NÂNG CAO NĂNG LỰC CHO CÁN BỘ QUẢN LÝ, GIÁO VIÊN VỀ HƯỚNG DẪN HỌC SINH KỸ NĂNG TỰ HỌC, HỌC NHÓM
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do biên soạn tài liệu:
Thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên tiểu học theo Hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, để góp phần đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục tiểu học, Sở Giáo dục và Đào tạo biên soạn nội dung bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật n
46 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 544 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo viên về hướng dẫn học sinh kỹ năng tự học, học nhóm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục theo hướng đổi mới trong giai đoạn hiện nay.
Tài liệu BDTX về “Nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo viên về hướng dẫn học sinh kỹ năng tự học, học nhóm” nhằm giúp cho cán bộ quản lí và giáo viên tiểu học có thêm những kiến thức và kĩ năng để đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát huy năng lực người học, trong đó kĩ năng tổ chức dạy học theo nhóm để phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo, phát triển năng lực tự học cho học sinh là hết sức quan trọng.
Tài liệu cung cấp những vấn đề lý luận chung kết hợp minh họa một số nội dung cụ thể ở các môn học, với mục tiêu khơi gợi sự sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề, tự giám sát và đánh giá kết quả học tập của người học, chú trọng phương pháp mở, người học vận dụng trải nghiệm thực tế và tự rút ra bài học cụ thể cho bản thân, phù hợp với yêu cầu, điều kiện dạy học và tình hình học sinh.
Tài liệu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Sở Giáo dục và Đào tạo rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của cơ sở, đặc biệt là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục tiểu học.
2. Mục tiêu của tài liệu:
Sau bồi dưỡng, CBQL và giáo viên các trường tiểu học:
Hiểu được thế nào là tự học, các cách thức tổ chức dạy học giúp học sinh phát triển khả năng tự học.
Hiểu được những vấn đề cơ bản về dạy học theo nhóm.
Nâng cao năng lực tổ chức dạy học theo nhóm, rèn luyện các kĩ năng cơ bản, cần thiết để tổ chức dạy học theo nhóm.
Vận dụng để tổ chức dạy học theo nhóm linh hoạt, có hiệu quả tại đơn vị mình.
3. Cấu trúc nội dung tài liệu:
Ngoài Lời mở đầu, nội dung chính của tài liệu gồm 3 phần:
Phần I. Thế nào là “Tự học”, vai trò, ý nghĩa của “Tự học” đối với học sinh tiểu học.
Phần II. Dạy học theo nhóm.
Phần III. Một số bài minh họa.
4. Hướng dẫn sử dung tài liệu:
Tài liệu được biên soạn theo hình thức của Tài liệu hướng dẫn học.
Tài liệu có thể sử dụng như Giáo án của các giảng viên, cũng có thể sử dụng làm tài liệu học của học viên tại các lớp bồi dưỡng tập trung với thời lượng 30 tiết. Tài liệu cũng có thể dùng để tự học, tự nghiên cứu tại nhà hoặc nơi công tác.
Tài liệu được biên soạn theo hướng tăng cường trải nghiệm, thực hành để rèn luyện, phát triển các kĩ năng cho CBQL và giáo viên. Vì vậy, khi tổ chức lớp bồi dưỡng cần phân công dạy minh họa, tổ chức thực hành rồi chia sẻ trong thảo luận nhóm. Giảng viên là người tổ chức, hướng dẫn, hỗ trợ để học viên tự giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh và khai thác nội dung.
PHẦN I:
THẾ NÀO LÀ “TỰ HỌC”, VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA “TỰ HỌC” ĐỐI VỚI HỌC SINH TIỂU HỌC
A. HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN
Hãy ghi lại những hiểu biết của anh (chị) về “tự học” của học sinh tiểu học.
Việc 1. Thảo luận để thống nhất ý kiến trong nhóm về khái niệm “tự học”, vai trò, ý nghĩa của tự học đối với học sinh tiểu học.
Việc 2. Đối chiếu kết quả làm việc nhóm với các thông tin dưới đây để hoàn thiện ý kiến của nhóm.
Hình thành, phát triển và rèn luyện năng lực tự học cho học sinh tiểu học là một quá trình lâu dài và khó khăn, đòi hỏi sự chịu khó, kiên trì, thường xuyên từ nhiều phía. Trong đó, giáo viên phải là người tổ chức, hướng dẫn, đôn đốc, hỗ trợ, kiểm tra HS tự học; HS phải chủ động, tích cực, tự giác và kiên trì luyện tập. Chỉ khi nào “tự học” trở thành thói quen và niềm đam mê của học sinh thì việc tự học mới đem lại hiệu quả thực sự.
Để thực hiện tốt vai trò của mình trong việc hình thành, phát triển và rèn luyện năng lực tự học cho học sinh, đáp ứng với yêu cầu giáo dục hiện nay, mỗi giáo viên phải hiểu rõ bản chất thế nào là tự học.
Có nhiều quan điểm về khái niệm tự học, tuy nhiên chúng ta có thể tham khảo một số khái niệm sau:
“Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”.
(TSKH Thái Duy Tuyên)
“Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải phápTự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”.
(Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/1998)
“ Học bao giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện cho mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”.
(GS Trần Phương)
Theo Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về đánh giá học sinh tiểu học: Năng lực tự học và giải quyết vấn đề được biểu hiện cụ thể như sau: khả năng tự thực hiện nhiệm vụ học cá nhân trên lớp, làm việc trong nhóm, lớp; khả năng tự học có sự giúp đỡ hoặc không cần giúp đỡ; tự thực hiện đúng nhiệm vụ học tập; chia sẻ kết quả học tập với bạn, với cả nhóm; tự đánh giá kết quả học tập và báo cáo kết quả trong nhóm hoặc với giáo viên; tìm kiếm sự trợ giúp kịp thời của bạn, giáo viên hoặc người khác; vận dụng những điều đã học để giải quyết nhiệm vụ trong học tập, trong cuộc sống; phát hiện những tình huống mới liên quan tới bài học hoặc trong cuộc sống và tìm cách giải quyết.
Như vậy khái niệm tự học ở đây được hiểu là hoạt động tự lực của HS để chiếm lĩnh tri thức khoa học đã được qui định thành kiến thức học tập trong chương trình và SGK với sự hướng dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp của GV thông qua các phương tiện học tập như tài liệu tự học có hướng dẫn, tài liệu tra cứu, giáo án điện tử,...Hoạt động tự học của HS có nhiều khâu, nhiều bước, được tiến hành thông qua các hoạt động học tập của chính bản thân họ. Đây là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh tri thức khoa học bằng hành động của chính mình hướng tới những mục đích nhất định. Vì vậy, quá trình tổ chức dạy học phải làm cho hoạt động học của HS chuyển từ trạng thái bị động sang chủ động. HS biết tự sắp xếp, bố trí các công việc sẽ tiến hành trong thời gian tự học, biết huy động các điều kiện, phương tiện cần thiết để hoàn thành từng công việc, biết tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả hoạt động tự học của chính mình.
Tự học có vai trò, ý nghĩa quan trọng đối với học sinh tiểu học:
- Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học. Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong quá trình hoạt động dạy học, giáo viên không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu học sinh ghi nhớ mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho học sinh tự mình khám phá ra những tri thức. Giúp học sinh không chỉ nắm bắt được tri thức mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy và vận dụng tri thức vào cuộc sống hằng ngày.
- Bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự học là cách tốt nhất để tạo ra niềm vui, hứng thú và động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập, giúp cho học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo hơn. Từ đó góp phần hình thành ở học sinh những phẩm chất tốt đẹp phù hợp với xã hội hiện đại: đó là sự năng động, sáng tạo, thích ứng tốt.
- Hoạt động tự học giúp học sinh thu nhận được kiến thức dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên trở nên vững chắc, sâu sắc, tạo ra cơ sở để vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn học tập.
- Tự học tốt ở cấp tiểu học giúp cho học sinh học tập tốt ở các cấp học cao hơn và giúp các em lớn lên có thể chủ động học tập suốt đời. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao.
Hãy ghi lại những việc anh chị đã làm để hình thành, phát triển và rèn luyện năng lực tự học cho học sinh.
Việc 1. Thảo luận để thống nhất ý kiến trong nhóm về cách thức tổ chức dạy học nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh tiểu học.
Việc 2. Đối chiếu kết quả làm việc nhóm với các thông tin dưới đây để hoàn thiện ý kiến của nhóm.
Quá trình tự học của học sinh cần tuân thủ một số yêu cầu sau:
Tự học là một hình thức học. Vì vậy hoạt động tự học cũng phải có mục đích, nội dung và phương pháp phù hợp. Hình thức tự học đối với học sinh tiểu học cần có sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, vừa phải đảm bảo thực hiện đúng quan điểm dạy học hiện đại vừa phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học.
Bảo đảm hình thành ở học sinh kĩ năng tự học từ thấp lên cao, tự học từng phần dưới sự hướng dẫn của giáo viên cho đến tự học hoàn toàn.
Bảo đảm cho giáo viên thu nhận thông tin phản hồi về kết quả học tập của học sinh sau quá trình tự học và giúp đỡ điều chỉnh nhịp độ học tập của HS khi cần thiết.
Với học sinh tiểu học, tự học được biểu hiện trên một số vấn đề sau đây:
- Tự giác thực hiện các hoạt động cá nhân, tự mình chiếm lĩnh kiến thức bài học, luyện tâp, thực hành để hình thành và phát triển các kĩ năng, năng lực. Biết tìm kiếm sự hỗ trợ từ bạn bè, thầy cô để hoàn thành nhiệm vụ học của bản thân.
- Chủ động tham gia vào các hoạt động động cặp đôi, nhóm lớn,
- Tự kiểm tra, đánh giá kết quả của bạn thân và các bạn trong nhóm, trong lớp.
Cách thức tổ chức dạy học giúp học sinh tự học:
Để học sinh có thể tự học, trước hết người giáo viên phải thay đổi cách dạy, thay đổi tài liệu học và các điều kiện dạy học cho phù hợp. Thực tế dạy học giáo viên phải trải qua ba bước là: Chuẩn bị giáo án (thiết kế bài học), dạy học trên lớp, kiểm tra, đánh giá. Để thực hiện ba bước này theo hướng phát triển năng lực cho học sinh nói chung và khả năng tự học nói riêng, người giáo viên cần lưu ý:
1. Thiết kế bài học:
a. Xác định mục tiêu: việc xác định mục tiêu giáo viên không chỉ căn cứ vào trình độ chung của cả lớp mà phải chú ý đến từng nhóm đối tượng học sinh, cần tính toán độ khó của nhiệm vụ học tập sao cho phù hợp với học sinh. Cần chú ý sự hợp lí giữa trang bị tri thức, kĩ năng với việc dạy cho học sinh cách tư duy và phương pháp tự học.
b. Xây dựng nội dung bài học:
Một bài học thiết kế theo hướng tổ chức tự học cho học sinh thì hoạt động của học sinh phải là chủ đạo. Giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ khi cần thiết. Sau khi nghiên cứu bài học, giáo viên cần tiến hành một số việc sau:
Xác định trọng tâm, chuẩn kiến thức kĩ năng của bài học, sắp xếp các nội dung bài học bằng các hoạt động học hợp lí.
Bổ sung nội dung, kiến thức bằng số liệu mới, cập nhật các thông tin phù hợp với địa phương, gắn liền với cuộc sống của các em học sinh.
Xác định thời gian hợp lí tương ứng với nội dung và trình độ của học sinh.
c. Lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học và đồ dùng dạy học:
Việc lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học và đồ dùng dạy học là một khâu hết sức khó khăn, phức tạp đòi hỏi giáo viên phải căn cứ vào mục tiêu, nội dung bài học, đặc điểm học sinh và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường. Để học sinh tự học, giáo viên cần chú ý:
- Tập trung vào hoạt động tự học của cá nhân (đọc thông tin, làm bài tập, nhớ lại, ghi chép) các hoạt động cặp đôi (trao đổi, chia sẻ, luân phiên hỏi và trả lời, kiểm tra kết quả) và hoạt động trong nhóm (thảo luận, báo cáo)
- Suy nghĩ để tạo ra các tình huống có vấn đề nhằm kích thích hứng thú của học sinh hoặc đào sâu kiến thức (các câu hỏi “Tại sao?”, các yêu cầu phản biện)
- Chuẩn bị các câu hỏi khơi dậy tư duy hoặc hệ thống câu hỏi gợi ý khi học sinh gặp khó khăn.
- Chuẩn bị hệ thống bài tập và nhiệm vụ học tập nhằm tổ chức học sinh tự học (phiếu học tập, phiếu chỉ dẫn,)
2. Tổ chức dạy học trên lớp:
Để học sinh có động lực học tập và tham gia với tinh thần tích cực, tự giác, hứng thú, vào đầu tiết học, giáo viên có thể tổ chức trò chơi, tạo tình huống có vấn đề cần giải quyết, nêu mục tiêu, nhiệm vụ học tập mà các em phải hoàn thành.
Phối hợp nhuần nhuyễn hoạt động của thầy và hoạt động của học sinh:
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
§ Tạo tình huống để HS rõ vấn đề, thấy cần giải quyết.
§ Nghe, tiếp thu, chuyển mâu thuẫn bên ngoài thành mâu thuẫn bên trong, có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn.
§ Giao nhiệm vụ học tập (đặt câu hỏi, ra bài tập )
§ Tiếp nhận nhiệm vụ học tập qua câu hỏi, bài tập . . .
§ Hướng dẫn HS hoạt động (đọc Tài liệu hướng dẫn học, nghiên cứu tài liệu tham khảo, tổ chức thảo luận,)
§ Đọc Tài liệu hướng dẫn học, tái hiện, suy nghĩ, sáng tạo, trả lời câu hỏi thảo luận.
§ Theo dõi sự tự học của các em, tổ chức nhóm thảo luận, đặt các câu hỏi bổ sung khi cần thiết.
§ Phát huy tính tính tích cực, sự nỗ lực sáng tạo, trao đổi với bạn bè, hỏi thầy giáo để thảo luận để giải quyết các nhiệm vụ học tập.
§ Giải đáp câu hỏi
§ Nêu câu hỏi
§ Phân tích, bổ sung, khẳng định những điểm đúng, phê phán những thiếu sót, sai lầm
§ Sửa chữa, hoàn thiện, hệ thống hóa tri thức, kỹ năng.
3. Phối hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học:
Phương pháp
Nội dung hoạt động
1. Diễn giảng nêu vấn đề
- Tạo ra tình huống có vấn đề.
- Giáo viên và học sinh cùng giải quyết vấn đề bằng cách:
- Đặt câu hỏi để các em suy nghĩ và trả lời.
- Thuyết trình
- Đặt vấn đề để các em trao đổi, thảo luận, tìm cách giải quyết vấn đề.
2. Tự đọc
- HS đọc SGK, tài liệu
- Viết tóm tắt, lập sơ đồ, biểu bảng
3. Thảo luận nhóm
- HS chia thành nhiều nhóm nhỏ để thảo luận một vấn đề do giáo viên nêu lên.
- Đại diện các nhóm trình bày trước lớp.
- Giáo viên tổng kết, bổ sung.
4. Phương pháp trực quan
- Xem các phương tiện trực quan
- Thảo luận, nêu ý kiến
5. Làm bài tập thực hành
- Làm bài tập thực hành
- Thảo luận, kết luận
6. Tổ chức cho HS thuyết trình, báo cáo
- HS báo cáo một vấn đề đã được chuẩn bị trước.
- Cả lớp nghe, trao đổi thảo luận
- Giáo viên hỗ trợ, giúp đỡ học sinh chốt kiến thức.
7. Xemina
- Cả lớp chuẩn bị
- Một hoặc hai em báo cáo.
- Cả lớp thảo luận
- Giáo viên hỗ trợ, giúp đỡ học sinh chốt kiến thức.
4. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập:
- Bên cạnh kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, cần chú trọng kiểm tra năng lực độc lập, sáng tạo, năng lực tự học của học sinh.
- Đánh giá kết quả học tập theo các tiêu chí: Độc lập, sáng tạo . . .
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của trò.
B. HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH
DỰ GIỜ, PHÂN TÍCH TIẾT HỌC
(Ban tổ chức lớp bồi dưỡng cần bố trí tiết dạy minh họa về dạy học theo nhóm để giáo viên thực hành)
Việc 1. Đọc kĩ các câu hỏi định hướng trước khi dự giờ:
1. Quan sát lớp học để biết khi nào học sinh tự học.
2. Giáo viên dạy minh hoạ đã làm gì giúp học sinh hình thành và phát triển kĩ năng tự học?
Việc 2. Dự giờ, quan sát tiết học, ghi chép theo sinh hoạt chuyên môn mới, tập trung nhiều hơn vào những gợi ý trên.
Việc 3. Suy ngẫm, ghi chép ý kiến cá nhân chuẩn bị trao đổi trước lớp.
Thảo luận trao đổi về tiết học đã dự theo những gợi ý định hướng trên để rút ra những bài học cho bản thân về dạy học giúp học sinh tự học.
C. HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG
Suy nghĩ và áp dụng cho lớp học của mình tại địa phương để nâng cao năng lực tự học cho học sinh.
PHẦN II:
DẠY HỌC THEO NHÓM
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA DẠY HỌC THEO NHÓM
A. HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN
Đọc bài viết dưới đây về dạy học theo nhóm để hiểu thêm về sự cần thiết của dạy học theo nhóm:
“Trong thời đại ngày nay, khi khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển thì yêu cầu làm việc theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết. Làm việc theo nhóm có thể tập trung những mặt mạnh của từng người và bổ sung, hoàn thiện cho nhau những điểm yếu.
Dạy học theo nhóm đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị kĩ lưỡng kế hoạch dạy học, lựa chọn những nội dung thực sự phù hợp với hoạt động nhóm và thiết kế được các hoạt động giúp học sinh lĩnh hội, khám phá kiến thức mới một cách hiệu quả nhất.
Tổ chức dạy học theo nhóm là một hình thức dạy học mới. Đó là một trong những hình thức thực hiện tốt việc dạy học phát huy tính tích cực và tương tác của học sinh. Với hình thức này, học sinh được hấp dẫn, lôi cuốn vào các hoạt động học, thu lượm kiến thức bằng chính khả năng của mình với sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên.
Phương pháp dạy học theo nhóm được sử dụng nhằm khai thác vốn kiến thức mà các em đã tích luỹ, những hiểu biết thực tế trong đời sống hoặc vận dụng kiến thức vào cuộc sống lao động sản xuất.”
Việc 1. Thảo luận để tìm ra những ưu điểm và nhược điểm chủ yếu của dạy học theo nhóm và quan điểm của nhóm mình về dạy học theo nhóm.
Việc 2. Đối chiếu kết quả làm việc nhóm với các thông tin dưới đây để hoàn thiện ý kiến của nhóm. Bàn một số phương án để có thể khắc phục một số nhược điểm đã nêu:
Ưu điểm
- Hoạt động hợp tác trong nhóm sẽ làm cho từng thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội, hiệu quả học tập sẽ tăng lên nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành công việc.
- Trong hoạt động hợp tác, mục tiêu hoạt động là của toàn nhóm, nhưng mỗi cá nhân được phân công một nhiệm vụ cụ thể, phối hợp nhau để đạt mục tiêu chung: Mô hình hợp tác xã trong xã hội đưa vào đời sống học đường có tác dụng chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội trong đó mỗi người sống và làm việc theo sự phân công hợp tác với tập thể cộng đồng.
- Tất cả các thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia chia sẻ ý kiến và kinh nghiệm của mình với cả nhóm. Trong quá trình quan sát các nhóm làm việc giáo viên có thể thay đổi cấu trúc của nhóm để tạo cơ hội cho các thành viên có dịp trao đổi giữa nhiều người với nhau. Xây dựng ý thức làm việc theo nhóm.
Nhược điểm
- Dạy học theo nhóm có thể gây ồn ào trong lớp, khó kiểm soát, vì vậy giáo viên cần chú ý giáo dục và rèn luyện kĩ năng hoạt động hợp tác trong nhóm cho học sinh.
- Nhiều học sinh không thích học theo nhóm, vì muốn chứng tỏ khả năng của mình với giáo viên hơn là với bạn.
- Trong nhóm có thể có một số học sinh tích cực, một số khác ỷ lại vào các bạn trong nhóm.
- Việc phân nhóm khó khăn, mất nhiều thời gian, khó có thể đánh giá trên kết quả thảo luận của nhóm. Vì vậy giáo viên cần kết hợp đánh giá của thầy và đánh giá của trò.
B. HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH
DỰ GIỜ, PHÂN TÍCH TIẾT HỌC
(Ban tổ chức lớp bồi dưỡng cần bố trí tiết dạy minh họa về dạy học theo nhóm để giáo viên thực hành)
Việc 1. Đọc kĩ các câu hỏi định hướng trước khi dự giờ:
1. Giáo viên dạy minh họa chia nhóm như thế nào? (số lượng, thành phần)
2. Giáo viên giao nhiệm vụ cho nhóm và hướng dẫn học sinh thực hiện nhiệm vụ như thế nào? (trong từng hoạt động học)
3. Quá trình học nhóm của học sinh diễn ra như thế nào?
- Sự phân công trong nhóm.
- Tinh thần thái độ làm việc của các thành viên trong quá trình thảo luận.
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Kĩ năng trình bày kết quả hoặc giải thích chất vấn trước lớp.
4. Sự tương tác GV-GV, GV-HS, HS - ĐDDH; mọi học sinh có được học thực sự không?
Việc 2. Dự giờ, quan sát tiết học, ghi chép theo sinh hoạt chuyên môn mới, tập trung nhiều hơn vào những gợi ý trên.
Việc 3. Suy ngẫm, ghi chép ý kiến cá nhân chuẩn bị trao đổi trước lớp.
Có minh chứng bằng tình huống học tập cụ thể diễn ra trong tiết học: Em nào (nhóm nào) khi nào, như thế nào..., vì sao, làm thế nào để phát huy (khắc phục) điểm tốt (chưa tốt) ở tình huống đó.
Thảo luận trao đổi về tiết học đã dự theo những gợi ý định hướng trên để có những bài học thực tiễn dạy học theo nhóm, đưa ra những khó khăn, băn khoăn vướng mắc cần đáp ứng, giải quyết trong đợt bồi dưỡng.
C. HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG
Suy nghĩ về việc bố trí học theo nhóm trong lớp học của mình tại địa phương.
Chia sẻ suy nghĩ của mình trong nhóm và hoàn thiện ý tưởng của mỗi thành viên trong nhóm.
II. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ TỔ CHỨC NHÓM
A. HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN
Ghi lại những cách mà bạn thường áp dụng để tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm. (khi nào cần mới thành lập nhóm hay học sinh ngồi theo nhóm trong suốt quá trình học, cách chia nhóm, các kiểu nhóm...)
Chia sẻ về cách hoạt động nhóm mà mỗi thành viên đang sử dụng.
Đọc câu chuyện chia sẻ về thông tin sau:
Các kiểu nhóm
Liên là một giáo viên đã tham gia giảng dạy ở cấp tiểu học nhiều năm. Trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng nâng cao năng lực học sinh, cô hết sức trăn trở. Nhận thấy làm việc theo nhóm là một hình thức dạy học giúp học sinh nâng cao năng lực, nhưng những ngày đầu, quả thật cô gặp khá nhiều khó khăn trong việc hình thành nhóm cho học sinh. Ban đầu, cô thường chia nhóm học sinh theo hình thức pha trộn nhiều trình độ khác nhau trong một nhóm. Sự thay đổi giữa các nhóm vẫn diễn ra thường xuyên nhưng chủ yếu là cô đổi các bạn học sinh giỏi từ nhóm này sang nhóm khác. Với học sinh yếu cũng vậy. Cô hi vọng là với cách chia nhóm như vậy, học sinh của cô sẽ hỗ trợ tích cực cho nhau trong khi làm việc nhóm. Nhưng sau một thời gian, Liên bắt đầu thấy học sinh của mình phân hoá thành hai loại. Một loại luôn chiếm ưu thế và thống trị trong các nhóm. Đó là những học sinh khá. Loại thứ hai là những học sinh yếu, thường phụ thuộc trong các nhóm học tập. Liên suy nghĩ và tìm hiểu rất nhiều các tài liệu liên quan đến việc hướng dẫn cách chia nhóm. Cô đã áp dụng thử phương pháp chia nhóm đa dạng và thấy sự thay đổi rõ rệt từ ý thức tham gia nhóm cho đến sự hào hứng của các em.
Theo Liên tìm hiểu, có ba cách chia nhóm cơ bản: Cho học sinh tự chọn nhóm, chia nhóm một cách ngẫu nhiên và GV là người chọn nhóm.
a, Cho học sinh tự chọn nhóm
Học sinh của Liên được phép tự chọn nhóm học tập của mình khi cô giáo yêu cầu. Đây là hoạt động mà học sinh rất hứng thú. Các nhóm nhỏ (4 đến 6 học sinh) được hình thành dựa trên sở thích, thói quen của nhau. Học sinh tự hình thành nhóm trên cơ sở nguyện vọng. Cách chia nhóm này đặc biệt phù hợp với các môn học Tự nhiên và Xã hội hay các hoạt động ngoại khoá khác.
Tuy nhiên nếu quá lạm dụng hình thức này, một số học sinh cứ mãi cùng thực hiện hoạt động với nhau hoặc sẽ luôn ngồi ở một vị trí nhất định. Khi học sinh được chọn các bạn mà em thích để cùng thực hiện hoạt động, có thể dẫn đến tình trạng kết bè phái trong lớp. Việc này về lâu dài sẽ không có lợi cho nhóm theo quan điểm là một tập thể. Do vậy, mặc dù thỉnh thoảng để cho học sinh tự chọn nhóm, nhưng Liên hiểu rằng, đổi khi cô không để học sinh tự quyết định việc này.
b, Chia nhóm một cách ngẫu nhiên
Liên rất thích cách chia nhóm này vì có thể thông qua trò chơi để học sinh được kết nhóm. Trò chơi phổ biến mà cô hay tổ chức cho học sinh là trò chơi Kết bạn. Học sinh xếp thành vòng tròn vừa đi vừa hát. Khi cô ra hiệu lệnh “kết bạn” và yêu cầu số người trong nhóm, học sinh nhanh chóng co cụm lại thành các nhóm với số lượng thành viên đúng như cô yêu cầu.
Một số cách khác để chia nhóm là dùng các thẻ màu khác nhau. HĐTQHS sẽ phát ngẫu nhiên thẻ màu cho các bạn. Những học sinh có thẻ cùng màu sẽ thành một nhóm. Có thể thay thế thẻ màu bằng hình ảnh các con vật, tên các mùa, hay sử dụng các phần kiến thức nào đó (ví dụ các bộ phận của cây) để chia nhóm.
Đây là dạng tổ chức nhóm ngẫu nhiên, một hình thức chia nhóm công bằng cho tất cả học sinh.
c, Giáo viên là người chọn nhóm
Có những lúc Liên muốn chính mình là người sẽ chọn học sinh cho nhóm dể phục vụ cho các ý đồ của môn học. Cách chọn nhóm này có thể phân chia thành các loại nhóm sau:
Nhóm khả năng đa dạng: Đây là nhóm phục vụ cho các môn học tập trung vào phát triển các kĩ năng. Giáo viên sẽ phân chia để trong nhóm có cả học sinh khá lẫn học sinh yếu nhằm hỗ trợ lẫn nhau. Kinh nghiệm của Liên là nên để học sinh biết rõ lí do tại sao cô lại chọn nhóm theo cách đó để học sinh trong nhóm biết cách hỗ trợ nhau trong khi thực hiện các công việc của nhóm.
Nhóm dựa trên năng lực: Khi giáo viên muốn làm việc với các nhóm học sinh có trình độ tương đương trong mỗi nhóm thì giáo viên sẽ gộp các học sinh khá, giỏi lại cùng nhau; học sinh yếu sẽ được chia thành nhóm đồng nhất trình độ với nhau. Bằng cách này, một mặt, giáo viên có thể giao thêm việc cho các nhóm khá, giỏi hoặc có năng khiếu về lĩnh vực nào đó nhằm tăng cường thử thách, khơi gợi hứng thú và ham mê khám phá sáng tạo của các em; mặt khác, giáo viên sẽ tập trung hướng dẫn, củng cố những vấn đề cơ bản cho các nhóm học yếu và đảm bảo có thời gian đầu tư vào việc thiết kế nhiệm vụ phù hợp với năng lực nhóm này. Chia nhóm dựa trên năng lực tương đương sẽ tránh được tình trạng nhóm bị thống trị bởi những học sinh khá, giỏi hoặc quá mạnh mẽ.
Tuy nhiên, ngay trong chính mỗi giờ học hay mỗi ngày học, tuỳ thuộc vào đặc điểm các hoạt động, mục đích bài học mà các nhóm nên được thay đổi đa dạng, vừa giúp đạt mục tiêu, vừa làm cho học sinh không cảm thấy bị buồn chán. Nguyên tắc là không sử dụng một phương pháp chia nhóm nhiều lần. Việc thay đổi nhóm thường xuyên cũng là cách rất tốt để học sinh học hỏi kinh nghiệm học tập và kĩ năng làm việc nhóm trong mỗi nhóm khác nhau của các bạn khác nhau. Các nhóm nên thường xuyên được thay đổi và dù chọn chia nhóm theo cách nào thì giáo viên cũng cần phải xem xét chuẩn bị kĩ càng. Nguyên tắc là nhóm phải phù hợp với hoạt động được giao và hướng tới mục tiêu mà giáo viên mong muốn đạt được của hoạt động đó.
Việc áp dụng đa dạng và phù hợp các cách chia nhóm của Liên đã mang lại hiệu quả rất tốt trong các hoạt động nhóm của học sinh. Học sinh của Liên không những hoàn thành công việc rất tốt mà còn rất hào hứng chờ đợi mỗi lần được chia nhóm lại.
Hãy liệt kê cách chia nhóm và trao đổi về các hoạt động học tập phù hợp với mỗi cách chia nhóm. (nêu ví dụ cụ thể)
Đọc kĩ thông tin sau:
Các hình thức làm việc trong nhóm
Ở các lớp học theo mô hình trường học mới, học sinh thường ngồi học theo nhóm. Tuy nhiên không phải lúc nào học sinh cũng làm việc theo nhóm. Học sinh vẫn làm việc cá nhân, theo cặp trong nhóm. Các hình thức làm việc trong nhóm được thay đổi thường xuyên căn cứ vào yêu cầu của phiếu Hướng dẫn học và thiết kế hoạt động của giáo viên.
Làm việc cá nhân: Trước khi tham gia phối hợp với bạn học trong các nhóm nhỏ, cá nhân luôn có một khoảng thời gian với các hoạt động để tự lĩnh hội kiến thức, nắm vững và chuẩn bị cho các hoạt động đóng vai hay thảo luận trong nhóm. Phổ biến nhất có thể kể đến các hoạt động như đọc mục tiêu bài học, đọc văn bản, giải bài toán để tìm kết quả Cá nhân làm việc độc lập nhưng vẫn hoạt động trong nhóm, vẫn chịu sự điều hành của nhóm trưởng. Tần suất các hoạt động cá nhân trong nhóm vẫn rất lớn và chiếm ưu thế hơn so với các hoạt động khác. Quá trình làm việc cá nhân này giúp học sinh có thời gian tập trung tự nghiên cứu, tự khám phá kiến thức, tự chuẩn bị những gì cần thiết trước khi sử dụng nó để có những hoạt động khác cùng cả nhóm. Trong quá trình làm việc cá nhân, gặp những gì không hiểu, học sinh có thể nêu luôn ra trong nhóm để các thành viên khác trong nhóm hỗ trợ và nếu không giải quyết được vấn đề thì nhóm trưởng có thể giơ kí hiệu nhờ giáo viên hỗ trợ.
Làm việc theo cặp (2 học sinh):
Tuỳ theo hoạt động học tập, có lúc học sinh sẽ làm việc theo cặp trong nhóm. Giáo viên lưu ý cách chia nhóm sao cho không học sinh nào bị lẻ khi hoạt động theo cặp. Nếu không giáo viên phải cho đan chéo giữa các nhóm để đảm bảo tất cả các học sinh đều được làm việc. Làm việc theo cặp rất phù hợp với những công việc như: kiểm tra dữ liệu, giải thích, chia sẻ thông tin, thực hành kĩ năng giao tiếp cơ bản (ví dụ như nghe, đặt câu hỏi, làm rõ một vấn đề); đóng vai. Đây là quy mô nhóm đặc biệt phù hợp cho việc hợp tác. Làm việc theo cặp sẽ giúp các em tự tin, mạnh dạn và tập trung tốt cho công việc nhóm. Quy mô nhỏ này cũng là nền tảng cho sự chia sẻ và hợp tác trong nhóm lớn hơn sau này.
Làm việc theo nhóm (từ 4 đến 6 học sinh):
Trong các giờ học của mô hình trường học mới luôn có các hoạt động cả nhóm cùng hợp tác. Ví dụ, sau khi học sinh tự đọc cá nhân một câu chuyện, trưởng nhóm sẽ dẫn dắt các bạn trao đổi về một số vấn đề của câu chuyện đó; hoặc sau khi cá nhân trong nhóm đã đưa ra kết quả của một bài toán, nhóm sẽ cùng trao đổi về cách giải bài toán đó; hoặc các học sinh trong nhóm cùng thực hiện một dự án nhỏ với sự chuẩn bị và phân chia công việc rõ ràng Nhóm là hình thức học tập phát huy rất tốt khả năng sáng tạo nên hình thức này dễ phù hợp với các hoạt động cần thu thập ý kiến và phát huy tính sáng tạo. Điều quan trọng là học sinh cần phải biết mình làm gì và làm như thế nào khi tham gia làm việc nhóm.
Làm việc cả lớp:
Câu hỏi đặt ra là: Đã luôn ngồi học theo nhóm rồi thì học sinh có cần làm việc chung cả lớp không? Thực tế trong khi thực hiện, một số giáo viên dù để học sinh ngồi theo nhóm nhưng vẫn sử dụng cách dạy học cũ: cô giảng trước lớp rất nhiều, học trò trật tự lắng nghe và ghi chép. Cũng có trường hợp giáo viên tuyệt đối cho làm theo nhóm và không làm chung cả lớp khi Hướng dẫn học không có lô gô làm việc chung cả lớp.
Tuy nhiên, ngay cả khi học sinh đang làm việc cá nhân, cặp đôi hay cả nhóm, sẽ có những vấn đề nảy sinh như học sinh không hiểu một phần kiến thức hay hoạt động học, học sinh có nhiều ý kiến trái chiều xung quanh một vấn đề. Nếu giáo viên đi từng nhóm hỗ trợ sẽ rất mất thời gian. Khi giáo viên nhận thấy có vấn đề đang phổ biến trong các nhóm, giáo viên có thể dừng công việc của các nhóm lại và tập trung cả lớp, làm sáng tỏ các vấn đề còn băn khoăn hay bàn cãi. Cách làm này sẽ hiệu quả hơn, vừa không mất thời gian, vừa giúp giáo viên kịp thời hỗ trợ cả lớp tiếp tục hoạt động. Song những tình huống này không xuất hiện quá thường xuyên trong lớp học.
Như vậy, việc lựa chọn hình thức làm việc nào: cá nhân, cặp đôi, nhóm hay cả lớp phụ thuộc vào yêu cầu của các loại hình hoạt động và luyện tập. Việc thiết kế Hướng dẫn học chỉ đưa ra một gợi ý cho việc tổ chức các hình thức hợp tác này, song giáo viên cần lưu ý là không phải luôn tuân theo thiết kế có sẵn. Tuỳ vào tình hình chung của cả lớp trong từng tình huống cụ thể, giáo viên có sự thay đổi, ứng dụng linh động và phù hợp, đảm bảo tính hiệu quả cho bài học và tạo sự hứng thú cho học sinh.
Thảo luận câu hỏi: Vì sao cần có sự đa dạng về quy mô nhóm?
Đọc thông tin sau:
Vai trò của các thành viên trong n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_nang_luc_cho_can_bo_quan_ly_giao_vien_ve_huong_dan.doc