Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: ... Ebook Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lêi cam ®oan Luận văn tốt nghiệp với đề tài: “ Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ” do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của Ths. Đỗ Thị Hương và sự giúp đỡ của các anh chị trong Công ty xuất nhập khẩu Vinashin. Tôi xin cam đoan chuyên đề này là kết quả của quá trình nghiên cứu, tìm hiểu của tôi, tuyệt đối không sao chép từ bất cứ một chuyên đề, luận án nào Nếu có gì sai với lời cam đoan tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước khoa và nhà trường Hà Nội, ngày 23 tháng 04 năm 2007 Sinh viên Hoàng Thị Trung lêi c¶m ¬n Trải qua một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu em đã hoàn thành chuyên đề thực tập chuyên ngành. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của Ths. Đỗ Thị Hương . Em xin chân thành cảm ơn các anh chị trong Công ty xuất nhập khẩu Vinashin đã tạo điều kiện, giúp đỡ em thu thập thông tin để hoàn thành chuyên đề thực tập. Em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế đã tạo thuận lợi cho em trong quá trình nghiên cứu chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn ! Danh môc c¸c b¶ng vµ biÓu ®å Mô hình 1.1: Các điều kiện quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia Mô hình 1.2: Mô hình cạnh tranh 5 nhân tố Bảng 2.1: Giá trị tổng sản lượng thời kỳ 1990-1999 Bảng 2.2: Giá trị sản lượng giai đoạn 2000 đến 2006 Bảng 2.3: Các dự án đầu tư quan trọng của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam Bảng 2.4: Danh mục các sản phẩm chính của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam Bảng 3.1: Dự báo nhu cầu vận chuyển năm 2010 Bảng 3.2: Nhu cầu trọng tải các loại tàu vận tải biển năm 2010 Bảng 3.3: Nhu cầu phương tiện vận tải đường sông đến năm 2010 Biểu đồ 2.1: Giá trị tổng sản lượng giai đoạn 1990 đến 1999 Biểu đồ 2.2: Giá trị sản lượng giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2006 Biểu đồ 2.4: Nguồn nhân lực của Vinashin danh môc ch÷ viÕt t¾t Chữ viết tăt Nghĩa đầy đủ CNĐT Công nghiệp đóng tàu CNPT Công nghiệp phụ trợ DN Doanh nghiệp KH & CN Khoa học và công nghệ WTO Tổ chức thương mại thế giới Mở đầu Tính tất yếu của đề tài Hiện nay, xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ tác động đến mọi quốc gia, các lĩnh vực và các ngành. Biểu hiện của sự hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc gia và với nền kinh tế thế giới. Trong quá trình mở cửa, mỗi ngành nghề, mỗi lĩnh vực của quốc gia được đặt trong bối cảnh chung của thế giới, vừa có cơ hội đồng thời cũng gặp phải không ít khó khăn. Việt Nam chính thức là thành viên tổ chức thương mại thế giới WTO vào 7/11/2006 đã đánh dấu một bước ngoặt mới trong quá trình hội nhập của Việt Nam. Trong điều kiện mở cửa, ngành Công nghiệp đóng tàu là một trong những ngành có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của ngành giao thông đường biển Việt Nam.Tuy nhiên, trên thực tế, ngành Công nghiệp đóng tàu Việt Nam chưa đáp ứng được hết những yêu cầu của nền kinh tế mở, khi Việt Nam đã gia nhập WTO ngành Công nghiệp đóng tàu Việt Nam sẽ gặp không ít khó khăn. Do vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh ngành Công nghiệp đóng tàu Việt Nam là một nhân tố quan trọng quyết định tới sự lớn mạnh của ngành Công nghiệp nói riêng và của nền kinh tế Việt Nam nói chung. So với sự phát triển của ngành Công nghiệp đóng tàu trên thế giới, Công nghiệp đóng tàu Việt Nam còn nhiều yếu kém đang đòi hỏi sự quan tâm, đầu tư đúng mức của Nhà nước và các Bộ ngành liên quan. Do đó đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp đóng tàu Viiệt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” được chọn để nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành Công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong những năm qua, từ đó chỉ ra những hạn chế và đưa những giải pháp để khắc phục những hạn chế trên nhằm thúc đẩy ngành Công nghiệp đóng tàu Việt Nam ngày càng phát triển. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài: năng lực cạnh tranh của ngành Công nghiệp đóng tàu Việt Nam Phạm vi nghiên cứu của đề tài: ngành Công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này cần sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử Phương pháp thống kê Phương pháp tổng hợp Phương pháp phân tích 5. Kết cấu đề tài Ngoài lời mở đầu, kết luận đề tài bao gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp và sự cần thiết của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong thời gian tới Chương 1 Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp và sự cần thiết của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong điều kiện hội nhập Khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành Khái niệm Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Dựa trên các quan niệm cạnh tranh của nhiều nhà khoa học có thể đưa ra quan niệm tổng quát sau đây về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích, đối với người sản xuất - kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi. Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá và là đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường. Cạnh tranh là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, nhạy bén năng động, tổ chức quản lý có hiệu quả... để giành ưu thế so sánh với đối thủ cạnh tranh và đạt được mục đích kinh doanh. Cạnh tranh có thể dẫn đến tình trạng “ cá lớn nuốt cá bé”. làm gia tăng các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh như làm hàng giả, trốn lậu thuế, hối lộ...Cạnh tranh chạy theo lợi nhuận và lợi ích riêng sẽ làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, gây sự bất ổn trong xã hội và những bất công trong xã hội... Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp cần cung cấp cho thị trường những sản phẩm chất lượng cao, giá cả hợp lý và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đó chính là những sản phẩm có năng lực cạnh tranh trên thị trường. Các sản phẩm có năng lực cạnh tranh chỉ có thể được sản xuất và cung ứng bởi các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh. Do vậy, doanh nghiệp muốn duy trì sự tồn tại và phát triển thì cần có năng lực cạnh tranh mạnh và bền vững. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng (so với các đối thủ cạnh tranh) và đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế. Trên thực tế, các yếu tố quyết định đến khả năng doanh nghiệp giành được thị trường, tăng thị phần, thu lợi nhuận cao là lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ưu thế của nó so với các đối thủ cạnh tranh nhằm đạt được thắng lợi trong cạnh tranh. Ưu thế này có thể dẫn đến chi phí thấp hơn hoặc sự khác biệt trong sản phẩm của đối thủ cạnh tranh và được thể hiện thành tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình. Sự khác biệt trong sản phẩm của doanh nghiệp được khách hàng đánh giá cao hơn so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh và do đó họ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn. Mối quan hệ giữa lợi thế cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và vị thế cạnh tranh rất chặt chẽ: lợi thế cạnh tranh là xuất phát điểm, là điều kiện cần, năng lực cạnh tranh là điều kiện đủ để doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh mạnh trên thương trường. Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh thì nhất thiết phải có lợi thế cạnh tranh nhưng điều ngược lại thì chưa chắc đúng. Nếu doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh nhưng không có khả năng tận dụng tốt những lợi thế đó để duy trì ưu thế của mình so với đối thủ thì doanh nghiệp đó không thể coi là có năng lực cạnh tranh và lợi thế sớm muộn gì cũng sẽ mất đi. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp 1.1.2.1 Các nhân tố bên ngoài a. Các xu hướng phát triển trên thế giới - Xu hướng phát triển chung của thế giới: Nền kinh tế thế giới đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đặc biệt là sự sôi động trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tự do hoá toàn cầu hoá là vấn đề được hầu hết các quốc gia quan tâm, nó là động lực cho sự phát triển của toàn thế giới. Toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình tất yếu, là xu hướng khách quan của quá trình phát triển kinh tế thế giới. Nội dung biểu hiện của quá trình này bao gồm: Sự gia tăng của luồng giao lưu quốc tế về thương mại, đầu tư, vồn, tài chính, công nghệ, dịch vụ, nhân công.. Hình thành và phát triển các thị trường có tính thống nhất toàn cầu và các khu vực, đồng thời với việc hình thành các định chế và cơ chế điều hành các hoạt động, giao lưu kinh tế quốc tế. Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá không phải là quá trình một phía, nó đòi hỏi các quốc gia phải tuân thủ một số quy định chung tức là phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của quá trình hội nhập. Như vậy, hội nhập và toàn cầu hoá sẽ dẫn đến một hệ quả trực tiếp là xuất hiện những nền kinh tế sẽ hình thành và phát triển các quan hệ tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau. Bởi vậy, khả năng thích ứng của các quốc gia trong hoàn cảnh đó nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là rất quan trọng. Bên cạnh các quá trình phát triển kinh tế các vấn đề xã hội và môi trường đặt ra ngày càng gay gắt. Đó là vấn đề giải quyết nạn thất nghiệp, vấn đề đói nghèo, vấn đề bệnh tật của xã hội, thời tiết... Đây chính là những vấn đề có tính chất toàn cầu, liên quan đến sự phát triển và sống còn của các quốc gia. Điều đó đặt ra yêu cầu cho sự phối hợp liên quốc gia, thậm chí trên bình diện toàn cầu trong việc giải quyết các vấn đề liên quan tới sự phát triển bền vững của các dân tộc. Bối cảnh quốc tế có ảnh hưởng thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam, chúng ta cần phải có sự lựa chọn chiến lược phát triển phù hợp để khai thác triệt để những thuận lợi và hạn chế những khó khăn để phát triển ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. - Xu hướng phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu thế giới Ngành công nghiệp đóng tàu thế giới có xu hướng ngày càng phát triển. Các tàu mới sẽ được đóng để thay thế các tàu đã già và cũ. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn về an toàn hàng hải sẽ có bước phát triển nhảy vọt, khả năng kiếm soát và bảo vệ môi trường ngày một tăng mà phần lớn ở đội tàu cũ là không thoả mãn. Trong thời gian tới ngành công nghiệp đóng tàu ở khu vực Đông Á sẽ phát triển mạnh, số lượng các nhà máy đóng tàu bị đóng cửa và phá sản ở Châu Âu tăng do giá thành tàu đóng mới và sửa chữa các loại tàu thông thường ở các nhà máy ở Châu Âu rất cao so với các nhà máy đóng tàu ở Châu Á. Môi trường kinh tế, xã hội Sự ổn định kinh tế và trật tự an ninh xã hội được coi là điều kiện cần thiết cho các ngành yên tâm đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành. Sự ổn định chính trị và đảm bảo an toàn xã hội làm giảm rủi ro trong kinh doanh. Hệ thống pháp luật đồng bộ, nhất quán và ổn định tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ngành, năng lực cạnh tranh của ngành sẽ được nâng cao. Khi xã hội phát triển, cuộc sống của con người được cải thiện do đó nhu cầu của khách hàng ngày một tăng đặc biệt là những sản phẩm cao cấp. Chính vì vậy sẽ thúc đẩy doanh nghiệp tìm cách cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ từ đấy nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành. Đối thủ cạnh tranh Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, mỗi doanh nghiệp đều có cơ hội như nhau trên thị trường. Để tồn tại và phát triển bền vững trên thị trường này bản thân mỗi doanh nghiệp phải có những chiến lược thật hiệu quả để có thể thắng được đối thủ của mình. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, ứng dụng các khoa học tiến bộ. Nếu đối thủ có khả năng nhanh chóng điều chỉnh chiến lược, từ bỏ chiến lược cũ sang chiến lược mới nhằm cạnh tranh với sự phát triển của doanh nghiệp thì lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp có xu hướng tồn tại nhất thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là không bền vững. Nếu ngược lại, doanh nghiệp có nhiều khả năng duy trì lợi thế cạnh tranh của mình và có năng lực cạnh tranh mạnh và bền vững hơn. 1.1.2.2 Các nhân tố bên trong a. Chiến lược cạnh tranh của ngành Chiến lược cạnh tranh ảnh hưởng tới việc tạo dựng và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành. Một mặt chiến lược được xây dựng dựa trên lợi thế cạnh tranh. Mặt khác, thông qua các chiến lược ngành có thể tạo dựng, duy trì và phát triển các lợi thế cạnh tranh mới, và do đó năng lực cạnh tranh của ngành sẽ được nâng cao. Vấn đề mấu chốt ở đây là ngành phải xây dựng, lựa chọn và thực hiện có hiệu quả các chiến lược thích hợp để có thể khai thác tốt nhất các điều kiện môi trường kinh doanh bên ngoài và nội bộ ngành. Nguồn lực tài chính Năng lực tài chính của ngành không chỉ thể hiện ở quy mô vốn kinh doanh. Có những ngành có quy mô vốn lớn nhưng không mạnh, đó là do cơ cấu tài sản, nguồn vốn không hợp lý, ngành chưa biết cách khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính của mình. Ngược lại có những ngành quy mô nhỏ nhưng được coi là mạnh vì đã duy trì tình trạng tài chính tốt, biết cách phát huy những nguồn tài chính thích hợp để sản xuất những sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường. Vấn đề không nằm ở chỗ quy mô vồn của ngành là bao nhiêu mà là ngành sử dụng vốn hiệu quả như thế nào để phục vụ tốt đến đâu nhu cầu của khách hàng mục tiêu trong phạm vi kinh doanh của mình. Ngành có năng lực tài chính mạnh sẽ là điều kiện cần thiết rất quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh. Điều kiện vật chất kỹ thuật Điều kiện vật chất kỹ thuật thể hiện ở công nghệ, cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp trong đó công nghệ đóng vai trò rất lớn trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở trình độ trang bị công nghệ mà còn thể hiện ở trình độ chuyên môn, kỹ năng kỹ xảo của người lao động trong doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến thì năng suất lao động của doanh nghiệp sẽ được nâng cao, do đó năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ cao hơn. Nguồn nhân lực Năng lực của cán bộ lãnh đạo góp phần không nhỏ cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực lãnh đạo thể hiện trong công việc đối nội, đối ngoại của doanh nghiệp, là những người biết nhìn ra trông rộng tìm ra hưóng đi phù hợp nhất cho doanh nghiệp minh. Nếu ban lãnh đạo không không quyểt tâm nâng cao lợi thế cạnh tranh thì nhân viên cấp dưới cũng không quyết tâm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có trang thiết bị cao, có nguồn lực tài chính vững mạnh nhưng không có đội ngũ lao động có trình độ có thể sử dụng các thiết bị, công nghệ ấy thì cũng không thể có năng lực cạnh tranh mạnh được. Vì vậy việc sử dụng đội ngũ lao động có trình độ là một nhân tố quan trọng tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một số mô hình cạnh tranh phổ biến trên thế giới Mô hình về lợi thế cạnh tranh quốc gia ( mô hình kim cương) Lý thuyết về năng lực cạnh tranh quốc gia do M.Porter đưa ra vào những năm 1990. Mục đích của lý thuyết này là giải thích tại sao một quốc gia lại có được một vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm hay nói khác đi tại sao lại có những quốc gia có năng lực cạnh tranh cao về một số sản phẩm. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lập luận rằng năng lực cạnh tranh của một ngành công nghiệp được thể hiện tập trung ở khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Theo M.Porter năng lực cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết của 4 nhóm yếu tố: điều kiện về các yếu tố sản xuất; điều kiện về nhu cầu; các ngành công nghiệp có liên quan và các ngành công nghiệp hỗ trợ; chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành. Mô hình 1.1: Các điều kiện quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia Chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh nội bộ ngành Điều kiện về cầu Điều kiện về các yếu tố sản xuất Các ngành công nghiệp phụ trợ Nguồn: Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng, Giáo trình kinh tế quốc tế, NXB lao động xã hội năm 2004 Thứ nhất, điều kiện về các yếu tố sản xuất Các yếu tố sản xuất được quan niệm là tất cả những gì không phải là “đầu ra” cần thiết để cạnh tranh trong một ngành công nghiệp như lao động, nguồn đất có thể sử dụng, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn và cơ sở hạ tầng.M.Porter nhận thức được giá trị của những bổb sung cái mà ông gọi là các yếu tố tiên tiến. Đây là những yếu tố như kỹ năng của các nhóm lao động khác nhau và chất lượng của hạ tầng công nghệ quốc gia. Các yếu tố tiên tiến được hình thành chủ yếu thông qua các hoạt độn đào tạo và cơ chế khuyến khích sự sáng tạo đổi mới và phát triển. Thứ hai, điều kiện về cầu Điều kiện về cầu thể hiện trực tiếp ở tiềm năng của thị trường. Thị trường là nơi quyết định cao nhất năng lực cạnh tranh của một quốc gia. Thị trường trong nước có những đòi hỏi cao về sản phẩm là động lực thúc đẩy công ty thường xuyên cải tiến và đổi mới sản phẩm nếu công ty này muốn tồn tại. Thị trường nước ngoài đặt ra những tiêu chuẩn cao đối với các sản phẩm đòi hỏi các công ty muốn thành công trên thị trường nước ngoài phải có cách ứng xử phù hợp. Thứ ba, các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp có liên quan Năng lực cạnh tranh của một ngành nói riêng và năng lực cạnh tranh của một quốc gia nói chung phụ thuộc rất lớn vào các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp liên quan bởi vì các công ty nằm trong ngành không thể tồn tại một cách biệt lập.Các ngành công nghiệp hỗ trợ thường là các ngành cung cấp đầu vào cho các ngành có năng lực cạnh tranh. Các mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các ngành giúp cho các ngành phát huy được thế mạnh kết hợp, tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành trong cụm công nghiệp đó. Thứ tư, chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành Chiến lược của công ty có ảnh hưởng lâu dài đến năng lực cạnh tranh của nó trong tương lai bởi vì các mục tiêu, chiến lược và cách thức tổ chức của các công ty trong các ngành công nghiệp khác nhau rất lớn giữa các quốc gia.Cơ cấu của ngành công nghiệp liên quan đến những ngành mũi nhọn, các ngành được ưu tiên, mức độ liên hệ và hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngành để phục vụ cho một mục tiêu nhất định. Bên cạnh đó, cạnh tranh trong nội bộ ngành và giữa các công ty trong một nước càng gay gắt thì năng lực cạnh tranh quốc tế của công ty đó càng cao. Ngoài 4 nhóm yếu tố trên, cơ hội và vai trò của Chính phủ cũng là những yếu tố tác động rất quan trọng đến năng lực cạnh tranh của ngành. Mô hình về lợi thế cạnh tranh ngành Đến nay đã có rất nhiều mô hình được đưa ra để phân tích môi trường cạnh tranh của ngành,nhưng mô hình nổi tiếng nhất và hiện đang được sử dụng phổ biến nhất là mô hình 5 nhân tố của M.Porter. Theo M.Porter, khi phân tích cạnh tranh của doanh nghiệp thì phải phân tích đủ 5 nhân tố cơ bản chi phối hoạt động của doanh nghiệp: đối thủ cạnh tranh hiện tại, khách hàng, nhà cung ứng, các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng và sản phẩm thay thế. Mô hình 1.2: Mô hình cạnh tranh 5 nhân tố Sản phẩm thay thế Nhà cung ứng Khách hàng Đối thủ cạnh tranh hiện tại Đối thủ tiềm tàng Nguồn: Nguyễn Thị Hường, giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tập II, NXB Thống kê, năm 2004 Đối thủ cạnh tranh hiện tại Các đối thủ cạnh tranh hiện tại là các công ty, doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh trong một ngành công nghiệp nhất định, những công ty, doanh nghiệp này đã vượtqua được những rào cản để xâm nhập vào ngành hoặc những hãng muốn rút lui khỏi ngành nhưng chưa có cơ hội. Khi phân tích các đối thủ cạnh tranh hiện tại cần tìm hiểu những vấn đề sau: Thứ nhất, mục đích tương lai của đối thủ cạnh tranh. Một khi hiểu được mục tiêu của đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp có thể dự đoán được mức độ hài lòng của họ về vị trí hiện tại, những khả năng thay đổi chiến lược của họ, sự phản ứng của họ trước những thay đổi về môi trường và mức độ quan trọng của các sáng kiến mà họ đưa ra. Các mục tiêu của các đối thủ cạnh tranh cần xem xét là các mục tiêu về tài chính, về tổ chức, về sản xuất, về thị trường, về nghiên cứu và phát triển, các mục tiêu khác. Thứ hai, những nhận định của các đối thủ cạnh tranh. Là những quan điểm và thái độ của họ về môi trường bên ngoài và cách ứng xử của họ đối với môi trường bên ngoài. Việc tìm hiểu những nhận định này rất có ý nghĩa cho việc hoạch định chương trình kinh doanh, vì đây là cơ sở để các đối thủ đưa ra biện pháp cạnh tranh của riêng mình. Thứ ba, chiến lược hiện tại của đối thủ cạnh tranh. Cần phải tìm hiểu chiến lược hiện tại của từng đối thủ cạnh tranh. Điều quan trọng phải biết được các đối thủ cạnh tranh đang tham gia cạnh tranh như thế nào. Vì vậy cần xem xét các chính sách cơ chế của từng đối thủ cạnh tranh trong từng lĩnh vực hoạt động. Thứ tư, tiềm năng của đối thủ cạnh tranh. Tìm hiểu tiềm năng của đối thủ cạnh tranh tức là tìm hiểu điểm mạnh, điểm yếu, những cơ hội và thách thức của đối thủ cạnh tranh. Các lĩnh vực cần tìm hiểu về tiềm năng của đối thủ cạnh tranh bao gồm: chủng loại sản phẩm, chính sách marketing, tiềm lực tài chính, nguồn nhân lực, trình độ quản lý, khoa học công nghệ... Khách hàng Suy cho cùng tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Nếu doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt nhu cầu người tiêu dùng so với các đối thủ cạnh tranh thì họ càng nhận được sự ủng hộ và sự trung thành từ phía khách hàng. Về mặt lý thuyết, lợi ích của khách hàng và của nhà sản xuất thường mâu thuẫn với nhau. Khách hàng mong muốn có được các chủng loại hàng hoá và dịch vụ với chất lượng tốt nhất và giá cả thấp nhất. Còn nhà sản xuất mong muốn khách hàng trả cho mình với mức giá cao. Trong điều kiện một ngành có sự cạnh tranh gay gắt thì vai trò của khách hàng càng trở nên quan trọng và cần được ưu tiên hơn. Một doanh nghiệp không thể thoả mãn được tất cả nhu cầu của các loại khách hàng. Cho nên, nhất thiết các doanh nghiệp phải phân loại khách hàng thành các nhóm khác nhau. Trên cơ sở đó mới tiến hành phân tích và đưa ra các chính sách để thu hút càng nhiều khách hàng về phía mình. Các nhà cung ứng Các nhà cung ứng bao gồm các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp như các nhà cung ứng vốn, nguyên vật liệu cho sản xuất nhân công...Các nhà cung ứng ảnh hưởng không nhỏ tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cho nên việc phân tích và tìm hiểu các nhà cung ứng là vấn đề quan trọng trong quá trình phân tích cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng Khi một ngành có sự gia tăng thêm các đối thủ cạnh tranh mới thì hệ quả có thể là tỷ suất lợi nhuận bị giảm tăng thêm mức độ cạnh tranh. Các đối thủ mới tham gia vào thị trường sau nên họ có khả năng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiến bộ. Sự xuất hiện của đối thủ cạnh tranh mới trong ngành thông thường qua việc mua lại các doanh nghiệp đang hoạt động, nhưng đang có ý định rút lui khỏi ngành. Không phải bao giờ cũng gặp phải các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng, nhưng khi đối thủ mới xuất hiện thì vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ thay đổi. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải tự tạo ra một hàng rào ngăn cản sự xâm nhập của các đối thủ mới. Những hàng rào này là lợi thế sản xuất theo quy mô, đa dạng hoá sản phẩm, nguồn tài chính lớn... Sản phẩm thay thế Sức ép do xuất hiện sản phẩm thay thế làm hạn chế lợi nhuận tiềm năng của ngành do mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới các sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh nghiệp có thể sẽ bị tụt lại ở các thị trường nhỏ bé. Vì vậy các hãng không ngừng nghiên cứu và tung ra các mặt hàng thay thế. Mô hình phân tích SWOT SWOT viết tắt của 4 từ: Thế mạnh (Strengths); điểm yếu(Weaknesses); cơ hội (Opptunities); đe doạ (Threats). Là mô hình được dùng phổ biến trong thực tế để đánh giá hoạt động của một công ty. một ngành từ đó rút ra được những chiến lược hợp lý cho hoạt động của công ty hoặc ngành đó trong thời gian tới. Mô hình này bao gồm 2 mảng: S- W, là các nhân tố bên trong, chủ quan như nhân sự, tài chính, công nghệ, văn hoá...Còn O-T là nhân tố đến từ môi trường bên ngoài, những nhân tố khách quan. Những khía cạnh liên quan đến cơ hội và mối đe doạ có thể do sự biến động của nền kinh tế, sự thay đổi trong chính sách của Nhà nước...Nếu như việc phân tích mô hình này được chú trọng, phân tích một cách chính xác thì các chiến lược cấp ngành đề ra có thể nắm bắt được các cơ hội và sẵn sàng đối phó với các đe doạ có thể xẩy ra. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của ngành Cạnh tranh về sản phẩm Xã hội ngày càng phát triển, đời sống ngày càng được nâng cao. Nhu cầu của khách hàng ngày một tăng về số lượng và chất lượng. Do vậy các sản phẩm, các hoạt động dịch vụ phải có sự đổi mới phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Để thành công trong chiến lược phát triển, thắng thế các đối thủ cạnh tranh thì mỗi ngành phải xác định rõ mình có lợi thế về vấn đề gì để khai thác và nâng cao năng lực cạnh tranh mình. Và việc nghiên cứu, thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phẩm là điều không thể thiếu để các doanh nghiệp có thể tồn tại trong thời đại kinh tế thị trường này. Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng lĩnh vực nên mức độ cạnh tranh ngày càng cao, để sản phẩm của mình được khách hàng lựa chọn không phải là dễ và để khách hàng tin tưởng sản phẩm của mình thì càng khó khăn hơn. Chính vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp phải đặc biệt chú trọng tới việc nâng cao chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã...của sản phẩm, có như vậy doanh nghiệp mới có chỗ đứng trên thị trường. Cạnh tranh về khoa học công nghệ Khoa học công nghệ đã có những bước tiến khổng lồ và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những tiến bộ của khoa học công nghệ đã đưa toàn thế giới vào một thời kỳ phát triển mới: thời kỳ phát triển tri thức. Ngành công nghiệp đóng tàu là một trong những ngành đòi hỏi các kỹ thuật công nghệ hiện đại để có thể đóng những tàu có trọng tải lớn và nâng cao năng suất lao động. Chính vì vậy, để ngành công nghiệp đóng tàu có thể đứng vững trên thị trường thế giới các quốc gia cũng như bản thân mỗi doanh nghiệp đóng tàu đều chú trọng đầu tư phát triển công nghệ tiên tiến nhất. Các doanh nghiệp, các tập đoàn sở hữu được những khoa học công nghệ hiện đại hơn so với các đối thủ cạnh tranh của mình thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đấy sẽ được nâng lên rất nhiều. Không ngừng đổi mới, ứng dụng những khoa học công nghệ tiến bộ là giải pháp không thể thiếu của các doanh nghiệp khi muốn có chỗ đứng trong nền kinh tế thị trường này. Do đó, khoa học công nghệ là một trong những công cụ cạnh tranh quan trọng của ngành. Cạnh tranh về nguồn nhân lực Một nguồn tài chính mạnh, một trang thiết bị hiện đại mà không có một nguồn nhân lực có đủ trình độ thì ngành đó cũng không thể phát triển. Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng quyết định tới sự thành công của mỗi doanh nghiệp. Một đội ngũ lao động có trình độ, có khả năng ứng dụng các trang thiết bị hiện đại sẽ là một động lực quan trọng để doanh nghiệp ấy có thể cạnh tranh với các đối thủ. Lao động giỏi sẽ đưa ra những sáng kiến, làm việc có nhiều sáng tạo và hiệu quả làm việc cao tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động và đưa ra thị trường những sản phẩm cao để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Chính vì vậy, để thành công các doanh nghiệp luôn tìm kiếm những lao động có trình độ và chuyên môn cao để có thể phát triển doanh nghiệp, đưa ra những chính sách đãi ngộ người lao động hấp dẫn để thu hút nhiều lao động giỏi, thu hút được nhiều lao động giỏi là một trong những bước khởi đầu cho sự thành công của mỗi doanh nghiệp. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh Chỉ số về năng suất: Năng suất về lao động là khả năng sản xuất một sản phẩm trong một đơn vị thời gian. Năng suất lao động ảnh hưởng rất lớn tới chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động cao làm giá thành sản phẩm hạ và giá cả hàng hoá giảm, Điều này chứng tỏ khả năng thâm nhập thị trường cũng như sức cạnh tranh của sản phẩm ngành được nâng cao. Ngược lại, nếu năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm lên cao sẽ dẫn tới mức tiêu thụ kém, hàng hoá ứ đọng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành không cao. Tới một chừng mực nhất định, khi ngành hàng không chịu được sức ép cạnh tranh do năng suất lao động thâp sẽ dẫn đến đình trệ sản xuất và phá sản. Đầu ra ( hàng hoá, dịch vụ) Năng suất = Đầu vào ( lao động, vốn, công nghệ...) Chất lượng sản phẩm Nâng cao chất lượng sản phẩm một mặt làm tăng uy tín, danh tiếng của sản phẩm đó, tạo ra nhiều giá trị hơn cho khách hàng và do đó ngành có thể định giá bán cao hơn. Mặt khác, chất lượng của các quá trình trong nội bộ ngành được nâng cao sẽ làm tăng hiệu quả, hạ thấp chi phí đơn vị sản phẩm. Nâng cao chất lượng quá trình sản xuất sẽ làm giảm tỷ lệ sản phẩm sai hỏng, giảm thời gian và chi phí cho việc sửa chữa, phục hồi các sản phẩm hỏng...từ đó, năng suất lao động và năng suất các yếu tố khác đều tăng dẫn đến chi phí giảm. Chất lượng sản phẩm cao, vị trí của ngành được khẳng định trên thị trường, ngành sẽ nhận được sự tin tưởng của khách hàng, điều này chứng tỏ năng lực cạnh tranh của ngành ngày càng cao. Chính vì vậy, chất lượng sản phẩm là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành. Khả năng đổi mới của ngành Đổi mới được hiểu là bất kỳ cái gì mới trong cách thức mà ngành hoạt động cũng như trong sản phẩm, dịch vụ mà nó sản xuất và cung ứng. Đổi mới bao gồm sự cải tiến hoặc sáng tạo mới các sản phẩm, quá trình sản xuất,cơ cấu tổ chức quản lý kinh doanh, các chiến lược mà ngành xây dựng và thực hiện. Do vậy, đổi mới thể hiện tính linh hoạt và năng động của doanh nghiệp thích ứng với các điều kiện môi trường kinh doanh. Đổi mới có thể được coi là yếu tố quan trọng nhất tạo nên lợi thế cạnh tranh. ._.Nếu đổi mới thành công doanh nghiệp sẽ tạo ra những điểm độc đáo mà doanh nghiệp khác không có. Khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng Muốn có năng lực cạnh tranh cao hơn doanh nghiệp cần phải xác định và thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh. Khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng của doanh nghiệp được thể hiện trên nhiều khía cạnh: Khả năng cung cấp cho khách hàng đúng hàng hoá, dịch vụ mà họ cần, vào đúng thời điểm mà họ muốn. Cung cấp cho khách hàng những sản phẩm chất lượng cao hơn, tính năng ưu việt hơn so với những sản phẩm hiện có trên thị trường với mức giá chấp nhận được có thể được coi là phục vụ tốt hơn nhu cầu khách hàng. Doanh nghiệp cung ứng được nhiều loại và chủng loại sản phẩm sẽ có khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng và do đó có năng lực cạnh tranh cao hơn Thời gian đáp ứng nhu cầu khách hàng. Điều này tuỳ thuộc vào đặc thù của doanh nghiệp, thời gian đáp ứng nhu cầu được tính toán khác nhau. Thời gian đáp ứng nhu cầu khách hàng càng được rút ngắn, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao. Sự hoàn hảo các dịch vụ trước, trong và sau bán hàng đang ngày càng trở thành nhân tố quan trọng thu hút sự trở lại của khách hàng, tăng uy tín cho doanh nghiệp, nuôi dưỡng sự trung thành của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp và doanh nghiệp. Sự liên kết, hợp tác giữa các công ty trong ngành Trong hoạt động kinh doanh, liên kết, hợp tác vốn đã là một yêu cầu tự nhiên để tăng năng suất lao động của mỗi doanh nghiệp ( DN). Ngày nay, khi vào WTO, khi phần lớn các DN nước ta còn nhỏ và vừa, thì việc liên kết,liên doanh để bổ sung năng lực, khắc phục yếu kém để tăng năng lực cạnh tranh lại càng cấp bách. Việc liên kết không chỉ giúp DN giảm giá thành, tăng chất lượng hàng hoá, còn có thể giúp cho DN nhận những đơn hàng lớn mà mỗi DN không thể đáp ứng, từ đó, mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo điều kiện phát triển DN trong tương lai. Kinh nghiệm cho thấy, có rất nhiều phương thức liên kết hết sức phong phú: giữa các DN vừa và nhỏ với nhau, giữa DN vừa và nhỏ với DN lớn...Liên kết để hỗ trợ nhau trong từng khâu của quá trình kinh doanh; cũng như liên kết để tăng quy mô DN, hình thành những Tập đoàn kinh tế lớn đủ sức đưa DN Việt Nam ra thế giới. Liên kết trong khâu sản xuất là rất quan trọng, như giúp nhau đổi mới công nghệ, trao đổi kỹ năng quản lý DN, giúp nhau tiền vốn..song việc liên kết trong cung ứng vật tư, nguyên liệu, trong tiêu thụ sản phẩm hàng hoá...cũng rất cần được quan tâm, vì chính những khâu này cũng giúp tăng thêm giá trị của hàng hoá, và đây cũng là khâu mà DN nước ta ít chú ý thực hiện. Trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của các hiệp hội DN, hiệp hội ngành nghề càng cần phải khẳng định và phát huy, đó chính là cạnh tranh trong hợp tác, hợp tác để cạnh tranh tốt hơn, để tăng thêm sức mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi DN, của ngành và cả nền kinh tế. Khái quát về ảnh hưởngcủa hội nhập kinh tế quốc tế đối với ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia phát triển mạnh các quan hệ kinh tế với phần còn lại của thế giới như thương mại, đầu tư, dịch vụ... làm nền kinh tế quốc gia trở thành một bộ phận thống nhất trong nền kinh tế thế giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà xu thế toàn cầu đang phát triển nhanh chóng, gia tăng mạnh mẽ quy mô và phạm vi giao dịch hàng hoá, dịch vụ xuyên quốc gia, dòng vốn đầu tư lan toả ra toàn cầu, công nghệ, kỹ thuật truyền bá nhanh chóng và rộng rãi. Cục diện ấy vừa tạo ra những khả năng mới để mở rộng thị trường, thu hút vốn, công nghệ; vừa đặt ra những thách thức mới về nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và sự cạnh tranh rất gay gắt. Nền kinh tế nước ta là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thế giới nên không thể không tính đến những xu thế của thế giới, tận dụng những cơ hội do chúng đem lại đồng thời ứng phó với những thách thức do chúng đặt ra. Ảnh hưởng hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của ngành Công nghiệp đóng tàu Việt Nam 1.5.2.1 Cơ hội đối với ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Với diện tích bờ biển 32000km, Việt Nam có nhiều thuận lợi cho sự phát triển ngành công nghiệp đóng tàu. Vận tải đường biển Việt Nam cũng đang ngày càng phát triển, nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, khu vực mà nó đang tiến dần hội nhập cùng thế giới. Do đó, nó đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế nhiều mặt về kỹ thuật, cơ sở vật chất, chính sách, luật lệ để đảm bảo cho ngành công nghiệp đóng tàu phát triển. Xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và quá trình tự do hoá thương mại, dịch vụ đã trở thành một xu thế tất yếu và là nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế. Ngành công nghiệp đóng tàu cũng không nằm ngoài quá trình này. Chính sách mở cửa đã mang lại cho Việt Nam một sức sống sôi động và trong môi trường hội nhập toàn cầu hoá hiện nay, không thể đóng cửa để chịu cô lập, tụt hậu mà phải tranh thủ lợi thế để tồn tại và phát triển với những bước đi thích hợp. Hơn nữa, hiện nay Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp đóng tàu nói riêng chịu sức ép của các nước, đặc biệt là những nước lớn muốn đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại, vì vậy không còn cách nào khác, ngành công nghiệp đóng tàu coi hợp tác và hội nhập quốc tế là một hướng đi tất yếu và là điều kiện để tồn tại và phát triển. Tự do hoá tạo ra môi trường thông thoáng, giúp ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam có điều kiện tận dụng triệt để các cơ hội khai thác và hợp tác có lợi nâng cao hiệu quả. Các hoạt động hợp tác liên doanh liên kết với nước ngoài càng được mở rộng tạo điều kiện cho ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh nghiệm và các công nghệ tiên tiến trên thế giới đưa ngành công nghiệp đóng tàu trở thành một ngành quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước. Nếu ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam thành công và đứng vững trong môi trường cạnh tranh toàn cầu, thì đó chính là sự khẳng định vị thế của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam và nâng cao vị thế của ngành nói riêng và của Việt Nam nói chung trên thị trường thế giới. Hội nhập và tự do phải được tiến hành từng bước thích hợp để ngành có điều kiện chuẩn bị và thích nghi. Nhà nước phải có các chủ trương chính sách phù hợp với quá trình hội nhập của ngành công nghiệp đóng tàu tạo thuận lợi cho ngành tham gia hội nhập thành công. 1.5.2.2 Thách thức đối với ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, từng bước tham gia vào quá trình hội nhập. Tuy nhiên, hội nhập không chỉ mang đến những cơ hội mà nó còn bao gồm cả những thách thức đối với ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam: Thứ nhất, đó là chúng ta tham gia vào một “ võ đài ” ngày càng được mở rộng, đối mặt với số đối thủ ngày càng lớn, già dặn hơn và mạnh hơn trên nhiều phương diện, từ tiềm lực tài chính, kinh nghiệm và tri thức kinh doanh cho đến năng lực công nghệ, kỹ thuật... Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của ngành Công nghiệp đóng tàu Việt Nam trên thị trường thế giới. Thứ hai, Đây là cuộc đua diễn ra trong hoàn cảnh quốc tế không ổn định, khó dự đoán. Chu kỳ sản xuất và công nghệ càng được rút ngắn, đến mức chỉ chậm một phút thì mọi cơ hội có thể biến mất. Môi trường đó đòi hỏi các doanh nghiệp, để trụ vững và phát triển, vừa phải có tầm nhìn xa, lại vừa phải có năng lực xử lý và phản ánh tình huống đặc biệt nhanh và nhạy. Thứ ba, trong nền kinh tế hiện đại, tầm quan trọng của lợi thế cạnh tranh truyền thống ( tài nguyên thiên nhiên và chi phí lao động rẻ ) đang giảm sút. Tri thức, công nghệ và kỹ năng cao trở thành yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh. Nhưng hiện nay, trình độ khoa học công nghệ của ngành chưa cao, do đó sẽ làm giảm sút khả năng cạnh tranh của ngành trong môi trường hội nhập này. Vai trò của ngành công nghiệp đóng tàu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Ngành công nghiệp đóng tàu với sự phát triển kinh tế xã hội Trong thời gian vừa qua, ngành công nghiệp đóng tàu đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Sự đóng góp của ngành đối với xã hội đã khẳng định vị trí của ngành trong quá trình phát triển, xây dựng đất nước. 1.6.1.1 Đối với tăng trưởng kinh tế Với sự phát triển không ngừng, những sản phẩm có kỹ năng kỹ thuật cao như tàu 53.000 DWT, tàu 12.500 DWT, tàu hàng 54.000DWT, tàu container 1700 TEU, tàu 8.700 DWT và tàu chở ô tô 4900 xe...ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam góp phần làm thay đổi diện mạo nền công nghiệp nước nhà với tốc độ tăng trưởng trên 30% kể từ năm 1990 đến nay. Năm 2006 Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam đạt 14.794,42017 (tỷ đồng) tổng sản lượng và đạt 11.144,280 (tỷ đồng) về doanh thu, năm 2005 đạt 549,074 (tỷ đồng) về tổng sản lượng, đạt 11.476,555 ( tỷ đồng ) về doanh thu. Trong cơ cấu đội tàu chở dầu, số phương tiện được đóng ở trong nước ngày càng được tăng lên, thay thế cho phương tiện thuê, mua của nước ngoài. Các phương tiện tàu thuỷ dùng trong vận tải thuỷ nội địa đều được sản xuất trong nước. Điều này giúp quốc gia tiết kiệm được một lượng ngoại tệ đáng kể. Nguồn: Tập đoàn kinh tế Vinashin - Báo cáo tài chính năm 2006 và kế hoạch phát triển năm2007 Theo Bộ thương mại, năm 2005, kim ngạch xuất khẩu ngành đóng tàu hiện nay đạt khoảng 200 triệu USD/năm. Với sự đầu tư và hỗ trợ của Nhà nước, Bộ Thương mại dự kiến đến năm 2010 ngành đóng tàu Việt Nam có thể xuất khẩu được giá trị đạt 2 tỷ USD, tăng 17% so với kế hoạch n ăm 2006 - 2010. 1.6.1.2 Đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việc phát triển công nghiệp đóng tàu đã mang lại hiệu quả tích cực trong việc thực hiện Nghị quyết TW8 và Nghị quyết TW9 đề ra về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng hiện đại hoá đất nước. Ngành ngày càng phát triển rộng ra tất cả các khu vực trong cả nước, mang lại doanh thu lớn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Tại các khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh có thể nói công nghiệp đóng tàu là ngành công nghiệp then chốt, mang lại doanh thu lớn cho ngân sách Nhà nước với các nhà máy đóng tàu chủ đạo như đóng tàu Bạch Đằng, Hạ Long...Việc phát triển công nghiệp đóng tàu thúc đẩy phát triển kinh tế, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1.6.1.3 Đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội Việc làm cho người lao động là vấn đề luôn được Nhà nước quan tâm trong mọi thời đại. Với sự phát triển của mình ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết việc làm cho người lao động với số lượng 45.042 người, thu nhập bình quân đầu người / tháng: 2.003.3339đồng. Bên cạnh đó sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu không thể thiếu các ngành phụ trợ, do vậy số lao động thất nghiệp sẽ được giảm đi đáng kể. Công nghiệp đóng tàu là ngành Công nghiệp tạo nên trang thiết bị kỹ thuật chủ yếu để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam có diện tích biển lớn thuận tiện cho sự phát triển các ngành kinh tế biển như khai thác tài nguyên thiên nhiên, dịch vụ cảng, vận tải biển...bên cạnh đó còn có hoạt động khảo sát nghiên cứu biển, xây dựng các công trình biển.. Đó là những hoạt động mang lại cho nhiều lợi ích cho Việt Nam nếu có thể khai thác tốt lợi thế của mình. Nhưng những hoạt động này lại hết sức khó khăn và phức tạp, đòi hỏi những cơ sở vật chất kỹ thuật lớn, có yêu cầu kỹ thuật cao, Để đáp ứng được yêu cầu đó yêu cầu phải có một ngành công nghiệp mang tính chất hậu cần, đáp ứng yêu cầu làm chủ, tiến tới cung ứng và đổi mới trang thiết bị cần có, đó là ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Hiện nay, ngành công nghiệp đóng tàu đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu cần thiết cho sự phát triển các hoạt động trên biển của đất nước tạo điều kiện thuận lợi lớn để thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam. Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đang dần trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn trong chiến lược phát triển của đất nước. Ngành đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về phương tiện vận tải đường thuỷ nội địa và đáp ứng một phần nhu cầu của thế giới. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp đóng tàu cũng góp phần vào nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Chính vì vây, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam là một sự cần thiết. Kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp đóng tàu của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Kinh nghiệm của Trung Quốc Hiện nay ngành đóng tàu Trung Quốc đã lớn mạnh và đạt quy mô đáng kể. Trung quốc hiện có trên 400 nhà máy đóng tàu và chữa tàu. Tốc độ hiện đại hoá các nhà máy đóng tàu của Trung Quốc tiến triển tốt, có 77 triển đà có thể đóng tàu trên 1vạn tấn, có các ụ khô đóng tàu 15 vạn tấn, có 2ụ có khả năng tiếp nhận cho tàu đến 300.000DWT. Để đạt được kết quả này, Trung Quốc đã chú trọng tới việc nâng cao kỹ thuật xử lý các vấn đề chuyên môn vào công nghệ đóng tàu mới và trình độ cán bộ. Các vấn đề như tiết kiệm nhiên liệu, hệ thống vận hành, tàu tự động hoá, giảm độ rung và tiếng ồn ngàu càng được xử lý tốt hơn. Trung Quốc đã tham gia mạnh mẽ vào thị trường đóng tàu thế giới để liên kết và học hỏi kinh nghiệm của các nước để nâng cao khả năng phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu Trung Quốc. Theo tin của tạp chí “ Steel Business Briefing” trích dẫn từ Hiệp hội đóng tàu quốc gia Trung Quốc thì “ Chiến lược phát triển dài hạn ngành đóng tàu Trung Quốc” vừa được Chính phủ phê duyệt. Theo Hiệp hội. Trung Quốc sẽ tập trung phát triển ba khu vực công nghiệp đóng tàu quốc gia lớn tại Bắc, Nam và Đông đất nước. Mục tiêu phát triển các khu này là nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường nội địa và xuất khẩu. Theo số liệu thống kê của ngành đóng tàu Trung Quốc thì các đơn xuất khẩu tàu của Trung Quốc năm 2005 đạt tổng giá trị 3,4 tỷ USD tăng 67% so với năm trước. Dự kiến nhu cầu đóng mới của thị trường nội địa cũng sẽ tăng mạnh trong năm tới. Dự báo, trong giai đoạn 2006 - 2010 mỗi năm sẽ tăng bình quân 8,3 triệu tấn trọng tải và tăng đến mức 10,28 triệu tấn trọng tải / năm trong giai đoạn 2011- 2015. Nguồn: Nyuyễn Quốc Ánh - Tạp chí công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam ( tin từ VietNamNet) Như vậy ngành đóng tàu của Trung Quốc luôn cố gắng tự vươn lên, bên cạnh đó sự trợ giúp của Chính phủ góp phần không nhỏ. Chính phủ thu xếp cho ngành nhận thầu các công trình lớn về kết cấu thép, cầu vượt, nhà cao tầng... Điều này giúp cho ngành có vốn tích luỹ tự đầu tư chiều sâu cho các nhà máy trong ngành thực hiện chương trình hiện đại hoá toàn ngành. Kinh nghiệm của Hàn Quốc Hàn Quốc là một trong những quốc gia có ngành công nghiệp đóng tàu vào loại mạnh nhất thế giới. Chính phủ Hàn Quốc tập trung phát triển một số tập đoàn công nghiệp đóng tàu mạnh như Huynđai, Daewoo, Samsung, Hanjin. Trong những năm vừa qua, Hàn Quốc và Nhật Bản luôn giành ngôi đứng đầu thế giới về đơn đặt hàng đóng tàu. Theo Bộ Thương mại, Công nghiệp và năng lượng Hàn Quốc, trong quý I/2006, các hãng đóng tàu nước này nhận được số đơn đặt hàng kỷ lục là 137 chiếc, trị giá 12 tỷ USD, tăng 34% so với cùng kỳ năm ngoái. Ba hãng đóng tàu lớn Daewoo Shipbuilding & Marine Engineering, Huynđai, Samsung hiện chiếm lĩnh thị trường tàu chuyên chở container loại lớn, tàu chở dầu và tàu chở khí tự nhiên hoá lỏng hiện đại. Năm 2005, các công ty đóng tàu Hàn Quốc chiếm 71% đơn đặt hàng mới đối với tàu chở khí tự nhiên hoá lỏng, 64,3% tàu chở container loại lớn và 42,4% tàu chở dầu siêu lớn. Tính chung Hàn Quốc chiếm 35% thị phần ngành công nghiệp đóng tàu toàn cầu. Nguồn: Khánh Trình - Tạp Chí Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam ( tin từ VietNamNet) Để phát triển công nghiệp đóng tàu, Hàn Quôc tổ chức các tập đoàn lớn như tập đoàn Huynđai, Samsung, Daewoo...với thế mạnh riêng của mỗi tập đoàn để phát triển các sản phẩm khác nhau. Các tập đoàn duy trì quan hệ với các đối tác nước ngoài để tìm kiếm và thực hiện hợp đồng. Các doanh nghiệp Hàn Quốc được hưởng lợi nhiều nhất từ sự suy giảm năng lực đóng tàu của Nhật Bản. Các xưởng đóng tàu đất nước mặt trời mọc hiện đang đối mặt với tình trạng thiếu kỹ sư trẻ có khả năng thiết kế loại tàu mới. Điều này buộc Nhật Bản đóng tàu theo kiểu mẫu có sẵn và nhường các lĩnh vực có lợi nhuận cao cho các đối thủ Hàn Quốc. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Từ kinh nghiệm của các nước, đặc biệt là Trung Quôc, Hàn Quốc chúng ta rút ra một số bài học cho sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam: Xây dựng cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp đóng tàu thành cụm công nghiệp đóng tàu và sửa chữa tàu, thành lập các cơ sở đóng tàu phù hợp với điều kiện tự nhiên của mỗi vùng. Các đơn vị trong ngành nên chủ động xây dựng cơ sở sản xuất của mình không nên quá trông chờ vào Nhà nước. Để ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam phát triển phù hợp trong điều kiện hội nhập thì chúng ta phải phát triển ngành công nghiệp đóng tàu theo hướng kết hợp thoả mãn nhu cầu thị trường trong nước tiến tới xuất khẩu cho các nước trong khu vực và trên thế giới. Ngành công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam đẩy mạnh nghiên cứu, thiết kế, sử dụng các khoa học công nghệ tiến bộ trên thế giới để nâng cao năng suất lao động. Đồng thời đào tạo và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ trong ngành tạo thuận lợi để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành. Chính phủ Việt Nam nên có các biện pháp hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ tạo điều kiện cho ngành ngày một phát triển. Chương 2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam 2.1 Quá trình hình thành và phát triển Công nghiệp đóng tàu Việt Nam Việt Nam là quốc gia có ưu thế về đường sông, đường biển nên Đảng và Nhà nước đã sớm chú trọng tới sự phát triển vận tải thuỷ. Và để phát triển vận tải thuỷ thì vấn đề quan trọng là phát triển phương tiện vận tải thuỷ. Chính vì vậy ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã có quá trình hình thành và phát triển lâu dài trong đó có Tổng Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt nam là một trong 17 Tổng công ty lớn nhất của nhà nước được thành lập theo Quyết định số No 69/TTg do Thủ tướng Chính phủ và ban hành ngày 31 - 01 - 1996 trên cơ sở tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam - Một ngành đã có truyền thống rất lâu đời ở Việt nam. Thời kỳ trước năm 1990 Trước những năm 1990, Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Chiến tranh đã gây ra làm cho nền kinh tế nước ta quá lạc hậu, nghèo nàn, cuộc sống của nhân dân lầm than. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Vào những năm 1960 nhiêm vụ của ngành chỉ là lắp ráp các phân đoạn, tổng đoạn sà lan, tàu cuốc từ Trung Quốc, Liên Xô chuyển sang. Cơ sở của ngành chỉ gồm 4 xưởng đóng tàu và xưởng cơ khí Hải Phòng. Trong thời gian này hai sản phẩm của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam do chúng ta tự thiết kế và thi công thành công là tàu lai 135 CV, mớn nước 1,25m và ca nô lai phà vỏ gỗ. Vào những năm 1970, khi giặc Mỹ phá hoại miền Bắc lần thứ 2, các phương tiện giao thông vận tải cần phải huy động cho thời chiến, các sản phẩm thô sơ của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cũng góp phần vào thắng lợi của đất nước. Sau khi thống nhất đất nước, nhiệm vụ chính của ngành công nghiệp đóng tàu là nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các phương thủy phục vụ yêu cầu phát triển của ngành nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Nhiều loại tàu đã và đang được thiết kế có trọng tải khác nhau như tàu hàng cỡ nhỏ 70 - 400T chạy ven biển, tàu khách đi sông, tàu du lịch các loại...Số lượng sản phẩm trong giai đoạn này tăng lên rõ rệt nhưng tổng sản phẩm ngành tạo ra cho xã hội không lớn. Vào cuối những năm 1980 ngành công nghiệp đóng tàu cũng đã sản xuất được một số sản phẩm với tiến bộ vượt bậc: tàu khách 220 chỗ, tàu hàng 1.000T - 3.850T, tàu chở xăng 400, các loại tàu kéo, phà qua sông... đánh dấu một bước phát triển mới cho ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. 2.1.2 Thời kỳ 1990 đến năm 2000 Đây là thời kỳ nên kinh tế Việt Nam có sự chuyển biến quan trọng, Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường tạo nên sự năng động của nền kinh tế.Với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về các sản phẩm ngành công nghiệp đóng tàu cũng gia tăng. Để đáp ứng cho sự phát triển của xã hội ngành đã thiết kế và chế tạo được một khối lượng lớn phương tiện thuỷ với chất lượng ngày càng hoàn thiện. Việc chế tạo các loại phương tiện thuỷ không chỉ phục vụ phát triển đội tàu trong nước mà còn vươn tới các nước trong khu vực. Nhiều tàu mới được đóng như tàu chở khách cho nước Lào, Campuchia và ngành đã khai thác tốt, tận dụng nguyên vật liệu đã qua sử dụng, ngành đã thành lập các cơ sở nhập khẩu tàu cũ về phá vỡ lấy tôn thép đặc chủng cung cấp cho ngành. Bảng 2.1: Giá trị tổng sản lượng thời kỳ 1990-1999 Đơn vị tính: Triệu đồng và % Năm Giá trị sản lượng Tốc độ tăng trưởng 1990 56.360 30% 1991 82.540 46% 1992 219.605 166% 1993 296.225 35% 1994 373.447 26% 1995 450.078 21% 1996 662.535 47% 1997 813.088 24% 1998 1.132.181 38% 1999 1.580.000 40% Nguồn: Đề án phát triển Tập đoàn kinh tế Vinashin giai đoạn 2001 - 2010 Nhìn vào bảng 2.1 ta thấy, trong giai đoạn này ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam có tốc độ phát triển khá cao, mức tăng trưởng hàng năm ước đạt 20 - 50 %/ năm. Đây là một thành công lớn khi Việt Nam mới chuyển đổi nền kinh tế. Tuy nhiên, trong giai đoạn trước năm 1996 ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam với cơ sở vật chất vừa thiếu vừa cũ kỹ, lạc hậu, thiếu phương tiện sản xuất cần thiết cho ngành đóng tàu như triền, đà, ụ và các thiết bị cẩu tải có sức nâng lớn...Các nhà máy hoạt động chủ yếu là sửa chữa, sản phẩm đóng mới phần lớn là các loại tàu dưới 2.000DWT nhưng số lượng không nhiều. Năm 1996 Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam ra đời đã cho ra đời hàng chục con tàu từ 1.000T đến 4.000T với chất lượng ngày càng cao có chức năng phức tạp và công suất lớn như tàu hút Long Châu, tàu Trần Hưng Đạo, chế tạo thành công tàu hút biển 300m3/h, lắp ráp tàu hút tới 4.000HP. Khối lượng sản phẩm cũng như doanh thu và tốc độ phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp này không ngừng tăng lên. Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam có tốc độ tăng trưởng ngày càng cao, tổng sản lượng năm sau luôn cao hơn năm trước. Năm 1990, tổng sản lượng của ngành đạt 56.360 triệu đồng nhưng đến năm 1999 đã đạt 1.580.000 triệu đồng, điều này chứng tỏ tầm quan trọng của ngành ngày càng được khẳng định. 2.1.3 Thời kỳ từ năm 2000 đến nay Đây là những năm đầu tiên của một thế kỷ mới, nó có một ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển của ngành cũng như của nền kinh tế quốc gia và trên thế giới. Với chính sách mở cửa nền kinh tế tham gia vào quá trình hội nhập, quyết tâm xây dựng Việt Nam theo con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cũng không ngừng cố gắng để góp phần thực hiện thành công mục tiêu ấy. Ngày 11/11/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 1055/QĐ- TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể phát hành ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đến năm 2010, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước có nền công nghiệp tàu thuỷ phát triển vào loại trung bình tiên tiến trong khu vực. Từ đây đã mở ra một cơ hội mới cho ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Bảng 2.2: Giá trị sản lượng giai đoạn 2000 đến 2006 Đơn vị tính: triệu đồng và % Năm Giá trị sản lượng Tốc độ tăng trưởng 2000 2.111.670 34% 2001 3.037.645 44% 2002 4.650.353 53% 2003 7.079.490 52% 2004 10.273.243 45% 2005 15.025374 46,5% 2006 23.741.000 58% Nguồn: Đề án phát triển Tập đoàn Vinashin giai đoạn 2001 - 2010 Dựa vào bảng 2.2 ta thấy, trong giai đoạn này ngành luôn có tốc độ tăng trưởng cao, giá trị tổng sản lượng đạt có sự gia tăng đáng kể. Năm 2000 giá trị tổng sản lượng của ngành đạt 2.111.670 triệu đồng, đến năm 2003 đã tăng lên tới 7.079.490 triệu đồng và đặc biệt năm 2006 là một năm thắng lợi lớn của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam với tổng giá trị sản lượng đạt 23.741.000 triệu đồng. Một thời kỳ phát triển vượt bậc của ngành đã bắt đầu mở ra cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy chỉ với thời gian ngắn, song Tập đoàn Vinashin nói riêng và ngành đóng tàu Việt Nam nói chung đã có những bước phát triển nhanh chóng với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Sự đa dạng về chủng loại, quy mô về trọng tải của sản phẩm nên đã nhận được nhiều đơn đặt hàng trong nước và nước ngoài như 8 tàu hàng trọng tải 34.000 tấn được đóng để xuất khẩu sang Anh với trị giá 26,5 triệu USD/ Chiếc; 5 tàu chở hàng và hoá chất trọng tải 6.500 tấn xuất khẩu sang Hàn Quốc mỗi chiếc trị giá 11triệu USD; tàu chở hàng trọng tải 8.700 tấn xuất khẩu sang Nhật Bản... Mức tăng trưởng bình quân đạt trên 30%. Hiện nay, phần vốn  trong ngành đóng tàu đang chiếm 30-35% tổng vốn của nước ta nhưng có thể sẽ nhanh chóng nâng lên mức 60% vào năm 2010. Nguồn: Theo TTXVN ( tin từ www.nld.com.vn) Biểu đồ Giá trị sản lượng giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2006 Đơn vị tính: triệu đồng Nguồn: Đề án phát triển Tập đoàn Vinashin giai đoạn 2001 - 2010 Mặc dù Tập đoàn kinh tế Vinashin đã đạt được một số thành công trong thời gian vừa qua song Tập đoàn còn thiếu kinh nghiệm quốc tế, tuy nhiên lại có 2 ưu thế vượt trội so với nhiều công ty đóng tàu khác là giá rẻ và thời gian chuyển giao nhanh. Vì vậy, Vinashin đã thành công trong việc cạnh tranh giành các hợp đồng đóng tàu của các nước châu Á, như Nhật Bản. Năm 2004, Vinashin đã thâm nhập vào thị trường châu Âu với các đơn đặt hàng từ công ty vận tải biển Graig Shipping của Anh để đóng tàu Handymax lớp Diamond có trọng tải 53.000 DWT. Năm 2005, Vinashin đã nhận được các đơn đặt hàng quan trọng, trong đó có hợp đồng đóng các tàu container có sức chở tới 700 TEU cho công ty MPC Marine của Đức. Chỉ riêng năm 2006, giá trị sản xuất của Tập đoàn đạt gần 23 nghìn tỷ đồng, tăng 29% so với năm trước. Các công ty đóng tàu Bạch Đằng, Nam Triệu, Phà Rừng, Hạ Long,... vừa phải khẩn trương hoàn thành hợp đồng đóng mới 32 tàu vận tải biển có sức chở từ 4.000 đến 20 nghìn tấn cho Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), vừa tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất, chuẩn bị triển khai thực hiện đóng mới 64 tàu cỡ lớn, theo hợp đồng nguyên tắc vừa được ký kết giữa Vinashin và Vinalines ngày 8-2 vừa qua. Theo đó, trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2010, Vinashin đóng mới 19 tàu và 45 chiếc trong giai đoạn 2010 - 2015. Trong chương trình phát triển đội tàu chở dầu thô của Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, thời gian tới sẽ có sự góp mặt của những con tàu "Made in Việt Nam" do Vinashin sản xuất, theo hợp đồng được ký ngày 14-2, với ba tàu vận tải chở dầu thô loại AFRMAX, sức chở 105 nghìn tấn. Đây là những con tàu chuyên dùng có sức chở lớn nhất, lần đầu được đóng mới trong nước. Không chỉ đóng tàu phục vụ nhu cầu vận tải trong nước, năm nay Vinashin cũng tiếp tục triển khai thực hiện các hợp đồng đóng tàu xuất khẩu, với các xê-ri tàu có sức chở từ 3.000 đến 75 nghìn tấn, tàu dầu 13.500 tấn, tàu chở ô-tô và container cho các chủ tàu Nhật Bản, Đan Mạch, Đức, Anh, Hà Lan, Israel,... Bản thân Vinashin cũng chủ động phát triển đội tàu của riêng mình, với hàng chục tàu chở hàng, tàu dầu, tàu container cỡ lớn,... Nguồn: www.Vinashin.com.vn Bí quyết thành công của Vinashin trong thời gian qua là: Tập đoàn Vinashin đã chủ động xây dựng chiến lược phát triển theo hướng đa ngành, lấy đóng mới và sửa chữa tàu biển làm chính, đồng thời phát triển các ngành nghề khác như vận tải sông-biển, công nghiệp phụ trợ,... theo nguyên tắc là những ngành này hỗ trợ cho ngành chính - đóng tàu. Vinashin vừa sản xuất, vừa tập trung đầu tư, nâng cấp các nhà máy đóng tàu hiện có, như Bạch Đằng, Sông Cấm, Bến Kiền, Sài Gòn, Hạ Long, Nam Triệu,... để đóng được tàu có sức chở từ 20 nghìn đến 70 nghìn tấn, đồng thời xây dựng mới một số cơ sở đóng tàu hiện đại tại Hải Dương, Dung Quất có khả năng sản xuất container và đóng mới tàu từ 100 nghìn đến 250 nghìn tấn và dàn khoan dầu khí. Nhiều khu công nghiệp phụ trợ sản xuất điện, thép đóng tàu, chế tạo lắp ráp động cơ thủy, máy móc thiết bị trên boong, nghi khí hàng hải, nội thất tàu,... được triển khai xây dựng tại Cái Lân (Quảng Ninh), An Hồng (Hải Phòng), Lai Vu (Hải Dương). Cùng với đầu tư xây mới và nâng cấp các cơ sở sản xuất, Vinashin mạnh dạn thực hiện chiến lược sản phẩm mẫu, sản phẩm trọng điểm, sản phẩm mũi nhọn mang tính đột phá, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, trình độ quản lý cũng như vị thế của Tập đoàn ở thị trường trong nước và quốc tế. Đối với thị trường trong nước, bằng những bước đi chắc chắn, thuyết phục, Vinashin đã lựa chọn các doanh nghiệp đầu đàn, như Bạch Đằng, Phà Rừng, Hạ Long,... tổ chức sản xuất các xê-ri tàu chở hàng 6.500 tấn, 11.500 tấn, 12.500 tấn, tàu dầu 13.500 tấn, tàu container 564 TEU, 610 TEU và 1016 TEU,... Trong đó có những con tàu được giao cho những đơn vị vận tải biển nhiều kinh nghiệm của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam như Công ty vận tải biển Việt Nam (Vosco), Vận tải biển 3 (Vinaship) sử dụng. Nhưng cũng có loạt tàu Vinashin chủ động tự tổ chức khai thác, thậm chí đi biển xa để kiểm định chất lượng, như con tàu 12.500 tấn đầu tiên được đóng mới tại Bạch Đằng. Tiếp cận thị trường tàu biển thế giới, Vinashin "biết người, biết ta" không thể cạnh tranh trực tiếp, mà cần phải có những bước đi phù hợp để vừa học hỏi kinh nghiệm, vừa quảng bá dần thương hiệu Vinashin ra bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Bắt đầu là những hợp đồng đóng tàu nhỏ, lẻ với những sản phẩm đơn chiếc như: tàu hút bùn công suất 1.000 đến 1.500 m3/giờ xuất khẩu sang I-rắc của Nhà máy đóng tàu Bến Kiền; tàu kéo 1.000cv, sà-lan 2.500 tấn xuất khẩu đi Xin-ga-po, du thuyền vỏ nhôm, khách sạn nổi 80 giường của Nhà máy đóng tàu Sông Cấm cho chủ tàu Pháp,... Không phải ngẫu nhiên mà chủ tàu NOMA (Nhật Bản) lại tìm đến Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng để ký hợp đồng đóng mới tàu hàng 6.380 tấn, sau đó là tàu 8.700 tấn và 10.500 tấn, nếu cơ sở này không sản xuất thành công loạt tàu 6.500 tấn được các đội tàu trong nước, như Vosco, Vinaship,... sử dụng một cách có hiệu quả. Nguồn: Vinashin.com.vn 2.2 Thực trạng v._. quá cao. Để đứng vững trên thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều nước Châu Âu có ngành công nghiệp đóng tàu phát triển đều có xu hướng đầu tư sang các nước có giá nhân công thấp, Việt Nam là một trong những nước được quan tâm. Hơn nữa, Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, trình độ khá so với khu vực. Do đó, nếu biết tổ chức, sắp xếp chúng ta có thể nắm bắt cơ hội này để tăng tiền vốn đầu tư, liên doanh liên kết để học hỏi kinh nghiệm và có thể tiếp xúc với những công nghệ tiên tiến để đưa công nghiệp đóng tàu Việt Nam phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 3.1.3 Một số chỉ tiêu phát triển của ngành Hiện nay, Việt Nam đang đứng thứ 11 về đóng tàu và chúng ta đang phấn đấu trở thành quốc gia đóng tàu thứ 4 trên thế giới vào năm 2015. Để đạt được mục tiêu to lớn đó,ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã xác định các hướng ưu tiên phát triển trong thời gian tới là: - Đẩy mạnh các hoạt động KH&CN, coi KH&CN là yếu tố then chốt trong sự phát triển. - Chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyên ngành, coi đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là vấn đề trọng tâm trong phát triển. - Tăng cường hợp tác quốc tế để đẩy nhanh việc chuyển giao, ứng dụng các công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhằm thực hiện chiến lược đi tắt, đón đầu. Bằng một loạt sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm trọng điểm đang và sẽ được thực hiện, mục tiêu phấn đấu của ngành là trở thành quốc gia đứng thứ 4 trên thế giới về công nghệ đóng tàu. 3.1.3.1 Về sản lượng Dựa trên cơ sở đánh giá nhu cầu về các phương tiện vận tải biển trong tương lai ngành đã đưa ra một số chỉ tiêu phát triển: Giá trị tổng sản lượng bình quân mỗi năm đạt 20 tỷ đến 23 tỷ đồng với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 30% đến 35%. Về sản phẩm chủ yếu Theo định hướng đã được Chính phủ phê duyệt, trong 5 năm tới, ngành công nghiệp tàu thuỷ nước ta sẽ phải đóng được các loại tàu từ 150.000 tấn đến trên 200.000 tấn và sửa chữa được các tàu có trọng tải lớn hơn. Ngoài ra, có thể đóng được các loại tàu từ tàu dầu sản phẩm đến tàu dầu thô cũng như các tàu container, các tàu khách ven biển và các loại tàu hàng khác. Một mục tiêu nữa là chúng tôi phải nội địa hoá trên 60% ngành đóng tàu. Hiện, Vinashin đã ký được các thoả thuận hợp tác về chuyển giao công nghệ cho mục tiêu nội địa hoá của ngành. Trong thời gian tới, công tác đóng mới tàu thuỷ khẩn trương thi công các sản phẩm trọng điểm sau: Nhà máy đóng tàu Hạ Long: hoàn thiện và bàn giao tàu 53.000 DWT số 1, số 2, số3, số 4,thi công chiếc số 5, số 6, số 7. Hoàn thiện và bàn giao tàu 12.500 DWT. Thi công đóng mới các tàu: Tàu hàng 54.000DWT, tàu container 1700 TEU, tàu 8.700 DWT số 1, số 2, số 3 và tàu chở ô tô 4900 xe. Công ty công nghiệp tàu thuỷ Nam Triệu: hoàn thiện và bàn giao tàu 53.000 DWT số 1, số 2, số3, số 4,thi công chiếc số 5, số 6, số 7. Hoàn thiện và bàn giao tàu Lash 1090 DWT; thi công và bàn giao tàu Lash 090 DWT; Thi công và và bàn giao tàu container 700 TEU số 1, số 2. Công ty đóng tàu Bạch Đằng: hoàn thiện và bàn giao tàu: Tàu 22.500 DWT số 1, số 2, số 3. Thi công và đóng mới các tàu: Tàu container 1700 TEU số 1, tàu 6500 DWT. Ngoài ra còn các đơn vị trong Tập đoàn Vinashin: Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Dung Quất, Công ty đóng tàu Phà Rừng, Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Bến kiền... đã và đang tiến hành đóng mới hàng loạt các loại tàu nhỏ, vừa và lớn, tàu kéo, tàu đẩy... Trong đó tập trung vào đẩy mạnh tiến độ thi công vào các công trình đẩy mạnh sản xuất như: Ụ khô 250.000 DWT phục vụ đóng tàu chở dầu thô 100.000 DWT tại Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Dung Quất, công trình đà tàu 50.000 DWT số 2 tại Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Nam Triệu.... và hàng loạt các công trình xây dựng khác tại các đơn vị trong Tập đoàn từ Bắc vào Nam. Nguồn: Tập đoàn kinh tế Vinashin - Báo cáo tài chính năm 2006 và kế hoạch năm 2007 Chiến lược đầu tư phát triển của ngành Như đã phân tích ở trên, với nhu cầu trong nước và khả năng xuất khẩu như trên, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng mục tiêu đến năm 2010, Việt Nam trở thành một trong các quốc gia đóng tầu. Vì vậy, trong giai đoạn 2010 có thể chọn công nghiệp đóng và sửa chữa tầu như là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để làm được điều đó, cần xây dựng cụ thể từng bước đi để tạo dựng năng lực mới cho ngành. Trong giai đoạn 2001-2005, phấn đấu đóng được tầu 11.500 tấn vào 2001 và tầu 80.000 tấn vào 2005; sửa chữa đến tàu 400.000 tấn; chế tạo được thép đóng tầu, động cơ tàu biển, các loại thiết bị, phụ kiện tàu thuỷ dùng chung; phấn đấu đạt tỷ lệ nội địa hoá lên 40-45% giá trị sản xuất. Ngành công nghiệp đóng tầu sẽ đáp ứng được khoảng 45-50% nhu cầu trong nước trong giai đoạn 2001-2005. Trong giai đoạn 2006-2010, tiếp tục triển khai các dự án trên, tăng cường khai thác có hiệu quả các dự án đã được đầu tư, đồng thời tập trung làm chủ công nghệ thiết kế, công nghệ chế tác để có thể đảm bảo được phần lớn nhu cầu trong nước, hướng tới xuất khẩu. Trong giai đoạn này sẽ chú trọng tới các dự án đầu tư cho sản xuất thiết bị, phụ kiện, thép đóng tầu, động cơ nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm. Hoàn thành việc xây dựng các nhà máy mới, hiện đại hoá và hội nhập.Nếu các dự án trên được triển khai đồng bộ và thành công thì đến năm 2010, phần lớn các nhu cầu về đóng mới và sửa chữa tầu trong nước được thoả mãn và có thể giành được một phần thị phần quốc tế (đặc biệt trong khu vực) do các lợi thế về điều kiện tự nhiên, về nhân công, về xu hướng chuyển giao công nghệ từ các nước có công nghệ đóng tầu cao. Tỷ lệ nội địa hoá sẽ đạt 60-70% giá trị tầu đóng mới, 80-90% giá trị sửa chữa tầu. Đóng mới tàu đến 100000DWT, sửa chữa tàu đến 400000DWT. Chiến lược đầu tư phát triển ngành là một trong những bước đi quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển của ngành. Để thành công với những kế hoạch đã đặt ra, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cần có chiến lược đầu tư phát triển ngành theo hướng: - Trong vòng 5 năm tới, chúng tôi cũng dự kiến sẽ xây dựng thêm một số nhà máy đóng tàu lớn, cũng như sẽ đầu tư nâng cấp các nhà máy đóng tàu hiện có để có năng lực đóng được các tàu cỡ lớn từ 100.000-150.000 tấn và trên 200.000 tấn; sản xuất được các máy móc, trang thiết bị tàu thuỷ, cũng như các dịch vụ đi kèm. Chúng tôi đang có các kế hoạch nghiên cứu để có thể chủ động phát triển một loại hình tàu mới mà không phải mua bản quyền của nước ngoài. - Mở rộng và nâng cấp các nhà máy có sẵn để đóng mới và sửa chữa tàu, tận dụng những điều kiện sẵn có của ngành. Tuy nhiên, do tồn tại trong thời gian dài nên hệ thống cơ sở hạ tầng nhiều nhà máy không đáp ứng được khả năng đóng mới và sửa chữa các loại tàu có trọng tải lớn. - Cần xây dựng các nhà máy mới tại các khu vực có tiềm năng nhằm hình thành các cụm công nghiệp tàu thuỷ đồng bộ như ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Vũng Tàu... để phát huy hết thế mạnh của từng địa phương, từng vùng để phát triển công nghiệp tàu thuỷ toàn quốc. Xây dưng các nhà máy lớn để đáp ứng việc đóng mới và sửa chữa các tàu có trọng tải lớn trên 50.000DWT. - Tích cực đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ với các nhà máy vệ tinh sản xuất các loại vật tư, trang thiết bị cho ngành công nghiệp tàu thủy như: Động cơ Diezel, thép đóng tàu, thiết bị điện...nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá cho các tàu đóng mới tại Việt Nam, nâng cao vị thế của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trên thị trường thế giới. 3.1.3.3 Chiến lược phát triển thị trường Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển vận tải đường sông, đường biển, là một trong những cơ sở để phát triển ngành công nghiệp đóng tàu. Với nhu cầu khá lớn về phương tiện vận tải thuỷ cả thị trường trong nước lẫn thị trường thế giới, ngành công nghiệp đóng tàu cần nắm bắt cơ hội này để mở rộng thị trường, khẳng định thương hiệu tàu thuỷ Việt Nam. Đối với thị trường trong nước: Tiếp tục đóng các loại tàu phục vụ cho vận tải nội thuỷ và các tuyến vận tải ven biển như tàu có trọng tải 400 - 600T, tàu trọng tải từ 3.000 - 5.000DWT. Phát triển các phương tiện vận tải phục vụ du lịch ven hồ, trên sông. Đồng thời cố gắng đóng các tàu có trọng tải lớn phục vụ giao thông đường biển, hạn chế việc nhập khẩu tàu vào Việt Nam. Đối với việc sửa chữa, ngành cần đào tạo các cán bộ kỹ thuật có tay nghề cao, đồng thời xây dựng các chương trình khuyến cáo rộng rãi đến các đơn vị vận tải để có thể thu hút thêm khách hàng. Đối với thị trường nước ngoài: Đẩy mạnh việc đóng mới các tàu có trọng tải lớn đến 53.000DWT, tàu chở container 1.200 - 1.500 TEU, các tàu chở sản phẩm dầu, tàu chở khí và hoá chất lỏng...Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động quan hệ quốc tế để quảng bá thương hiệu tàu Việt Nam ra thị trường thế giới, tăng cơ hội xuất khẩu tàu ra thị trường thế giới. Đối với việc sửa chữa, tăng cường tiếp cận với các chủ hàng nước ngoài có phương tiện thường xuyên ra vào tại các cảng biển, quảng cáo khả năng đáp ứng nhu cầu sửa chữa của ngành đóng tàu Việt Nam. Đồng thời nâng cao sửa chữa các tàu có trọng tải lớn đáp ứng nhu cầu sửa chữa của thị trường thế giới. 3.1.3.4 Chiến lược phát triển khoa học công nghệ Trong tương lai công tác khoa học công nghệ của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam tập trung các nội dung sau: Hoàn thịên các thủ tục để có thể sớm tiến hành các nhiệm vụ khoa học công nghệ thuộc Dự án khoa học - Công nghệ “ Phát triển Khoa học và Công nghệ phục vụ đóng tàu chở dầu thô 100.000 tấn”. Chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá việc triển khai các nhiệm vụ Khoa học công nghệ theo các quy định hiện hành. Xây dựng và đề xuất các nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ cấp Nhà nước, Bộ năm 2008 và các năm tiếp theo, bao gồm cả các Dự án Khoa học và Công nghệ phục vụ các sản phẩm trọng điểm. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới trong Tập đoàn, Viện Khoa học công nghệ tàu thuỷ và các đơn vị thành viên khác nhằm đưa Khoa học công nghệ thành động lực mạnh cho sự phát triển của ngành. Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa, mở rộng Bể thử mô hình tàu thuỷ thành Trung tâm thử mô hình tàu thuỷ lớn nhất khu vực Đông Nam Á, xúc tiến xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm, Trung tâm nghiên cứu ứng dụng cơ bản, tiến tới thành Học viện tàu thuỷ quốc gia nhằm tạo ra các công nghệ tiên tiến, phục vụ đắc lực cho sự phát triển của ngành. Chú trọng hơn nữa công tác nội địa hoá để đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của ngành, trong đó có Tập đoàn kinh tế Vinashin. Chủ động liên kết trong nước và quốc tế để đưa nhanh các kết quả mới nhất về Khoa học công nghệ vào thực tế sản xuất kinh doanh của ngành. 3.2 Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam 3.2.1 Giải pháp từ phía ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam 3.2.1.1 Giải pháp phát triển khoa học công nghệ Trong những năm vừa qua, mặc dù ngành đã có những đổi mới, nhiều máy móc thiết bị được chuyển giao từ những nước công nghiệp phát triển. Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều và chưa theo một định hướng rõ rệt. Hiện nay, các thiết bị sản xuất của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam chủ yếu là nhập khẩu, trong khi đó thì túi tiền thì có hạn, vẫn còn đan xen nhiều thiết bị lạc hậu, trung bình đến tiên tiến, do vậy làm hạn chế hiệu quả vận hành của thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu vào và đầu ra. Bên cạnh đó, trình độ nghiên cứu thiết kế các thiết bị phục vụ ngành của đội ngũ cán bộ chưa cao nên tốc độ đổi mới công nghệ của ngành bị hạn chế. Chính vì vậy ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cần chủ động đưa ra những giải pháp phù hợp để đổi mới công nghệ và trang thiết bị của ngành để phục vụ cho quá trình sản xuất và phát triển.Một trong những giải pháp để nâng cao trình độ công nghệ của ngành: - Giải pháp về chuyển giao, tiếp nhận công nghệ và tri thức Công nghệ chiếm vị trí quan trọng trong ngành công nghiệp đóng tàu. Hơn nữa, trong điều kiện quốc tế hoá, lợi thế so sánh của quốc gia dựa trên cơ sở nguồn nhân lực rẻ đang giảm dần do trình độ phát triển quá cao và quá nhanh của ngành công nghiệp đóng tàu. Công nghệ để phát triển sản xuất trong ngành phải được chủ yếu thông qua các kênh ngoại thương và đầu tư nước ngoài. Trong tiếp cận công nghệ mới cần thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu để sớm có công nghệ tiến tiến, nhanh chóng hiện đại hoá công nghiệp đóng tàu. Việc chuyển giao công nghệ hiện nay chủ yếu là qua liên doanh giữa các doanh nghiệp đóng tàu Việt Nam với các doanh nghiệp đóng tàu nước ngoài. Tuy nhiên, trong chuyển giao công nghệ còn thiếu những tiêu chuẩn rõ ràng, hiệu quả chuyển giao công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài chưa cao, phần lớn công nghệ chuyển giao không đạt tiêu chuẩn hàng đầu quốc tế. Vì vậy, để nâng cao trình độ công nghệ cho ngành, việc đẩy mạnh quá trình chuyển giao công nghệ của những nước tiến tiến về ngành công nghiệp đóng tàu là rất quan trọng. Tuy nhiên, trong chuyển giao công nghệ cần lưu ý đầy đủ đến các tiêu chuẩn của công nghệ và việc chuyển giao toàn bộ kỹ năng thực hành công nghệ. - Giải pháp đẩy mạnh nghiên cứu triển khai Nghiên cứu và triển khai là yếu tố cực kỳ quan trọng đảm bảo sự phát triển độc lập và vững vàng của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Hoạt động nghiên cứu và triển khai đòi hỏi sự đầu tư về trang thiết bị, về đội ngũ cán bộ có trình độ cao trong nhiều ngành kỹ thuật cùng phối hợp với nhau để tạo ra một sản phẩm mới. Để đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai, ngành cần dành một nguồn kinh phí cho công tác nghiên cứu sản phẩm mới, cải tiến công nghệ, quy trình sản xuất. Liên kết các trung tâm, các viện nghiên cứu chuyên ngành với các doanh nghiệp sản xuất để ứng dụng công nghệ và sản phẩm mới. Công nghệ là một trong những công cụ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu của mọi quốc gia trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, với Việt Nam ngành công nghiệp đóng tàu đang trong giai đoạn phát triển việc nâng cao đổi mới công nghệ để có thể cạnh tranh được với bạn bè quốc tế là vấn đề cấp thiết. Do đó, Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cần tìm ra những giải pháp phù hợp với điều kiện của mình để nâng cao công nghệ, phát triển ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. 3.2.1.2 Giải pháp phát triển nguồn nhân lực Trong điều kiện hội nhập hiện nay nguồn nhân lực rẻ không còn là lợi thế so sánh quan trọng của mỗi nền kinh tế. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đòi hỏi phải có đội ngũ lao động có khả năng để có thể ứng dụng các công nghệ hiện đại đó đang là vấn đề được cả thế giới quan tâm. Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam mặc dù đã có tiến bộ vượt bậc trong công tác đào tạo đội ngũ lao động cho ngành, song nó vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu lao động có trình độ phục vụ cho sự phát triển của ngành. Do đó ngành cần phải tìm ra các giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động của ngành - Giải pháp thu hút nguồn nhân lực Các nhà quản lý ngành cần kết hợp với các doanh nghiệp xây dựng một chương trình thu hút nhân lực cho ngành. Chương trình này phải được tiến hành rất cụ thể dựa trên các thực trạng nguồn nhân lực hiện nay và nhu cầu cho sự phát triển trong tương lai. Cần xây dựng các chương trình hợp tác đào tạo giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài với các cơ sở đào tạo. Đặc biệt coi trọng phương pháp đào tạo qua việc làm đối với những công nhân kỹ thuật và đào tạo theo hình thức du học tại chỗ ( có chuyên gia nước ngoài giảng dạy tại doanh nghiệp) đối với đội ngũ cán bộ kỹ thuật. Các doanh nghiệp cần xây dựng hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, hệ thống cơ sở sản xuất để hấp dẫn người lao động. Đặc biệt các chính sách về công ăn việc làm, thu nhập, bảo trợ xã hội cần được quan tâm đúng mức đảm bảo công bằng tạo sự hấp dẫn đối với người lao động. - Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực Ngành công nghiệp đóng tàu cần có sự phối hợp với các trường đại học, các cơ sở đào tạo trong việc nghiên cứu cải tiến nội dung và chương trình đào tạo cho đội ngũ chuyên gia và công nhân kỹ thuật theo hướng đảm bảo học viên khi ra trường có thể ứng dụng kiến thức vào sản xuất thực tế. Trong một số trường hợp có thể thí điểm một số mô hình đào tạo theo hợp đồng, hoặc chỉ tiêu giữa doanh nghiệp và nhà trường để tuyển một số lao động theo yêu cầu và các tiêu chuẩn của doanh nghiệp đề ra. Về chương trình đào tạo, cần đổi mới và cải tiến theo các tiêu chuẩn quốc tế, tránh học lý thuyết xuông. 3.2.1.3 Giải pháp mở rộng thị trường Duy trì và mở rộng thị trường là vấn đề quan trọng bất cứ doanh nghiệp nào. Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cũng đang có chiến lược mở rộng thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Để đạt được mục tiêu này, ngành cần tạo ra những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam có chất lượng cao, do đó ngành phải có những giải pháp phát triển đúng đắn: Để nâng cao năng lực cạnh tranh ngành cần đa dạng hoá sản phẩm, tăng cường hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với điều kiện phát triển theo cơ chế thị trường. Cần coi trọng việc sửa chữa các loại tàu thuyền. Đây là một thị trường đầy tiềm năng có thể đạt giá trị hàng trăm triệu USD hàng năm. Nhu cầu sửa chữa là rất lớn, nhất là các đội tàu của nước ngoài khi đi qua lãnh hải Việt Nam. Xúc tiến công tác tiếp thị, khảo sát thị trường, chọn lựa phương án tổ chức sản xuất và bán một số loại sản phẩm của công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam ra thị trường quốc tế như Tàu cá xa bờ 600 CV, tàu hút, tàu hàng... Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới để có cơ hội xuất khẩu các sản phẩm của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam ra thị trường thế giới. Các sản phẩm của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã đáp ứng phần lớn nhu cầu các phương tiện giao thông đường thuỷ trong nước và đáp ứng một phần nhu cầu thế giới. Trong tương lai, thương hiệu của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam sẽ được khẳng định trên thị trường thế giới, nâng cao vị thế của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. 3.2.1.4 Giải pháp về cơ sở hạ tầng Hiện nay, hệ thống cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam đã trở nên lạc hậu, nhiều nhà máy đóng tàu được xây dựng khoảng 50 năm trở về trước. Trong khi sự phát triển của kinh tế thế giới đang diễn ra rất mạnh mẽ, nhiều nước trên thế giới luôn có sự cải tiến hệ thống cơ sở hạ tầng ngành công nghiệp đóng tàu cho phù hợp với sự phát triển của thời đại. Để đạt được mục tiêu đã để ra, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cần có định hướng chiến lược đầu tư xây dựng các hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất phát triển. Mở rộng và nâng cấp các nhà máy sẵn có để đóng mới và sửa chữa các tàu có trọng tải ngày càng lớn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Cần đặt trọng tâm vào các nhà máy có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, con người, kỹ thuật...Xây dựng các nhà máy thành các trung tâm, làm hạt nhân cơ sở để phát triển các khu vực đóng tàu Bắc - Trung - Nam của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Ngành cần tạo ra các cơ sở đóng tàu đủ sức cạnh tranh với các nước ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, chuẩn bị điều kiện kỹ thuật, vật chất để đóng tàu đến 100.000 DWT, chế tạo thép tàu, động cơ thủy, thiết bị thuỷ... Bên cạnh việc xây dựng các nhà máy phục vụ sản xuất, ngành cũng cần quan tâm hơn nữa tới việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cho các ngành phụ trợ nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế tạo điều kiện cho việc đóng mới và sửa chữa tàu đạt hiệu quả cao hơn. 3.2.2 Giải pháp từ phía Nhà nước 3.2.2.1 Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của ngành Năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO do đó tất cả các ngành, các lĩnh vực đều phải hoạt động phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra các các ngành một môi trường sản xuất kinh doanh mới, đẩy nhanh sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong một ngành để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Việc tạo môi trường phù hợp với môi trường phát triển trong khu vực và thế giới là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Môi trường phát triển bao gồm các yếu tố như cơ sở hạ tầng, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý....trong đó môi trường pháp lý đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của ngành. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho ngành tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng các nhà máy đóng tàu, nhập khẩu các thiết bị, hợp tác liên kết với các đối tác nước ngoài... sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Chính phủ cần tiếp tục xây dựng, bổ sung và hoàn thiện chính sách pháp luật phù hợp và tạo môi trường thuận lợi cho các nhà máy đóng tàu tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống pháp luật cần đảm bảo tính đồng bộ, đồng thời đam bảo lợi ích của nhà đầu tư tạo điều kiện cho ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. 3.2.2.2 Giải pháp tạo vốn cho ngành công nghiệp đóng tàu Ngành công nghiệp đóng tàu là một ngành đòi hỏi một lượng vốn lớn cho sự phát triển. Tuy nhiên, hiện nay nguồn vốn để phục vụ cho ngành còn hạn chế, chính vì vậy cần có giải pháp phù hợp để tạo nguồn vốn cho ngành phát triển. - Để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xây dựng những nhà máy mới, nâng cấp nhà máy đóng tàu hiện có, chủ yếu thu hút vốn liên doanh nước ngoài. Chính vì vậy cần đẩy mạnh quá trình hợp tác liên doanh với nước ngoài để bổ sung nguồn vốn cho sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. - Để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước, các quỹ phát triển của ngành. - Đối với nguồn vốn phục vụ cho việc đóng tàu đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Tuy nhiên, Nhà nước mới chỉ cấp cho các doanh nghiệp chưa đựơc 20% so với nhu cầu, do đó cần phải có các biện pháp để huy động vốn phục vụ sản xuất như: Thông qua việc bảo lãnh của ngân hàng trong nước để nhập khẩu các thiết bị phục vụ sản xuất; thông qua sự bảo lãnh của Chính phủ để vay vốn các ngân hàng thương mại trong nước; Thực hiện phát hành trái phiếu công ty để thu hút vốn... - Phát triển hoạt động Công ty tài chính công nghiệp tàu thuỷ. Công ty này đóng vai trò như một ngân hàng chuyên doanh phục vụ cho ngành với nhiệm vụ cung ứng và điều hoà vốn cho các đơn vị trong ngành. 3.2.2.3 Giải pháp Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ Công nghiệp phụ trợ là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò cho việc hỗ trợ cho việ sản xuất các sản phẩm chính. Công nghiệp phụ trợ đóng vai trò rất quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá theo hướng vừa mở rộng vừa thâm sâu. Công nghiệp phụ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và các công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Trong thời gian vừa qua mặc dù đã được sự quan tâm của Nhà nước nhưng ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển, tỷ lệ nội địa hoá của ngành chỉ đạt khoảng 20% - 30%, các loại vật tư thép vỏ, máy móc thiết yếu hầu như phải nhập từ nước ngoài. Dù những sản phẩm này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá nhiều, phí tổn chuyên chở, bảo hiểm tăng sẽ làm tăng phí tổn đầu vào. Đó là chưa nói đến rủi ro tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Vì lý do này, công nghiệp phụ trợ không phát triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ thiếu sức cạnh tranh. Do đó, để đạt mục tiêu tỷ lệ nội địa hoá đạt 60% - 70% Nhà nước phải chú trọng nhiều hơn nữa vào sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ: Cho ra soát lại các cơ sở sản xuất công nghiệp phụ trợ , ưu tiên cấp vốn và tạo điều kiện khác để đổi mới thiết bị, đổi mới công nghệ tại những cơ sở có quy mô tương đối lớn. Khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp phụ trợ, với sự hỗ trợ đặc biệt về vốn, và những ưu đãi đặc biệt về thuế ( miễn thuế nhập khẩu thiết bị và công nghệ...) Nhà nước cần có các biện pháp để cung cấp thông tin về kế hoạch phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ cho các tổ chức, DN tạo điều kiện cho các họ tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh các ngành này. Bên cạnh sự đầu tư, quan tâm của Nhà nước tới ngành công nghiệp phụ trợ, ngành cũng cần chủ động hơn nữa trong việc xây dựng các ngành phụ trợ phục vụ cho sự phát triên của mình, hạn chế sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu từ nước ngoài, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. 3.2.2.3 Một số kiến nghị để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Công nghiệp đóng tàu Việt Nam Việt Nam là một quốc gia ven biển, cơ hội cho sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu rất lớn. Để khai thác tốt lợi thế này, đưa công nghiệp đóng tàu trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Chính Phủ Việt Nam cần có những quan tâm đặc biệt hơn nữa đối với ngành công nghiệp này. Để tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành, Nhà nước cần tạo ra một cơ chế và chính sách thể hiện sự ưu tiên và hỗ trợ của Nhà nước đối với một ngành công nghiệp đầy triển vọng cho sự phát triển của đất nước. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ nhằm nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới phục vụ cho việc đóng mới các sản phẩm có tính năng kỹ thuật cao, đạt chất lượng quốc tế. Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho sự phát triển của ngành. Sự phát triển của doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm phụ trợ cho ngành tạo điều kiện thuận lợi cho ngành giảm các chi phí đóng tàu từ đó có điều kiện để đóng mới các con tàu có trọng tải lớn. Về nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển của ngành, Nhà nước cần quan tâm hơn nữa việc đào tạo ra các cán bộ chuyên môn cao, nâng cao khả năng thiết kế của các cán bộ kỹ thuật, đào tạo đội ngũ công nhân có khả năng ứng dụng các tiến bộ khoa học của thế giới nhằm nâng cao năng suất lao động cho ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Kết luận Việt Nam là quốc gia có điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngành công nghiệp đóng tàu. Trong thời gian vừa qua, ngành đã có những sự phát triển vượt bậc, những con tàu có trọng tải lớn đã ra đời, góp phần khẳng định thương hiệu tàu Việt Nam trên thị trường thế giới. Mặc dù đã có nhiều thắng lợi, nhưng ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Do đó, ngành phải tìm ra những hạn chế đó để tìm cách khắc phục, nâng hiệu quả hoạt động của ngành. Đặc biệt, trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá thế giới, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng sâu sắc. Với nhu cầu ngày càng tăng các phương tiện vận tải phục vụ cho giao thông đường thuỷ, cơ hội phát triển cho ngành công nghiệp đóng tàu VIệt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, so với một số nước trên thế giới thì năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam chưa cao. Do đó, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam cần có chiến lược và giải pháp phát triển phù hợp để đứng vững trên thị trưòng trong nước cũng như thị trường thế giới. Hiện nay, Việt Nam đang trên đường thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp, mỗi ngành cần nhận thấy vai trò và vị trí của mình trong nền kinh tế đất nước để xây dựng chiến lược phù hợp với đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, ngành công nghiệp đóng tàu, một ngành công nghiệp mũi nhọn trong tương lai phải có những giải pháp phát triển phù hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh, khẳng định vị thế của ngành và đưa nền kinh tế Việt Nam đi lên. Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và nghiên cứu, nhưng do thời gian và khả năng có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi những hạn chế, rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo nhằm hoàn thiện hơn bài viết và kiến thức cho bản thân. Phụ lục Phụ lục 1: Bảng 1 - Năng lực hạ thuỷ hiện tại ở Việt Nam TT Loại tàu Số lượng (Chiếc /năm) Thời gian nằm đà (tháng) 1 Aframax Tankers (80-120.000dwt) 0.9 14 2 Handy Product Tanker (10-60.000dwt) 2.0 6 3 Panamax Bulkers (60-80.000dwt) 2.0 6 4 Handymax Bulkers (40-60.000dwt) 2.4 5 5 Handysize Bulkers (10-40.000dwt) 2.4 5 5 Dry Cargo (< 10.000dwt) 4.0 3 6 Sub Panamax Containership (2-3.000TEU) 2.0 6 6 Handy Containership (1-2.000TEU) 2.4 5 7 Feedermax Containership (5-1.000TEU) 2.4 5 8 Pure Car Carrier > 5.000dwt 1.5 8 9 Multi Purpose > 5.000dwt 2.4 5 10 Others ( Tug, Barge, Supply vessel, dreger…) 4.0 3 Nguồn: Vinashin.com.vn Phụ lục 2: Hình ảnh Tàu 53.000 DWT Phụ lục 3: Bảng 2 - THỊ PHẦN ĐÓNG TÀU CỦA MỘT SỐ NƯỚC TT Tên nước Năng lực Thị phần Đặc điểm 1 Nhật Bản 9,9 ¸ 11 triệu DWT 40¸43% 1182 nhà máy, 386 ụ, trong đó có 12 ụ cho tàu ³ 100.000 DWT 2 Hàn Quốc 7 triệu DWT 27¸28% Chủ yếu là đóng tàu chuyên dụng 3 Tây Âu Gặp khó khăn >10% Tàu cao tốc, tàu chiến, tàu dịch vụ 4 Trung Quốc 1,5 triệu DWT 5,7% 408 nhà máy, đã có ụ khô cho tàu 300.000 DWT Nguồn: Tạp chí Hàng hải Việt Nam - Tin từ www.Google.com.vn Danh mục tài liệu tham khảo Chu Văn Cấp, năm 2003, Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường Lạng, năm 2004, Kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội Nguyễn Thị Hường, năm 2004, Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI, Nhà xuất bản Thống kê Trần Xuân Kiên, năm 1998, Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê Vũ Trọng Lâm, năm 2006, Nâng cao sức cạnh tranh của các Doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Tập đoàn kinh tế vinashin, năm 2004 - Báo cáo tài chính Tập đoàn kinh tế vinashin, năm 2005 - Báo cáo tài chính Tập đoàn kinh tế vinashin, năm 2006 - Báo cáo tài chính Tập đoàn kinh tế vinashin - Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006 và kế hoạch năm 2007 Website: www.moi.gov.vn www.vinashin.com.vn www.google.com.vn www.toquoc.gov.vn ........ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32046.doc
Tài liệu liên quan