảo nghiệp vụ không hạn mức: Hợp đồng được áp dụng cho từng đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc hay không hạn chế số vụ cũng như tổng số tiền bồi thường cho các tổn thất, chúng đều được nhà nhận tái bảo hiểm đảm bảo bằng hợp đồng tái bảo hiểm. Tuy nhiên phạm vi áp dụng cho loại hình này tương đối hẹp vì nó không có giới hạn trên cho trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm và mức phí tái bảo hiểm phải rất cao. Đảm bảo nghiệp vụ có hạn mức từng sự cố: Là loại “đảm bảo nghiệp vụ” bổ sung cho loại trên, trong đó quy định trách nhiệm tối đa cho nhà tái bảo hiểm trong trường hợp tổn thất nặng nề hay quá nhiều rủi ro xảy ra dẫn đến giá trị bồi thường lớn. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ thường được sử dụng trong các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản như bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm hàng hóa và bảo hiểm hàng tàu kết hợp. b. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường cho thảm hoạ Là dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ để bảo vệ cho công ty nhượng tránh được những trường hợp tổn thất quá mức bình thường đối với những sự cố nằm ngoài khả năng kiểm soát bảo hiểm thông thường. Mục đích trước hết của loại đảm bảo này là bảo vệ đối với sự tích tụ hay kết gộp nhiều tổn thất xảy ra từ cùng một sự cố hay sự việc có tính chất thật khốc liệt. Điểm tính mức bồi thường mà xuất phát từ đó các nhà tái bảo hiểm chịu trách nhiệm có thể thay đổi tuỳ thuộc một phần vào thực lực tài chính về mức tự bồi thường của công ty nhượng, nhưng thông thường loại tái bảo hiểm này dùng để bảo vệ trong trường hợp sự cố xảy ra có liên quan từ hai đơn vị rủi ro được bảo hiểm trở lên. Trên thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm thế giới, dạng tái bảo hiểm này được sử dụng rất rộng rãi trong tất cả các loại nghiệp vụ bảo hiểm. Các tổn thất mang tính thảm hoạ có thể là rủi ro thiên tai như động đất, sóng thần, lũ lụt hoặc thiên tai của nhiều xe ô tô cùng một vụ hay hai tàu cùng được bảo hiểm đâm nhau...Trong một số trường hợp đó là những tổn thất của một sự cố có liên quan đến nhiều loại nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau do cùng một công ty bảo hiểm đảm nhận. 3.2.2 Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường Theo phương pháp này, nhà tái bảo hiểm chỉ có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp kết quả toàn bộ nghiệp vụ của công ty nhượng có tỷ lệ bồi thường vượt quá tỷ lệ ấn định trước. Tỷ lệ ấn định trước về cơ bản do công ty nhượng tự ấn định. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp do hai bên tự thoả thuận trước. Và thông thường tỷ lệ này được xác định trên cơ sở doanh thu phí hàng năm của công ty bảo hiểm gốc, tình hình tổn thất của loại hình nghiệp vụ được bảo vệ, hoa hồng và các chi phí khác. Đối với hình thức này, việc phân chia trách nhiệm bồi thường giữa người nhận và nhượng tái được xác định trên một tỷ lệ nhất định giữa tổng số tiền bồi thường và tổng số phí gốc thực thu (tính cho cả năm nghiệp vụ). Trên cơ sở này, người nhượng sẽ chịu trách nhiệm bồi thường trong phạm vi một tỷ lệ bồi thường nhất định. Nhà tái bảo hiểm cũng sẽ nhận trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ tương tự nhiều hay ít phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa hai bên. Nếu trong năm nghiệp vụ thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm xảy ra nhiều, tỷ lệ bồi thường trên phí bảo hiểm gốc lớn hơn tỷ lệ mà người người nhượng giữ lại cho mình thì nhà tái bảo hiểm sẽ phải chịu trách nhiệm. Mục đích của dạng tái bảo hiểm này là bảo vệ công ty nhượng trước những sự cố hoặc thảm hoạ xảy ra trong một thời gian ngắn nào đó bất luận do nguyên nhân gì. Khoảng thời gian hai bên thoả thuận thường nhỏ hơn một năm, còn tỉ lệ bồi thường bằng tỷ lệ phần trăm giữa số tiền tổn thất phải bồi thường và số phí bảo hiểm thu được hoặc cũng có thể biểu thị bằng một mức tiền ấn định nào đó. Hoặc có một số trường hợp giới hạn trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm vừa bằng số tuyệt đối vừa bằng số tương đối. Sử dụng hình thức tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường, những nhà bảo hiểm gốc có thể giữ cho kết quả tài chính của năm nghiệp vụ được ổn định ở mức độ cần thiết. Tuy nhiên, hạn chế của tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường là ở chỗ khi áp dụng hình thức này người nhận tái có thể phải gánh chịu toàn bộ sai sót của người bảo hiểm gốc khi đánh giá, chấp nhận, quản lý rủi ro và định phí bảo hiểm gốc. Phí tái bảo hiểm là một trong những yếu tố then chốt của hợp đồng tái bảo hiểm. Nếu tính phí quá cao so với thực tế, công ty bảo hiểm gốc sẽ bị thiệt hại về tài chính. Ngược lại, nếu tính phí quá thấp sẽ khó thu xếp hợp đồng tái bảo hiểm. Chính vì vậy mà khi tính phí tái bảo hiểm ở đây cần căn cứ vào tài liệu thống kê của một số năm trước đó (thường là năm năm) và cũng cần tính đến hệ số an toàn. Tuy nhiên do tính toán phức tạp hơn mà trong thực tế phương pháp này rất ít khi được áp dụng. 3.2.3 Tái bảo hiểm kết hợp: Có một điều không thể phủ nhận rằng thị trường tái bảo hiểm đang ngày một phát triển hơn trước rất nhiều. Các công ty nhượng cũng như những công ty tái bảo hiểm không chỉ dừng lại ở một phương pháp tái bảo hiểm thuần tuý là số thành hay vượt mức bồi thường…Để đảm bảo kinh doanh an toàn trong điều kiện tổn thất diễn biến ngày một thất thường và đối tượng tham gia bảo hiểm có giá trị ngày càng cao…các công ty bảo hiểm đã sử dụng các phương thức tái bảo hiểm kết hợp nhằm đem lại hiệu quả cao hơn và an toàn hơn. a. Tái bảo hiểm kết hợp số thành - vượt mức bồi thường Theo phương pháp này nhà tái bảo hiểm vượt mức bồi thường bảo vệ cho công ty nhượng hoặc công ty tái bảo hiểm số thành. Việc phân chia trách nhiệm giữa các bên cũng được phân bổ theo tỷ lệ đảm nhận mỗi bên trong hợp đồng theo phương pháp số thành. Sau đó nhà tái bảo hiểm vượt mức bồi thường sẽ chịu trách nhiệm trong hạn mức trách nhiệm của họ đối với công ty mà họ bảo vệ. Nhà tái bảo hiểm vượt mức bồi thường bảo vệ cho công ty nào thì đầu năm công ty đó phải đặt cọc cho nó. Nếu năm đó tổn thất không xảy ra thì công ty đó cũng được đòi lại phí đặt cọc này. Nó là lãi của tái bảo hiểm vượt mức bồi thường. b. Tái bảo hiểm kết hợp mức dôi - vượt mức bồi thường Theo phương pháp này phải tiến hành phân bổ số tiền bảo hiểm cho hợp đồng mức dôi. Khi tổn thất xảy ra, tái bảo hiểm vượt mức bồi thường sẽ bảo vệ cho công ty nhượng hoặc công ty tái bảo hiểm mức dôi trong hạn mức trách nhiệm của họ. Nhà tái bảo hiểm vượt mức bồi thường bảo vệ cho công ty nào thì đầu năm công ty đó phải đặt cọc cho họ. 4. Hợp đồng tái bảo hiểm Khái niệm: Hợp đồng tái bảo hiểm là thoả thuận được kí kết giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm cam kết bồi thường phần trách nhiệm mà công ty nhượng phải gánh chịu trong hợp đồng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra với điều kiện công ty nhượng phải chuyển giao một phần phí bảo hiểm tương ứng với trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm. 4.1 Các loại hợp đồng tái bảo hiểm 4.1.1 Hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời Nét đặc trưng của tái bảo hiểm tạm thời là không có bất kỳ một sự bắt buộc nào trong việc nhượng và nhận tái. Cả hai bên đều có quyền tự do lựa chọn “nhận hay không” và “nhượng hay không”. Tái bảo hiểm tạm thời ra đời sớm và được sử dụng rộng rãi trong những trường hợp như có phát sinh các dịch vụ lớn, vượt khỏi giới hạn trách nhiệm bởi hợp đồng cố định; nó cho phép công ty bảo hiểm gốc nhận những dịch vụ nằm ngoài phạm vi khai thác thông thường theo yêu cầu đặc biệt của khách hàng hoặc khi nhà bảo hiểm gốc không hiểu biết đầy đủ về một loại rủi ro nào đó và phải yêu cầu nhà tái bảo hiểm giúp đỡ. Về mặt thủ tục, đối với mỗi dịch vụ muốn tái đi đều phải có thương lượng. Công ty bảo hiểm gốc cung cấp tất cả những thông tin có liên quan đến dịch vụ tái thông qua trao đổi hoặc bản đề nghị tái bảo hiểm. Người nhận tái có điều kiện xem xét từng rủi ro trước khi quyết định. 4.1.2 Hợp đồng tái bảo hiểm cố định Nét đặc trưng của loại hợp đồng này là việc nhượng và nhận có tính chất bắt buộc dựa trên loại nghiệp vụ quy định. Trong thời gian hiệu lực của hợp đồng tất cả những dịch vụ gốc phát sinh phù hợp với những thoả thuận trong hợp đồng tái đều được tự động chuyển vào hợp đồng, không cần có thương lượng gì thêm. Quan hệ tái bảo hiểm diễn ra theo nguyên tắc tin tưởng tuyệt đối. Khi đó nhà nhận tái phải hoàn toàn tin tưởng vào mọi quyết định của công ty nhượng trong việc chấp nhận rủi ro, định phí bảo hiểm. Điểm hạn chế của hợp đồng cố định là với những thoả thuận cố định thì mọi sự thay đổi mong muốn về mức giữ lại, giới hạn trách nhiệm…đều cần có sự chấp thuận từ phía bên kia. Hơn nữa, nhà nhận tái đôi khi cũng muốn hạn chế phạm vi hợp đồng cố định khi phải chấp nhận toàn bộ các dịch vụ có liên quan đến nghiệp vụ tái. Do đó vẫn có những dịch vụ nằm ngoài phạm vi bảo hiểm của hợp đồng và những quy định cố định trong hợp đồng không phải lúc nào cũng là khuôn mẫu hợp lý cho mọi tình huống phát sinh trong thực tế kinh doanh. 4.1.3 Hợp đồng tái bảo hiểm mở Nét đặc trưng của hợp đồng này là việc nhượng rủi ro của người nhượng là tự nguyện, trong khi việc chấp nhận của người nhận tái lại có tính chất bắt buộc. Nói cách khác, người nhượng có quyền lựa chọn rủi ro và sắp xếp đưa vào các hợp đồng tái bảo hiểm mở đã kí kết, ngược lại người nhận tái buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà người nhượng đưa vào hợp đồng. Hợp đồng này được sử dụng khi người nhượng muổn giảm bớt những bất lợi của một hợp đồng cố định. Còn phía người nhận, dù có điểm bất lợi nhưng có thể vì mối quan hệ lâu dài, hoặc vì lý do cạnh tranh nên vẫn chấp nhận loại hợp đồng này. 4.2 Nội dung cơ bản của hợp đồng 4.2.1 Hoa hồng tái bảo hiểm - thủ tục phí tái bảo hiểm a. Khái niệm và đặc điểm. Hoa hồng tái bảo hiểm là khoản tiền mà nhà tái bảo hiểm phải trả cho công ty nhượng khi nhà tái bảo hiểm tham gia nhận hợp đồng tái bảo hiểm với công ty nhượng. Số tiền này bằng tỷ lệ phần trăm của số phí tái bảo hiểm. Hoa hồng tái bảo hiểm thường xuất hiện trong các dạng tái bảo hiểm theo tỷ lệ, rất hiếm khi xuất hiện trong các dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ. Bởi vì với hình thức tái bảo hiểm theo tỷ lệ, trách nhiệm giữa các bên được phân chia theo số tiền bảo hiểm nên thực chất của hợp đồng này là sự “san sẻ” phí bảo hiểm (hoặc phí nhận tái bảo hiểm) của bên công ty nhượng cho các nhà tái bảo hiểm. Đổi lại công ty nhượng được nhận một khoản gọi là hoa hồng tái bảo hiểm từ các nhà nhận tái bảo hiểm này. Còn hợp đồng tái bảo hiểm phi tỷ lệ, do phân chia theo số tiền bồi thường nên thực chất là công ty nhượng đi “mua sự bảo vệ” từ các nhà nhận tái bảo hiểm. Do đó mà công ty nhượng thường không có khoản thu hoa hồng từ công ty nhận tái bảo hiểm. Số tiền hoa hồng mà các nhà tái bảo hiểm trả sẽ giúp cho công ty nhượng điều hành chi phí bảo hiểm gốc. Nên nó rất linh hoạt và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ đem tái, mức độ lãi của các nhà tái bảo hiểm, cung và cầu trên thị trường tái bảo hiểm cũng như bản thân thị trường tái bảo hiểm của từng nước. Ngoài ra kết quả thực tế của năm tài chính đối với công ty nhượng cũng ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ hoa hồng. Cụ thể, nếu kết quả thực tế xấu hơn dự kiến công ty nhượng vẫn mong muốn có lãi nhờ hoa hồng. Khi đó kết quả của các nhà tái bảo hiểm là chắc chắn rất xấu và ngược lại. b. Các loại hoa hồng tái bảo hiểm Thực tế hiện nay trên thế giới người ta đang áp dụng các loại hoa hồng là hoa hồng cố định, hoa hồng theo thang luỹ tiến và hoa hồng theo lãi. Tất cả các loại hoa hồng này đều được áp dụng linh hoạt ở tất cả các thị trường. Tuy nhiên áp dụng loại nào vào lúc nào, người ta thường căn cứ vào các yếu tố như phương thức tái bảo hiểm, phí tái bảo hiểm trên cơ sở phí bảo hiểm gốc và xem đó là phí toàn phần hay có khấu trừ, trong phí tái bảo hiểm gốc có những qui định đặc biệt hay không, chi phí hành chính quản lý của công ty nhượng cao hay thấp, thống kê kết quả bồi thường của các năm nghiệp vụ và kết quả đầu tư phí nhàn rỗi. Hoa hồng cố định: là một khoản tiền mà nhà tái bảo hiểm phải trả cho công ty nhượng, được tính toán bằng tỷ lệ phần trăm cố định so với phí tái bảo hiểm. Hoa hồng theo thang luỹ tiến: Cơ sở để xác định loại hoa hồng này là lấy hoa hồng cố định làm chuẩn, dựa vào mức tăng giảm tỷ lệ bồi thường trong từng nghiệp vụ, sau đó xây dựng một thang luỹ tiến và thang này được khống chế ở mức tối đa, tối thiểu. Theo đó, nếu tỷ lệ bồi thường càng thấp bao nhiêu thì tỷ lệ hoa hồng càng tăng lên bấy nhiêu và ngược lại. Hoa hồng theo lãi: đây là loại hoa hồng được tính toán phụ thêm cho hoa hồng cố định. Theo phương pháp này, nhà tái bảo hiểm phải trả thêm cho công ty nhượng một khoản lợi nhuận nhất định được tính bằng tỷ lệ phần trăm của lợi nhuận thực tế mà nhà tái bảo hiểm được hưởng khi kết quả của hợp đồng tái bảo hiểm có lãi. 4.2.2 Phí tạm giữ Phí tạm giữ là một khoản dự phòng riêng giúp cho công ty nhượng có thuận lợi trong việc giải quyết bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm gốc trước khi quyết toán đòi bồi thường của nhà tái bảo hiểm. Đây chính là một trong những điều kiện theo quy định của một số nước buộc công ty nhượng phải giữ lại một phần phí để dự trữ. Tuy nhiên mức phí tạm giữ là bao nhiêu và thời gian tạm giữ là bao lâu còn tuỳ thuộc vào luật lệ của từng nước. Thông thường khoản dự phòng này được tính bằng một tỷ lệ phần trăm cố định của phí tái bảo hiểm toàn phần ( khoảng 30 – 40 %) Thời gian giữ lại thường được tính đến khi hợp đồng bảo hiểm kết thúc. Tuy nhiên cũng có những trường hợp quy định cho đến hết năm nghiệp vụ bảo hiểm. Xác định phí tạm giữ cần xem xét đến mức độ rủi ro của nghiệp vụ bảo hiểm đó, mức độ phức tạp của nghiệp vụ…và thường được áp dụng với những nhà tái bảo hiểm có quan hệ lần đầu với công ty nhượng. 4.2.3 Bồi thường tạm giữ Đây là khoản tiền mà công ty nhượng tính toán trên cơ sở những vụ tổn thất đã xảy ra nhưng chưa được giải quyết trong năm. Khoản tiền này công ty nhượng sẽ giữ lại mà không thanh toán cho người tham gia bảo hiểm vào thời điểm quyết toán năm tài chính. Mục đích là để thanh toán cho các vụ tổn thất trong các kỳ tiếp theo. Phần bồi thường tạm giữ cũng phụ thuộc vào 3 yếu tố là khả năng và tiến độ bồi thường của các nhà tái bảo hiểm cho công ty nhượng; quy mô mức độ tổn thất cũng như những dự báo tổn thất cho thời gian còn lại của chu kỳ sau; khả năng tài chính và thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của người tham gia bảo hiểm. 4.2.4 Bồi thường trả ngay Đây là khoản tiền bồi thường mà nhà tái bảo hiểm phải thanh toán ngay cho công ty nhượng. Khoản tiền này không dùng để đối trừ trong các kỳ thanh toán mà phải thanh toán ngay. Thông thường thời gian thanh toán trong vòng 15 ngày từ khi nhận được thông báo của công ty nhượng. Khoản tiền này hoàn toàn phụ thuộc vào các qui định của nội bộ giữa các công ty bảo hiểm chứ không lệ thuộc vào pháp luật. Tuy nhiên, thông thường các công ty nhượng qui định từ 50 – 70 % số tiền bồi thường. II. NĂNG LỰC NHẬN TÁI BẢO HIỂM CỦA DNBH 1. Năng lực nhận tái Một doanh nghiệp bảo hiểm muốn thu hút các công ty nhượng đến với mình thì năng lực nhận tái là điều kiện quan trọng nhất. Và có thể hiểu năng lực nhận tái là khả năng của một DNBH có thể chấp nhận các đơn vị rủi ro từ phía công ty nhượng, tối ưu hoá mức giữ lại trên cơ sở đánh giá rủi ro và tiềm lực của công ty trên thị trường. Trước khi làm thủ tục nhượng tái bảo hiểm, các công ty nhượng tái bảo hiểm đều phải tiến hành một quá trình tìm hiểu kỹ lưỡng về năng lực nhận tái của từng công ty tái trên thị trường, xem các công ty này có khả năng thanh toán bồi thường khi hợp đồng bảo hiểm hay hợp đồng nhận tái bảo hiểm gặp rủi ro gây tổn thất. Đây là điều đương nhiên cần thiết đối với bên nhượng đặc biệt khi họ là công ty bảo hiểm gốc. Vì ngay cả khi các công ty nhận tái bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với công ty bảo hiểm gốc vì một lý do nào đó, công ty bảo hiểm gốc vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với người được bảo hiểm, nếu không sẽ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Theo các tổ chức xếp hạng uy tín trên thế giới đánh giá thì các công ty nhận tái bảo hiểm hàng đầu đã được phân loại như sau: TT Tên công ty Phí bảo hiểm gốc năm 2005 (tr.USD) Xếp hạng của S&P Xếp hạng của AM best 1 Munich Re (Đức) 24.725,33 A+ A+ 2 Swiss Re (Thuỵ Sĩ) 21.191,20 AA- A+ 3 Hannover Re (Mỹ) 8.336,98 AA- A 4 Lloyd’s (Anh) 6.673,08 A A 5 Transatlantic Holdings Inc (Mỹ) 3.466,00 AA- A+ 6 Converium (Thuỵ Sĩ) 1.816,00 BBB+ B++ 7 Korean Re (Hàn Quốc) 1.737,00 BBB+ A- 8 Toa Re (Nhật Bản) 1.257,91 AA- A+ 9 General Ins. Corp of India (Ấn Độ) 1.234,00 NR A 10 SCOR RE (Pháp) 1.127,60 A- B++ Vậy đâu là những tiêu chí chính để đánh giá năng lực nhận tái của một doanh nghiệp bảo hiểm được các công ty nhượng lựa chọn? 1.1 Khả năng tài chính Khả năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và doanh nghiệp tái bảo hiểm nói riêng đều được nhìn nhận qua chỉ tiêu về vốn và khả năng thanh toán. Tuy nhiên khác với các loại hình doanh nghiệp nói chung là hoạt động chủ yếu bằng hai nguồn vốn: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay (vay ngân hàng, vay thương mại…) thì đối với doanh nghiệp bảo hiểm nguồn vốn đó bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả (như phải trả về chi bồi thường, chi hoa hồng, chi đánh giá rủi ro đối tượng bảo hiểm…). Và doanh nghiệp bảo hiểm không thể tìm cách chiếm dụng các khoản nợ phải trả để tăng vốn kinh doanh của mình do phải có trách nhiệm giải quyết bồi thường nhanh chóng, đầy đủ cho khách hàng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, từ đó giúp tăng tính hữu hình cho sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.Theo đó, khi đánh giá về khả năng tài chính, người ta thường xét đến nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bảo hiểm đó mà thôi. a. Nguồn vốn chủ sở hữu Nguồn vốn chủ sở hữu gồm vốn điều lệ được góp khi thành lập doanh nghiệp, các quỹ và các khoản lãi tích luỹ. Vốn điều lệ là vốn ghi trong điều lệ doanh nghiệp được góp khi thành lập doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm luôn duy trì mức vốn điều lệ đã góp không được thấp hơn mức vốn pháp định. Đối với doanh nghiệp Nhà nước nguồn để hình thành vốn là do ngân sách Nhà nước cấp khi thành lập. Đối với công ty cổ phần là do sự đóng góp của các cổ đông; đối với doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là do công ty mẹ ở nước ngoài chuyển vào để thành lập công ty; đối với doanh nghiệp liên doanh là phần đóng góp của các đối tác tham gia thành lập. Trong quá hoạt động khi cần tăng vốn, tuỳ theo loại hình doanh nghiệp mà có các phương thức tăng vốn khác nhau, như doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước cấp bổ sung, công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu để huy động vốn… Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, khi thành lập doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định quy định tại Điều 4 Nghị định 46/2007/NĐ-CP như sau: Mức vốn pháp định của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ._. chứng khoán, mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực tài chính khác như Bảo Việt, Bảo Minh…Và thực tế có khoảng 90% doanh nghiệp bảo hiểm có vốn chủ sở hữu cao gấp nhiều lần vốn pháp định. Tiềm lực tài chính được tăng cường, các doanh nghiệp này đều có xu hướng nâng mức giữ lại đồng nghĩa với nó là giảm mức tái bảo hiểm cho các công ty nhượng. Do đó mà doanh thu phí nhận tái của VINARE trong thời gian gần đây cũng như trong tương lai sẽ bị ảnh hưởng tương đối nhiều. Khi hoạt động tái bảo hiểm của VINARE vươn ra tầm khu vực và quốc tế, thì doanh thu phí nhận tái của VINARE sẽ không chỉ chịu ảnh hưởng từ diễn biến của thị trường bảo hiểm trong nước mà còn chịu sự chi phối từ những biến động của thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm khu vực và thế giới. Cạnh tranh trong lĩnh vực nhận tái bảo hiểm cũng có xu hướng gia tăng, có nhiều doanh nghiệp đã tăng dần hoa hồng nhượng tái bảo hiểm, từ đó gây khó khăn nhất định cho hoạt động nhận tái bảo hiểm của VINARE. Biến động về nhân sự cũng là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường Việt Nam nói chung và với VINARE riêng. Một thực tế đã diễn ra khi sự gia tăng của số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm nhanh hơn gia tăng nguồn nhân sự trong ngành đã dẫn đến sự di chuyển nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Nếu VINARE không có những điều chỉnh liên quan đến chính sách nhân sự thì khả năng các cán bộ có kiến thức và kinh nghiệm lâu năm trong nghề chuyển sang làm việc tại các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm nước ngoài là hoàn toàn có thể. II.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC NHẬN TÁI CỦA VINARE 1. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước 1.1 Hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và hoạt động tái bảo hiểm nói riêng chỉ có thể phát triển một cách lành mạnh và đúng hướng khi nó được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm đều tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có trật tự trên cơ sở của pháp luật, không như tình trạng “mạnh ai nấy làm” hiện nay của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập sâu rộng như hiện nay thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hơn để tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng và lành mạnh là hết sức cần thiết. Chính vì vậy Bộ Tài chính cần có nhiều nỗ lực để không ngừng bổ sung, củng cố và hoàn thiện môi trường pháp lý về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu tăng cường quản lý, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp, kết hợp hài hoà giữa yêu cầu phát triển thị trường với việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp và người tham gia bảo hiểm. Hiện nay các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm hiện hành cơ bản đã khá hoàn chỉnh với việc ban hành hai nghị định mới là Nghị định 45/2007/NĐ - CP và Nghị định 46/2007/NĐ - CP nhằm thay thế cho hai nghị định cũ là Nghị định 42 và 43 năm 2001 quy định về việc thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đều đã đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hầu hết các cam kết trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, để triển khai thực hiện một số cam kết còn lại và đảm bảo sự ổn định, bền vững của thị trường, một số yêu cầu đặt ra về hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật, bao gồm: Hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng phù hợp với các cam kết trong đàm phán gia nhập WTO và các thông lệ chuẩn mực quốc tế trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm như xây dựng và điều chỉnh, bổ sung các quy định pháp lý về cấp giấy phép thành lập và tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo hướng không phân biệt đối xử; nâng cao tính công khai minh bạch và bình đẳng đối với việc cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm; năng lực tài chính, năng lực pháp lý của chủ đầu tư cả trong nước lẫn ngoài nước, công tác quản trị điều hành doanh nghiệp. Bổ sung, sửa đổi một số quy định nhằm tăng khả năng giám sát tài chính của các công ty bảo hiểm gồm vốn pháp định, khả năng thanh toán, hoạt động tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục tiêu lựa chọn được các nhà đầu tư có năng lực tài chính, cam kết lâu dài đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO. Các quy định này giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng quản trị điều hành, phát hiện sớm các rủi ro đồng thời hỗ trợ cho công tác quản lý giám sát của các cơ quan chức năng. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách đảm bảo sự lành mạnh của thị trường, bao gồm  :đơn giản hoá thủ tục hành chính trong các khâu cấp giấy phép, thẩm định hồ sơ phê chuẩn, đăng ký sản phẩm đáp ứng các yêu cầu công khai, minh bạch và thận trọng, bổ sung các quy định bảo vệ người tiêu dùng như hoàn thiện các quy định về nội dung và phương thức giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo tính an toàn của giao dịch cho cả người mua lẫn công ty bảo hiểm và các đối tượng khác liên quan như đại lý, môi giới bảo hiểm. Cần có các quy định cụ thể và đặc thù hơn điều chỉnh hoạt động cạnh tranh đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh trên thị trường bảo hiểm, bởi đây là một ngành rất đặc thù và nhạy cảm. 1.2. Tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm Cơ quan quản lý Nhà nước về bảo hiểm là Bộ Tài chính, Vụ Bảo hiểm cần tăng cường kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo thực thi theo đúng chế độ quy định; đề cao công tác phân tích, đánh giá doanh nghiệp, quản lý giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ doanh nghiệp. Quan hệ giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp cần dựa trên tinh thần hợp tác và xây dựng. Bên cạnh đó cũng cần kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm; giữ vững trật tự, kỷ cương và đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, cạnh tranh lành mạnh và đúng pháp luật. Ngoài ra cơ quan quản lý cần thực hiện việc giám sát, kiểm tra thận trọng về các điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp như: năng lực tài chính, trách nhiệm tuân thủ pháp luật, hệ thống thông tin quản lý, điều kiện tiêu chuẩn người quản trị, điều hành trong quá trình kinh doanh. Để có thể làm được những việc trên, cơ quan quản lý trong nước cần mở rộng quan hệ hợp tác với cơ quan quản lý bảo hiểm các nước, các tổ chức quốc tế để tranh thủ sự trợ giúp kỹ thuật, trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đào tạo cán bộ, chuyên gia…nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập với thị trường bảo hiểm khu vực và thế giới. Mặt khác cần nhanh chóng triển khai xây dựng hệ thống công nghệ thông tin kết nối các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm đáp ứng yêu cầu về nghiên cứu, phân tích dự báo, xây dựng cơ chế chính sách phục vụ cho công tác quản lý, giám sát các doanh nghiệp được kịp thời và hiệu quả. 1.3.Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam Trong những năm vừa qua hoạt động của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã ngày một tích cực và có hiệu quả hơn trước. Từng bước khẳng định vai trò là cầu nối giữa các doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam phát triển. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu của hội nhập, Hiệp hội cần nhạy bén và nhanh nhạy hơn trong việc đề ra những quy tắc cho hoạt động bảo hiểm. Đối với khối doanh nghiệp bảo hiểm, vấn đề đặt ra là phải làm sao nâng cao năng lực tài chính và cạnh tranh. Trên thị trường bảo hiểm có một số doanh nghiệp vốn lớn, song cũng có không ít những doanh nghiệp nhỏ, tiềm lực tài chính thấp. Yêu cầu đặt ra lúc này là phải có kế hoạch tăng năng lực tài chính dưới mọi hình thức, kể cả liên doanh, liên kết. Có khá nhiều điều cần phải tăng cường hơn nữa trong thời gian tới như: kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm soát rủi ro, giám sát tính độc lập của hội đồng quản trị, cổ đông thiểu số, công bố thông tin công khai, minh bạch tài chính kế toán. Mặt khác với tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay trên thị trường mà không sớm có sự can thiệp từ Hiệp hội thì tương lai “các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ sẽ kéo nhau vào chỗ chết” (như một số chuyên gia đã nhận định). Nhiều nghiêp vụ xấu có tỷ lệ phí thấp trong khi phạm vi cũng như điều kiện bảo hiểm bảo hiểm mở rộng, công tác đánh giá rủi ro sơ sài là những nguyên chính khiến các doanh nghiệp bảo hiểm gốc khó thu xếp tái bảo hiểm ra nước ngoài. Kết quả là hầu hết các dịch vụ này được thu xếp tái giữa các doanh nghiệp trong nước. Như vậy khi nhiều vụ tổn thất đồng loạt xảy, khả năng tài chính của thị trường bảo hiểm sẽ có nguy cơ bị đe doạ. Chính vì vậy Hiệp hội cần đứng ra làm trọng tài của các doanh nghiệp, đưa ra các biện pháp để các doanh nghiệp phải cam kết với nhau, nói “không” với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm hàng năm phải ký quỹ tại Hiệp hội với số tiền nhất định, như 5 tỷ chẳng hạn với cam kết nếu vi phạm một trong những quy định chung do Hiệp hội đề ra sẽ bị xử phạt theo nguyên tắc. Và mức phạt này sẽ tăng dần cùng với những vụ việc vi phạm về sau. Hoạt động tái bảo hiểm bên cạnh chức năng là tấm lá chắn bảo vệ các công ty bảo hiểm gốc, thì chính sự phát triển và ổn định của công ty bảo hiểm gốc sẽ là động lực phát triển của hoạt động tái nhận tái bảo hiểm.Với hy vọng những nỗ lực trên được cải thiện thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ phát triển lành mạnh hơn, đủ sức cạnh tranh với thị trường bảo hiểm khu vực và thế giới. Trên cơ sở đó, hoạt động nhận tái của VINARE mong sẽ có nhiều cơ hội phát triển hơn trong tương lai. 2.Giải pháp đối với VINARE 2.1 Tăng cường khả năng tài chính Như đã phân tích ở các phần trên, hiện nay các công ty bảo hiểm gốc đều có xu hướng nâng cao mức giữ lại, chính vì vậy mà số đơn và lượng dịch vụ có tái chuyển nhượng cho VINARE không tăng tương ứng với tốc độ tăng trưởng dịch vụ có tái trên thị trường, nếu như không muốn nói là thiếu tính ổn định. Bởi vậy tăng cường khả năng tài chính có thể được coi là một yêu cầu cấp thiết đối với VINARE, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập như hiện nay. Vậy giải pháp tối ưu có thể đặt ra với VINARE lúc này đó chính là phát hành thêm cổ phiếu, hoặc cũng có thể liên doanh, liên kết với các tổ chức là các công ty bảo hiểm lớn nhằm mục đích trao đổi dịch vụ tái bảo hiểm, trong đó các công ty này sẽ tái cho VINARE những dịch vụ bảo hiểm có tái, ngược lại VINARE cũng ưu tiên chuyển nhượng cho các công ty này trước khi tái bảo hiểm cho các công ty khác trên thị trường. Ngoài ra, VINARE cần tiếp tục mở rộng việc liên kết với các tổ chức sản xuất kinh doanh lớn, để khi các tổ chức này có nhu cầu bảo hiểm, VINARE sẽ thu xếp cho họ với một công ty bảo hiểm gốc nào đó, rồi yêu cầu phải tái bảo hiểm cho VINARE theo chỉ định… Bên cạnh việc gia tăng vốn sau cổ phần hoá cũng như từ hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, VINARE cũng cần chú trọng hơn đến hoạt động đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi có được từ kinh doanh nghiệp vụ tái bảo hiểm. Bên cạnh việc đa dạng hoá các danh mục đầu tư cũng cần cấu trúc lại cơ cấu sử dụng vốn đầu tư trong từng lĩnh vực nhằm đảm bảo sử dụng một cách có hiệu quả, linh hoạt đồng vốn đầu tư. Ưu tiên đầu tư vào các dự án ngoài mục đích sinh lời trực tiếp phải có quan hệ cung cấp/trao đổi dịch vụ tái bảo hiểm với VINARE. Các dự án đó chính là các doanhn nghiệp bảo hiểm trên gốc hoạt động hoạt động tại thị trường trong nước. Ngoài việc sinh lời trực tiếp do khoản tiền đầu tư mang lại, VINARE sẽ thông qua việc hỗ trợ, hợp tác trong kinh doanh bảo hiểm/tái bảo hiểm nhận dịch vụ tái bảo hiểm từ các công ty này. Từng bước cụ thể hoá các mục tiêu, giải pháp trong lĩnh vực đầu tư đã hoạch định trong chiến lược phát triển kinh doanh. Phát triển hoạt động đầu tư phải đi đôi với nguyên tắc “an toàn - hiệu quả”. Ngoài ra hoạt động đầu tư của VINARE cũng có thể được mở rộng sang lĩnh vực tài chính như liên doanh, liên kết với các ngân hàng, công ty chứng khoán. Thực tế cho thấy mô hình này trên nhiều nước cũng như ở Việt Nam đã và đang mang lại những hiệu quả vô cùng to lớn. Nó giúp gia tăng tiềm lực tài chính cho các công ty bảo hiểm bởi với mô hình này sẽ cho phép các công ty có thể tận dụng tối đa lợi thế về vốn của ngân hàng và nguồn vốn nhàn rỗi của bảo hiểm để đầu tư, ngoài ra cũng có thể huy động vốn qua kênh giao dịch chứng khoán. Bên cạnh đó, lợi nhuận thuần hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm được tích luỹ qua các năm sẽ cũng có những đóng góp không nhỏ vào tổng vốn chủ sỏ hữu của VINARE. Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng có tác động trực tiếp làm tăng khả năng tài chính và gián tiếp tăng khả năng nhận tái bảo hiểm ở những năm tiếp theo. Cuối cùng, khi khả năng tài chính đã đủ lớn mạnh, VINARE cần nghiên cứu, xem xét khả năng nâng phần giữ lại cho công ty. Mặt khác để hoàn thành tốt vai trò là đầu mối thu hút hoạt động nhận tái bảo hiểm trên thị trường Việt Nam, nâng phần giữ lại bảo hiểm trong nước, hạn chế tối đa lượng dịch vụ bằng ngoại tệ chảy ra nước ngoài như mong muốn của Chính phủ khi xúc tiến thành lập VINARE, công ty cần cấu trúc lại cơ cấu giữa nhận và nhượng dịch vụ tái bảo hiểm. Theo đó, giảm dần lượng dịch vụ chuyển nhượng ra nước ngoài, tăng dần mức giữ lại công ty cho phù hợp với khả năng tài chính mới và những diễn biến mới trên thị trường tái bảo hiểm trong nước và nước ngoài. 2.2 Hoàn thiện các sản phẩm tái bảo hiểm Có thể nói trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay, thì việc cấu trúc các điều kiện/điều khoản của hợp đồng một cách hợp lý là yếu tố hết sức quan trọng để thu hút các dịch vụ bảo hiểm nói chung, và dịch vụ nhượng tái bảo hiểm nói riêng. Chính vì vậy để tăng cường hoạt động nhận tái, việc cần làm trước tiên của VINARE là cần tập trung nghiên cứu, chuẩn hoá phương án tái bảo hiểm cho từng nghiệp vụ, đảm bảo hiệu quả, hấp dẫn, cạnh tranh, an toàn cho doanh nghiệp bảo hiểm gốc và người được bảo hiểm thông qua một số giải pháp như: Thứ nhất, tăng tỷ lệ hoa hồng nhận tái bảo hiểm: Có thể nói đây là một biện pháp cần thiết để thu hút thêm nguồn phí nhận tái bảo hiểm tự nguyện. Bởi trong thực tế, khi các công ty nhượng tìm kiếm các nhà tái bảo hiểm, họ thường so sánh hoa hồng của các công ty tái trả cho họ. Và đương nhiên, công ty nào trả cho họ hoa hồng cao hơn, thì họ cũng sẽ ưu tiên hơn trong việc nhượng tái bảo hiểm. Mặt khác, việc tăng tỷ lệ hoa hồng cũng giúp công ty tạo dựng hình ảnh, uy tín, mối quan hệ lâu dài với các công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài. Tăng tỷ lệ hoa hồng cũng làm tăng chi nghiêp vụ, nhưng nếu doanh thu từ phí nhận tái bảo hiểm tăng cao hơn thì cuối cùng kết quả kinh doanh vẫn tăng và vẫn mang lợi nhuận cho công ty. Tuy nhiên cũng chính vì yếu tố này, việc tăng tỷ lệ hoa hồng cũng cần được xem xét, cân nhắc trên cơ sở của kết quả kinh doanh của nghiệp vụ năm trước đó, diễn biến của tổn thất trên thị trường cũng như từ kết quả đánh giá rủi ro được bảo hiểm…và cần có sự thống nhất chung giữa ban lãnh đạo công ty cùng với các cán bộ của từng phòng ban tái bảo hiểm. Thứ hai, bổ sung và hoàn thiện các điều kiện/điều khoản, phạm vi bảo hiểm một cách hợp lý. Việc xây dựng một phương án nhận tái với các hợp đồng mang tính cạnh tranh cao sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho VINARE trong việc nâng cao phần phí nhận tái bảo hiểm tự nguyện, cũng như khuyến khích các cổ đông gia tăng lượng phí nhượng tái cho VINARE ngoài phần theo cam kết. 2.3 Mở rộng khai thác nhận tái bảo hiểm trong và ngoài nước Nhận tái bảo hiểm là một lĩnh vực mang tính chất quốc tế, song với những gì đạt được trong những năm vừa qua về doanh thu phí nhận tái từ thị trường nước ngoài của VINARE là còn khá hạn chế. Để thực hiện mục tiêu chiến lược đề ra là xây dựng VINARE trở thành một công ty tái bảo hiểm hàng đầu trong nước và khu vực thì việc mở rộng quan hệ hợp tác trên thị trường bảo hiểm trong nước và thế giới là một giải pháp rất đúng đắn và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Trước hết là tìm kiếm những biện pháp nhằm chiếm lĩnh thị trường tái bảo hiểm trong nước. Thu hút các công ty bảo hiểm gốc tăng cường thu xếp hoạt động nhượng tái với VINARE. Có thể là thông qua việc tư vấn, hợp tác toàn diện: trao đổi dịch vụ, cung cấp thông tin, công nghệ tái bảo hiểm…xây dựng và củng cố vị thế số một của một công ty chuyên tái trong nước. Đối với thị trường bảo hiểm nước ngoài, ngoài việc củng cố phát triển quan hệ với các bạn hàng truyền thống là các doanh nghiệp trong hiệp hội bảo hiểm Châu Á, các nhà nhận tái bảo hiểm hàng đầu thế giới như Munich Re, Hannover Re, Lloy’d, Korean Re, Swiss Re…mà VINARE đã có quan hệ kinh doanh trong nhiều năm, thì công ty cũng cần xúc tiến việc hợp tác toàn diện trong mọi lĩnh vực: trao đổi dịch vụ nhận/nhượng tái bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, đào tạo, cung cấp thông tin…với các nhà nhận tái đến từ các thị trường tiềm năng khác Trung Quốc, Ấn Độ… Tuy nhiên việc mở rộng hoạt động nhận tái tử thị trường nước ngoài cũng cần có những bước đi phù hợp. Bởi bên cạnh những tiềm năng to lớn mà thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm nước ngoài mang lại như nguồn dịch vụ khổng lồ với hạn mức trách nhiệm lên đến hàng triệu USD, mức phí cạnh tranh hơn…thì cũng không ít những rủi ro có thể tiềm ẩn như thiên tai, dịch bệnh, khủng bố…Và cho đến nay bài học từ vụ khủng bố 11/9/2001 vẫn còn nguyên giá trị về cảnh báo khả năng ảnh hưởng di truyền trong tái bảo hiểm. Với năng lực tài chính còn khiêm tốn so với quy mô của một công ty chuyên tái trên thị trường cũng như kinh nghiệm hoạt động trên thị trường bảo hiểm/tái bảo hiểm thế giới còn nhiều hạn chế, VINARE cần nỗ lực hơn nữa trong việc học tập, trau dồi kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm quản lý với đối tác chiến lược là tập đoàn tái bảo hiểm hàng đầu Swiss Re trước khi vươn xa hơn trên thị trường thế giới. Ngoài ra, VINARE cũng cần thiết phải có một bộ phận nghiên cứu thị trường đủ mạnh nhằm đưa ra những giải pháp cạnh tranh hiệu quả. Bộ phận này cần thực hiện tốt các chức năng thu thập thông tin, điều tra, thăm dò, dự báo, nghiên cứu và phân tích xu hướng của thị trường, để tham mưu cho lãnh đạo doanh nghiêp thực hiện các chiến lược kinh doanh, nhằm củng cố thị trường và khách hàng đã có, mở rộng sang các thị trường khác và các khách hàng mục tiêu, bổ sung những dịch vụ còn khiếm khuyết để nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng. Làm tốt được những công tác trên, khả năng VINARE có thể nâng cao vị thế của mình trên thị trường tái bảo hiểm trong nước, mở rộng phạm vi trên thị trường tái bảo hiểm khu vực và quốc tế là việc hoàn toàn có thể. Từ đó, sẽ tạo điều kiện cho VINARE tăng dần doanh thu phí nhận tái từ cả thị trường trong nước và nước ngoài. 2.4 Xây dựng chính sách khách hàng, dịch vụ khách hàng Tăng cường khả năng tài chính và hoàn thiện sản phẩm tái bảo hiểm mới chỉ dừng lại ở điều cần, bởi muốn thu hút hoạt động nhượng tái từ các công ty bảo hiểm gốc thì dịch vụ khách hàng là điều tối quan trọng. Chính vì vậy yêu cầu đặt ra với VINARE là cần xây dựng chính sách khách hàng một cách hợp lý, xác định các dịch vụ trọng điểm, phức tạp để tiến hành tư vấn cho khách hàng từ khâu giám định rủi ro, xác định phạm vi bảo hiểm…trước khi cấp đơn bảo hiểm. Mặt khác trong quá trình thực hiện hợp đồng, VINARE cũng cần thường xuyên tham mưu các biện pháp kỹ thuật cho các công ty bảo hiểm gốc trong việc đề phòng, hạn chế tổn thất, quản lý rủi ro và giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra đối với đối tượng được bảo hiểm, đảm bảo an toàn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Phối hợp với khách hàng giải quyết bồi thường mau chóng, khắc phục hậu quả, ổn định kinh doanh. Bởi cũng như hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, để nâng tính hữu hình cho sản phẩm cũng như chiếm được niềm tin từ khách hàng tham gia bảo hiểm, thì việc tiến hành bồi thường nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời là hết sức cần thiết. Trong hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng vậy, để khuyến khích các công ty nhượng bằng nâng cao tỷ lệ hoa hồng nhượng tái bảo hiểm thôi là chưa đủ, công ty cần rút ngắn thời gian bồi thường cho khách hàng, bồi thường một cách đầy đủ và kịp thời cho các công ty bảo hiểm gốc để họ có thể nhanh chóng ổn định hoạt động kinh doanh. Để có thể thực hiện được như trên, công ty cần trích lập đầy đủ các quỹ dự phòng nghiệp vụ như dự phòng phí, dự phòng bồi thường , dự phòng dao động lớn; thường xuyên kiểm tra khả năng thanh toán của công ty để đảm bảo bồi thường kịp thời cho khách hàng khi có rủi ro xảy ra. Thường xuyên tổ chức hoặc phối hợp với khách hàng, các tổ chức bảo hiểm trên thế giới tổ chức đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ của VINARE và thị trường thông qua các hình thức: tham dự các khoá học, hội thảo trong và ngoài nước. Phổ biến kiến thức, kinh nghiệm về tái bảo hiểm đến từng cán bộ khai thác. Công ty cần phối hợp với các cơ quan quản lý chuyên ngành là Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam xúc tiến việc xây dựng Học viện Bảo hiểm Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu về nhân lực trong bối cảnh bùng nổ các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao như hiện nay. Ngoài ra, công ty cũng cần tiếp tục và nâng cao hơn nữa vai trò là trung tâm thông tin của thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm trong nước và quốc tế. Tăng cường các biện pháp thu thập thông tin, kịp thời phát hiện ra những biến động thất thường, những thay đổi từ thị trường trong nước cũng như quốc tế để có thể đưa ra những nhận định, đồng thời tham mưu tư vấn cho ban lãnh đạo các cơ quan quản lý để kịp thời đưa ra những điều chỉnh kịp thời, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường. Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập, khi thị trường bị chia cắt manh mún và khả năng rủi ro mang tính hệ thống là rất cao thì công tác trên là hết sức cần thiết. Với những nỗ lực kể trên, uy tín của công ty trong mắt các nhà bảo hiểm gốc sẽ ngày được nâng cao, tạo được niềm tin vững chắc trong lòng khách hàng, khuyến khích họ tái tục bảo hiểm với mình…sẽ là những động lực tốt để VINARE nâng cao khả năng nhận tái bảo hiểm. 2.5 Phát triển nguồn nhân lực Bản thân hoạt động trong một lĩnh vực mang đậm tính chất quốc tế, lại đang trong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới nói chung và thị trường bảo hiểm thế giới nói riêng, mà yêu cầu đặt ra đối với những cán bộ tái bảo hiểm là hết sức cao và khắt khe. Con người chính là trung tâm của mọi hoạt động, hoạt động nhận tái của VINARE sẽ không thể phát triển nếu như thiếu những cán bộ chuyên môn giỏi, dày dặn kinh nghiệm, am hiểu thị trường trong và ngoài nước…trong khi đặc điểm nguồn nhân lực của VINARE có khá nhiều người còn trẻ không chỉ ở tuổi đời mà còn ở kinh nghiệm trên thị trường. Bởi vậy, công tác tổ chức đào tạo và đào tạo lại và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ là cần được ưu tiên trong chiến lược phát triển dài hạn của công ty. Để thực hiện được theo phương châm “Giỏi chuyên môn tái bảo hiểm, am hiểu chuyên môn bảo hiểm gốc”, VINARE cần chuẩn hoá đội ngũ cán bộ thông qua các khoá đào tạo về tái bảo hiểm cho các cán bộ mới được tuyển dụng, cũng như các cán bộ tốt nghiệp ở các khối chuyên ngành khác; thường xuyên mở các cuộc hội thảo trao đổi về kinh nghiệm tái bảo hiểm, cố gắng mời các chuyên gia về tái bảo hiểm trong và ngoài nước đến truyền đạt kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ trong công ty, khuyến khích nâng đỡ các tài năng trẻ, chú trọng đến công tác tiến cử những cán bộ có tâm huyết và khả năng đi học tập và làm việc ở nước ngoài, trau dồi kiến thức. Mặt khác, công ty cũng cần thực hiện chính sách thu hút nhân tài thông qua các chính sách về thu nhập đối với người lao động, tổ chức văn hoá doanh nghiệp mang đậm nét riêng có của VINARE. Bên cạnh đó, công ty cũng cần chú trọng đến công tác trích lập các quỹ khen thưởng, phúc lợi từ lợi nhuận sau thuế. Bởi với việc khen thưởng động viên một cách kịp thời và thích hợp sẽ có tác động kích thích tinh thần hăng say lao động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ nhân viên xuất sắc như trong việc ký kết được nhiều hợp đồng nhận tái mang lại nguồn doanh thu lớn cho công ty, hoặc những hợp đồng có kết quả kinh doanh tốt nhằm gắn bó trách nhiệm của các cán bộ hơn trong việc chấp nhận các hợp đồng tái bảo hiểm, những cán bộ có nhiều sáng kiến hay và thiết thực…Đây cũng là một biện pháp tốt nhằm giữ được nhân tài, tránh tình trạng chảy máu chất xám. 2.6 Hiện đại hoá hệ thống thông tin trong khai thác và quản lý doanh nghiệp Yều cầu về đổi mới hệ thống thông tin không chỉ đối với riêng VINARE, mà còn là yêu cầu chung cho toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay. Lợi ích mà nó mang lại là vô cùng lớn cho các doanh nghiêp như giao dịch thông tin, giao dịch bảo hiểm, thực hiện tính phí, quản lý hợp đồng, xử lý thông tin một cách nhanh gọn và chính xác…chính là một động lực lớn, thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày một phát triển hơn lên. Chính vì vậy trong thời gian tới, VINARE cần tăng cường trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, rủi ro và đối tượng được bảo hiểm, giám định giải quyết bồi thường. Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các khâu thống kê nghiệp vụ, thống kê và phân tích rủi ro làm dữ liệu cho việc định phí, đàm phán phương án tái bảo hiểm, tiến tới quản lý và quản trị doanh nghiệp trên mạng. Sử dụng một cách có hiệu quả nhất các phần mềm ứng dụng hiện có. Mặt khác ban lãnh đạo công ty cần thúc đẩy việc thống kê số liệu của ngành trong và ngoài nước, nghiên cứu kỹ lưỡng để có thể đưa ra một bản “hướng dẫn quy trình nghiệp vụ” thống nhất trong công ty. Văn bản này sẽ được tính toán trên nhiều chỉ tiêu như đối tượng bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, tỷ lệ tổn thất bình quân trong nhiều năm của từng nghiệp vụ, kết quả kinh doanh nghiệp vụ đó trong nhiều năm, diễn biến tổn thất trên thị trường…nhằm giúp các cán bộ có thể đưa ra những quyết định thích hợp, nhằm đem lại hiệu quả tối ưu cho VINARE. KẾT LUẬN So với thị trường bảo hiểm ở các nước khác trên thế giới, thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường tái bảo hiểm Việt Nam nói riêng là còn khá non trẻ. Với kinh nghiệm hoạt động chưa nhiều, khả năng tài chính còn hạn chế, thị trường diễn biến phức tạp trong khi phải gánh vác trọng trách to lớn là nâng mức giữ lại cho thị trường trong nước, hạn chế tối đa lượng dịch vụ bằng ngoại tệ chảy ra nước ngoài mà hoạt động nhận tái của VINARE cần tiếp tục được quan tâm một cách đúng mức hơn nữa trong thời gian tới. Tuy nhiên với những tín hiệu tốt từ nền kinh tế, đặc biệt là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới -WTO cùng với những nỗ lực của ban lãnh đạo cũng như của toàn thể cán bộ trong Tổng công ty mà hy vọng về một sự phát triển cao hơn nữa, xa hơn nữa của VINARE trên thị trường bảo hiểm trong nước và quốc tế là hoàn toàn có theer trở thành hiện thực. Như vậy, chuyên đề thực tập đến đây đã được hoàn thành. Dù đã hết sức cố gắng, song do năng lực còn nhiều hạn chế, mà chuyên đề này chắc chắn vẫn còn nhiều sai sót về nội dung và hình thức biểu đạt. Mặt khác, do được hoàn thành trong một thời gian tương đối gấp rút nên những thiếu sót, khuyết điểm đó càng không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý chỉ bảo tận tình của các cán bộ trong công ty và của các thầy cô giáo. Lời cuối cùng, em xin gửi lời cám ơn chân thành đến các cô chú và các anh chị trong phòng Tái bảo hiểm Phi hàng hải, phòng Hành chính tổng hợp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em được thực tập tại công ty. Em cũng xin đặc biệt cảm ơn cô giáo - tiến sĩ Phạm Thị Định đã tận tình hướng dẫn cho em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Sinh viên: Nguyễn Thuỳ Dương. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế bảo hiểm, trường đại học Kinh tế Quốc dân. NXB Thống kê, 2005 2. Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, trường đại học Kinh tế Quốc dân. NXB Thống kê, 2004 3. Giáo trình Kế toán bảo hiểm, Học viện Tài chính NXB Tài chính, 2002 4. Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành, Học viện Hoàng gia Anh. NXB Tài chính, 1998 5. Tạp chí thị trường Bảo hiểm - Tái bảo hiểm Việt Nam số 2,3,4/2007 và số 1/2008 Tổng công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam 6. Tạp chí Annual Report Tổng công ty cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam 7. Tạp chí Tài chính - Bảo hiểm số 4/2007 Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam 8. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 4,11/2007 9. Tài liệu của phòng Hành chính tổng hợp, VINARE 10. Văn bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm - Nghị định 45/2007/NĐ –CP và Nghị định 46/2007/NĐ-CP MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ 1.BẢNG Bảng 2.1: Doanh thu phí nhận TBH của VINARE theo hình thức cam kết/bắt buộc - tự nguyện (2004 – 2007) 42 Bảng 2.2: Cơ cấu doanh thu phí nhận tái bảo hiểm trong nước và nước ngoài của VINARE (2004 - 2007) 44 Bảng 2.3: Doanh thu phí nhận tái bảo hiểm theo loại hình nghiệp vụ tại VINARE (2004 – 2007) 45 Bảng 2.4: Cơ cấu phí chuyển nhượng TBH cho thị trường trong nước và nước ngoài của VINARE (2004 – 2007) 50 Bảng 2.5: Mức phí giữ lại VINARE (2004 – 2007) 51 Bảng 2.6: Tình hình bồi thường thuộc trách nhiệm hợp đồng nhận tái bảo hiểm của VINARE (2004 – 2007) 52 Bảng 2.7: Tình hình tổn thất thuộc trách nhiệm hợp đồng nhượng tái bảo hiểm của VINARE giai đoạn 2004 – 2007 53 Bảng 2.8: Bồi thường thuộc trách nhiệm giữ lại của VINARE giai đoạn 2004 – 2007 54 Bảng 2.9: Kết quả thu nghiệp vụ tái bảo hiểm tại VINARE giai đoạn 2004 – 2007 55 Bảng 2.10: Kết quả chi nghiệp vụ tái bảo hiểm tại VINARE giai đoạn 2004 – 2007 56 Bảng 2.11: Kết quả thu - chi nghiệp vụ tái bảo hiểm tại VINARE giai đoạn 2004 – 2007 57 Bảng 2.12: Biên khả năng thanh toán của VINARE (20040-2007) 59 Bảng 2.13: Chỉ tiêu về khả năng thanh toán của VINARE 60 2. BIỂU ĐÔ Biểu đồ 2.1: So sánh giữa tỷ lệ bồi thường giữ lại, bồi thường nhận tái và bồi thường nhượng tái. 55 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………. Hà Nội, ngày tháng năm 2008 Giáo viên hướng dẫn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11353.doc
Tài liệu liên quan