Nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu quốc tế xây lắp tại Công ty Xây dựng số 9 - VINACONEX

Lời mở đầu Đấu thầu xâylắp là một trong những hoạt động mặc tính đặc trưng của thị trường xây dựng, nó là điểm khởi đầu cho những công trình dù đơn giản hay phức tạp. ở Việt Nam kể từ khi mở cửa thu hút đầu tư của nước ngoài, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Ngoài những nguồn vốn được trích từ ngân sách, còn có các khoản vốn viện trợ của các tổ chức quốc tế và chính phủ nước ngoài, của các tập đoàn kinh tế, các ngân hàng nước ngoài đã bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhi

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu quốc tế xây lắp tại Công ty Xây dựng số 9 - VINACONEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Do vậy, hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp quốc tế nói riêng cũng diễn ra ngày càng phổ biến và sôi động. Điều đó đã tạo điều kiện cho công ty xây dựng số 9 cũng như các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam khác có một sân chơi bình đẳng khi tham gia tranh thầu thực hiện những công trình lớn góp phần nâng cao vị thế và uy tín của mình không chỉ ở thị trường trong nước mà cả ở thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển và hội nhập đó, các công ty xây dựng Việt Nam cũng đang phải đối đầu với nhiều nguy cơ, thách thức. Đó là ngày càng có nhiều các công ty xây dựng lớn mạnh của nước ngoài vào hoạt động tại Việt Nam. Do đó sự cạnh tranh trên đấu trường đấu thầu quốc tế ngày càng gay gắt và quyết liệt. Và trong cuộc chơi nào cũng vậy, phần thắng luôn thuộc về kẻ mạnh, kẻ yếu thế hơn sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và công ty xây dựng số 9 nói riêng nếu không muốn bị loại khỏ cuộc chơi đó thì cần phải tích cực nỗ lực vươn lên khẳng định được vị trí của mình trên thương trường. Ngoài ra, trong thời gian thực tập tại công ty xây dựng số 9, em nhận thấy một vấn đề bức xúc nổi cộm lên ở công ty hiện nay là làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trong tham dự các gói thầu quốc tế. Bởi công ty mới chỉ tham dự vào đấu thầu quốc tế một vài năm gần đây nên trong công tác đấu thầu quốc tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Chính vì vậy, em đã quyết định chọn đề tài : “ Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu quốc tế xây lắp tại công ty xây dựng số 9 - Tổng công ty xây dựng VINACONEX” cho chuyên đề thực tập của mình. Ngoài phần mở đầu, kết luận, chuyên đề gồm ba phần: Chương 1 : Những vấn đề lí luận chung về đấu thầu xây lắp quốc tế và năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp. Chương 2 : Tình hình thực hiện công tác đấu thầu của công ty trong thời gian qua. Chương 3 : Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp quốc tế tại công ty xây dựng số 9. Hoàn thành chuyên đề này, em đã được sự chỉ bảo, hướng dẫn rất tận tình của thầy giáo – T.S Nguyễn Hồng Minh cùng với sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các cô chú và các anh chị trong phòng kinh tế – kế hoạch của công ty xây dựng số 9. Em xin chân thành cảm ơn! chương 1 những vấn đề lí luận chung về đấu thầu xây lắp quốc tế và năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp . 1.1.Tổng quan về đấu thầu xây lắp quốc tế 1.1.1. Khái niệm về đấu thầu xây lắp quốc tế a. Khái niệm về đấu thầu Thuật ngữ “đấu thầu” đã trở nên quen thuộc với Việt Nam trong hơn chục năm gần đây mặc dù nó đã xuất hiện từ lâu trên thế giới bởi thuật ngữ này gắn liền với một hoạt động chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Đấu thầu là quá trình thực hiện một hoạt động mua bán đặc biệt mà người mua yêu cầu một hoặc nhiều người bán cung cấp những bản chào hàng cho một dịch vụ, công trình hoặc một hàng hoá cần mua nào đó và trên cơ sở những bản chào hàng, người mua sẽ lựa chọn cho mình một hoặc một vài người bán tốt nhất. Theo từ điển điển Bách Khoa Việt Nam (1995), “ đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt, người muốn xây dựng công trình (người gọi thầu) công bố trước các điều kiện xây dựng công trình để người nhận xây dựng công trình (ngươì dự thầu) công bố giá mà mình muốn nhận. Người gọi thầu sẽ lựa chọn người dự thầu nào phù hợp với điều kiện của mình với giá thấp hơn. Phương thức đấu thầu này được áp dụng phổ biến trong mua sắm tài sản và xây dựng công trình tư nhân và nhà nước” . Theo từ điển tiếng Việt (1998), đấu thầu được giả thích là “ đọ công khai ai nhận làm nhận bán tốt nhất sẽ được giao cho làm hoặc được bán hàng”.Theo quy chế đấu thầu của Việt Nam ban hành kèm theo NĐ 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/99 thì đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng yêu cầu của bên mời thầu. Qua các định nghĩa trên đây chúng ta thấy dược bản chất của đấu thầu chính là hoạt động mua bán đặc biệt trong đó người mua (hay thường được gọi là bên mời thầu) có quyền lựa chọn cho mình người bán (nhà thầu) tốt nhất một cách công khai và theo một quy trình nhất định. Trong đấu thầu nổi bật lên tính cạnh tranh của những nhà dự thầu hay những người bán, do vậy đấu thầu chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện nền kinh tế thị trường. b. Đấu thầu xây lắp Đấu thầu xây lắp là quá trình lựa chọn nhà thầu để thực hiện các công việc trong lĩnh vực xây lắp như xây dựng các công trình, hạng mục công trình và lắp đặt thiết bị cho các công trình, hạng mục công trình. Đấu thầu xây lắp được tiến hành ở giai đoạn thực hiện dự án khi mà những ý tưởng đầu tư được thể hiện trong báo cáo nghiên cứu khả thi sẽ trở thành hiện thực. Tuyển chọn được các nhà thầu xây lắp tốt có vai trò quan trọng đới với sựu thành công của dự án. Trên thực tế có những dự án nhà thầu xây lắp không đủ năng lực thực hiện công việc khiến cho dự án bị đình trệ, công trình không được đưa vào sử dụng đúng tiến độ, hoặc chất lượng công trình kém và ảnh hưởng lớn sự phát huy hiệu quả của đầu tư sau này. c. Đấu thầu xây lắp quốc tế Đấu thầu xây lắp quốc tế là cuộc đấu thầu xây lắp có cả nhà thầu trong nước và nhà thầu nước ngoài tham dự. Đấu thầu xây lắp quốc tế được tổ chức cho những gói thầu xây lắp sử dụng vốn NSNN mà không có nhà thầu nào trong nước có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu hoặc những dự án xây dựng sử dụng vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc của chính phủ nước ngoài có quy định trong điều ước quốc tế phải tổ chức đấu thầu quốc tế. Ngoài ra nó cũng áp dụng cho các hoạt động xây dựng của tư nhân. 1.1.2. Đặc điểm của đấu thầu xây lắp quốc tế * Đó thực chất là một phương thức mua bán đặc biệt : - Trên thị trường chỉ có một người mua và nhiều người bán. Người mua (bên mời thầu) trên thị trường này phần lớn là những tổ chức, cơ quan, các chủ đầu tư được chính phủ cấp tài chính hoặc đi vay của các tổ chức quốc tế để xây dựng, lắp đặt, sửa chữa các công trình, hạng mục công trình. Còn người bán (các nhà thầu) chính là các doanh nghiệp xây dựng có đủ điều kiện và năng lực tham dự đấu thầu. - Nó được tiến hành theo những điều kiện quy định trước. Trong phương mua bán này, thì người mua chỉ có một nhưng họ đã nêu ra các điều kiện ràng buộc rất chặt chẽ (các điều kiện về kỹ thuật, tài chính, bảo lãnh dự thầu...) trong hồ sơ mời thầu và buộc các nhà thầu phải tuân thủ theo. Và nhà thầu nào thoả mãn tốt nhất các điều kiện của bên mời thầu mới có hy vọng trúng thầu. Tuy nhiên trong đấu thầu quốc tế cá biệt có những trường hợp các nhà thầu đã được thoả mãn đầy đủ các điều kiện về kỹ thuật, tài chính và uy tín, nhưng vì không tìm được đối tác liên danh, liên kết hoặc thầu phụ người nước sở tại theo quy định nên đã không giành được hợp đồng. Ngoài ra, việc xác định về thời gian và địa điểm mở thầu cũng được quy định trước trong HSMT và cũng phải tuân thủ rất nghiêm ngặt. Trong đấu thầu xây lắp quốc tế, ngoài bên mời thầu, nhà thầu, còn có sự xuất hiện của người thứ 3, đó là kỹ sư tư vấn. Đây là người có trình độ, có năng lực chuyên môn được bên mời thầu thuê nhằm đảm bảo hạn chế tới mức tối đa các tiêu cực phát sinh, những thông đồng thoả hiệp làm chủ dự án bị thiệt hại. * Hàng hoá trong đấu thầu xây lắp quốc tế thường là những công trình xây dựng có giá trị lớn và có kỹ thuật phức tạp. Do vậy, trong đấu thầu xây dựng, các tiêu chuẩn về kỹ thuật, tiến độ, uy tín được coi trọng hơn cả, người có giá chào thấp nhất chưa chắc đã giành được hợp đồng. Cũng trong loại hình đấu thầu trên, người ta rất đề cao vai trò của người tư vấn, của vấn đề bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo hành công trình. * Đấu thầu xây lắp quốc tế được tiến hành trên cơ sở tự do cạnh tranh theo quy định đã được nêu trong HSMT. Theo quy luật cạnh tranh thì chiến thắng thuộc về kẻ mạnh. Trong đấu thầu cũng vậy, người có tiềm lực về kinh tế, kỹ thuật, có uy tín sẽ là những người lợi thế. Khi tham gia đấu thầu các bên mời thầu đều tìm mọi cách để lợi dụng triệt để yếu tố cạnh tranh, nhưng cạnh tranh của các nhà thầu phải tuân thủ theo các điều kiện mà bên mời thầu đã quy định trước. Các nhà thầu có thể thể hiện sức mạnh kinh tế của mình bằng cách chứng minh nguồn vốn pháp định, vốn lưu động, hiệu quả hoạt động kinh doanh... thông qua bảng tổng kết tài sản trong những năm gần nhất...Để ràng buộc các nhà thầu, bên mời thầu còn quy định một số tiền đặt cọc dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng, số tiền này không phải là nhỏ đối với các công ty Việt Nam, cũng như trên thế giới. Những quy định có tính hình thức giấy tờ, văn bản các nhà thầu cũng phải hết sức lưu ý. * Đấu thầu xây lắp quốc tế bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện về mặt pháp lý liên quan tới việc vay và sử dụng vốn. Hiện nay, nguồn vốn viện trợ phát triển kinh tế ODA mà các nước Tư bản phát triển giành cho các nước nghèo ngày càng lớn. Tuy là khoản viện trợ nhưng các nước nhận được viện trợ cũng sẽ phải chịu nhiều điều kiện ràng buộc rất chặt chẽ, trong đó có điều kiện là khi sử dụng nguồn vốn này, bên vay buộc phải tổ chức đấu thầu quốc tế. Và việc tổ chức đấu thầu thường phải tuân theo những quy định của họ và chịu sự quản lý giám sát rất chặt chẽ của họ. Về phía chính nước sở tại cũng có không ít các quy định liên quan tới quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài mà các bên phải tuân theo (VAT,Thuế XNK, Bảo lãnh đầu tư...). 1.1.3.Vai trò của đấu thầu quốc tế trong xây dựng cơ bản Đấu thầu quốc tế đã, đang và trong tương lai cũng vấn sẽ là phương thức mua sắm có hiệu quả của xã hội loài người.Kể từ khi phương thức đấu thầu quốc tế nói cung và đấu thầu xây lắp quốc tế nói riêng được sử dụng, nó đã đem lại những lợi ích vô cùng to lớn xét cả về cả kinh tế , xã hội...cho tất cả các bên liên quan. a. Đối với bên mời thầu (chủ đầu tư): Sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn vốn vay theo cách của mình: Thông qua đấu thầu chủ đầu tư sẽ có thể tìm được các nhà xây dựng có đủ năng lực , uy tín và kinh nghiệm, đáp ứng tối ưu các yêu cầu về xây dựng công trình như đảm bảo đúng chất lượng, kỹ mỹ thuật của công trình, hoàn thành đúng tiến độ xây dựng. Đồng thời, trong phương thức mua bán này do chỉ có một người mua nhưng có vô số người bán, nên sự cạnh tranh diễn ra giữa các nhà thầu rất gay gắt, buộc họ phải luôn tìm mọi cách tính toán, cân nhắc làm sao để chọn ra được biện pháp kỹ thuật hợp lý nhất, đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu nhằm giảm giá thành cạnh tranh, từ đó tiết kiệm được vốn đầu tư cho chủ đầu tư. Giúp tăng các khoản viện trợ: Như đã trình bày ở trên, qua đấu thầu, chủ đầu tư sẽ tăng cường được công tác quản lý vốn đầu tư, tránh thất thoát, lãng phí, sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả cao.Do sử dụng tốt nguồn vốn vay nên nước nhận viện trợ trong tương lai sẽ có thể nhận được đầu tư, giúp đỡ nhiều hơn. - Chất lượng sản phẩm cao hơn: môi trường đấu thầu quốc tế là môi trường cạnh tranh rất cao. Do đó ,để thắng được thầu thì buộc các nhà thầu phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp giá thành sản phẩm. Hơn nữa, trong quá trình xét thầu, điểm kỹ thuật chiếm tới 70-80% cơ cấu điểm và được xét trước. Do vậy, nếu không đạt về kỹ thuật thì dù giá dự thầu của nhà thầu đó có thấp nhất cũng sẽ bị loại. Điều đó giải thích tại sao chất lượng sản phẩm hàng hoá qua đấu thầu lại cao hơn mua sắm thông thường. Tích luỹ được kinh nghiệm và nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của nhân viên: Khi lập dự án, xét thầu, đàm phán ký kết hợp đồng, các nhân viên sẽ có điều kiện tiếp xúc với nhiều đối tác có uy tín và kinh nghiệm trên thế giới, do đó có điều kiện cọ xát, đúc rút được nhiều kinh nghiệm và do đó nâng cao được nghiệp vụ chuyên môn. Chủ động, linh hoạt, tránh phụ thuộc vào một nhà thầu xây dựng trong thực hiện xây dựng các công trình vừa bất lợi về mặt kinh tế, kỹ thuật vừa bất lợi về mặt thời gian, dễ rơi vào thế bị động và không có khả năng kiểm soát. - Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các đơn vị xây dựng nhằm mở rộng các cơ hội nâng cao chất lượng công trình, hạ thấp chí phí xây dựng. b. Đối với các nhà thầu Trong đấu thầu quốc tế, do giành được những hợp đồng có giá trị rất lớn, có khi lên đến hàng tỷ USD nên các nhà thầu có lợi rất nhiều mặt: Giúp họ tiến xa trên con đường danh vọng: Do giành được hợp đồng có giá trị lớn nên uy tín của công ty sẽ được nâng cao trong xã hội,tăng thêm thu nhập đồng thời giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán sẽ tăng, giúp cho các nhà lãnh công ty hay các hãng trúng thầu có điều kiện tiến xa hơn trên con đường danh vọng. Cải thiện đời sống cho công nhân viên của công ty: Khi trúng thầu hợp đồng có giá trị lớn thì việc thực hiện công trình sẽ phải diễn ra trong một thời gian dài nên các nhà thầu đã giải quyết được công ăn việc làm cho công nhân của mình, giúp họ có điều kiện cải thiện đời sống, nâng cao trình độ kỹ thuật. Tạo điều kiện đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty: Do yêu cầu của chủ đầu tư ngày càng cao về kỹ thuật, mỹ thuật công trình nên, do đó buộc các nhà thầu muốn có đủ điều kiện để tham gia tranh thầu không còn con đường nào khác là phải thay đổi cả về chất lẫn lượng. Ngoài ra, do giành được hợp đồng có giá trị cao nên các nhà thầu có điều kiện đầu tư lớn và đầu tư càng lớn thì xác suất trúng thầu có thể ngày càng cao hơn. Tích luỹ thêm kinh nghiệm và nâng cao được uy tín trên thị trường: Giành chiến thắng trong đấu thầu quốc tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó không chỉ giúp cho công ty khuếch trương uy tín, tên tuổi của mình trên thị trường trong nước mà cả thị trường quốc tế, đồng thời bổ sung thêm một chứng chỉ hành nghề vào hồ sơ kinh nghiệm quý báu của công ty. Tạo điều kiện để mở rộng sự hợp tác quốc tế: Trong thực tiễn để đảm bảo thắng lợi trong đấu thầu, các nhà thầu phải tìm kiếm sự trợ giúp từ bên ngoài về rất nhiều mặt, như đảm bảo nguồn cung cấp vốn để xây dựng công trình, xin bảo lãnh, liên doanh, liên kết. Các công việc trên sẽ không dễ gì đối với các công ty nhỏ, uy tín thấp, làm ăn không hiệu quả. Càng mở rộng sự hợp tác thì năng lực của các nhà thầu càng được nâng cao, đó là sự đảm bảo lớn nhất cho khả năng thắng lợi trong các cuộc cạnh tranh khốc liệt giành hợp đồng. c. Lợi ích đối với người cho vay Sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả:Đối với các tổ chức ngân hàng, thì việc vay vốn và cho vay vốn là một nghiệp vụ hoạt động kinh doanh. Đầu thầu giúp cho việc sử dụng các nguồn vốn của các tổ chức cho vay có hiệu quả hơn. Do thông qua đấu thầu, người cho vay có thể kiểm soát việc sử dụng vốn vay, và khống chế được tiềm lực kinh tế của người đi vay, giúp cho chủ đầu tư sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả, từ đó tạo khả năng để người đi vay có khả năng hoàn trả cả vốn lẫn lãi. Đồng thời các nguồn vốn đó đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc khôi phục hoặc phát triển kinh tế của các nước nhận tài trợ. Giúp người cho vay nâng cao uy tín, năng lực thực hiện cam kết quốc tế: Như chúng ta đã biết cộng đồng các quốc gia phát triển đã thoả thuận giành 0,7% GDP để tài trợ cho các nước nghèo, nhưng cho đến nay họ mới thực hiện được 0,3%. Do đó, thực hiện tổ chức đấu thầu quốc tế sẽ giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, từ đó giúp tăng các khoản viện trợ nhằm nâng cao năng lực thực hiện các cam kết quốc tế. Tạo điều kiện cho công ty của các nước thành viên hoặc của người cho vay có điều kiện trúng thầu, giúp cho các công ty này mở mang hoạt động sản xuất, tăng thu lợi nhuận. 1.1.4. Phương thức đấu thầu và các hình thức lựa chọn nhà thầu trong đấu thầu xây lắp quốc tế. a. Hình thức lựa chọn nhà thầu quốc tế Trong đấu thầu xây lắp quốc tế người ta thường sử dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu chủ yếu sau: Đấu thầu rộng rãi Là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hình thức này được khuyến khích nhằm đạt tính cạnh tranh cao trên cơ sở sự tham gia của nhiều nhà thầu. Đây là một hình thức chủ yếu được ứng dụng trong đấu thầu hiện nay. Đấu thầu hạn chế Là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu tối thiểu có đủ kinh nghiệm và năng lực tham dự. Theo quy định của Việt Nam thì số nhà thầu tối thiểu là 5 và trong trường hợp thực tế chỉ có ít hơn 5, bên mời thầu phải báo cáo chủ dự án trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định. Hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau: - Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu - Các nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế - Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế là có lợi thế Theo ADB, đấu thầu hạn chế chỉ sử dụng khi đấu thầu cạnh tranh quốc tế không có lợi. Theo quan niệm của WB thì hình thức này được áp dụng theo thủ tục của đấu thầu cạnh tranh rộng rãi quốc tế trừ phần quảng cáo và ưu tiên trong nước. Chỉ định thầu: Là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng. Theo quy chế đấu thầu Việt Nam, hình thức này chỉ được áp dụng trong các trường hợp đặc biệt sau: - Trường hợp bất khả kháng do thiên tai địch họa, sự cố cần khắc phục ngay để thực hiện công việc kịp thời. Gói thầu có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm, bí mật quốc gia. Gói thầu xây lắp có giá trị dười 1 tỷ đồng. Gói thầu có tính chất đặc biệt khác do yêu cầu của cơ quan tài trợ vốn, do tính phức tạp về kỹ thuật và công nghệ hoặc do yêu cầu đột xuất của dự án. Việc chỉ định thầu sẽ do người có thẩm quyền xem xét,quyết định trên cơ sở báo cáo thẩm định của cơ quan thẩm định có liên quan, ý kiến bằng văn bản của cơ quan Ngoài ra, còn có các hình thức lựa chọn nhà thầu khác đó là Chào hàng cạnh tranh quốc tế Tự thực hiện Mua sắm trực tiếp b. Các phương thức đấu thầu quốc tế Đấu thầu quốc tế một túi hồ sơ: là phương thức mà nhà thầu nộp HSDT (gồm đề xuất tài chính và đề xuất kỹ thuật...) trong một túi hồ sơ. Khi mở thầu và xét thầu, bên mời thầu sẽ xem xét cùng một lúc. Đấu thầu quốc tế hai túi hồ sơ: là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về giá trong từng túi hồ sơ khác nhau. Túi hồ sơ kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá cho điểm hoặc xếp hạng nhà thầu. Nhà thầu nào đạt yêu cầu mới được xem xét về giá. Đấu thầu quốc tế hai giai đoạn: Phương thức này thường được áp dụng cho có giá trị lớn (ở Việt Nam là 500 tỷ đồng trở lên), có kỹ thuật đặc biệt phức tạp, hoặc dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khoá trao tay. Quá trình thực hiện phương thức này như sau: Giai đoạn 1: Các nhà thầu nộp HSDT sơ bộ gồm đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính (chưa có giá) để bên mời thầu xem xét và thảo luận cụ thể với từng nhà thầu, nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị nộp hồ sơ chính thức của mình. Giai đoạn 2: Bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ nhất nộp HSDT chính thức với đề xuất kỹ thuật đã được bổ sung hoàn chỉnh trên cùng một mặt bằng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính vơí đầy đủ nội dung về tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá dự thầu. 1.1.5. Nguyên tắc đấu thầu xây lắp quốc tế Các cuộc đấu thầu quốc tế thường phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định tuỳ thuộc vào nguồn vốn vay. Do vậy mà ta thấy hiện nay có rất nhiều văn bản hướng dẫn về những nguyên tắc chỉ đạo trong đấu thầu quốc tế như các văn bản hướng dẫn của FIDIC, WB, ADB...Đồng thời ở mỗi quốc gia lại có những quy định riêng liên quan đến đấu thầu. Dù mỗi tổ chức quốc tế, mỗi quốc gia đầu có những nguyên tắc riêng nhưng tựu chung lại gồm những nguyên tắc chính sau: - Phải chia dự án,công trình thành những gói thầu thích hợp: Mục đích của việc chia này là nhằm tạo ra sự cạnh tranh tối đa, thu hút được các nhà thầu lớn nhỏ tham gia, giúp cho việc quản lý dễ dàng và đáp ứng được tiến độ thực hiện dự án. Việc chia gói thầu quá lớn sẽ chỉ thu hút được các nhà thầu có tiềm năng trên thị trường quốc tế, nhưng lại làm giảm mức độ cạnh tranh. Việc phân chia cần phải tuỳ thuộc vào độ lớn, tính chất và địa điểm dự án. Cạnh tranh với các điều kiện ngang nhau: Nguyên tắc này đòi hỏi bên mời thầu phải cung cấp cho các nhà thầu tài liệu như nhau và họ được hưởng các điều kiện ngang nhau, không phân biệt đối xử. Tính bảo mật: Khi gửi HSDT nhà thầu phải niêm phong hồ sơ, trước khi mở thầu bên mời thầu sẽ kiểm tra lại một lần nữa. Trong tài liệu hướng dẫn của WB có điều khoản đảm bảo phải “bí mật trước và sau khi mở thầu”. Việc rò rỉ thông tin là điều kiện tối kị trong đấu thầu, nó có thể gây ra thiệt hại rất lớn cho bên mời thầu. Đánh giá công bằng, khách quan: FIDIC cho rằng việc đánh giá các HSDT một cách khách quan, công bằng là một nguyên tắc chủ đạo. Chỉ có đánh giá công bằng bởi một Hội đồng có đầy đủ năng lực mới đảm bảo hiệu quả đấu thầu. Do đó, tất cả các tiêu chí, hệ thống thang điểm đánh giá các đơn chào đều được xây dựng trước và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Hệ thống thang điểm, tiêu chuẩn xét thầu sẽ là thước đo năng lực của các nhà thầu, là sự công minh và đảm bảo tính chính xác, khách quan khi đánh giá HSDT, đồng thời loại trừ được các hiện tượng tiêu cực, một căn bệnh cố hữu trong lĩnh vực đấu thầu. Bảo lãnh, bảo đảm thích đáng: Các điều kiện về bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo đảm, bảo hiểm, bảo hành công trình...cũng được các tổ chức quốc tế rất coi trọng và được quy định cụ thể trong các hợp đồng đấu thầu xây dựng. Không đàm phán trước khi trao hợp đồng: Trong hướng dẫn của WB, cũng như trong hướng dẫn của chính phủ các nước đều không cho phép thay đổi thực chất hoặc giá cả đơn chào. Việc làm này nhằm đảm bảo cho giá chào sát với giá thực trên thị trường. Việc đàm phán trước khi kí hợp đồng chỉ có ý nghĩa hoàn thiện các điều khoản của hợp đồng, bởi vì không có bất cứ một cuộc đấu thầu nào lại thoả mãn hoàn toàn nội dung của hợp đồng mẫu đã được soạn thảo. 1.1.6. Quy trình đấu thầu xây lắp quốc tế Trên thế giới hiện nay đang tồn tại rất nhiều bản hướng dẫn, quy định khác nhau về quy trình đấu thầu xây lắp quốc tế của các tổ chức quốc tế, các hiệp hội, các chính phủ các nước (Liên hợp quốc, WB, ADB, JBIC, FIDIC...), tuỳ theo cách thức tiến hành mà các quy trình có những nét đặc biệt khác nhau. Tuy nhiên, tổng quát chung thì toàn bộ thể thức, trình tự đấu thầu đều có thể chia ra làm 4 giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị đấu thầu Giai đoạn đấu thầu Giai đoạn xét thầu Trình duyệt và công bố kết quả đấu thầu. Quy trình tổng quát có thể minh hoạ theo sơ đồ sau: Sơ đồ quy trình tổ chức đấu thầu xây lắp quốc tế Nhà thầu Nhận thông tin Làm đơn xin tham gia sơ tuyển Mua HSMT Thăm thực địa Chuẩn bị và lập HSDT Tham dự Nhận thông báo trúng thầu Nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng Bên mời thầu Lập hồ sơ sơ tuyển Thông báo mời sơ tuyển Sơ tuyển và lên danh sách ngắn Chuẩn bị HSMT Phát hành HSMT Giải đáp thắc mắc Thu nhận HSDT Mở thầu đánh giá lựa chọn nhà thầu Thương thảo ký hợp đồng Người quản lý ý kiến Trình duyệt Xin ý kiến Trình duyệt kết quả đấu thầu Xin phê duyệt 1.1.6.1.Giai đoạn chuẩn bị đấu thầu a. Sơ tuyển nhà thầu: Việc sơ tuyển nhằm mục đích loạc các các nhà thầu đã sơ bộ được đánh giá là đủ năng lực ứng thầu. Theo FIDIC, danh sách sơ tuyển chỉ nên hạn chế trong phạm vi 7 ứng thầu trở lại. Trong một số trường hợp, khi chủ công trình nắm vững được thông tin về các nhà thầu khả dĩ tham gia đấu thầu thì có thể đI tắt, bỏ qua giai đoạn sơ tuyển, và bước ngay vào giai đoạn nhận thầu. Giai đoạn sơ tuyển gồm 3 công việc sau: Lập hồ sơ sơ tuyển Hồ sơ sơ tuyển có thể do bên mời thầu lập hoặc thuê chuyên gia lập. Ban mời thầu có trách nhiệm trình người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền hay người quản lý phê duyệt hồ sơ sơ tuyển trước khi phát hành. Nội dung hồ sơ mời sơ tuyển bao gồm những nội dung chính sau: Chỉ dẫn sơ tuyển; Tiêu chuẩn đánh giá sơ tuyển; Phụ lục kèm theo. Mời các nhà thầu dự sơ tuyển Chủ công trình phải đưa quảng cáo về dự sơ tuyển lên báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng với các nội dung: Tên, địa chỉ của bên mời thầu; giới thiệu khái quát về công trình như quy mô, địa điểm công trình; các thông tin về sơ tuyển như việc mua hồ sơ, thời hạn nộp hồ sơ dự sơ tuyển... Sau khi thông báo mời dự sơ tuyển, bên mời thầu sẽ phát hành chỉ dẫn dự sơ tuyển đến các nhà thầu hưởng ứng dự sơ tuyển.Các nhà thầu sẽ phải nộp cho bên mời thầu một bộ tài liệu sơ tuyển gồm những tài liệu chủ yếu sau - Cơ cấu sản xuất và cơ cấu tổ chức quản lý Công ty(liên doanh) - Kinh nghiệm đã có về thi công các công trình tương tự. - Năng lực về quản lý, kỹ thuật, lao động, - Tình trạng tài chính trong những năm gần đây. Đánh giá hồ sơ dự thầu và phê duyệt kết quả sơ tuyển Sau khi thu nhận hồ sơ sơ tuyển của các nhà thầu, chủ đầu tư (kỹ sư) sẽ nghiên cứu các hồ sơ và chọn lọc các đơn vị có đủ điều kiện tham gia đấu thầu. Kết quả sơ tuyển phải được người quản lý phê duyệt trên cơ sở kết quả đánh giá của bên mời thầu, đảm bảo chọn ra các nhà thầu có đủ năng lực vào danh sách ngắn. Mục tiêu của nhà thầu đối với bước này là vượt qua giai đoạn sơ tuyển. Tuy vậy cũng cần chú ý đến việc nắm bắt được các thông tin về các đối thủ cùng vượt qua vòng sơ tuyển làm căn cứ để đưa ra chiến lược tranh thầu thích hợp trong các giai đoạn tiếp theo. b. Chuẩn bị HSMT HSMT được bên mời thầu soạn thảo sau đó sẽ phảI xin ý kiến người quản lý trước khi gửi thông báo hoặc gửi thư mời thầu. Nội dung của HSMT bao gồm: - Thư mời thầu - Mẫu đơn dự thầu - Chỉ dẫn đối với nhà thầu - Hồ sơ thiết kế kỹ thuật kèm theo bản tiên lượng và chỉ dẫn kỹ thuật - Tiến độ thi công - Điều kiện chung và điều kiện cụ thể của hợp đồng giao thầu - Các biểu mẫu ( bảo lãnh dự thầu, thực hiện hợp đồng, thoả thuận hợp đồng...) và phụ lục. 1.1.6.2. Tổ chức đấu thầu a. Phát hành HSMT Sau khi thông báo mời thầu hoặc gửi thư mời thầu, bên mời thầu tiến hành cung cấp HSMT cho những nhà thầu có trong danh sách ngắn. b. Chuẩn bị hồ sơ dự thầu Các nhà thầu sau khi đã nhận được hồ sơ mời thầu sẽ tiến hành nghiên cứu kỹ hồ sơ mời thầu. Nếu thấy có các vấn đề còn chưa rõ ràng trong hồ sơ mời thầu, nhà thầu có thể gửi thư thắc mắc tời bên mời thầu để tìm lời giải đáp. Nhà thầu cũng có thể xin phép chủ đầu tư cho đi thăm quan công trường để khảo sát thực tế nếu cần thiết. Điều này sẽ giúp cho nhà thầu nắm được thực địa làm cơ sở xây dựng giải pháp kỹ thuật thi công hợp lý cũng như nắm được tình hình thị trường nơi đặt công trình, đặc biệt là thị trường các yếu tố đầu vào cần cung cấp cho thi công công trình để có cơ sở cho việc lập giá dự thầu. c. Lập và nộp hồ sơ dự thầu Sau khi nghiên nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng những thông tin cần thiết trên nhiều phương diện nhà thầu mới tiến hành công việc quan trọng nhất và có tính quyết định đến khả năng thắng thầu đó là lập hồ sơ dự thầu. Nội dung của hồ sơ dự thầu xây lắp bao gồm: (1) Các nội dung hành chính pháp lý: Đơn dự thầu hợp lệ; bản sao giấy đăng ký kinh doanh; các tài liệu giới thiệu về năng lực, kinh nghiệm; văn bản thoả thuận liên danh liên kết; bảo lãnh dự thầu. (2) Các nội dung về kỹ thuật: Biện pháp tổ chức thi công; tiến độ thực hiện; đặc tính kỹ thuật và nguồn cung cấp nguyên vật liệu xây dựng; các biện pháp bảo đảm chất lượng. (3) Các nội dung về thương mại, tài chính: giá dự thầu kèm theo thuyết minh và biểu giá chi tiết; điều kiện tài chính, thanh toán. d. Nhận và quản lý HSDT Ban mời thầu sau khi tiếp nhận HSDT do nhà thầu nộp trực tiếp hoặc gửi qua bưu điện theo đúng địa chỉ, thời gian quy định trong HSMT phải có trách nhiệm quản lý HSDT theo chế độ bảo mật. 1.1.6.3. Xét thầu Mở thầu Sau khi tiếp nhận nguyên trạng các hồ sơ dự thầu nộp đúng hạn và được quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ mật, việc mở thầu được tiến hành công khai theo ngày giờ, địa điểm ghi trong hồ sơ mời thầu. Đánh giá và lựa chọn nhà thầu : Việc đánh giá HSDT được tiến hành theo trình tự sau: Đánh giá sơ bộ HSDT: Bên mời thầu sẽ xem xét tính hợp lệ và sự đáp ứng cơ bản của từng HSDT đối với các quy định trong HSMT nhằm xác định những HSDT đủ tư cách để xem xét tiếp. Đánh giá chi tiết: được thực hiện theo 2 bước: Bước 1: Đánh giá về mặt kỹ thuật để chọn ra danh sách ngắn. Dựa trên tiêu chuẩn đánh giá được duyệt, bên mời thầu tiến hành đánh giá HSDT về mặt kỹ thuật dựa trên cơ sở chấm điểm. Các HSDT đạt yêu cầu theo số điểm tối thiểu trở lên như quy định trong tiêu chuẩn đánh giá sẽ được lựa chọn vào danh sách ngắn để tiếp tục đánh giá trong bước 2. Bước 2: Đánh giá về mặt tài chính thương mại để xác định giá đánh giá. Căn cứ vào giá dự thầu của nhà thầu, bên mời thầu tiến hành xác định giá đánh giá của các HSDT theo nội dung và trình tự sau: Sửa lỗi Hiệu chỉnh các sai lệch Chuyển đổi giá dự thầu sang một đồng tiền chung Đưa về cùng một mặt bằng để xác định giá đánh giá. Các tiêu chuẩn đánh giá HSDT: Kỹ thuật, chất lượng Kinh nghiệm và năng lực của nhà thầu Tài chính, giá cả Tiến độ thi công Liên danh, liên kết. 1.1.6.4. Xét duyệt kết quả đấu thầu và công bố trúng thầu Kết quả đấu thầu phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền (hay người quản lý) xem xét, phê duyệt. Bên mời thầu sẽ thông báo kết quả trúng thầu và mời nhà thầu trúng thầu đến thương thảo hoàn thiện hợp đồng và yêu cầu nhà thầu đó nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng (thường có giá trị không quá 10% giá trị hợp đồng). Lý luận chung về năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp 1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh a. Cạnh tranh Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa và cách hiểu đa dạng về cạnh tranh nhưng tựu chung lại là sự ghanh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành giật một số nhân tố sản xuất và khách hàng nhằm nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, để đạt được muc tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Như vậy, cạnh tranh đó chính là sự cố gắng giành lấy phần hơn, phần thắng về phía mình với một số diều kiện kiên quyết là: + Phải có nhiều chủ thể cùng tham dự cạnh tranh, và một đối tượng mà các chủ thể hướng tới để chiếm đoạt + Phải có ràng buộc chung mà các chủ thể tham dự cạnh tranh phải tuân thủ + Về mặt thời gian, cạnh tranh được tiến hành trong một khoảng thời gian không cố định tronh đó có t._.hể ngắn (từng vụ việc)hoặc dài (trong suốt quá trình tồn tại của mỗi chủ thể tham dự cạnh tranh) và nó phải được diễn ra trong một phạm vi không nhất định, không có giới hạn về phạm vi một tỉnh hay một nước. b. Khái niệm năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là toàn bộ năng lực và việc sử dụng các năng lực đó để tạo ra lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ canh tranh nhằm thoả mãn đến mức tối đa các đòi hỏi của thị trường . Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết bao gồm toàn bộ nội lực (bên trong) như năng lực về tài chính, kỹ thuật,công nghệ, maketing, tổ chức quản lý,nhân sự ... của doanh nghiệp. Tuy nhiên, có nội lực mới chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là doanh nghiệp phải biết phát huy tất cả các nội lực đó để phục vụ cho các cuộc cạnh tranh khác nhau tạo ra lợi thế hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh khác. Và để tạo ra được các ưu thế trong quá trình cạnh tranh ,đã thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, hạ giá bán, tạo ra những đặc tính độc đáo, riêng biệt trong sản phẩm của mình và hoàn thiện chất lượng các dịch vụ sau bán hàng nhằm thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, tạo điều kiện mở rộng thị phần, nâng cao vị thế và uy tín của doang nghiệp trên thị trường. Nhưng cùng với trình độ phát triển ngày càng hiện đại hơn thì các điểm mạnh trong cạnh tranh cuả doanh nghiệp ở giai đoạn trước sẽ trở thành điểm yếu trong giai đoạn sau, Do đó để có thể tồn tại và phát triển được đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh và thường xuyên nâng cấp các phương thức cạnh tranh ngày càng tiến bộ hơn. Và điều này phụ thuộc vào sự biến đổi của môi trường kinh doanh. Theo Michael Porter, một nhà kinh tế học nổi tiếng của mỹ, thì môi trường kinh doanh bao gồm bốn lĩnh vực liên quan:chất lượng điều kiện về yếu tố vào của sản xuất, bối cảnh cạnh tranh và chiến lược của doanh nghiệp, các điều kiện về cầu, sự có mặt của các ngành công nghiệp bổ trợ . Bốn lĩnh vực này giống như bốn cạnh cơ bản của một viên kim cương, và nó được ông trình bày theo mô hình như sau : Bối cảnh cạnh tranh và chiến lược của doanh nghiệp Bối cảnh và luật lệ khuyến khích đầu tư và nâng cấp liên tục (ví dụ, bảo vệ sở hữu trí tuệ Hệ thống khuyến khích nhân tài trong tất cả thiết chế chính Cạnh tranh mạnh mẽ và không hạn chế giữa các doanh nghiệp đặt trong nước Các điều kiện về cầu Các điều kiện về nhân tố đầu vào sản xuất Sự Cầu của khách hàng trong nước Nhu cầu khách hàng trong nước dự báo nhu cầu ở nơi khác Nhu cầu trong nước không thường xuyên trong những phân đoạn được chuyên môn hoá có thể được đáp ứng quốc gia hay toàn cầu Sự có mặt của các yếu tố đầu vào chuyên môn hoá và chất lượng cao sẵn có cho các doanh nghiệp Nguồn nhân lực Nguồn vốn Hạ tầng Hạ tầng hành chính Hạ tầng thông tin Hạ tầng khoa học công nghệ Tài nguyên thiên nhiên Các ngành công nghiệp bổ trợ Sự tiếp cận các doanh nghiệp và các nhà cung cấp đặt tại chỗ, có năng lực trong những lĩnh vực liên quan Sự có mặt của cụm ngành thay vì các ngành bị cách ly với nhau Như vậy, theo Porter bốn nhân tố trong mô hình trên giữ vai trò mấu chốt đối với sự thành công trong cạnh tranh của một doanh nghiệp nhất định, một ngành nhất định, và một quốc gia nhất định. 1.2.2. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp a. Khái niệm về cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp : Chúng ta biết rằng đấu thầu thực chất là một hoạt động mua sắm đặc biệt mà trong đó chỉ có một người mua nhưng có vô số ngưòi bán. Do đó, trên thị trường này sự cạnh tranh diễn ra rất gay gắt và quyết liệt giữa các nhà thầu để giành giật khách hàng về mình. Cho đến nay, mặc dù có rất nhiều tài liệu, sách báo thừa nhận về sự cạnh tranh này trong đấu thầu xây dựng nhưng chưa có một tài niệm nào định nghĩa cụ thể cạnh tranh trong đấu thầu nói chung cũng như trong đấu thầu xây dựng nói riêng. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiều cạnh trong đấu thầu xây lắp như sau: Hiều theo nghĩa hẹp : Cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp là quá trình mà các nhà thầu xây dựng đưa ra các giải pháp về kỹ thuật, tài chính, tiến độ thi công và giá bỏ thầu thoả mãn tối ưu nhất các yêu cầu của bên mời thầu nhằm giành được hợp đồng xây dựng công trình. Quan niệm này cho thấy sự cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp chính là sự ganh đua giữa các nhà thầu nhằm mục đích chiến thắng trong các cuộc đấu thầu. Sự ganh đua này được thực hiện bằng những biện pháp khác nhau nhằm thoả mãn tốt nhất yêu cầu của chủ đầu tư về kỹ thuật, tiến độ, biện pháp thi công, tài chính, chất lượng công trình cũng như các yêu cầu khác với giá bỏ thầu hợp lý nhất để chiến thắng các nhà thầu khác trong cuộc đấu thầu. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ bó hẹp cạnh tranh trong một công trình nhất định mà chưa chỉ ra được sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp này trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh, tham gia vào nhiều công trình khác nhau và đối thủ cạnh tranh ở mỗi cuộc đấu thầu có thể khác nhau. Việc xác định chiến lược cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn. Hiểu theo nghĩa rộng: Cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp là sự đấu tranh gay gắt và quyết liệt giữa các doanh nghiệp xây dựng kể từ khi tìm kiếm thông tín, tham gia đấu thầu, ký kết và thực hiện hợp đồng cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao theo yêu cầu của chủ đầu tư. Như vậy, cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp là một quá trình diễn ra liên tục, không ngừng giữa các nhà thầu. Mục đích của cạnh tranh và kết quả của cạnh tranh là phải thắng thầu, được chọn thi công công trình. Các nhà thầu luôn tìm kiếm thông tin từ phía chủ đầu tư, từ phía các nhà thầu khác về tình hình tài chính, giá cả, trình độ khoa học công nghệ...để đưa ra các chiến lược cạnh tranh đúng đắn trong các cuộc đấu thầu. Trong quá trình cạnh tranh này, doanh nghiệp nào nắm bắt được thông tin sớm nhất thì sẽ chủ động đưa ra được giải pháp phù hợp nhất và sẽ nâng cao được khả năng thắng thầu. Vấn đề quan hệ giữa doanh nghiệp – chủ đầu tư và các mối quan hệ khách hàng sẽ có tác động lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, bởi nó sẽ tạo ra những “con đường tắt” để đi đến thắng thầu. Theo cách hiểu này, một loạt các vấn đề mà nhà thầu phải quan tâm, giải quyết từ khâu tìm kiếm thông tin, đấu thầu, thực hiện công trình, bàn giao công trình. Các giai đoạn này không diễn ra tuân tự mà mà xen kẽ nhau bởi cùng một lức doanh nghiệp có thể tham gia nhiều cuộc đấu thầu, do vậy doanh nghiệp phải có chiến lược, giải pháp thực hiện các công việc đó.Quá trình cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp có thể được diễn tả theo sơ đồ sau: Sơ đồ quá trình tham gia tranh thầu của công ty Trượt thầu Tìm kiếm thông tin Tham gia đấu thầu Hoàn thành bàn giao Ký hợp đồng Chuẩn bị đưa ra giải pháp Trúng thầu b. Khái niệm về năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp Năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp là toàn bộ các nguồn lực về tài chính, công nghệ, tổ chức quản lý, kinh nghiệm... và các lợi thế của doanh nghiệp so với cá nhà thầu khác trong việc thoả mãn tốt nhất các yêu cầu của chủ đầu tư để có thể thu được những lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh có thể hiểu là mối quan hệ tương quan so sánh giữa các nhà thầu với nhau. Muốn có được các năng lực cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải tạo ra được các lợi thế so sánh bằng thực lực của chính mình. Thực lực được tạo ra chủ yếu từ những yếu tố nội tại của doanh nghiệp, như năng lực về tài chính, năng lực về kỹ thuật, kinh nghiệm, nhân sự của doanh nghiệp... và được thể hiện qua uy tín của mỗi doanh nghiệp. Như vậy, một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao trong đấu thầu xây lắp là một doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính mạnh, có hệ thống máy móc thiết bị và trình độ công nghệ hiện đại, có đội ngũ nhân sự hùng hậu, có trình độ tay nghề, giàu kinh nghiệm ...Tuy nhiên, để chiến thắng trong đấu thầu thì chỉ có thực lực mạnh không chưa đủ mà đòi hỏi doanh nghiệp phải biết sử dụng có hiệu quả các thế mạnh tổng hợp đó, tức là phải sử dụng linh hoạt các vũ khí cạnh tranh trong đấu thầu để lôi kéo khách hàng và chèn ép đối thủ cạnh tranh. 1.2.3. Các công cụ cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp : Nhìn một cách tổng thể để cạnh tranh trong tham dự đấu thầu, các nhà thầu thường sử dụng các vũ khí chính sau: a. Cạnh tranh bằng chất lượng công trình Đây là thứ vũ khí quan trọng hàng đầu và có hiệu quả lâu bền nhất trong quá trình tham gia đấu thâù của doanh nghiệp. Nó không chỉ là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đế khả năng thắng thầu đối với công trình hiện tại mà nó còn ảnh hưởng lớn đến uy tín của doanh nghiệp, do đó nó còn ảnh hưởng tới các cơ hội dự thầu sau này của doanh nghiệp. Bởi trong đấu thầu xây dựng , việc cạnh tranh bằng kỹ thuật, chất lượng sản phẩm được thực hiện qua hai điểm : Cạnh tranh bằng chính sản phẩm đang được tổ chức đấu thầu. ở bước này, đòi hỏi các nhà thầu phải đưa ra được các đề xuất, các giải pháp kĩ thuật, các biện pháp tổ chức thi công... hợp lý nhất nhằm đáp ứng một cách tối ưu các yêu cầu của chủ đầu tư về tiêu chuẩn kỹ thuật, mỹ thuật của công trình, đảm bảo đúng tiến độ, độ tin cậy, độ an toàn, tính kinh tế của công trình. Và tất cả các phần này sẽ được trình bày trong phần tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng công trình. Đây la một chuẩn rất được các chủ đầu tư coi trọng, người có giá chào thầu thấp chưa chắc đã giành được hợp đồng. Cho nên để có thể thắng được các đối thủ khác đòi hỏi các nhà thầu phải có năng lực kỹ thuật, phải không ngứng đầu tư trang bị hệ thống máy móc thiết bị hiện đại, nghiên cứu cải tiến và vận dụng những thành tựu khoa học về công nghệ xây dựng, kết cấu vật liệu...nhằm đưa ra những đề xuất, những công nghệ thi công mới vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh. Cạnh tranh bằng chất lượng những công trình đã và đang xây dựng. Thông qua việc thi công có chất lượng các công trình đã được giới hạn thì doanh nghiệp xây dựng sẽ củng cố được uy tín và vị thế của mình trên thương trường và tăng cường khả năng cạnh tranh của mình bởi vì khi đánh giá các nhà thầu thì chủ đầu tư không chỉ căn cứ vào sự phù hợp của các tiêu chuẩn kỹ thuật trong HSDT mà còn xem xét đến chất lượng các công trình mà doanh nghiệp đã thi công trước đó. Để có thể đảm bảo chất lượng công trình trong giai đoạn này, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện tốt công tác tổ chức thi công, đào tạo được một đội ngũ lao động có kỹ năng, kỹ xảo và có kinh nghiệm để có thể thực hiện được các yêu cầu kỹ thuật phức tạp, đảm bảo được độ an toàn, độ tin cậy, tuổi thọ công trình. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải có một năng lực tài chính ổn định để có thể cung cấp các yếu tố nguyên vật liệu đầu vào có chất lượng, đúng tiến độ nhằm đảm bảo được tiến độ thi công và thực hiện bàn giao công trình cho chủ đầu tư đúng thời hạn với chất lượng tốt. Ngày nay, yêu cầu về chất lượng sản phẩm ngày càng cao, những người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn những hàng hoá có chất lượng hơn là những hàng hoá rẻ tiền. Do vậy, trên thị trường xây dựng,cạnh tranh bằng kỹ thuật, chất lượng công trình cũng đang diễn ra rất gay gắt. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải có một tiềm lực tài chính mạnh, có năng lực về kỹ thuật, năng lực tổ chức thi công và đội ngũ lao động có tay nghề cao để có thể tạo ra những sản phẩm xây dựng có chât lượng cao, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của chủ đầu tư. b. Cạnh tranh bằng giá bỏ thầu Giá luôn là một yếu tố hấp dẫn và lôi cuốn người mua. Nhất là trong đấu thầu xây lắp với nhiều người bán nhưng chỉ có một người mua nên tất cả các nhà thầu xây dựng đều muốn đưa ra một mức giá hấp dẫn chủ đầu tư hơn đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, hiện nay trong quá trình đánh giá HSDT, chủ yếu dùng phương pháp giá đánh giá, tức là khi các tiêu chuẩn khác là tương đương giữa các nhà thầu thì nhà thầu nào có giá trị bỏ thầu thấp sẽ là đơn vị có khả năng thắng thầu. Giá dự thầu được tính toán dựa theo công thức tổng quát sau: G = D + P G: Giá dự thầu tính tổng hợp cho toàn bộ đối tượng đấu thầu D: Dự toán các loại chi phí cho thực hiện nhiệm vụ mà chủ đầu tư giao. P: Mức lợi nhuận mà nhà thầu dự kiến thu được Dự toán chi phí D cho thực hiện nhiệm vụ được giao bao gồm các chi phí về vật liệu xây dựng,chi phí thiết bị thi công,chi phí nhân công,chi phí quản lý và một số chi phí hợp lệ khác.Các chi phí này được tính toán dựa trên hệ thống tiêu chuẩn định mức đã quy định và những ước tính có tính chất kinh nghiệm của đơn vị dự thầu.Do quan điểm về sự hợp lý chi phí của mỗi đơn vị xây dựng là không giống nhau nên dự toán này có thể chênh lệch giữa các nhà thầu.Để D đạt giá trị min thì các doanh nghiệp phải thực hiện phương pháp dự toán chi phí sao cho càng chính xác càng tốt. Mức lãi dự kiến phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà thầu và các mục tiêu mà nhà thầu theo đuổi. Tuy theo tứng đặc điểm và điều kiện riêng của mình mà các doanh nghiệp áp dụng các chiến lược giá khác nhau. Chẳng hạn doanh nghiệp có thể áp dụng chiến lược giá cao khi có ưu thế về công nghệ, ưu thế độc quyền hoặc áp dụngchính sách giá thấp khi nhà thầu xây dựng còn có uy tín chưa cao, mới tham gia vào thị trường hoặc các chính sách giá linh hoạt... c. Cạnh tranh bằng tiến độ thi công Tiến độ thi công công trình cũng là một trong những yếu tố được chủ đầu tư rất quan tâm trong quá trình xét thầu và nó được xem xét ở 2 mặt sau: Mức độ đảm bảo tổng tiến độ trong hồ sơ mời thầu; Tính hợp lý về tiến độ hoàn thành giữa các hạng mục công trình có liên quan. Nếu các yếu tố khác đều tốt nhưng tiến độ xây dựng lại không đảm bảo thì nhà thầu đó cũng sẽ khó có khả năng giành được hợp đồng. Do vậy, tiến độ thi công cũng là một trong những công cụ mà các nhà thầu sử dụng trong quá trình tham gia tranh thầu. Hơn nữa, việc rút ngắn được thời gian xây dựng không chỉ giúp cho các doanh nghiệp xây dựng tăng khả năng thắng thầu mà còn có thể giảm bớt được chi phí và thiệt hại do ứ đọng vốn. Chính vì vậy, các nhà thầu luôn tích cực tìm kiếm các giải pháp nhằm giảm bớt thời gian xây dựng .Tuy nhiên việc rút ngắn thời gian thời gian xây dựng bao nhiêu còn phụ thuộc vào các biện pháp kỹ thuật,biện pháp tổ chức thi công và mức độ cơ giới hoá thi công ...của doanh nghiệp. Nếu không tính toán một tiến độ thi công hợp lý mà cứ cố tình rút ngắn thời gian xây dựng thì có thể làm cho dự án không mang tính khả thi hay làm cho giá dự thầu tăng cao do có chi phí tăng quá cao khi rút ngắn thời gian dẫn đến giảm khả năng thắng thầu.Do vậy trong quá trình lập hồ sơ dự thầu cần xác định một tiến độ thi công tối ưu ,đó phải là một tiến độ thi công đảm bảo nhỏ hơn tiến độ thi công dự kiến của chủ đầu tư đồng thời vẫn đảm bảo được các yếu tố về kỹ thuật, chất lượng với chi phí hợp lý. d. Cạnh tranh bằng chính sách Marketing Cùng với các công cụ khác, chiến lược marketing cũng góp một phần không nhỏ tạo nên thành công của doanh nghiệp trong quá trình tranh thầu. Hoạt động Marketing sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể thu thập được chính xác, đầy đủ, kịp thời các thông tin về các công trình sẽ tổ chức đấu thầu, về chủ đầu tư, về đối thủ cạnh tranh...để từ đó đưa ra các quyết định, các chiến lược cạnh tranh đúng đắn, đặc biệt là các chiến lược về giá bỏ thầu,giúp tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình tham gia dự thầu. Đồng thời việc thực hiện các dịch vụ trước và sau khi bán hành trong hoạt động Marketing như các dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ,bảo hành bảo lãnh công trình...sẽ tạo ra những lợi ích thiết cho khách hàng, tạo sự yêu tâm, thoải mái cho họ khi sử dụng sản phẩm của mình. Nhờ đó, doanh nghiệp tạo ra được một hình ảnh tốt đẹp trong lòng khách hàng, tạo được chữ tín đối với khách, nhờ đó không chỉ giữ được khách hàng mà còn lôi kéo được khách hàng tiềm năng, nâng cao được năng lực cạnh tranh trên thị trường. e. Cạnh tranh bằng liên danh liên kết khi tham gia dự thầu Do mỗi đơn vị đều có những giới hạn nhất định về năng lực kinh tế tài chính,kỹ thuật...do đó để nâng cao sức cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp, thì vấn đề liên danh, liên kết khi tham gia dự thầu hiện nay đang là một công cụ hết sức quan trọng được các nhà thầu sử dụng vì thông qua đó họ có thể đáp ứng được toàn diện các yêu cầu của những công trình có quy mô lớn và kết cấu phức tạp. Hơn nữa, ở nhiều nước còn quy định việc liên danh, liên kết hoặc sử dụng thầu phụ ở nước sở tại như một điều kiện bắt buộc đối với các nhà thầu nước ngoài khi tham dự đấu thầu quốc tế. 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh trong trong đấu thầu xây lắp của doanh nghiệp. Trong đấu thầu xâylắp nói chung và đấu thầu xây lắp quốc tế nói riêng khả năng cạnh tranh của nhà thầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có bốn yếu then chốt đó là : điều kiện về năng lực của nhà thầu, các điều kiện về cầu, bối cảnh cạnh tranh và các chiến lược tranh thầu của nhà thầu, sự phát triển của các ngành bổ trợ. Sự kết hợp bốn nhân tố trên sẽ là mấu chốt tạo nên thành công trong đấu thầu. Chúng ta có thể khái quát các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của một doanh nghiệp thông qua mô hình sau: Mô hình kim cương về cạnh tranh trong đấu thầu Bối cảnh cạnh tranh và chiến lược tranh thầu của công ty. Điều kiện về năng lực của nhà thầu Điều kiện về cầu Các ngành bổ trợ - Năng lực tài chính - Năng lực kỹ thuật - Nhân sự - Uy tín và hồ sơ kinh nghiệm ( sức ép từ phía chủ đầu tư ) - Đặc điểm, nhu cầu của chủ đầu tư. - Trinh độ tiến bộ trong nhu cầu của chủ đầu tư - Các luật lệ, quy chế trong đáu thầu - Chính sách ưu đãi các nhà thầu - Các đối thủ cạnh tranh - Các chiến lược công nghệ,liên danh liên kết, chiến lược giá bỏ thầu, chiến lược giao tiếp quảng bá công ty. - Các doanh nghiệp cung ứng nguyên vật liệu - Sự phát triển của khoa học kỹ thuật - Sự phát thiển của hệ thống tài chính ngân hàng - Các trường đại học, các viện nghiên cứu, các trung tâm đào tạo nhân công có tay nghề cao... - 1.2.4.1. Điều kiện về năng lực của nhà thầu Nhóm nhân tố này bao gồm các nhân tố thuộc về khả năng và nguồn lực của doanh nghiệp. Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, bao gồm các nhân tố sau: a. Năng lực tài chính của doanh nghiệp Trong quá trình tham gia dự thầu, nhà thầu nào có ưu thế vượt trội về tài chính so với các nhà thầu khác sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh và được chủ đầu tư đánh giá rất cao. Sức mạnh tài chính của doanh nghiệp được thể hiện thông qua các vấn đề như: Quy mô vốn lớn, cơ cấu vốn hợp lý,khả năng huy động vốn ngắn hạn và dài hạn nhanh,thuận lợi, doanh thu cao, tỷ suất lợi nhuận trên vốn khá cao... Tài chính doanh nghiệp luôn phải công khai trong hồ sơ dự thầu,nếu năng lực tài chính của doanh nghiệp là đủ mạnh thì doanh nghiệp sẽ được chấm điểm cao khi xem xét hồ sơ dự thầu và ngược lại. Ban cạnh đó, trong quá trình thực hiện đấu thầu, vốn đối ứng là một khâu rất quan trọng giúp cho tiến độ thi công được diễn ra liên tục, không bị gián đoạn. Mặt khác,với một tiềm lực tài chính dồi dào, doanh nghiệp sẽ có cơ hội để đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ máy móc,các phương tiện sử dụng trong quá trình thi công xây lắp để nâng cao năng suất lao động, và đầu tư nâng cao tay nghề của cán bộ công nhân viên. Đây cũng là điểm hấp dẫn các cá nhân lao động có trình độ tay nghề cao đầu quân vào công ty làm việc vì hệ số an toàn cao hơn các công ty khác, khả năng bảo đảm mức sống tốt hơn. Hơn nữa, khả năng về tài chính mạnh giúp cho doanh nghiệp nâng cao được năng lực cạnh tranh trong quá trình tham dự đấu thầu quốc tế. Vì trong đấu thầu quốc tế, các công trình thường có giá trị rất lớn, nên các khoản tiền đặt cọc dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng cũng sẽ rât lớn, đối với các công ty lớn thì không sao nhưng đối với các công ty nhỏ, có tiềm lực tài chính hạn hẹp thì đây quả là một vấn đề lớn. Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu quốc tế thì trước tiên cần phải nâng cao năng lực tài chính của nhà thầu. b. Năng lực kỹ thuật Máy móc thiết bị thiết bị và trình độ công nghệ trong thi công chiếm một vị trí rất quan trọng trong quá trình xét tuyển nhà thầu, đặc biệt là đối với các công trình có khối lượng lớn,giá trị và yêu cầu kỹ thuật phức tạp.Một doanh nghiệp nếu có tiềm lực lớn về máy móc thiết bị và công nghệ thi công sẽ được đánh giá cao trong quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Khả năng cạnh tranh của máy móc thiết bị và công nghệ được thể hiện thông qua: số lượng, chất lượng sự đa dạng về chủng loại máy móc thiết bị,công suất và tính hiện đại,khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật phức tạp của công trình.Mặt khác,chính sự hiện đại của máy móc thiết bị và công nghệ giúp cho doanh nghiệp có cơ hội sử dụng các giải pháp thi công tiên tiến,từ đó rút ngắn tiến độ thi công và tiết kiệm các chi phí xây dựng,do tăng năng suất lao động và từ đó tăng ưu thế trước các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, máy móc càng hiện đại thì giá thành càng cao, tỷ lệ khấu hao lớn, do đó trong một số trường hợp lại có thể làm cho giá dự thầu cao hơn so với các nhà thầu khác có thiết bị khấu hao một phần hoặc gần hết. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải chú ý trong việc thực hiện nâng cấp máy móc thiết bị công nghệ phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước, so sánh mức độ hiện đại đối với mặt bằng chung của các đối thủ cạnh tranh. c. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp Trong một chừng mực nhất định điều kiện về nhân sự đôi khi mang ý nghĩa quyết định đối với việc thắng thầu,vì chính con người có thể tạo ra được tất cả.Khả năng cạnh tranh về con người là yếu tố khó đo lường và dự báo chính xác hiệu quả. Với một đội ngũ chuyên gia kinh tế kỹ thuật giỏi,có năng lực có bản lĩnh,biết phán đoán tình thế để đưa ra các giải pháp thích hợp.Lực lượng nhân sự này hoạt động linh hoạt sáng tạo, nhanh chóng nắm bắt được các nguồn thông tin về nhu cầu của chủ đầu tư,đánh giá chính xác khả năng cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh, quan điểm và các toan tính của họ để kịp thời có giải pháp đối phó,có khả năng tạo lập một hồ sơ dự thầu mà trong đó thể hiện rõ sức mạnh của doanh nghiệp,đưa ra được các giải pháp về kỹ thuật và thi công thoả đáng,dự toán chi phí một cách khoa học và chính xác...phối hợp cùng các yếu tố khác tạo ra sự tin cậy nơi chủ đầu tư thì khả năng thắng thầu sẽ rất cao. Đồng thời, với một đội ngũ cán bộ kỹ sư và công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có kỹ năng, kỹ xảo và giầu kinh nghiệm , có khả năng đảm nhận thi công các công trình có kỹ thuật phức tạp với chất lượng cao, đảm bảo tính an toàn, tính kinh tế, độ tin cậy và tuổi thọ công trình đồng thời đảm bảo đúng tiến độ thì chắc chắn sẽ tạo ra được uy tín lớn cho công ty trên thị trường, giúp tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình tham gia đấu thầu nhất là trong đấu thầu quốc tế. Do vậy, các công ty cần phải chú ý đến vấn đề đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty, đồng thời có các chính sách đãi ngộ bồi dưỡng thích hợp để kích thích họ làm việc, tận tuỵ , trung thành với công ty và thu hút thêm những người có trình độ, có tay nghề cao đầu quân vào công ty. d. Uy tín, kinh nghiệm của doanh nghiệp Trong kinh doanh chữ tín luôn được coi trọng, trong hoạt động đấu thầu cũng vậy, người ta không thể giao việc xây dựng cầu cho người chuyên xây nhà cửa, và ngược lại, hoặc giao cho người chưa thực hiện xây các công trình trên lần nào. Trao hợp đồng cho người không có uy tín chẳng khác gì việc giao việc giải phẫu cho một bác sỹ chưa một lần cầm dao kéo trong đời. Chính vì vậy, trong đấu thầu hạn chế, hoặc chỉ định thầu, các chủ đầu tư thường mời các nhà thầu có vị thế, uy tín trên thị trường tham dự hoặc chỉ định ngay một nhà thầu có kinh nghiệm thực hiện.Đồng thời đây cũng là một tiêu chí được các chuyên gia đánh giá trong quá trình xét thầu. Và để chứng minh cho uy tín của minh, các nhà thầu phải kê khai các công trình, tương tự đã thực hiện trước đây, xuất trình các văn bản chứng nhận của chủ đầu tư và đánh giá nhận xét của các bên có liên quan... trong HSDT. Do vậy, uy tín và hồ sơ kinh nghiệm của nhà thầu nào được chủ đầu tư hoặc các chuyên gia đánh giá cao thì khả năng trúng thầu càng cao. Ngoài ra còn một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh trong quá trình tham dự thầu của doanh nghiệp như vị trí, sở trường của doanh nghiệp, chiến lược Marketing, khả năng liên danh liên kết của doanh nghiệp... 1.2.4.2. Bối cảnh cạnh tranh và chiến lược tranh thầu của công ty Bối cảnh cạnh tranh * Các quy chế, chính sách của nhà nước về đấu thầu: Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi đã tham gia vào nền kinh tế dù có tư cách pháp nhân hay không đều phải hoạt động trong tầm kiểm soát của Nhà nước bị chi phối bởi các điều luật và quy định do Nhà nước đặt ra. Trong đấu thầu cũng vậy, các nhà thầu phải thực hiện luật lệ, quy chế đấu thầu của Nhà nước và cả của các tổ chức quốc tế (đối đấu thầu quốc tế). Nó quy định các điều kiện tham dự đấu thầu, các nguyên tắc, thủ tục mà các bên tham gia đấu thầu phải tuân thủ cũng như các ưu tiên, ưu đãi mà các nhà thầu có thể được hưởng trong quá trình tham dự đấu thầu. Điều này ảnh hưởng quan trọng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải tuân thủ các quy định về khung giá xây dựng, về thuê mướn, an toàn lao động,vật giá,quảng cáo,vệ sinh môi trường. Mức độ ổn định, hợp lý của hành lang pháp lý sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng, thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia đấu thầu đồng thời hạn chế tối thiểu các mặt tiêu cực, phát huy tối đa các mặt tích cực trong cạnh tranh đấu thầu. Và ngược lại, nó cũng có thể gây phiền hà, khó khăn cho các nhà thầu, làm hạn chế quá trình tham dự đấu thầu đồng thời làm phát sinh nhiều tiêu cực trong đấu thầu... có thể sẽ làm suy yếu sức cạnh tranh của các nhà thầu. * Tiềm lực của các đối thủ cạnh tranh Đây là nhân tố quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh trên thị trường. Nó liên quan đến các yếu tố như số lượng, tiềm lực về tài chính, công nghệ, nhân sự... hãng tham gia cạnh tranh, mức độ tăng trưởng của ngành, cơ cấu chi phí, các hàng rào gia cản trở gia nhập hay rút lui...Sự tác động của những nhân tố này làm cho doanh nghiệp luôn phảI tìm tòi đưa ra những chính sách về giá cả, quảng cáo, giảI pháp về máy móc thiết bị, công nghệ nhằm củng cố và mở rộng thị phần. Bởi vậy, giữa các nhà thầu luôn tồn tại sự cạnh tranh gay gắt và nó tác động mạnh đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các nhà thầu khi tham gia tranh thầu. b. Các chiến lược tranh thầu của công ty Các chiến lược tranh thầu của công ty, bao gồm các chiến lược về công nghệ, chiến lược về giá bỏ thầu, chiến lược liên danh liên kết, chiến lược giao tiếp, quảng bá công ty... Mỗi chiến lược trên đều có ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình tham gia tranh thầu. Chiến lược công nghệ có thể tạo cho doanh nghiệp những ưu thế về kỹ thuật so với các đối thủ cạnh tranh, chiến lược giá bỏ thầu có quyết định cuối cùng đến khả năng thắng thầu của doanh nghiệp, chiến lược liên danh liên kết sẽ làm tăng sức mạnh của doanh nghiệp trong quá trình tham gia tranh thầu, chiến lược giao tiếp, quảng bá sẽ góp phần nâng cao vị thế, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, đồng thời tạo sự tin tưởng của chủ đầu tư đối với doanh nghiệp đó... Như vậy, các chiến lược tranh thầu thích hợp sẽ giúp doanh nghiệp phát huy được những lợi thế của mình, khắc phục được những mặt còn tồn tại, yếu kém, và làm tăng năng thắng thầu khi tham dự đấu thầu. Nhưng nếu công ty đưa ra các chiến lược tranh thầu không phù hợp cũng sẽ có những tác dụng ngược lại, làm hạn chế khả năng thắng thầu của công ty. 1.2.4.3. Các điều kiện về cầu Đây là nhân tố có tác động thúc đẩy các nhà thầu phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu. Bởi muốn giành được hợp đồng xây dựng về mình đòi hỏi nhà thầu phải thoả mãn tốt nhất các yêu cầu của chủ đầu tư. Muốn vậy, các nhà thầu phải tìm hiểu về chủ đầu tư, nắm bắt được các nhu cầu, mong muốn của họ để có thể đưa ra được sản phẩm (công trình) phù hợp. Hơn nữa, nhu cầu của các chủ đầu tư ngày càng cao, các đòi hỏi về mỹ thuật, kỹ thuật ngày càng phức tạp. Do đó, để đáp ứng được các điều kiện đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự nâng cao năng lực của mình nếu không muốn bị thất bại khi tham gia tranh thầu. Đặc biệt, trong đấu thầu, khách hàng (chủ đầu tư) chỉ có một nhưng lại có tiếng nói quyết định đến kết quả cuối cùng của đấu thầu cũng như uy tín và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng. Chủ đầu tư có quyền lựa chọn nhà thầu nào có đủ khả năng đáp ứng một cách tốt nhất những yêu cầu của mình thông qua hình thức đấu thầu hoặc chỉ định một doanh nghiệp nào đó có đủ năng lực và uy tín. Bởi vậy, việc có quan hệ rộng rãi, tạo được uy tín và hình ảnh tốt với chủ đầu tư thì doanh nghiệp có cơ hội nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình và sẽ có khả năng thắng thầu cao hơn. 1.2.4.4. Các ngành bổ trợ * Sức ép từ phía các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào Các yếu tố đầu vào của một doanh nghiệp xây dựng bao gồm nguyên vật liệu, máy móc thiết bị,lao động,vốn kết hợp với nhau tạo ra sản phẩm là các công trình xây dựng. Đảm bảo đúng số lượng,chất lượng,thời gian cung cấp các yếu tố đầu vào là một yêu cầu rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng đến tiến độ thi công, chất lượng công trình, đến vấn đề giảm chi phí, hạ giá thành xây dựng, tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh...Nói chung,các ngành công nghiệp bổ trợ có quyền lực nhất định đối với hoạt động của doanh nghiệp xây dựng một cách gián tiếp. Sự phát triển một cách đồng bộ hay không của các ngành cung ứng vật tư, của hệ thống tài chính, ngân hàng, các trường đại học, các trung tâm đào tạo nhân công có tay nghề cao... sẽ tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn cho công ty khi thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh, từ đó góp phần vào việc làm tăng hay suy yếu khả năng cạnh tranh của Công ty trong quá trình tham gia vào thị trường đấu thầu xây dựng. Do đó một doanh nghiệp muốn nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu quốc tế thì cần thiết phải có sự phát triển đồng bộ của các ngành bổ trợ đồng thời doanh nghiệp đó cũng phải thiết lập được một mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức cung ứng._.ức các lớp tập huấn và đào tạo cho mọi nhân sự có liên quan đến chiến lược, đào tạo một số cán bộ kỹ thuật và chuyên môn chủ chốt về cách thức xây dựng một hệ thống văn bản theo ISO 9000 và ISO 14 000 thành chuyên gia đánh giá nội bộ,tự đánh giá thực trạng hệ thống chất lượng của công ty. Các cán bộ này sẽ được phân công xây dựng một hệ thống tài liệu gồm: Sổ tay chất lượng,quá trình thủ tục,các hướng dấn công việc,biểu mẫu và kế hoạch chất lượng. Sau đó việc quan trọng là phải triển khai áp dụng các công tác theo như văn bản đã soạn thảo vào thực tế sản xuất kinh doanh của công ty. Ngoài ra, trong quá trình áp dụng công ty cũng cần tiến hành đánh giá chất lượng nội bộ, tìm ra những thiếu sót từ đó đề ra các hành động khắc phục,sửa đổi nhằm hoàn thiện văn bản,tài liệu cũng như hệ thống quản lý. 3.2.3. Giải pháp từ phía nhà nước và các chiến lược tranh thầu của công ty 3.2.3.1. Xây dựngcác chiến lược tranh thầu thích hợp Trong đấu thầu, nói chung và đặc biệt là trong đấu thầu quốc tế muốn dành được thắng lợi trước những đối thủ cạnh tranh đòi hỏi công ty không chỉ có thực lực mà còn phải đưa ra được những chiến lược tranh thầu hợp lí như chiến lược công nghệ và tổ chức xây dựng, chiến lược giá bỏ thầu, chiến lược liên danh liên kết... a. Chiến lược công nghệ và tổ chức xây dựng Đối với công ty, đây là chiến lược quan trọng và có độ tin cậy cao. Thực chất của chiến lược này là khi lập HSDT, công ty phải dốc toàn lực vào việc thiết kế tổ chức xây dựng hợp lí dựa trên công nghệ xây dựng hiệu quả. Do đó, chiến lược này nó đòi hỏi các nhà thầu xây dựng phải luôn cố gắng tìm ra được những phương án công nghệ và tổ chức xây dựng có ưu thế áp đảo các đối thủ cạnh tranh, tức là phương án đạt hiệu quả, cho các chỉ tiêu về chi phí, thời gian và chất lượng xây dựng đều tốt nhất theo cả hai góc độ lợi ích của chủ đấu thầu và của chủ xây dựng. Nếu công ty đưa ra được công nghệ độc đáo duy nhất mà chủ đấu thầu đang cần cho việc xây dựng công trình của mình thì ưu thế cạnh tranh của công ty sẽ tăng lên gấp bội và khả năng thắng thầu sẽ rất lớn. Đối với công ty xây dựng số 9, việc nghiên cứu áp dụng những công nghệ mới, tiên tiến trong xây lắp luôn là hoạt động mang tính chiến lược. Chính vì vậy, trong thời gian qua công ty đã có được bằng độc quyền sáng chế cho phát minh “phương pháp nâng vật nặng trong thi công xây lắp cùng với hệ thống ván khuôn trượt” do cục sở hữu công nghiệp cấp và được huy chương vàng cho sản phẩm “công nghệ mới thi công cốt pha trượt nhà cao tầng”. Nhờ chiếm ưu thế độc quyền về công nghệ mà công ty đã giành được rất nhiều đơn thầu trong lĩnh vực này do giảm đựơc thời gian thi công, đảm bảo an toàn hơn cho người lao động, tiết kiệm được chi phí nhân lực và do đó giá bỏ thầu thấp hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh. Đây là một lợi thế rất lớn để có thể tăng khả năng cạnh tranh trong tham dự đấu thầu quốc tế. Do vậy, trong thời gian tới công ty cần tiếp tục thực hiện chiến lược này theo hai hướng sau : - Đối với những công nghệ mình đang dẫn đầu như công nghệ cốp pha trượt và thi công cốt thép dự ứng lực, công ty cần tiếp tục đấu thầu cải tiến nhằm duy trì lợi thế. - Đối với những chiến lược công nghệ ngang bằng hoặc thua kém với đối thủ như khoan cọc nhồi, thi công cầu đường, hầm thì cần phải có kế hoạch đầu tư triệt để cho việc nghiên cứu áp dụng những công nghệ tiên tiến và tăng cường chuyển giao công nghệ với nước ngoài để đón đầy các công nghệ mới. b. Chiến lược giá bỏ thầu Theo quy định chấm thầu hiện nay của Việt Nam thì sau khi đã các tiêu chuẩn khác đã đạt thì nhà thầu nào có giá đánh giá thấp nhất sẽ trúng thầu. Điều đó cho thấy yếu tố giá chính là yếu tố quan trọng có tính chất quyết định cuối cùng đến khả năng trúng thầu của doanh nghiệp. Do đó để có khả năng trúng thầu công ty cần phải có chiến lược giá thích hợp, tức là giá tranh thầu phải vừa đủ lớn để có thể đảm bảo một mức lợi nhuận mục tiêu nhất định của công ty đồng thời cũng phải đủ nhỏ để khả năng trúng thầu cao nhất. Như vậy, khi sử dụng cạnh tranh bằng giá bỏ thầu đòi hỏi trước hết công ty cần phải hoàn thiện phương pháp tính giá bỏ thầu, có các biện pháp tính toán tiết kiệm tối đa các chi phí xây dựng nhằm thực hiện hạ giá thành công trình. Sau đó, tuỳ thuộc vào đối thủ cạnh tranh và tuỳ thuộc vào những gói thầu khác nhau mà công ty có thể lựa chọn phương án giá dự thầu cho phù hợp. Có thể lựa chọn các phương án lựa chọn giá dự thầu như sau: - Chiến lược giá cao (có tỷ lệ lãi cao): Khi công ty chiếm ưu thế tuyệt đối về công nghệ, có ưu thế độc quyền hoặc các đối thủ cạnh tranh kém hơn hẳn. Chiến lược này công ty có thể áp dụng cho những công trình sử dụng thi công bằng phương pháp cốp pha trượt nhà cao tầng (một phương pháp thi công mới đã được công ty ứng dụng thành công và đã được BXD trao tặng huy chương vàng) hoặc phương pháp nâng vật nặng bằng hệ thống ván khuông trượt (phương pháp này công ty đã được cục sở hữu công nghiệp cấp bằng độc quyền sáng chế) như các công trình về si lô, ống khói, đài nước, các cao ốc. - Chiến lược giá trung bình (có lợi nhuận trung bình): Trong trường hợp đối thủ cạnh tranh đủ mạnh, có trình độ kỹ thuật công nghệ và tài chính gần như ngang bằng với công ty. - Chiến lược giá thấp (mức lợi nhuận thấp hoặc chỉ hoà vốn): áp dụng trong trường hợp hoặc đối thủ cạnh tranh rất mạnh, có nhiều điểm hơn hẳn công ty, hoặc công ty đấu thầu với mục đích duy trì và chiếm lĩnh thị trường, hoặc đối với những gói thầu quan trọng mà việc thắng thầu có ý nghĩa rất quan trọng giúp công ty nâng cao được vị thế, uy tín trên thị trường và nó làm bàn đạp để thắng thầu các gói thầu tiếp theo.Chiến lược này công ty có thể áp dụng cho các dự án về cầu, đường bởi đây là những lĩnh vực kinh doanh mới của công ty nên công ty rất đang cần phải xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường, hoặc đối với các đối với những gói thầu quốc tế có giá trị lớn. Việc sử dụng chiến lược giá cũng cần phải linh hoạt ở mỗi gói thầu tuỳ theo từng tình huống cụ thể. Muốn vậy đòi hỏi công ty phải tăng cường thu thập các thông tin về các đối thủ cạnh tranh, tìm hiểu điểm mạnh, điểm yếu và chiến lược tranh thầu của họ để có các quyết định giảm giá phù hợp nhằm đưa ra mức giả bỏ cuối cùng hấp dẫn nhất và có khả năng thắng thầu cao nhất. c. Chiến lược liên danh liên kết trong đấu thầu. Hiện nay, năng lực tài chính của công ty còn rất hạn hẹp, trình độ kĩ thuật chưa cao, còn thiếu kinh nghiệm trong thực hiện các công trình lớn có yêu cầu kĩ thuật phức tạp. Do đó, trong quá trình tham dự đấu thầu Quốc tế, Công ty cần phải: - Trước mắt công ty vẫn phải tiếp tục thực hiện những chiến lược liên danh liên kết hoặc làm thầu phụ cho các nhà thầu nước ngoài nhằm tăng vốn, tăng sức mạnh kĩ thuật, công nghệ và tiếng tăm của công ty đồng thời qua đó công ty cần tham gia thực hiện trực tiếp công trình, được tiếp xúc cọ xát với những công ty xây dựng có tiếng tăm của thế giới nên sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và có cơ hội học hỏi nâng cao trình độ quản lí, trình độ tay nghề cho đội ngũ cán bộ công nhân viên để tiến tới có thể tham dự các gói thầu quốc tế một cách độc lập. - Tăng cường liên kết với các nhà thầu trong nước trong các trường hợp bỏ giá thầu phụ để không xảy ra tình trạng bỏ giá thầu quá thấp gây thiệt hại chung cho các nhà thầu trong nước và cho công ty nói riêng. Bên cạnh đó, công ty cũng cần tăng cường liên kết với các trung tâm quốc tế về cung cấp vật tư nhập khẩu cần thiết cho các loại hình thi công. - Tiếp tục duy trì kí kết các hợp đồng xây dựng ở nước ngoài, trước mắt có thể làm thầu nhân công để tiến tới nhận thầu trọn gói. - Đối với các công trình quy mô lớn, kĩ thuật phức tạp,nhiều hạng mục công trình, công ty cần thực hiện liên danh liên kết với các nhà thầu khác hoặc sử dụng thầu phụ để thực hiện công trình theo đúng tiến bộ, đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu. - Đồng thời cần tăng cường liên kết với các đơn vị trong nước trong đấu thầu quốc tế dưới hình thức consortium để tạo được sức mạnh chung trong cạnh tranh với các nhà thầu nước ngoài. Trong chiến lược này, công ty câng phải tìm được những đối tác tin tưởng để thành lập liên danh liên kết và hợp đồng liên danh liên kết phải được ký kết với đầy đủ các nội dung, xác định rõ tư cách nhà thầu “ thầu chính, thầu phụ “ để có sự phân chia trách nhiệm thích hợp, đảm bảo quyền lợi cho các bên. 3.2.3.2. Giải pháp về phía nhà nước a. Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến đấu thầu quốc tế. Nghị định 88/CP ngày 1-9-1999 ban hành quy chế đấu thầu và các nghị định bổ sung cho quy chế trên : nghị định 14/CP ngày 05-5-2000 nghị định 66 ban hành ngày 12-6-2003 là một bước cải tiến, đổi mới so với những quy chế đấu thầu ban hành kèm theo nghị định 43/CP và 93/CP trước đây nhằm từng bước hoàn thiện cơ chế đấu thầu xây dựng ở Việt Nam. Với nghị định 66/2000/NĐ-CP đã từng bước hoàn thiện cơ chế đấu thầu của Việt Nam , đồng thời đấu thầu quốc tế đã từng bước hội nhập với đấu thầu trong khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, quy chế thực hiện cũng còn không ít những bất hợp lý gây cho đấu thầu phát sinh nhiều tiêu cực ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác đấu thầu. Đó là do cơ chế, chính sách không đồng bộ, chưa tạo được động lực để phát triển, tồn tại nhiều quy định đấu thầu khác của các bộ ngành, nội dung một số văn bản còn chưa rõ ràng cụ thể, việc triển khai hướng dẫn thực hiện quy chế đấu thầu còn chậm , tính cưỡng chế còn thấp. Do đó, để nhanh chóng đưa hoạt động đấu thầu vào nề nếp, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà thầu Việt Nam khi tham dự đấu thầu quốc tế, nhà nước cần thiết phải thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đến đấu thầu quốc tế về cả mặt nội dung và pháp lý. Việc thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đến đấu thầu quốc tế cần phải thực hiện theo các hướng sau : Luật hoá hoạt động đấu thầu Đồng bộ hoá các văn bản có liên quan đến đấu thầu quốc tế Loại bỏ các quá trình hạn chế tính chất cạnh tranh giữa các nhà thầu, khuyến khích các nhà thầu tham gia đấu tranh lành mạnh. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính về đấu thầu theo hướng tăng quyền chủ động và trách nhiệm của chủ đấu thầu trong đấu thầu Quy định cụ thể cách tính giá gói thầu, bỏ các quy định mang tính chung chung, dẫn đến việc chủ đấu thầu vận dụng sai nguyên tắc. Đổi mới cơ chế xét thầu dựa trên quy định hệ thống tiêu thức đánh giá HSDT tạo sự công bằng cho các nhà thầu. Xây dựng chế tài bắt buộc phải thực hiện quy định về đấu thầu, giám sát công trình, nghiệm thu công trình, có các mức phạt cụ thể khi vi phạm. Đồng thời trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cũng cần phải thực hiện hệ thống luật pháp cho phù hợp với yêu cầu hội nhập về tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đấu thầu. Để cho luật đấu thầu tương thích với thông lệ quốc tế, khi xây dựng cần phải dựa vào các văn bản hướng dẫn của một số tổ chức quốc tế để tìm ra các nội dung phù hợp nhất. Hiện thời Nhật Bản đang là nhà tài trợ lớn cho Việt Nam nhưng trong tương lai vị trí đó sễ thuộc về ngân hàng thế giới (WB). Vì thế dựa vào hướng dẫn của WB để xây dựng luật đấu thầu Việt Nam là thích hợp hơn cả. Chỉ có như vậy, pháp lệnh đấu thầu hoặc luật đấu thầu sau này mới có điều kiện tồn tại lâu dài và được áp dụng nhiều hơn vào hoạt động đấu thầu quốc tế tại Việt Nam đồng thời hạn chế được các yếu kém của các nhà thầu trong nước, hình thành các nhà thầu mạnh đủ sức cạnh tranh đấu thầu ở nước ngoài b. Tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về đấu thầu. Trong thời gian qua, do hoạt động quản lý nhá nước về đấu thầu còn lỏng lẻo, tính cưỡng chế của các văn bản pháp luật không cao, phân cấp quản lí chồng chéo không rõ ràng. Do đó đã dẫn đến nhiều tiêu cực trong đấu thầu gian lận, hối lộ bên mời thầu, hiện tượng thông đồng mắc ngoặc giữa nhà thầu với ban mời thầu và giữa các nhà thầu với nhau nhằm đấu thầu giả tạo. Đặc biệt, hiện tượng phá giá trong đấu thầu, sự vi phạm của các nhà thầu nước ngoài về sử dụng thầu phụ,liên danh liên kết không những không được ngăn chặn mà vẫn đang diễn ra ngày một phổ biến ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của các nhà thầu khi tham dự đấu thầu. Do đó để để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong đấu thầu thì việc tăng cường hơn nữa hoạt động quản lí nhà nước là việc hết sức cấp bách hiện nay. Muốn vậy chúng ta cần phải : * Tiến hành luật hoá các hoạt động đấu thầu, xây dựng nên một pháp lệnh về đấu thầu nhằm tăng cường tínhcưỡng chế trong các quy định về đấu thầu và làm hạn chế các tiêu cực phát sinh trong đấu thầu. Mặc dù chúng ta cũng có quy định các bên tham gia đấu thầu phải thực hiện các quy định trong quy chế đấu thầu nhưng do tính cưỡng chế còn thấp cho nên việc đưa các quy định về đấu thầu thành luật là sự đòi hỏi cấp thiết. Điều này, chúng ta cần phải học hỏi rất nhiều kinh nghiệm quý báu của Hàn Quốc, Trung Quốc, pháp...những đất nước đã thể chế hoá các vấn đề có liên quan đến đấu thầu. * Cần phải xây dựng các mức xử phạt vi phạm trong đấu thầu một cách cụ thể, rõ ràng, chi tiết hơn. NĐ 66/2003/NĐ- CP cũng đã nói đến vấn đề xử phạt đối với các hành vi vi phạm trong đấu thầu nhưng vẫn còn chung chung , việc xử phạt hành chính và quy định trách nhiệm hành chính vẫn còn chưa cụ thể, rõ ràng,và chưa thật sự mạnh tay để có thể răn đe. Chính vì vậy, trong thời gian tới Nhà nước cần phải có các quy định bắt buộc những người vi phạm vừa phải chịu truy cứu trách nhiệm hình sự vừa phải bồi thường thiệt hại đồng thời phải nộp một khoản tiền phạt nhất định. Mức phạt vừa có tính chất giáo dục nhưng phải quá nhẹ để trở thành hình thức, nó phải thể hiện được cả tính chừng phạt trong đó. Mức phạt có thể xây dựng dựa vào các cơ sở sau: + Trị giá gói thầu + Loại hình vi phạm + Đối tượng vi phạm Chẳng hạn đối với vi phạm điều kiện liên danh liên kết hoặc sử dụng thầu phụ có thể phạt cao nhất 1%, thông đồng mắc ngoặc có thể phạt lên tới 5% giá trị gói thầu. Kinh nghiệm một số nước như Hàn Quốc, Trung Quốc ...họ cũng đều cụ thể hoá các hình thức phạt , mức phạt cụ thể trong đấu thầu của mình. Điều này vưa tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà quản lý, vừa hạn chế các tiêu cực trong đấu thầu đồng thời đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. * Đồng thời để chống tình trạng bỏ giá dự thầu quá thấp dưới mức giá thành công trình, Nhà nước cũng cần phải nhanh chóng ban hành quy định về chống phá giá trong đấu thầu. Vấn đề này cũng cần phải suy xét xem có nên quy định một mức giá sàn trong đấu thầu hay không. Đây cũng là vấn đề đang còn gây nhiều tranh cãi. * Cần phải tăng cường năng lực, nâng cao trình độ chuyên môn cho chủ đầu tư để làm tốt công tác đấu thầu nói riêng. Đồng thời nhà nước cũng cần phải quy định rõ quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư trong khâu chuẩn bị đầu tư và thựchiện quản lý dự án. * Cần quy định rõ hơn về quyền và mức trách nhiệm phải chịu của các tổ chức tư vấn liên quan đến lĩnh vực xây dựng cơ bản nhằm tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về kiểm tra, giám sát chất lượng công trình, đảm bảo tính công bằng trong chấm thầu. Muốn vậy, nhà nước cần: - Tăng thêm quyền hạn cho các cơ quan tư vấn để họ có thể chủ động hơn trong các khâu thiết kế, khách quan hơn trong chấm thầu và nghiêm túc trong giám sát thi công công trình. - Gắn trách nhiệm cụ thể rõ ràng đối với các cơ quan tư vấn (kể cả bồi thường thiệt hại về vật chất) khi xảy ra sai sót trong khâu tư vấn gây ra cho công trình. * Nhà nước cũng cần phải cải cách các thủ tục hành chính trong khâu xét duyệt và phê duyệt kết quả đấu thầu nhằm giảm bớt các phiền hà cho các bên khi tham dự đấu thầu. * Tăng cường hoạt động quản lý các nhà thầu nước ngoài vào hoạt động xây dựng tại Việt Nam. Điều này cần phải được quy định thành văn bản hoặc dưới nghị định của chính phủ hoặc quyết định của thủ tướng nhằm đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ trong quản lý nhà nước với mục tiêu đảm bảo chủ quyền của nước chủ nhà, tạo điều kiện cho các pháp nhân nước ngoại hoạt động xây dựng tại Việt Nam đồng thời cũng phải bảo vệ được lợi ích của các nhà thầu trong nước, tạo điều kiện cho các công ty xây dựng của ta có thể tiếp cận được những kỹ thuật, công nghệ mới, tiếp thu được trình độ quản lý tiên tiến và tích luỹ kinh nghiệm trong xây dựng. c. Thực hiện hỗ trợ các nhà thầu trong nước khi tham dự đấu thầu quốc tế Các công ty xây dựng Việt Nam nói chung và công ty xây dựng số 9 nói riêng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các công ty nước ngoài, những nhà thầu có sức mạnh vượt trội về mọi mặt so với các công ty của ta. Do không thể khắc phục ngay được các yếu thế của mình trong cuộc cạnh tranh này nên các nhà thầu trong nước cần phải được Nhà nước thực hiện các hỗ trợ cần thiết: - Do khả năng tài chính còn rất hạn hẹp nên Nhà nước cần hỗ trợ bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho các nhà thầu trong nước khi tham gia dự thầu - Đơn giản hoá các thủ tục văn vốn, nhất là việc thế chấp bảo lãnh. Có chính sách về vốn tín dụng đầu tư phát triển,vốn ngân sách hỗ trợ để giúp các doanh nghiệp tăng quy mô về năng lực tài chính. Đồng thời nhà nước cũng cần đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ lãi suất, tăng thời gian vay cho các dự án tăng năng lực sản xuất của các công ty. - Ưu tiên cho các doanh nghiệp nhập khẩu các thiết bị công nghệ hiện đại. Mặt khác cần thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển các công ty cho thuê tài chính. d. Đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá các DNNN Các DNNNVN theo đấnh giá của ban đổi mới quản lý kinh tế Trung Ương hiện nay làm ăn kếm hiệu quả, nợ nần chồng chất, số lượng các doanh nghiệp có vốn 10 tỷ đồng chỉ chiếm 10% nhưng tốc độ cổ phần hoá diễn ra chưa ddúng khoa học. Nhiều doanh nghiệp Nhà Nước sau khi cổ phần hoá đã làm ăn có lãi, tạo sức cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp xây dựng. Số các doanh nghiệp Nhà Nước còn quá lớn, chỉ có đẩy nhanh tốc độ thì mới có điều kiện tạo ra các nhân độc lập về kinh tế, mạnh về mọi mặt, đồng thời các doanh nghiệp này có điều kiện tham gia vào thị trường chứng khoán giúp phát triển khả năng huy động vốn và tạo vốn giúp phát tăng sức mạnh về tài chính. Hơn nữa việc thay đổi cách quản lý doanh nghiệp và giảm sự can thiệp của Nhà nước sẽ giúp các doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo hơn, chủ động hơn trong kinh doanh, dần dần khẳng định được vị trí của mình trên thương trường, đủ sức cạnh tranh với các đối thủ. Điều này cũng đã được nêu trong lối chiến lược phát triển kinh tế 2001- 2005 của ĐCS Việt Nam. e. Cần thiết phải xây dựng tiêu chuẩn năng lực nhà thầu nhằm đáp ứng tiến trình hội nhập vào khu vực và thế giới. Đây là việc làm hết sức cần thiết. Bởi hiện nay, nước ta đang tham gia hội nhập khu vực ASEAN, tiến tới gia nhập WTO. Nguyên của lộ trình hội nhập là cắt bỏ dần các rào cản và không phân biệt đối xử. Để ứng phó với những nguyên tắc này, các nước ASEAN đã có chính sách mở cửa từ lâu trong lĩnh vực xây dựng. Tuy nhiên, để dược cung cấp dịch vụ xây dựng vào nước họ không phải dễ dàng, vì họ có nhưỡng quy điịnh khắt khe về nghề nghiệp, đăng ký năng lực nhà thầu theo các tiêu chuẩn về vốn, nhân sự, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp đã được nhà nước của họ quy định. Mặt khác, hiện nay các nước ASEAN đang đề xuất phải tiến tới công nhận lẫn nhau lĩnh vực xây dựng. Do vậy nếu không xây dựng một năng lực nhà thầu ngay từ bây giờ thì khi thực hiện lộ trình cam kết với ASEAN sẽ không có cơ hội pháp lý để yêu cầu họ khi họ tham gia vào thị trường xây dựng Việt Nam, gây bất lợi cho các nhà thầu Việt Nam trong quá trình cạnh tranh. Đồng thời các nhà thầu Việt Nam cũng không biết biết được xác định theo tiêu chuẩn năng lực cạnh tranh nào để có thể tham gia vào thị trường xây dựngar các nước khác trong khu vực. Chính vì vậy, các cơ quan chức năng Nhà Nước cần có sự phối hợp với các hiệp hội nghề nghiệp nhằm sớm xây dựng tiêu chuẩn năng lực nhà thầu Việt N am nhằm đáp ứng tiến trình hội nhập của các doanh nghiệp xây dựng Việt Nâm đồng thời tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và công bằng. 3.2.4. Giải pháp từ phía các ngành bổ trợ * Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin về đấu thầu Trong đấu thầu nói chung, đấu thầu quốc tế nói riêng, vấn đề thông tin và xử lý thông tin là cực kỳ quan trọng, liên quan tới thành bại của hoạt động đấu thầu. Nếu nhà thầu nào thiếu thông tin về khách hàng, đối thủ cạnh tranh về môi trường tự nhiên, phong tục tập quán, văn hoá xã hội ở khu vực thi công xây dựng thì chắc chắn sẽ thất bại. Do đó việc chuyên lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến đấu thầu trong và ngoài nước: - Các thông tin giới thiệu về thực tiễn kinh nghiệm xây dựng và năng lực của công ty xây dựng các nước trong khu vực và các nước đâng phát triển. - Các thông tin về các các DA (loại DA, nguồn vốn) - Thông tin thị trường giá cả - Sự thay đổi về tập quán - Các thông tin về các nhà thầu trong ngoài nước , về chủ DA, cạnh tranh, người xét thầu. Vậy các nguồn thông tin này phải có nguồn cung cấp và chúng thường được cung cấp theo 2 nguồn chính: - Từ trung tâm thông tin của WB, ADB và các công ty tư vấn - Hiệp hội các nhà thầu, hiệp hội xây dựng, hiệp hội các nhà cung ứng hàng hoá dịch vụ.. ở Việt Nam, thông tin về các nhà thầu chưa có một cơ quan nào chính thức cung cấp và cung cấp một cách đầy đủ. Chính vì vậy, các nhà thầu nước ngoài rất khó lựa chọn một đối tác liên doanh, liên kết hoặc thầu phụ thích hợp với mình. Thông tin thị trường này tương lai nên đặt tại bộ khoa học và đầu tư theo mô hình hạch toán kinh doanh độc lập. * Thành lập một trung tâm quốc tế đào tạo, nâng cao trình độ cho các kỹ sư xây dựng. ở đó cập nhật và phổ biến các kiến thức, kỹ năng chuyên môn, kiến thức, kỹ năng về quản lý dự án và các vấn đề tài chính. Thiết lập một hệ thống chứng chỉ cho các kỹ sư xây dựng . Hỗ trợ việc thành lập hiệp hội các kỹ sư xây dựng. * Tăng cường các trường dạy nghề, hỗ trợ kỹ thuật cho các trường này để cải thiện chương trình giảng dạy và đào tạo.Cũng cần đổi mới phương pháp đào tạo trong các trường đại học để đào tạo bậc cao cho chuyên viên, kỹ thuật viên, chương trình đào tạo mới nên nhấn mạnh về công nghệ xây dựng hiện đại, kỹ năng sử dụng CAS và năng lực tham khảo, khai thác nguồn tư liệu, hồ sơ bằng tiếng Anh. Ngoài ra cần bổ sung kiến thức về luật lệ, quy chuẩn xây dựng quốc tế, quản lý nghề nghiệp, tổ chức công trường và nhất là khả năng hợp tác đa ngành cùng tác phong của các nước tiên tiến, tạo tiền đề cho lớp trẻ hội nhập vào khu vực và thế giới. * Cải tổ nhằm phát triển hệ thống ngân hàng tài chính để hỗ trợ vốn lớn hơn cho các doanh nghiệp. Đơn giản hoá thủ tục vay vốn, nhất là việc thế chấp, bảo lãnh. Muốn vậy các tổ chức tài chính ngân hàng cần phải hiện đại hoá hệ thống thanh toán, tăng khả năng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Đặc biệt cần thiết phải phát triển thị trường chứng khoán nhanh chóng tại Việt Nam. Đây là một nguồn huy động vốn khổng lồ lại nhanh chóng và hiêu quả đối với các công ty cổ phần. * Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, tạo điều kiện thuận tiện cho các doanh nghiệp xây dựng có thể ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, những công nghệ mới, và trang bị máy móc thiết bị hiện đại trong xây dựng để có thể thực hiện được những công trình lớn đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, tăng khả năng cạnh tranh khi tham dự đấu thầu quốc tế. Đồng thời khuyến khích thành lập các liên doanh xây dựng để tranh thủ các nguồn chuyển giao công nghệ. * Hỗ trợ phát triển các ngành sản xuất nguyên vật liệu xây dựng nhằm tạo điều kiện đáp ứng đầy đủ vật tư cho quá trình thi công, đồng thời tạo điều kiện để các doanh nghiệp xây dựng có thể hạ thấp giá thành công trình và giảm sức ép từ phía các nhà cung ứng đối với các công ty xây dựng. * Nhà nước cần xây dựng và phát triển các mô hình doanh nghiệp mới đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế theo kiểu tập đoàn xây dựng, các consortium (tổ hợp) về xây dựng. Kết luận Đất nước ta đang phát triển từng ngày, từng giờ. Cùng với việc phát triển đó việc đầu tư vào xây lắp và cơ sở hạ tầng trong những năm tới ở Việt nam cũng càng lớn. Do đó, hoạt động đấu thầu xây lắp nói chung và đấu thầu xây lắp quốc tế nói riêng sẽ vẫn tiếp tục diễn ra sôi động trong tương lai. Chính vì vậy, công ty cần phải tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu hơn nữa đặc biệt là trong đấu thầu quốc tế, đây là yếu tố quan trọng giúp công ty có thể phát triển và tiến xa hơn trên con đường phát triển. Với việc nghiên cứu, phân tích thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu quốc tế, em mong rằng chuyên đề tốt nghiệp này sẽ góp một phần nhỏ trong việc giúp công ty tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu của mình để đối đầu với những thách thức và tận dụng những cơ hội trong quá trình tham dự đấu thầu quốc tế để có thể đưa ra những giải pháp đúng đắn và bước đi hợp lý trong chiến lược phát triển công ty. Hy vọng trong thời gian tới, công ty sẽ tham gia và ký kết được nhiều hợp đồng có giá trị lớn trong đấu thầu quốc tế, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của công ty không chỉ trên thị trường xây dựng Việt Nam mà cả trên thị trường xây dựng quốc tế. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô và đặc biệt là thầy giáo – T.S Nguyễn Hồng Minh cùng toàn thể các cô chú và các anh chị trong phòng kinh tế - kế hoạch của công ty xây dựng số 9 – tổng công ty VINACONEX đã giúp đỡ, chỉ bảo tận tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em có thể hoàn thành tốt chuyên đề thực tập này. Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế đầu tư – Bộ môn kinh tế đầu tư - ĐH Kinh tế quốc dân. Quản trị đấu thầu – T.S Nguyến Hồng Minh, Th.s Đinh Đào ánh Thuỷ – BM Kinh tế đầu tư – Trường ĐH Kinh tế quốc dân Cải cách hệ thống mua sắm công Việt Nam – WB. Các tài liệu hướng dẫn về đấu thầu quốc tế cua WB , JIBIC, FIDIC, ADB, IRRB... Kinh tế Quản trị kinh doanh Xây dựng –GS TS Nguyễn Văn Chọn -ĐH Xây Dựng – NXB Khoa học kỹ thuật – Hà Nội 1996. Quản lý nhà nước về kinh tế và quản trị kinh doanh trong xây dựng – GS , TS Nguyễn Văn Chọn - ĐH xây dựng – Nhà XB xây dựng 1999. Đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1999 Giáo trình chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp –Trường ĐH KTQD –NXB Giáo dục 1997 Chiến lược và sách lược phát triển kinh doanh –Garry D.Smith và Danny R.arnold, Bobby G.Bizzell –NXB Thống kê 1997 Nghị định 88/NĐ-CP ngày 1/9/1999 về Quy chế đấu thầu . Nghị định 52/ NĐ-CP ngày 8/7/1999 về Quy chế quản lý và đầu tư xây dựng cơ bản Nghị định 12 và nghị định 14 ngày 5/5/2000 về việc sửa đổi bổ sung NĐ 52 và NĐ 88. Nghị định 66/ NĐ- CP ngày 12/06/2003 về việc sửa đổi bổ sung NĐ88/1999 và NĐ 14/2000. Phân tích kinh tế –Hoạt động SXKD của doanh nghiệp Xây dựng –NXB Xây dựng 1998 Tạp chí xây dựng 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004 Các hồ sơ dự thầu của công ty Xây dựng số 9 Mục lục Lời mở đầu 1 Chương 1: Lí luận chung về đấu thầu xây lắp quốc tế và năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp. 3 1.1. Một số vấn đề cơ bản về đấu thầu xây lắp quố tế 3 Khái niệm về đấu thầu và đấu thầu xây lắp quốc tế 3 Đặc điểm của đấu thầu quốc tế 2 Vai trò của đấu thầu xây lắp quốc tế 6 Phương thức đấu thầu và hình thức lựa chọn nhà thầu trong đấu thầu xây lắp quốc tế 8 Các nguyên tắc chỉ đạo trong đấu thầu xây lắp quốc tế 10 Quy trình đấu thầu và dự thầu xây lắp quốc tế 12 Lý luận về năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp quốc tế 17 Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường 17 Khái niệm năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp 20 Các công cụ cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp. 22 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp 25 Hệ thống chỉ tiếu đánh giá năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp 32 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp quốc tế 34 Chương 2 : Tình hình thực hiện công tác đấu thầu và thực trạng năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của công ty xây dựng số 9 36 2.1. Giới thiệu chung về công ty 36 2.2. Tình hình thực hiện công tác đấu thầu tại công ty 40 2.2.1. Quá trình tham dự đấu thầu tại công ty 40 2.2.2. tình hình thực hiện công tác đấu thầu của công ty giai đoạn 2000-2004 45 2.3. Thực trạng về năng lực cạnh tranh trong đấu thầu quốc tế của công ty 50 2.4. Đánh giá về năng lực cạnh tranh của công ty trong tham dự đấu thầu 61 2.4.1. Đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu 61 2.4.2. Đánh giá những cơ hội, thách thức của công ty trong tham dự đấu thầu quốc tế 64 2.5. Đánh giá kết quả đạt được trong công tác đấu thầu tại công ty 66 2.5.1. Những thành tựu đạt được 66 2.5.2. Những tồn tại, hạn chế 67 2.5.3. Nguên nhân của những tồn tại, hạn chế 68 2.5.4. Đánh giá tổng quát về năng lực cạnh tranh và những 71 nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty. 71 Chương 3 : Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp quốc tế tại công ty xây dựng số 9 72 3.1. Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới. 72 3.1.1. Phương hướng chung 72 3.1.2. Phương hướng phát triển trong công tác đấu thầu của công ty 72 3.1.3. Định hướng giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh 73 3.2. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu quốc tế 75 3.2.1. Các giải pháp nâng cao nội lực cạnh tranh của công ty 77 3.2.1.1. Tăng cường năng lực tài chính 77 3.2.1.2.Đầu tư trang thiết bị đồng bộ, hiện đại nhằm nâng cao năng lực kỹ thuật 79 3.2.1.3. Nâng cao trình độ của đội ngũ nhân sự 82 3.2.1.4. Nâng cao vị thế và uy tín của công ty trên thị trường 83 3.2.2. Giải pháp cho đầu ra của công ty 84 3.2.2.1. Đẩy mạnh hoạt động Marketing, giao tiếp quảng bá công ty 84 3.2.2.2. Xây dựng một HSDT chuẩn có tính thuyết phục cao 87 3.2.2.3.Tiếp tục thực hiện việc quản lý chất lượng và xây dựng 90 hệ quản trị chất lượng theo tiều chuẩn quốc tế về ISO 9000 và ISO 14000 90 3.2.3. Giải pháp từ phía nhà nước và chiến lược tranh thầu của công ty. 92 3.2.3.1. xây dựng các chiến lược tranh thầu thích hợp. 92 Chiến lược công nghệ 92 Chiến lược giá bỏ thầu 93 Chiến lược liên danh liên kết trong đấu thầu 94 3.2.3.2. Các giải pháp từ phía nhà nước. 95 3.2.4. Các giải pháp phát triển các ngành bổ trợ. 100 Kết luận 102 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0114.doc
Tài liệu liên quan