Nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của Công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, chủng loại thực vật đa dạng, Việt Nam là nước có khối lượng xuất khẩu nông sản khá cao đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Cùng với gạo, cà phê và cao su, hạt điều là một trong những sản phẩm có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam: trong ba năm 2005, 2006 và 2007 Việt Nam đã vượt Ấn Độ - cường quốc về xuất khẩu hạt điều - trở thành nước dẫn đầu thế giới về khối lượng điều xuất khẩu. Công ty cổ phần Long Sơn là một doa

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1884 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của Công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nghiệp trẻ, mới thành lập được 7 năm nhưng chỉ từ số vốn ít ỏi ban đầu, giờ Công ty cổ phần Long Sơn đã trưởng thành, lớn mạnh, là một trong những doanh nghiệp lớn trong ngành điều Việt Nam, không hề thua kém các doanh nghiệp nhà nước lâu năm. Trong thời kỳ kinh tế thị trường, cạnh tranh khốc liệt, không phải doanh nghiệp tư nhân nào cũng đạt được thành quả như vậy, đó là cả chặng đường khó khăn. Cũng như các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trong ngành điều nói riêng, gia nhập WTO mang lại cho công ty cổ phần Long Sơn không chỉ nhiều cơ hội mà còn không ít thách thức. Hiện nay thị trường xuất khẩu chính của ngành điều Việt Nam là thị trường Mỹ, chiếm tới gần 40% khối lượng điều nhân xuất khẩu. Trong khi đó lượng điều nhân xuất sang thị trường này của công ty cổ phần Long Sơn chỉ chiếm 20% tổng lượng điều xuất khẩu của công ty. Mỹ là một thị trường lớn rất có tiềm năng với công ty, tuy nhiên vẫn chưa được khai thác triệt để. Chính vì thế, việc tìm ra biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều cùa công ty trên thị trường này là rất quan trọng và cần thiết. Trên ý nghĩa đó, việc nghiên cứu đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO” sẽ góp phần quan trọng vào việc đưa hướng phát triển đúng đắn tạo giúp doanh nghiệp phát triển bền vững và có ý nghĩa thực tiễn cao trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam vừa trở thành thành viên chính thức của WTO. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu đề tài Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của “Công ty cổ phần Long Sơn” trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Để thực hiện các mục đích trên, đề tài cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh của hàng hóa và sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ. - Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ, từ đó rút ra những ưư điểm, tồn tại cũng như nguyên nhân của những tồn tại đó. - Dựa trên tác động của việc gia nhập WTO đến việc xuất khẩu mặt hàng điều cuả công ty vào thị trường Mỹ và định hướng phát triển doanh nghiệp trong thời gian tới mà đưa ra các giải pháp và kiến nghị nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của công ty Cổ phần Long Sơn. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài này sẽ giới hạn phạm vi nghiên cứu vào các vấn đề sau - Về mặt hàng: Nghiên cứu các sản phẩm từ cây điều, quả điều. - Về không gian: Thị trường Mỹ - Về thời gian: Từ năm 2004 đến nay - Về giác độ nghiên cứu: Nghiên cứu các vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của một nhóm hàng hoá ở tầm vi mô và vĩ mô. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp chung. Bên cạnh đó, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, cũng được sử dụng để luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn. 5. Kết cấu của bài viết: Ngoài lời mở đầu và kết luận, toàn bộ nội dung của bài viết được chia làm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của hàng hóa và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ. Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ. Chương III: Một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của công ty cổ phần Long Sơn. Sau đây là nội dung từng chương. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ VÀ SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG ĐIỀU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN LONG SƠN TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ KHÁI LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH Các quan điểm về cạnh tranh: Từ trước đến nay có nhiều quan điểm về cạnh tranh. Dưới những giác độ khác nhau cạnh tranh được hiểu theo nghĩa khác nhau. Theo như tác giả Nguyễn Văn Khôn trong từ điển Hán- Việt giải thích rất ngắn gọn: "Cạnh tranh là ganh đua hơn thua". Chúng ta bắt gặp cạnh tranh trong muôn mặt đời sống, từ những sự kiện thường nhật như một trận bóng đá, một cuộc thi hát, một cuộc bình chọn sản phẩm,..cho tới bầu cử quốc hội, các cuộc chiến tranh,... Như vậy theo nghĩa chung nhất có thể hiểu cạnh tranh là gì? Trong " Đại từ điển Tiếng Việt có ghi "Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những cá nhân mà sự nâng cao vị thế của người này sẽ làm giảm vị thế của người còn lại".Như vậy cạnh tranh có thể coi là một quá trình sáng tạo ra sự nổi trội của chủ thể so với các đối thủ cạnh tranh khác. Đó là nói chung, còn trong lĩnh vực kinh tế nói riêng cạnh tranh được hiểu như thế nào? Dưới những cách tiếp cận, giác độ nghiên cứu, hoàn cảnh lich sử khác nhau, cạnh tranh được hiểu theo những cách khác nhau.Theo quan điểm của Các Mác: "Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch". Các Mác đã nghiên cứu cạnh tranh trong bối cảnh xã hội tư bản chủ nghĩa có đặc trưng là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, và chính chế độ tư hữu này là nguyên nhân gây ra cạnh tranh. Quan điểm này nhìn nhận cạnh tranh dưới góc độ tiêu cực là hành vi chèn ép, "cá lớn nuốt cá bé". Trong từ điển kinh doanh của Anh: "Cạnh tranh là sự ganh đua kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình" Các tác giả trong cuốn "Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách cạnh tranh kiểm soát độc quyền kinh doanh, thuộc sự án VIE/97/016 thì cho: Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt đựơc một mục tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Cạnh tranh trong một môi trường như vậy đồng nghĩa với ganh đua. Từ những định nghĩa và các cách tiếp cận không giống nhau trên có thể rút ra các điểm chung sau đây: Cạnh tranh là cố gắng nhằm giành lấy phần hơn phần thắng về mình trong môi trường cạnh tranh. Để có cạnh tranh phải có các điều kiện tiên quyết sau: - Phải có nhiều chủ thể cùng nhau tham gia cạnh tranh: Đó là các chủ thể có cùng các mục đích, mục tiên và kết quả phải giành giật, tức là phải có một đối tượng mà chủ thể cùng hớng đến chiếm đoạt. Trong nền kinh tế, với chủ thể canh tranh bên bán, đó là các loại sản phẩm tưng tự có cùng mục đích phục vụ một loại nhu cầu của khách hàng mà các chủ thể tham gia canh tranh đều có thể làm ra và được người mua chấp nhận. Còn với các chủ thể cạnh tranh bên muc là giành giật muc được các sản phẩm theo đúng mong muốn của mình. - Việc cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cạnh tranh cụ thể, đó là các ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân thủ. Các ràng buộc này trong cạnh tranh kinh tế giữa các doanh nghiệp chính là các đặc điểm nhu cầu về sản phẩm của khách hàng và các ràng buộc của luật pháp và thông kệ kinh doanh ở trên thị trường. Còn giữa người mua với người muc, hoặc giữa những người mua và người bán là các thoả thuận được thực hiện có lợi hơn cả đối với người mua. - Cạnh tranh có thể diễn ra trong một khoảng thời gian không cố định hoặc ngắn (từng vụ việc) hoặc dài (trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động của mỗi chủ thể tham gia cạnh tranh). Sự cạnh tranh có thể diễn ra trong khoảng thời gian không nhất định hoặc hẹp (một tổ chức, một địa phương, một nghành) hoặc rộng (một nước, giữa các nước. Như vậy có thể nhận thấy cạnh tranh không tồn tại trong nền kinh tế kế hoạch hoá, mà chỉ có trong nền kinh tế thị trường. Vai trò của cạnh tranh: Cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trường, nó có tác động tới tất cả mọi chủ thể, mọi khía cạnh trong nền kinh tế. Hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và các quy luật của nó. Đặc biệt với nước ta, vai trò của canh tranh có thể nhận thấy rõ trong thời kỳ nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang kinh tế thị trường.Chúng ta xem xét vai trò của cạnh tranh qua những tác động tích cực và tiêu cực của nó tới kinh tế- xã hội nói chung, doanh nghiệp và người tiêu dùng nói riêng. Đối với kinh tế xã hội: -Tích cực: Để sản xuất ra của cải vật chất cũng như cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần phải sử dụng tốt các nguồn lực xã hội. Các nguồn lực đó có thể là nguồn khoáng sản, đất đai, nguồn nước, sinh vật,.. cũng có thể là nguồn lực tài chính hoặc nguồn nhân lực,..Các nguồn lực này đối với một quốc gia là có hạn, khó hoặc không thể tái tạo được. Cạnh tranh khiến các quốc gia cũng như doanh nghiệp tìm cách sử dụng tốt nhất các nguồn lực đó, tạo ra nhiều giá trị hơn cho xã hội. Cạnh tranh biến nguồn lực đất nước thành các sản phẩm có giá trị. Chính vì thế cạnh tranh góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá. - Tiêu cực: Nhằm vào lợi nhuận trước mắt nhiều chính phủ cũng như doanh nghiệp đã dung túng, thực hiện các thủ đoạn cạnh tranh xấu như độc quyền, hối lộ, tung tin đồn làm giảm uy tín đối thủ, làm hàng giả, hàng nhái,..Các hành vi này gây tác động xấu đến xã hội là nguyên nhân của thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo,..Bên cạnh đó, cạnh tranh mà thiếu sự quản lý của chính phủ hoặc thiếu đạo đức kinh doanh sẽ gây ra ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên. Đối với doanh nghiệp: - Tích cực: Cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp có động lực để luôn tự hoàn thiện, nâng cao năng lực, đổi mới công nghệ, giúp cho doanh nghiệp thoát khỏi sức ỳ, “ngủ trên chiến thắng”. Một doanh nghiệp cho dù thành công đến mấy trong thời điểm hiện tại mà không chịu cập nhật, đổi mới thì cũng chưa chắc đã thành công trong tương lai. Hơn nữa, cạnh tranh là tạo ra sự nổi trội, khác biệt của mình so với đối thủ cạnh tranh, chính vì thế sự sáng tạo là hết sức quan trọng.Cạnh tranh phát huy tinh thần năng động, ham học hỏi, tiết kiệm của doanh nghiệp. - Tiêu cực: Nếu doanh nghiệp cạnh tranh trong một môi trường không lành mạnh, môi trường này có thể tác động xấu đến hoạt động của doanh nghiệp. Nếu như doanh nghiệp không bị cuốn vào môi trường đó thì cũng chịu những thiệt thòi, tổn thất không công bằng. Trong một môi trường cạnh tranh không lành mạnh như độc quyền, sẽ rất khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tồn tại và phát triển. Phân loại cạnh tranh: Dựa vào những căn cứ khác nhau ta có các cách phân loại cạnh tranh khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại cạnh tranh phổ biến: Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế: Xét theo phạm vi ngành kinh tế cạnh tranh được chia làm hai loại sau: - Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. - Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các nghành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này có sự phận bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh: Theo thủ đoạn mà các doanh nghiệp sử dụng thì cạnh tranh bao gồm cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. - Cạnh tranh lành mạnh. Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với chuẩn mực xã hội và được xã hội thừa nhận, nó thướng diễn ra sòng phẳng, công bằng và công khai. - Cạnh tranh không lành mạnh. Là cạnh tranh dựa vào kẽ hở của luật pháp, trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án ( như trốn thuế buôn lậu, móc ngoặc, khủng bố ...) Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường: Căn cứ vào các chủ thể tham gia thị trường, cạnh tranh có ba loại sau: - Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng hoá của mình với giá cao nhất, còn người mua muốn bán hàng hoá của mình với gái cao nhát, còn người mua muốn muc với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữ hai bên. - Cạnh tranh giứa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào quan hệ cùng cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lê, người mua phải chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá hoá mà họ cần. - Cạnh tranh giữa những nguời bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm giành giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người mua. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối sức, không chịu được sức ép sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn. Căn cứ vào tính chất cạnh tranh Căn cứ vào tính chất, cạnh tranh bao gồm: - Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh giữa nhiều người bán trên thị trờng trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả trên thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem là đồng thức, tức là không khác nhau về quy cách, phẩm chất mẫu mã. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt hoá sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh. - Cạnh tranh không hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh giữa những người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩn đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để giành đựơc ưu thế trong cạnh tranh, người bán phải sử dụng các công cụ hỗ trợ bán như: Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay. - Cạnh tranh độc quyền: Trên thị trường chỉ có nột hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá cả của sản phẩm hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào quan hệ cung cầu. 1.1.4. Các công cụ sử dụng để cạnh tranh Trên thương trường, cạnh tranh là điều tất yếu. Cách thức cạnh tranh cũng muôn hình vạn trạng tuỳ thuộc vào năng lực, sức sáng tạo của từng doanh nghiệp. Để tồn tại và cạnh tranh được các doanh nghiệp phải tạo nên ưu thế, sự nổi trội của mình so với các đối thủ khác. Vậy những công cụ nào đã được các doanh nghiệp sử dụng nhằm tạo nên ưu thế đó? Sau đây là các công cụ được sử dụng trong cạnh tranh. Tuy nhiên các công cụ này được xem xét trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, không xét đến các yếu tố bất hợp pháp. 1.4.1.1. Cạnh tranh bằng giá Giá cả sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán hay doanh nghiệp bán dự định có thể nhận được từ người mua thông qua việc trao đổi hàng hoá đó trên thị trường. Đây là công cụ cạnh tranh truyền thống và phổ biến, quyết định đến hành vi mua. Xu hướng thích mua rẻ là xu hướng có tính quy luật trong ứng xử về giá cả của người mua.Khi mọi điều kiện khác như nhau (chất lượng, thương hiệu, dịch vụ,..) người mua luôn tìm đến những sản phẩm có giá bán thấp nhất. Đối với doanh nghiệp, giá cả có một vai trò rất quan trọng, nó là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh hàng hoá, là yếu tố mang lại thu nhập cho doanh nghiệp. Qua giá cả sản phẩm của mình và các đối thủ cạnh tranh , doanh nghiệp có thể đánh giá được năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Giá cả được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua các chính sách định giá bán sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, một doanh nghiệp có thể có các chính sách định giá sau: Chính sách định giá thấp, chính sách định giá cao chính sách ổn định giá bán, chính sách định giá theo giá thị trường, chính sách giá phân biệt và chính sách bán phá giá. Ngày nay cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội mức sống của người dân không ngừng nâng cao, giá cả không còn là công cụ cạnh tranh quan trọng nhất của doanh nữa nhưng nếu doanh nghiệp biết kết hợp công cụ giá với các công cụ khác thì kết quả thu được sẽ rất to lớn. 1.1.4.2. Cạnh tranh bằng chất lượng hàng hoá Doanh nghiệp có thể lựa chọn cạnh tranh sản phẩm thông qua 3 con đường: cạnh tranh bằng chất lượng, cạnh tranh qua mẫu mã, cạnh tranh cả bằng chất lượng và mẫu mã. Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong điều kiện nhất định về kinh tế kỹ thuật. Chất lượng là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện ở nhiều mặt khác nhau tính cơ lý hoá đúng như các chỉ tiêu quy định, hình dáng mầu sắc hấp dẫn. Với mỗi loại sản phẩm khác nhau, tuy nhiên vấn đề đặt ra là doanh nghiệp phải luôn luôn giữ vũng và không ngừng năng cao chất lượng sản phẩm. Đó là điều kiện không thể thiết nếu doanh nghiệp muốn giành được thắng lợi trong cạnh tranh, nói một cách khác chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Khi chất lượng không còn được đảm bảo, không thoả mãn nhu cầu khách hàng thì ngay lập tức khách hàng sẽ rời bỏ doanh nghiệp. Ngày nay, chất lượng sản phẩm đã trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp trên thị trường. Chất lượng sản phẩm càng cao tức là mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, dẫn tới đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ, làm tăng khả năng trong thắng thế trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, mức sống của người dân ngày càng đựơc nâng cao, tức là nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng tăng lên thì sự cạnh tranh bằng giá cả đã và sẽ có xu hướng nhường vị trí cho sự cạnh tranh bằng chất lượng. Bên cạnh chất lượng, mẫu mã cũng có ảnh hưởng ngày càng lớn đến tính cạnh tranh của sản phẩm. Với hai sản phẩm tương đương về chất lượng và giả cả, người tiêu dùng đa số có xu hướng lựa chọn sản phẩm có mẫu mã đẹp hơn.Như vậy, xét về khía cạnh nào đó mẫu mã sản phẩm tạo ra sự nổi trội, khác biệt với các sản phẩm tương tự. 1.1.4.3. Cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm Một sản phẩm với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả phải chăng nhưng khó khăn cho người mua trong việc tiêp cận thì sức cạnh tranh của sản phẩm đó chưa phải là cao. Thậm trí những nỗ lực của doanh nghiệp trong việc hạ giá thành, cải tiến sản phẩm trở nên vô nghĩa khi sản phẩm không được người tiêu dùng biết đến hoặc không đến được tay người tiêu dùng. Do vậy để khẳng định khả năng tồn tại và phát triển của mình, doanh nghiệp cần cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm. Nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm không chỉ đơn thuần là xây dựng mạng lưới bán hàng mà còn bao gồm các hoạt động hỗ trợ như: tiếp thị, quảng cáo, tổ chức các hội nghị khách hàng, tham gia các tổ chức liên kết kinh tế... Ngày nay, nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng thậm chí quyết định đến sự tồn tại sản phẩm trên thị trường.Nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm tác động đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên các khía cạnh sau: - Tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá thông qua việc thu hút sự quan tâm của khách hàng đến sản phẩm. - Cải thiện vị trí hình ảnh của thương hiệu, sản phẩm trên thị trường. - Đồng thời giúp doanh nghiệp mở rộng quan hệ với các đối tác, phối hợp với các chủ thể trong việc chống hàng giả, hàng nhái. 1.1.4.4. Các công cụ cạnh tranh khác Khoa học kỹ thuật phát triển, những đòi hỏi của khách hàng với sản phẩm ngày càng khắt khe hơn. Điều này khiến các doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở ba công cụ trên mà đa dạng hoá cho phù hợp với sản phẩm, thị trường, cũng như tiềm năng của doanh nghiệp. Tiêu biểu trong số đó là cạnh tranh bằng dịch vụ và phương thức thanh toán. Dịch vụ bao gồm cả dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng. Người tiêu dùng hiện nay có xu hướng sẵn sàng bỏ thêm tiền để có được sự yên tâm, thuận tiện, dễ chịu. Các thương hiệu nổi tiếng thế giới bao giờ cũng đi kèm với chất lượng dịch vụ cao, chăm sóc khách hàng chu đáo. Việc bán hàng không chỉ kết thúc khi sản phẩm được đưa tới người tiêu dùng, được thanh toán mà còn cung cấp dịch vụ sau bán hàng: bảo hành, khuyến mại, hướng dẫn sử dụng, giải quyết kiến nghị,.. Hiện nay, công nghệ thông tin phát triển mạnh kéo theo sự phát triển của các hình thức bán hàng mới:"thương mại điện tử". Với hình thức này người bán, người mua có thể ở hai khu vực địa lý rất xa nhau hoặc không gặp mặt nhau. Do vậy, họ cũng không thể thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt. Điều này lại khó khăn hơn khi thanh toán một khối lượng tiền lớn. Chính vì vậy, phương thức thanh toán gọn nhẹ, dễ dàng, nhanh chóng và an toàn tất yếu sẽ thu hút được khách hàng, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá. 1.2. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH: 1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh Cũng như cạnh tranh, năng lực cạnh tranh có nhiều khái niệm phụ thuộc vào hoàn cảnh áp dụng. Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) năng lực cạnh tranh là khả năng của các công ty, các ngành, các quốc gia hoặc khu vực siêu quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế trên cơ sở bền vững. Còn theo từ điển thuật ngữ kinh tế học năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần doanh nghiệp. 1.2.2. Các loại năng lực cạnh tranh Theo đề án quốc gia về "Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam" (do Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam thực hiện) thì năng lực cạnh tranh được xem xét ở ba cấp độ: Năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ. Năng lực cạnh tranh quốc gia được hiểu là năng lực của một nền kinh tế có thể đạt được sự tăng trưởng bền vững, đảm bảo ổn định kinh tế và nâng cao đời sống của dân cư. Năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp là năng lực bù đắp chi phí duy trì lợi nhuận và được thể hiện qua thị phần của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường. Năng lực cạnh tranh cuả hàng hoá là khả năng duy trì và cải thiện vị trí của một hàng hoá của một doanh nghiệp này so với hàng hoá khác cùng loại của một doanh nghiệp khác trên thị trường một cách lâu dài nhằm tạo ra sự hấp dẫn và thu hút khách hàng. Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có quan hệ mật thiết với nhau.Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia là tổng hợp năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp trong khi năng lực cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp lại được phản ánh qua năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ. Như vậy, có thể rút ra: nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá là cơ sở và điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp và quốc gia. 1.2.3. Lý thuyết đánh giá năng lực cạnh tranh Cho đến nay có nhiều phương pháp để đo lường, phân tích năng lực cạnh tranh. Dưới đây là một số phương pháp thường được sử dụng. Phương pháp 1: Phân tích lợi thế cạnh tranh trên cơ sở đánh giá lợi thế so sánh về chi phí hay khả năng sinh lời trên một đơn vụ sản phẩm Đây là phương pháp phân tích năng lực cạnh tranh trong trạng thái động dựa trên hệ thống các chỉ số. Các chỉ số này cho phép xác định mức độ đóng góp của sản phẩm vào nền kinh tế. Khi phân tích năng lực cạnh tranh theo phương pháp này cần tính đến một số dự báo như: biến động chu kỳ sản phẩm, mức độ phổ biến công nghệ và tích luỹ kinh nghiệm, chi phí đầu vào, những thay đổi trong chính sách của chính phủ và khuynh hướng nhu cầu,... Về mặt thực tế, phương pháp này khá phức tạp và khó thực hiện do phải lượng hoá, dự báo nhiều yếu tố. Phương pháp 2: Phân tích theo quan điểm tổng hợp Khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh theo phương pháp này cần giải đáp 3 vấn đề cơ bản, đó là: - So sánh năng lực cạnh tranh hiện tại của sản phẩm. - Những nhân tố thúc đẩy và những nhân tố hạn chế đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. - Những tiêu chí đặt ra cho chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Phương pháp này có ưu điểm là vừa chỉ ra được những nhân tố thúc đẩy hay kìm hãm tính cạnh tranh. Phương pháp 3: Phân tích theo "Quan điểm quản trị chiến lược" của Michael Porter-Mô hình 5 lực lượng Theo phương pháp này, đối với mỗi ngành, doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh đựoc xem xét theo 5 nhân tố: - Đe doạ từ sự gia nhập của đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. - Đe doạ của hàng thay thế. - Sức ép từ nhà cung ứng. - Sức ép từ phía khách hàng. - Cạnh tranh giữa các hàng trong ngành. Đây là phương pháp nổi tiếng thế giới, được sử dụng nhiều trong phân tích ngành và doanh nghiệp. Phương pháp này phân tích sâu những nhân tố tác động chính đến năng lực cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp. (hình 1.1) Phương pháp 4: Phân tích theo mô hình SWOT Mô hình SWOT được hoàn thiện vào năm 1973 là kết quả nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế học người Mỹ và châu Âu. Khung phân tích của mô hinh này bao gồm 4 phần chính thể hiện 4 nội dung chính của SWOT: Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, nguy cơ. SWOT giúp đánh giá chủ quan các dữ liệu được tổ chức theo một trình tự lô-gíc nhằm giúp chúng ta hiểu rõ vấn đề, từ đó có thể thảo luận và ra quyết định hợp lý và chính xác nhất. Đối tượng được đánh giá qua phân tích SWOT rất đa dạng: công ty, phương pháp phân phối,sản phẩm, ý tưởng kinh doanh,... Hình 1.1. Mô hình 5 lực lượng của Michael Porter 1.2.4. Các yếu tố ành hưởng đến sức cạnh tranh hàng xuất khẩu 1.2.4.1. Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh bên ngoài doanh nghiệp Môi trường kinh tế Quốc tế Trong khi các công ty nội địa quan tâm chủ yếu đến các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh quốc gia ảnh hưởng đến hoạt động của công ty, thì bất cứ doanh nghiệp kinh doanh quốc tế nào cũng phải quan tâm đến các yếu tố bên ngoài của môi trường kinh doanh quốc tế có liên quan đến hoạt động của công ty. Xu thế thế giới hiện nay là toàn cầu hoá.Toàn cầu hoá là quá trình hội nhập của các nến kinh tế quốc gia. Quá trình này đồng thời cũng làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia nói chung và ngành kinh doanh nói riêng vào sự biến động của kinh tế toàn cầu. Không một doanh nghiệp kinhdoanh quốc tế nào mà không chịu tác động của toàn cầu hoá, tác động này thể hiện qua toàn cầu hoá thị trường và toàn cầu hoá hoạt động sản xuất. Toàn cầu hoá thị trường nghĩa là tại các thị trường khác nhau về khu vực địa lý lại có nhu cầu giống nhau về một loại sản phẩm. Hiện nay nhiều hoạt động sản xuất đang biến thành những hoạt động mang tính toàn cầu, một sản phẩm bất kỳ có thể được sản xuát ở nơi nào mà việc sản xuất được coi là rẻ nhất. Môi trường kinh doanh quốc gia Mặc dù toàn cầu hoá làm cho các nền kinh tế trên thế giới xích lại gần nhau hơn nhưng giữa các quốc gia vẫn tồn tại sự khác biệt. Chính vì vậy cũng như các doanh nghiệp nội địa, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế luôn phải xem xét tác động của các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh quốc gia đến hoạt động của công ty. Công ty hoạt động thuận lợi hay không lại tác động trực tiếp đến sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Những yếu tố thuộc môi trường kinh doanh quốc gia bao gộm: yếu tố văn hoá, yếu tố chính trị và luật pháp, yếu tố điều kiện tự nhiên, yếu tố công nghệ, yếu tố kinh tế . Trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu thông thường yếu tố điều kiện tự nhiên, yếu tố kinh tế và công nghệ là những yếu tố quan trọng nhất. Kinh doanh nông sản thì tất yếu điều kiện tự nhiên là vô cùng quan trọng. Điều kiện tự nhiên sẽ quyết định loại cây trồng, kỹ thuật trồng, chi phí trồng cây, chất lượng sản phẩm...qua đó quyết định tính cạnh tranh của hàng nông sản. Không một doanh nghiệp nào lại quyết định kinh doanh xuất khẩu một mặt hàng nông sản mà điều kiện tự nhiên không cho phép trồng trọt, chi phí sản xuất cao. Ngược lại những quốc gia có điều kiên tự nhiên thuân lợi, phù hợp với giống cây thì không những có được vụ mùa bội thu, chất lượng cao mà chí phí sản xuất thấp. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng chịu tác động mạnh mẽ của yếu tố kinh tế Những yếu tố kinh tế bao gồm các biến số về kinh tế và tài chính như lãi suất, chỉ số lạm phát, tỷ giá hối đoái, chi phí về nguyên liệu,... Đối với các doanh nghiệp lãi suất vay ngân hàng sẽ quyết định lượng vốn mà doanh nghiệp có thể tiếp cận, ảnh hưởng đến việc mở rộng sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp xuất khẩu còn đặc biệt quan tâm đến tỷ giá hối đoái. Đa số các hợp đồng xuất đều được thanh toán bằng đồng ngoại tệ, như vậy doạnh thu của doanh nghiệp là đồng ngoại tệ còn chi phí bằng đồng nội tệ. Sự biến động của tỷ giá hối đoái sẽ quyết định thu nhập và chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Tỷ giá hối đoái có lợi khiến chi phí sản xuất trong nước thấp, giá thành sản phẩm thấp làm cho sản phẩm tăng tính cạnh tranh. Các nhân tố thuộc trường cạnh tranh ngành Hiện nay có rất nhiều mô hình được sử dụng để phân tích môi trường cạnh tranh ngành doanh nghiệp, trong đó mô hình nổi tiếng và phổ biến nhất là mô hình năm lực lượng của Michael Porter. Năm lực lượng đó bao gồm: Đối thủ cạnh tranh hiện tại trong nội bộ ngành Đối thủ cạnh tranh hiện tại là những doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh trong một ngành nhất định. Những doanh nghiệp này đã vượt qua những rào để xâm nhập ngành hoặc những hãng muốn rút lui nhưng chưa có cơ hội. Khả năng cung ứng của tất cả các đối thủ cạnh tranh trong ngành tạo ra cung sản phẩm trên thị trường. Số lượng, quy mô, sức mạnh của từng đối thủ cạnh tranh đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một thị trường sẽ không được coi là hấp dẫn nếu nó có quá nhiều đối thủ cạnh tranh cùng hoạt động. Nếu các đối thủ cạnh tranh càng yếu, doanh nghiệp càng có cơ hội để tăng giá bán và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. va ngược lại khi các đối thủ cạnh tranh hiện tại mạnh thì sự cạnh tranh về giá là đáng kể trong khi mọi sự cạnh tranh về giá đều dẫn đến tổn thương. Theo M.Porter, tám vấn đề sau ảnh hưởng rất lớn đến sự cạnh tranh giữa các đối thủ: - Số lượng đối thủ cạnh tranh là nhiều hay ít? - Mức độ tăng trưởng của ngành là nhanh hay chậm? - Chi phí lưu kho hay chi phí cố định là cao hay thấp? - Các đối thủ cạnh tranh có đủ ngân sách để khác biệt hoá sản phẩm hay chuyển hướng kinh doanh không? - Năng lực sản xuất của các đối thủ có tăng hay không và nếu tăng thì khả năng tăng ở tốc độ nào? - Tính chất đa dạng sản xuất- kinh doanh của các đối thủ ở mức độ nào? - Mức độ kỷ vọng của các đối thủ cạnh tranh vào các chiến lược kinh doanh của họ như thế nào? - Sự tồn tại cá._.c rào cản rời bỏ ngành. Khi xem xét đánh giá được chính xác các yếu tố trên doanh nghiệp có thể đề ra được những chiến lược, phương thức cạnh tranh cho sản phẩm một cách phù hợp và hiệu quả nhất. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn Các đối thủ cạnh tranh tiềm ấn là các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh tranh trong cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết định gia nhập ngành. Khi một ngành tăng thêm số lượng đối thủ cạnh tranh, chiếc bánh thị trường bị chia nhỏ hơn, dĩ nhiên mức độ cạnh tranh sẽ tăng lên và hệ số lợi nhận bị giảm. Tuy nhiên tác động của gia nhập các đối thủ này đối với hoạt động của từng doanh nghiệp cụ thể là khác nhau, hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp đó ( kinh nghiệm quản lý, vốn, công nghệ chế tạo,...). Sự gia nhập của một công ty tư nhân nhỏ với vốn điều lệ 10 tỷ đồng khó có thể tác động nhiều đến tập đoàn đa quốc gia cùng ngành với vốn hàng tỷ đôla. Dẫu vậy việc xuất hiện của các đối thủ mới này sẽ làm thay đổi bức tranh cạnh tranh ngành. Các doanh nghiệp này tham gia vào thị trường sau nên họ có khả năng ứng dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ, học hỏi được kinh nghiệp của các doanh nghiệp đi trước. Theo Michael Porter những nhân tố sau tác động đến quá trình tham gia thị trường của các đối thủ mới: các rào cản thâm nhập thị trường, hiệu quả kinh tế quy mô, bất lợi về chi phí, sự khác biệt hoá sản phẩm, yêu cầu về vốn cho sự thâm nhập, chi phí chuyển đổi, sự tiếp cận kênh phân phối, các chính sách của quản lý vĩ mô. Trong bất cứ trường hợp nào càng nhiều doanh nghiệp trong một ngành sản xuất thì cạnh tranh càng khốc liệt hơn. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải tự tạo ra một hàng rào ngăn cản sự xâm nhập của các đối thủ mới. Những rào cản này có thể là lợi thế sản xuất theo quy mô, đa dạng hoá sản phẩm, công nghệ cao, chi phí chuyển đổi mặt hàng cao, sự đòi hỏi nguồn tài chính lớn,... Người cung ứng Lực lượng thứ ba được Michael Porter nhắc đến là người cung ứng- những nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động của một công ty. Họ là các nhà cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất, các nhà cung cấp tài chính , và các nhà cung ứng lao động. Các nhà cung cấp có thể gây nên một áp lực khá mạnh đến hoạt động của công ty. Các nhân tố cụ thể sau sẽ quyết định mức độ ảnh hưởng của người cung ứng đến hoạt động mua sắm và dụ trữ cũng như tuyển dụng của doanh nghiệp: - Số lượng các nhà cung cấp ít hay nhiều - Tính chất thay thế của các yếu tố đầu vào cụ thể đối với hoạt động của doanh nghiệp là khó. - Tầm quan trọng của các yếu tố đầu vào cụ thể đối với hoạt động của doanh nghiệp. - Khả năng cung ứng của các nhà cung cấp. - Doanh nghiệp có vị trí quan trọng như thế nào đối với các nhà cung cấp. Khi người cung ứng có sức ép lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh thì tốt nhất các doanh nghiệp cần cải thiện quan hệ của họ thông qua việc tác động vào các nhân tố trên. Khách hàng của doanh nghiệp Khách hàng- lực lượng thứ tư được nhắc đến trong mô hình năm lực lượng- là những người có nhu cầu về sản phẩm (dịch vụ) do doanh nghiệp cung cấp. Khách hàng là người quyết định lợi nhuận, sự thắng lợi của doanh nghiệp. Khách hàng ở đây không chỉ là các khách hàng hiện tạo mà phải tính đến các khách hàng tiềm ẩn.. Sản phẩm được tạo ra là nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Thị hiếu của khách hàng cũng như các yêu cầu cụ thể của khách hàng về chất lượng sản phẩm, tính nhạy cảm của khách hàng về giá cả,...đều tác động trực tiếp có tính quyết định đến việc thiết kế sản phẩm. Về mặt lý thuyết, lợi ích của khách hàng và nhà sản xuất thường mâu thuẫn nhau. Khách hàng mong muốn dịch vụ tốt nhất nhưng giá cả thấp nhất trong khi nhà sản xuất lại mong muốn khách hàng trả cho sản phẩm của họ với mức giá cao. Khách hàng của doanh nghiệp có thể là người tiêu dùng trực tiếp và có thể là doanh nghiệp thương mại. Khi khách hàng là doanh nghiệp thương mại thì quyền mặc cả của họ phụ thuộc vào các nhân tố sau: - Khối lượng mua hàng. - Tính chất chuẩn và khác biệt hoá của sản phẩm. - Chi phí cho sự chuyển đổi người bán hàng của người mua. - Khả năng tự sản xuất của người mua. - Thông tin về thị trường. Trong một ngành cạnh tranh gay gắt thì vai trò của khách hàng càng trở nên quan trọng và cần được ưu tiên hơn. Năng lực của doanh nghiệp là có hạn, không thể đáp ứng được nhu cầu của mọi loại khách hàng nên các doanh nghiệp phải phân loại khách hàng thành các nhóm khách nhau. Trên cơ sở phân loại đó doanh nghiệp mới đưa ra các chính sách thích hợp để thu hút ngày càng nhiều khách hàng về phía mình. Các sản phẩm thay thế Lực lượng cuối cùng trong mô hình M.Porter là sự đe doạ của các sản phẩm thay thế. Sản phẩm thay thế là sản phẩm khác có thể thoả mãn cùng nhu cầu của người tiêu dùng. Áp lực do xuất hiện sản phẩm thay thế tạo nên một mức giá trần cho sản phẩm do gía không thể cao hơn giá sản phẩm thay thế quá nhiều, nếu không khách hàng sẽ dễ dàng từ bỏ sản phẩm cũ chuyển sang tiêu dùng sản phẩm thay thế. Chính vì thế sản phẩm thay thế làm hạn chế lợi nhuận tiềm năng của ngành. Khi kĩ thuật - công nghệ ngày càng phát triển sẽ càng tạo khả năng tăng số sản phẩm thay thế. Càng nhiều loại sản phẩm thay thế xuất hiện bao nhiêu sẽ càng tạo ra sức ép lớn đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bấy nhiêu. Để giảm sức ép của các sản phẩm thay thế, các doanh nghiệp cần có các giải pháp cụ thể như: phải luôn chú ý đến khâu đầu tư đổi mới kỹ thuật- công nghệ, có các giải pháp đồng bộ nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với các sản phẩm thay thế, luôn chú ý đến các giải pháp khác biệt hoá sản phẩm cũng như trong từng giai đoạn phát triển phải biết tìm kiếm đoạn thị trường phù hợp. Tóm lại, mỗi lực lượng trong số năm lực lượng trên càng mạnh thì càng hạn chế đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp khó có thể tăng gía cả sản phẩm, kiếm được lợi nhuận và ngược lại. Chính vì thế, các doanh nghiệp đều cần tìm kiếm biện pháp hạn chế áp lực của năm lực lượng này để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi nhất, tạo điều kiện cho năng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh doanh nghiệp Hoạt động marketing Hoạt động marketing phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế-kỹ thuật của doanh nghiệp: doanh nghiệp sản xuất có hạt động marketing khác với hoạt động marketing ở doanh nghiệp thương mại, dịch vụ,…Hoạt động marketing hiện đại không chỉ dừng lại ở chủng loại, sự khác biệt hoá và chất lượng sản phẩm, thị phần giá cả,niềm tin của khách hàng, hiệu quả hoạt động tiếp thị và phân phối,.. mà còn bao gồm cả marketing nội bộ, marketing với nhà cung ứng,.. Cho dù là truyền thống hay hiện đại, mục tiêu của Marketing là thoả mãn các nhu cầu và mong muốn của khách hàng bên ngoài và bên trong doanh nghiệp, đảm bảo được cung cấp sản phẩm ổn định với chất lượng theo yêu cầu của sản xuất và giá cả phù hợp nhằm giúp doanh nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh và đạt được lợi nhuận cao trong dài hạn. Như thế, hoạt động marketing của doanh nghiệp càng có chất lượng và ở phạm vi rộng bao nhiêu doanh nghiệp càng có thế tạo ra lợi thế chiến thắng đối thủ bấy nhiêu. Nguồn nhân lực Nhân lực là lực lượng lao động sáng tạo của doanh nghiệp. Toàn bộ lực lượng lao động của doanh nghiệp bao gồm cả lao động quản trị, lao động nghiên cứu và phát triển, đội ngũ lao động kỹ thuật trực tiếp tham gia vào các quá trình sản xuất tác động rất mạnh và quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp chịu tác động trực tiếp của nhân tố này thông qua các yếu tố như kinh nghiệm, tay nghề, năng suất lao động, ý thức kỷ luật, năng lực quản lý,…Bởi vì các nhân tố này chi phối đến việc nâng cao chất lượng, uy tín, hạ giá thành cũng như tạo thêm tính ưu việt, độc đáo cho sản phẩm. Công tác quản trị doanh nghiệp Quản trị doanh nghiệp tác động mạnh mẽ đến hoạt động sáng tạo của đội ngũ lao động, đến sự đảm bảo cân bằng giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài cũng như cân đối có hiệu quả các bộ phận bên trong doanh nghiệp, thêm vào đó giữa quản trị doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm có mối quan hệ nhân quả. Nếu doanh nghiệp nào có trình độ quản lý tốt, biết tập hợp sức mạnh đơn lẻ của các thành viên và biến thành sức mạnh tổng hợp thông qua tổ chức thì doanh nghiệp đó sẽ tận dụng được lợi thế tiềm ẩn của tổ chức mình. Song nếu trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp kém hơn đối thủ cạnh tranh thì công ty khó long tận dụng được những lợi thế sẵn có của mình, giảm sức cạnh tranh doanh nghiệp, qua đó giảm năng lực cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp ngay cả khi có các điều kiện khác thuận lợi hơn. Khả năng tài chính của doanh nghiệp Kinh doanh dù ít hay nhiều luôn cần vốn đầu tư, vì vậy trong bất kỳ hoạt động nào doanh nghiệp cũng phải xem xét, tính toán trên tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Khả năng tài chính lớn đồng nghĩa với dễ dàng đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất nhằm giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm qua đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, khuyến kích tiêu thụ,tăng doanh thu, lợi nhuận và củng cố vị trí của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính lớn sẽ thuận lợi hơn trong việc theo đuổi các chiến lựợc dài hạn đòi hỏi lượng vốn lớn và cường độ cạnh tranh cao. Thậm chí, với nguồn tài chính dồi dào, các doanh nghiệp lớn còn thực hiện được những chiến lược mà các doanh nghiệp nhỏ không thể thực hiện. Sự kiện CocaCola bán phá giá ở miền Bắc Việt Nam nhằm thâu tóm toàn bộ thị trường vào năm 1993-1994 là một ví dụ điển hình. Khả năng tài chính của doanh nghiệp còn ảnh hưởng đến tâm lý của khách hang. Khách hàng thường đặt niềm tin vào sản phẩm của những công ty có tiểm lực tài chính dồi dào. Họ cho rằng sản phẩm do những công ty này tạo ra nhất định phải có chất lượng vượt trội. Như vậy vô hình chung khả năng tài chính có tác động thuận chiều đến sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp Nguồn lực vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp Thông thường nguồn lực vật chất của doanh nghiệp thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất, trình độ kỹ thuật hiện tại của doanh nghiệp và khả năng có được các công nghệ tiên tiến. Kinh doanh trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ chóng mặt, chu kỳ sống của một công nghệ là rất ngắn. Công nghệ ra đời sau bao giờ cũng có ưu thế hơn cái trước đó, quyết định đến năng suất, chất lượng và qua đó sẽ tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Thứ hai, quy mô và năng lực sản xuất của doanh nghiệp.Quy mô và năng lực sản xuất lớn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được lợi thế theo quy mô. Theo như đó, khi quy mô doanh nghiệp đạt đến một chừng mực nhất định thì giá thành để sản xuất ra một sản phẩm là thấp nhất. Khi đó doanh nghiệp có thể bán sản phẩm của mình với mức giá cạnh tranh, không những tăng doanh thu mà còn mở rộng thị trường đồng thời tránh được sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh Thứ ba, hiệu suất sử dụng cơ sở vật chất. Để đạt được hiệu quả cao nhất, tránh lãng phí trong sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải sử dụng hết công suất thiết kế của nhà xưởng. Nếu không, tất yếu chí phí cố định trong giá thành sản phẩm sẽ tăng lên, doanh nghiệp không thể bán hàng hoá với mức giá cạnh tranh, ảnh hưởng xấu đến năng lực cạnh tranh của hàng hoá. 1.2.4.4. Phân tích các nhân tố thuộc bản thân hàng hoá Chất lượng Như đã giới thiệu ở phần trước đó đây là một trong những công cụ của doanh nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Chất lượng hàng hoá luôn là vấn đề khách hàng quan tâm. Khi đời sống ngày một nâng cao, người tiêu dùng sẽ sãn sàng chi thêm một khoản tiền để mua sản phẩm có chất lượng đảm bảo. Ngược lại một sản phẩm có chất lượng thấp thì giá rẻ đến đâu cũng chưa chắc đã được khách hàng ưa chuộng. Và trong mọi trường hợp người tiêu dùng bao giờ cũng chọn sản phẩm có chất lượng cao hơn giữa các sản phẩm tương tự cùng gía. Như vậy, chất lượng sản phẩm đã tác động thuận chiều đến sự nổi trội- năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Giá cả Giá cả và chất lượng luôn luôn là hai yếu tố mà người tiêu dùng quan tâm nhất. Sự nhạy cảm về gía hay còn gọi là độ co dãn của nhu cầu theo gía được sử dụng để mô tả mức độ phản ứng của cầu khi giá bán của những hàng hoá thay đổi. Khi độ co dãn của thị trường theo giá càng lớn thì ảnh hưởng của giá cả đến hành vi mua càng tăng. Trong trường hợp đó, sản phẩm cạnh tranh là sản phẩm có giá bán thấp. Tâm lý chung của mọi khách hàng là muốn mình trở thành người tiêu dùng thông minh mua được sản phẩm tốt với giá rẻ nhất nhưng đồng thời cũng cho rằng giá bán cao đồng nghĩa với sản phẩm có chất lượng tốt. Chính thì vậy không phải bao giờ giá bán thấp cũng thu hút người tiêu dùng. Để xác định được mức giá cả có sức cạnh tranh, doanh nghiệp cần xem xét đồng thời các yếu tố khác ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Độ đa dạng của hàng hoá Độ đang dạng của hàng hoá nói chung có thể bao gồm sự đa dạng về bao bì, mẫu mã hoặc phẩm chất. Hàng hoá đa dạng cung cấp cho khách hàng nhiều sự lựa chọn hơn do đáp ứng tốt hơn nhu cấu của nhiều đoạn thị trường. Nhờ đó sản phẩm của công ty được sử dụng rộng rãi hơn giúp không chỉ tăng doanh số bán mà còn quảng bá hình ảnh của sản phẩm, doanh nghiệp. Tuy nhiên để làm được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm bắt được những nhu cầu khác nhau trên thị trường, và đa dạng công nghệ chế biến. Kênh phân phối của hàng hoá Tổ chức tiêu thụ bao gồm cả việc chuẩn bị hàng hoá tiêu thụ và việc phân phối hàng hoá đến người tiêu dùng hoặc người sử dụng công nghiệp. Chuẩn bị hàng hoá tiêu thụ nhất thiết phải xét đến các yếu tố thời gian, thời hạn, số lượng, quy cách kịp thời, theo đúng quy cách khách hàng yêu cầu. Trong rất nhiều ngành kinh doanh, đặc biệt nhập khẩu nông sản có được hàng hoá đúng quy cách, thời gian là yếu tố quyết định đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì thế, họ luôn chọn sản phẩm của công ty có khả năng đáp ứng tốt nhất những yêu cầu về thời gian và phẩm chất. Hàng hoá được phân phối đến nơi tiêu thụ thông qua kênh phân phối. Các nhà sản xuất sử dụng kênh phân phối vì họ nhận thấy các trung gian bán hàng hoá và dịch vụ có hiệu quả hơn do tối thiểu hoá số lần tiếp xúc bán cần thiết để thoả mãn nhu cầu. Nhờ quan hệ tiếp xúc, kinh nghiệm, việc chuyên môn hoá và quy mô hoạt động mà những người trung gian trong kênh phân phố sẽ đem lại nhiều lợi ích cho các nha sản xuất hơn so với khi họ tự làm. Nhờ có mạng lưới kênh phân phối mà khắc phục được những khác biệt về thời gian, địa điểm và quyền sở hữu giữa người sản xuất với những người tiêu dùng các hàng hoá và dịch vụ. Thương hiệu sản phẩm Thương hiệu sản phẩm là yếu tố rất quan trọng tạp nên sự khác biệt, nổi trội của sản phẩm. Thương hiệu sản phẩm giúp người tiêu dùng nhận diện sản phẩm của doanh nghiệp giữa rất nhiều hàng hoá cùng loại. Để xây dựng được một thương hiệu có sức cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp không chỉ chú tâm đến công tác tiếp thị mà còn phải nỗ lực rất nhiều trong tất cả mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh. Hình ảnh thương hiệu chính là sự biểu hiện uy tín của doanh nghiệp, biểu hiện niềm tin của khách hàng vào sản phẩm cũng như doanh nghiệp.Thương hiệu mạnh là sẽ là một lợi thế cạnh tranh lâu dài của sản phẩm. 1.2.3. Các chỉ tiêu đo lường sức cạnh tranh cùa hàng hoá Chúng ta có thể đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá thông qua thị phần của mặt hàng đó, số lượng khách hàng và hình ảnh doanh nghiệp 1.2.3.1. Thị phần của mặt hàng đó trên thị trường trong từng năm so với các đối thủ cạnh tranh Thị phần chiếm lĩnh là chỉ tiêu hay được sử dụng nhất để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Thị phần của hàng hoá là phần trăm thị trường mà hàng hoá chiếm lĩnh được trong một thời gian nhất định và được tính bằng công thức sau: Thị phần sản phẩm của công ty = Doanh thu sản phẩm của công ty X 100% Doanh thu của toàn bộ thị trường Chỉ tiêu này phản ánh mức tiêu thụ của thị trường đối với hàng hoá của doanh nghiệp. Qua đó phản ánh được mức độ ưa thích của khách hàng đối với sản phẩm. Khi một sản phẩm được khách hàng ưa thích, rõ ràng nó có năng lực cạnh tranh. Khi xem xét sự biến động của chỉ tiêu này trong một khoảng thời gian nhất định ta có thể xác định, dự báo về xu hướng tăng giảm của thị phần cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Khi chỉ tiêu này lớn, hoặc có xu hướng tăng đó là một dấu hiệu tốt, sản phẩm đã và đang khẳng định vị trí trên thị trường. Ngược lại, thị phần sản phẩm của công ty nhỏ hơn kỳ vọng của doanh nghiệp hoặc đang có chiều hướng giảm thì doanh nghiệp cấp thiết phải đặt ra những biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm. Còn nếu sản phẩm đã vào chu kỳ cuối của vòng đời sản phẩm thì doanh nghiệp có thể ngưng sản xuất và chuẩn bị tung ra sản phẩm mới. Khi xem xét thị phần sản phẩm của một doanh nghiệp xuất khẩu người ta thường xem xét các chỉ tiêu sau: Thị phần hàng hoá của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường là tỷ lệ phần trăm doanh số sản phẩm của công ty với doanh số toàn bộ thị trường. Qua chỉ tiêu này chúng ta biết được vị trí cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Thị phần hàng hoá của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp cùng quốc tịch. Là tỷ lệ phần trăm doanh số sản phẩm của công ty với tổng kinh ngạch xuất khẩu sản phẩm đó của quốc gia. Chỉ tiêu này cho biết năng lực cạnh tranh của sản phẩm so với sản phẩm của các doanh nghiệp xuất khẩu có cùng quốc tịch khác. Thị phần so sánh là tỷ lệ so sánh doanh số sản phẩm của công ty với các đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Thị phần so sánh giúp các công ty đề ra được mục tiêu mở rộng thị trường của sản phẩm trong tương lai. 1.2.3.2. Số lượng khách hàng Nếu như chỉ tiêu thị phần cho biết phần trăm số lượng sản phẩm tiêu thụ trên thị trường thìchỉ tiêu khách hàng cho biết có bao nhiêu người mua nó. Một mặt hàng có nhiều người tiêu thụ là mặt hàng đã giành được sự tín nhiệm của khách hàng, đám ứng đúng nhu cầu trên đoạn thị trường. Nó chứng tỏ mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao và ngược lại. Một mặt hàng có số lượng tiêu thụ lớn nhưng khách hàng ít thì chưa chắc năng lực cạnh tranh mặt hàng đã cao. Khi đó, theo như lý thuyết năm lực lượng của M. Porter, doanh nghiệp sẽ bị chịu áp lực rất lớn từ khách hàng đồng thời khi đầu ra bị hạn chế thì rủi ro cũng rất lớn. 1.2.3.3. Hình ảnh công ty Uy tín của doanh nghiệp là loại tài sản vô hình vô cùng có giá trị. Nó được xây dựng trên rất nhiều yếu tố: chất lượng, tiện ích sử dụng, dịch vụ, nghệ thuật tiếp thị,... Khi khách hàng tin vào uy tín của doanh nghiệp thì họ sẽ trung thành hơn. Khi đó sản phẩm của doanh nghiệp sẽ nhanh chóng thu hút sự chú ý, quan tâm của người tiêu dùng. Điều này sẽ tạo ra rào cản khi các doanh nghiệp khác muốn lôi kéo khách hàng, họ tất yếu sẽ phải bỏ ra nhiều thời gian, chi phí và công sức hơn. Hình ảnh của doanh nghiệp với khách hàng là sự tổng hợp các ấn tượng, suy nghĩ, niềm tin của khách hàng đến doanh nghiệp, đến hàng hoá của doanh nghiệp. Đó có thể là những ấn tượng xấu hoặc tốt, thiện cảm hoặc không thiện cảm. Các ấn tượng này thuộc về phạm trù tâm lý, do vậy nhiều khi ấn tượng của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng mạnh của yếu tố văn hoá. Chính vì thế, việc tìm hiểu nền văn hoá tiêu dùng của thị trường sẽ giúp các doanh nghiệp tránh được những sơ sót đáng tiếc. Để có được cái nhìn thiện cảm từ khách hàng- những người luôn muốn sử dụng đồng tiền một cách khôn ngoan nhất, đòi hỏi doanh nghiệp có nhiều nỗ lực trong một thời gian dài chứ không thể nhanh chóng giành được trong một sớm một chiều. 1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG ĐIỀU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN LONG SƠN TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ 1.3.1. Tầm quan trọng của thị trường Mỹ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu điều Việt Nam Nước Mỹ- nền kinh tế lớn nhất thế giới với thu nhập trung bình năm 2008 là 44.280USD/người/năm. Từ năm 2004 Hoa Kỳ liên tục là nước nhập siêu về thực phẩm với tốc độ tăng rất cao. Đặc biệt năm 2005 Mỹ nhập siêu khoảng 4,3 tỷ USD, tăng 400% so với năm 2005.Tăng thu nhập cá nhân là nguyên do dẫn đến tăng nhu cầu tiêu thụ. Hơn thế, nước Mỹ là nước đa văn hoá, nhu cầu thực phẩm cũng đa dạng, nhiều loại nông sản không thể trồng trọt trên đất Mỹ và đòi hỏi nhiều lao động. Chính phủ Mỹ có chính sách rất thông thoáng cho việc nhập khẩu những mặt hàng nông sản như vây. Hạt điều nằm trong số đó, chính vì thế thuế suất nhập khẩu với hạt điều ( cả loại đã bóc vỏ và chưa bóc vỏ) vào thị trường Mỹ là 0%. Hạt điều cùng với các loại hạt như: hạt dẻ, wallnut, hạt hồ đào, quả hạch, đậu hà lan, hạt óc chó, hạnh nhân... được người Mỹ gọi chung là "nuts". Hạt điều thường được tẩm gia vị, chiên lên như các loại hạt khác hoặc cho vào thức ăn, bánh kẹo Đây là những loại hạt có lợi cho sức khoẻ,giúp giảm béo phì, giảm tim mạch- đây là điều hết sức quan trọng với người Mỹ. Chính vì thế nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm làm từ hạt điều tại Mỹ ngày càng tăng cao, khoảng 8%/ năm Nhu cầu tăng, thuế thấp, nhiều doanh nghiệpViệt Nam đã tận dụng lợi thế này đưa mặt hàng điều Việt Nam vào thị trường Mỹ. Hai mươi năm qua lượng điều Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ không ngừng tăng, và tăng với tốc độ đáng kể. Từ chỗ một năm chỉ xuất được vài công te nơ điều sang Mỹ, năm 2007 Việt Nam đã xuất hơn 450.000 tấn điều vào Mỹ chiếm hơn 35% thị trường. Hiện nay có khoảng 200 doanh nghiệp VN xuất khẩu điều và Hoa Kỳ là thị trường chính của 80% doanh nghiệp này. Bảng 1.1: Khối lượng điều Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ Năm Khối lượng nhập khẩu (tấn) Chênh lệch so với năm trước (%) 2004 41.273 +129,5 2005 34.277 -16,95 2006 38.350 +11,75 2007 45.578 18,9% Nguồn: www.usitc.gov Mỹ là thị trường tiêu thụ điều lớn nhất thế giới (khoảng hơn 50% lượng điều xuất khẩu của thế giới), đồng thời cũng là thị trường yêu cầu cao về chất lượng và an toàn thực phẩm. Vĩ những lý do đó nên các quy chuẩn cho chất lượng cũng như vệ sinh mà chính phủ Mỹ áp dụng cho hạt điều dễ dàng được các thị trường lớn khác (tiêu biểu là EU) học tập. Khi đó những nước xuất khẩu điều như Việt Nam, Ấn Độ, Brazil, tất yếu phải điều chỉnh chất lượng hàng xuất theo tiêu chuẩn đó. Như vậy vô hình chung, thị trường Mỹ đã tạo nên một quy chuẩn cho ngành điều toàn cầu. Qua đây, chúng ta có thể thấy tầm ảnh hưởng của thị trường Mỹ đến thị trường điều thế giới như thế nào. Hơn thế nữa, một điểm quan trọng khiến nhiều doanh nghiệp điều Việt Nam chọn Mỹ là thị trường chính đó là: hạt điều xuất khẩu sang Mỹ không có nguy cơ bị đánh thuế chống bán phá giá như thuỷ sản hay hàng dệt may. Nguyên do của việc này là cây điều là cây có nguồn gốc nhiệt đới, không thể trồng được trên đất Mỹ.. Còn nguyên nhân cốt lõi của việc áp thuế chống bán phá giá đối với hàng thủy sản và dệt may Việt Nam là chính phủ Mỹ muốn bảo vệ những doanh nghiệp sản xuất trong nước. Nhưng nước Mỹ không thể có ngành điều của chính mình, nhu cầu trong nước lại ngày một tăng, không có lý do gì để chính phủ đánh thuế chống bán phá giá. Điểm này là một thuận lợi khiến các doanh nghiệp điều Việt Nam yên tâm đẩy mạnh xuất khẩu vào Mỹ. 1.3.2. Việt Nam có nhiều lợi thế trong trồng trọt, chế biến và xuất khẩu điều sang thị trường Mỹ Cây điều hay còn gọi là đào lộn hột là loại cây mọc tự nhiên ở các bãi cát ven biển và trong các rừng tự nhiên ở quần đảo Anti và Braxin khu vực sông Amazone thuộc Nam Mỹ, là loại cây sống trong điều kiện khí hậu nhiệt đới. Do nguồn gốc này mà cây điều thích nghi được với điều kiện khí hậu khắc nghiệt nắng nóng, khô hạn của vùng núi cao, vùng ven biển. Cây điều có bộ rễ khỏe lấy nước tốt từ những mạch nước ngầm sâu trong lòng đất. Không những thế cây điều còn dùng nước hết sức tiết kiệm nhờ phiến lá dày và dịch tế bào ở dạng nhựa mũ. Cây điều phát triển tốt nhất và cho hạt mẩy không phải ở những vùng đất màu mỡ mà ở vùng cát trắng. Với những đặc điểm sinh học trên cây điều hoàn phù hợp với điều kiện tự nhiên các vùng núi cao, vùng ven biển của miền Trung và miền Nam Việt Nam. Hiện nay tại Việt Nam tổng diện tích trồng điều là 350.000ha tập trung chủ yếu ở Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình Phước, Đắc Lắc, Đắc Nông) chiếm 278.000 ha, những năm qua, diện tích trồng điều liên tục tăng. Năng suất điều bình quan 10 năm qua tăng 6,66% , năng suất trung bình hiện nay là 1,06 tấn/ha. Vùng nguyên liệu Đông Nam Bộ thường xuyên cho năng suất hơn 1,06 tấn/ha.Thậm trí tại những vùng trồng giống điều cao sản, năng suất lên tới 2,05 tấn/ha. Mặc dù không có nguồn gốc tại Việt Nam nhưng cây điều đã sống rất tốt và rất khoẻ. Hạt điều Việt Nam nổi tiếng trên thế giới vì hương vị thơm ngon hơn hẳn hạt điều của các nước khác. Nhiều nhà nhập khẩu Mỹ, cũng như các quốc gia khác trên thế giới tuyên bố nếu giá hạt điều của các nước như nhau thì họ sẽ ưu tiên nhập hạt điều của Việt Nam. Qua đây, chúng ta nhận thấy danh tiếng hạt điều Việt Nam có uy tín với bạn hàng như thế nào. Bảng 1.2: Diễn biến diện tích- năng suất-sản lượng điều 2001-2005 STT Năm Diện tích tổng số (ha) Diện tích thu hoạch (ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (tấn) 1 2001 214.594 161.954 0,74 119.416 2 2002 240.645 176.442 0,83 145.751 3 2003 261.406 186.663 0,91 168.973 4 2004 297.524 201.892 0,99 200.367 5 2005 349.674 223.918 1,06 238.368 Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh, thành phố Mặc dù không có nguồn gốc tại Việt Nam nhưng cây điều đã sống rất tốt và rất khoẻ. Hạt điều Việt Nam nổi tiếng trên thế giới vì hương vị thơm ngon hơn hẳn hạt điều của các nước khác. Nhiều nhà nhập khẩu Mỹ, cũng như các quốc gia khác trên thế giới tuyên bố nếu giá hạt điều của các nước như nhau thì họ sẽ ưu tiên nhập hạt điều của Việt Nam. Qua đây, chúng ta nhận thấy danh tiếng hạt điều Việt Nam có uy tín với bạn hàng như thế nào. Hơn thế nữa ngành chế biến điều lại là ngành cần nhiều lao động thủ công trong các khâu bóc vỏ, phân loại. Trong khi đó, lao động nông thôn của Việt Nam lại nhiều, chiếm khoảng 80% dân số đảm bảo nguồn cung lao động, chi phí lao động tại Việt Nam lại thấp. Với ngành điều, lao động rất quan trọng vì có những công đoạn không thể thay thế bằng máy móc đuợc. Các công đoạn trong chế biến điều không đòi hỏi tay nghề hoặc kinh nghiệm quá cao và dễ đào tạo.Như vậy, ngành điều Việt Nam không chỉ có thuận lợi về điều kiện tự nhiên mà còn có thuận lợi về lao động- những yếu tố quan trọng nhất trong nông nghiệp. Với đặc tính dễ sống, dễ trồng, chịu được khô hạn, sống tốt nơi đất cát, ít tốn công chăm sóc, cây điều được mệnh danh là cây của người nghèo. Tại những vùng cát trắng, tưởng chừng chỉ có phi lao và xương rồng mới sống nổi thì cây điều vẫn xanh tốt. Không đòi hỏi đầu tư quá nhiều về giống cũng như hệ thống thuỷ lợi, sống tại nơi đa số các loài cây khác không chịu được, đất bỏ hoang, cây điều đã giúp nhiều nông dân Việt Nam thoát khỏi đói nghèo và làm giàu. Bất kỳ ngành chế biến xuất khẩu nào cũng cần đến máy móc công nghệ, ngành chế biến điều cùng không phải ngoại lệ. Trước kia máy móc ngành điều chủ yếu phải nhập khẩu từ Ý, Nhật Bản, Trung Quốc. Từ năm 2000 trở lại đây, khoa Cơ khí trường Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và chế tạo thành công nhiều thiết bị cốt yếu như: máy chao dầu và ly tâm, máy phân cỡ hạt, máy sấy điều, thiết bị đóng gói,...Những thiết bị trong nước chế tạo ra có chất lượng tương đương với thiết bị nhập khẩu nhưng giá chỉ bằng 20%. Đây là một thuận lợi cho ngành điều, giúp giảm chi phí, giảm giá thành. Ấn Độ là nước có ngành điều rất phát triển, đã tồn tại lâu đời. Trong nhiều năm Ấn Độ là nước có khối lượng xuất khẩu điều lớn nhất thế giới, đứng thứ hai là quê hương của cây điều:Brazil . Những những năm gần đây, ngành điều Việt Nam với những lợi thế kể trên, đã vươn lên, vượt Brazil rồi vượt Ấn Độ trở thành nước xuất khẩu điều lớn nhất thế giới trong hai năm 2006,2007 vừa qua. Theo các chuyên gia trong ngành, khả năng để Việt Nam tiếp tục đứng đầu thế giới về xuất khẩu điều trong năm 2008 này là rất cao. 1.3.3. Xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu nói chung và mặt hàng điều nói riêng. Trước hết, xu thế hội nhập tạo cơ hội cho hàng xuất khẩu Việt Nam tiếp cận và xâm nhập các thị trường một cách dễ dàng hơn, kèm theo đó là sự mở cửa thị trường trong nước cho các công ty cũng như sản phẩm nước ngoài. Với những lợi thế của mình, không một sản phẩm điều ngoại nhập nào có thể cạnh tranh với điều Việt Nam về chất lượng cũng như giá cả trể thị trường nội địa, ngành điều không lo phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu như các nông sản khác. Nhưng có một thách thức rất lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu điều Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, đó là sự xuất hiện các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu điều có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Chính phủ Việt Nam có chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào các ngành nông nghiệp, các công ty nước ngoài thậm chí còn được hưởng nhiều ứu đãi hơn các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp FDI này với ưu thế hơn hẳn về tài chính, kỹ năng quản lý, kinh nghiệm kinh doanh đã thâu tóm nhiều nguồn nguyên liệu tốt, lao động lành nghề trong ngành. Xu thế hội nhập khiến môi trường cạnh tranh trong nước trở nên gay gắt hơn, vấn đề cấp thiết đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam là nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong cũng như ngoài nước. Thứ hai,trung bình hàng năm 97% sản lượng điều nhânViệt Nam là xuất dành cho xuất khẩu, khách hàng chủ yếu là các công ty nước ngoài, trong đó Mỹ là bạn hàng lớn nhất rồi đến EU. Đây là những khu vực có mức sống cao, rất coi trọng sức khỏe. Vấn đề giá cả với các thị trường lớn này không quan trọng bằng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Theo ông Nguyễn Thái Học- Chủ tịch hiệp hội điều Việt Nam. có thể nói xu thế toàn cầu của nông sản hiện nay là cạnh tranh bằng an toàn thực phẩm chứ không phải cạnh tranh bằng giá. Đây cũng là điểm yếu của nhiều doanh nghiệp chế biến điều Việt Nam. Để cạnh tranh được trên trường quốc tế, không có cách nào khác là các doanh nghiệp phải tự cải tiến, đổi mới khắc phục điểm yếu này. Tiếp theo, toàn cầu hoá kéo theo sự mở rộng phạm vi cạnh tranh của các ngành kinh doanh nói chung và ngành điều nói riêng. Cạnh tranh hiện giờ không chỉ bó hẹp giữa các doanh nghiệp trong cùng một nước, cùng môi trường kinh doanh quốc gia mà là giữa các doanh ng._.hiện nhưng kết quả đạt được còn hạn chế. Vấn đề khuyến nông, chăm lo lợi ích của người trồng điều chưa được quan tâm đúng mức. Thuế suất nhập khẩu hạt điều (thô và chế biến) của Việt Nam khá cao (30%), nhưng nếu chế biến để xuất khẩu thì doanh nghiệp sẽ được hoàn thuế sau 275 ngày. Đa phần hạt điều của các doanh nghiệp Việt Nam chế biến là dành cho xuất khẩu (94%-98%), và sản lượng điều Việt Nam cũng không phải là nhỏ. Không doanh nghiệp nào dại gì nhập điều thô bán trong nước để chịu thuế. Như vậy dường như mức thuế này là vô nghĩa với Nhà nước khi không thu được đồng nào, đã vậy còn làm ứ đọng vốn của các doanh nghiệp. Do đó, vô hình, thuế quan trở thành rào cản cản trở quay vòng vốn của các doanh nghiệp điều dẫn đến thiếu vốn đầu tư công nghệ, nhà xưởng, mua nguyên liệu. Tóm lại, chương II đã trình bày khái quát về công ty cổ phần Long Sơn và phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của công ty Cổ phần Long Sơn đồng thời cũng tìm hiểu những nguyên nhân làm hạn chế năng lực cạnh tranh mặt hàng này cùa công ty trên thị trường Mỹ. Vậy các giải pháp nào để khác phục những hạn chế này? Chương III tiếp theo sẽ trả lời câu hỏi này. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG ĐIỀU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN LONG SƠN TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ 3.1. TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG ĐIỀU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY 10 SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 3.1.1. Dự báo nhu cầu nhập khẩu mặt hàng điều của thị trường Mỹ Mỹ một thị trường tiêu thụ điều lớn, và vẫn có tiềm năng phát triển. Điều được coi là loại thực phẩm xa xỉ do mức giá cao của nó, do vậy không có chuyện cung vượt cầu. Nhu cầu nhập khẩu mặt hàng điều phụ thuộc vào thu nhập của người Mỹ. Đồng thời giá điều càng rẻ thì nhu cầu càng nhiều. Trong những năm gần đây mặc dù nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái nhưng Mỹ vẫn là nền kinh tế hàng đâu thế giới, thu nhập trung bình của người dân Mỹ vẫn duy trì trên 48.000USD/năm. Trong nhiều năm, nước Mỹ là nước nhập khẩu điều lớn nhất thế giới chiếm hơn 50% sản lượng điều toàn cầu. Trong khoảng thời gian 1988- 1991 chi tiêu của người Mỹ cho hạt điều tăng trung bình 22,8%/năm. Hiện nay, người Mỹ tiêu thụ điều nhiều thứ nhì thế giới chỉ sau Hà Lan. Bảng 3.1. Khối lượng tiêu thụ điều nhân trung bình của các nước tiêu thụ điều nhiều nhất thế giới Thứ hạng Nước Khối lượng tiêu dùng trung bình ( gram/người/năm) 1 Hà Lan 230 2 Mỹ 215 3 Anh 75 4 Đức 50 Nguồn: VINACAS Như vậy trung bình một người Mỹ tiêu thụ 215 gram điều trong một năm. Nước Mỹ với dân số hơn 300 triệu người và tốc độ tăng 1%/ năm do sinh đẻ và nhập cư là một thị trường tiêu thụ hàng hoá khổng lồ của thế giới. Do vậy đây là thị trường tiềm năng với rất nhiều sản phẩm, trong đó có các sản phẩm về điều. Người Mỹ ngày càng ưa thích các sản phẩm làm từ điều, một phần do hương vị đặc biệt của nó và một phần vì hạt điều là thực phẩm có lợi cho sức khoẻ. Hiện nay, khoảng một phần tư dân số Mỹ bị béo phì, ung thư chiếm 25% trường hợp chết do mọi nguyên nhân, tỷ lệ người mắc các bệnh về tim mạch, tiểu đường cũng tăng cao. Nguyên nhân chủ yếu là do chế độ dinh dưỡng nhiều chất béo, choleteron, chất đường, chất hoá học.. có hại cho sức khoẻ. Điều này kiến người dân Mỹ càng quan tâm đến sức khoẻ và khó tính hơn trong việc lựa chọn thực phẩm. Các loại thức ăn nhẹ (snack food) rất được người Mỹ ưa thích, đa phần là các loại khoai tây chiên, bánh quy, kẹo,..Nhưng theo các nhà khoa học đó lại là nguyên nhân gây ra các bệnh tim mạch, ung thư, béo phì, tiểu đường. Chính vì thế, người Mỹ chuyển sang ưa thích các loại hạt như đậu Hà Lan, hạt óc chó, lạc, walnut, hạt hạnh nhân, hạt bồ đào,.và cả hạt điều. Những loại hạt này mặc dù có giá cao hơn các thức ăn nhẹ khác có tác dụng ngăn ngừa bệnh tim mạch, tiểu đường và hạn chế béo phì. Hạt điều với giá trị dinh dưỡng cao đã được quốc tế thừa nhận và đinh hướng tiêu dùng của nhiều quốc gia, trong đó có Mỹ. Những nước này khuyến khích người dân sử dụng hạt điều bởi trong nhân điều có chứa hàm lượng protêtin cao (có hầu hết các loại aminoaxit cần thiết)(21%), betacarotene, nhiều khoáng chất,…rất tốt cho người cần phục hồi sức khoẻ nhanh: phụ nữ sau khi mang thai, người vận động thể thao, trẻ em, người già,..Hơn nữa so với các hạt hạnh nhân, bồ đào, hạt dẻ,...hạt điều có mức giá cạnh tranh hơn. Hạt điều ở thị trường Mỹ chủ yếu được bán dưới dạng chiên, nhưng bên cạnh đó cũng có thể chế biến thành bánh kẹo, cho vào làm phụ gia thức ăn. Chính vì vậy mà khối lượng hạt điều tiêu thụ trên thị trường Mỹ có xu hướng ngày càng tăng trong những năm qua và được FDA dự đoán sẽ tăng với mức 4%/năm. VINACAS dự báo năm 2008 giá điều trên quốc tế sẽ tiếp tục đứng vững do lượng dự trữ toàn cầu thấp, diện tích canh tác nhiều nước (Ấn Độ, Brazil) bị thu hẹp trong khi nhu cầu thế giới đang đứng ở mức cao. Theo biểu đồ sau, khối lượng nhập khẩu điều vào thị trường Mỹ liên tục tăng trong những năm gần đây: Hình 3.1. Kim ngạch và khối lượng điều nhập khẩu vào thị trường Mỹ qua các năm Nguồn: www. usitc.gov Thị trường Mỹ không phải là thị trường khó tính nhưng họ rất quan tâm đến vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhiều lô hàng xuất từ Việt Nam có lẫn giấy báo gói bã thuốc hun trùng, mẩu nhựa, thuỷ tinh, thậm chí có chứa hàm lượng thuốc trừ sâu không cho phép. Đó là những điều nhà nhập khẩu e ngại khi nhập điều Việt Nam. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không cải thiên điểm yếu này thì khó có thể cạnh tranh lâu dài trên thị trường Mỹ. 3.1.2. Dự báo tình hình cạnh tranh và đối thủ cạnh tranh đến năm 2010 Thị trường Mỹ với sức mua lớn, hàng năm tiêu thụ đến hơn một nửa sản lượng điều thế giới, lại dễ tính hơn thị trường Úc, Châu Âu luôn có sức hấp dẫn với các nước xuất khẩu điều. Theo số liệu của tổ chức nông lương Liên hợp quốc (FAO) ngành điều thế giới được ghi nhận có từ năm 1900. Hiện có hơn 50 quốc gia vùng nhiệt đới trồng điều với diện tích thu hoạch năm 2003 là: 3,17 triệu ha, trong đó Ấn Độ 0,853 triệu ha, Brazin: 0,699 triệu ha. Trong những năm 2005 về trước Ấn Độ luôn là nước dẫn đầu thế giới về diện tích, sản lượng hạt (0,5 triệu tấn/năm) và nhân điều xuất khẩu (0,09 triệu tấn/năm). Tuy nhiên từ năm 2005 trở lại đây, Việt Nam mặc dù phát triền ngành điều muộn hơn đã vượt mặt Ấn Độ trở thành nước có lượng điều nhân xuất khẩu lớn nhất thế giới với 117.000 tấn xuất khẩu vào năm 2005, 127.000 tấn vào năm 2006, 152.000 tấn vào năm 2007. Đồng thời thị trường Mỹ luôn là thị trường chủ lực của điều Việt Nam qua các năm. Hình 3.2. Thị trường xuất khẩu điều Việt Nam Nguồn: VINACAS Trong những năm qua điều Việt Nam ngày càng có thị phần lớn trên thị trường Mỹ, lấn át cả thị phần của Ấn Độ và Brazil. Năm 2007, khối lượng điều Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ chiếm 36% tổng khối lượng điều nhập khẩu vào Mỹ trong khi Ấn Độ là 33,43% và Brazil là 25,86%. Có được điều này cũng là do điều Việt Nam vừa rẻ hơn lại vừa có chất lượng hơn hẳn điều của hai nước đó. Trong tương lai điều Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với điều châu Phi và xa hơn là điều Campuchia. Trong tương lai tổ chức FAO sẽ hỗ trợ giúp một số nước Châu Phi phát triển điều và Campuchia cũng có quỹ đất lớn thích hợp cho phát triển sản cuất điều sẽ cạnh tranh với Việt Nam. Tuy nhiên đối thủ cạnh tranhmạnh nhất vẫn là Ấn Độ và Brazil. Theo như xu thế hiện nay thì điều Việt Nam cũng như sản phẩm điều của công ty Long Sơn sẽ vẫn tiếp tục được ưa thích trên thị trường Mỹ, nhất là khi người tiêu dùng cũng như các nhà nhập khẩu trở nên nhạy cảm về giá hơn. Đây là sản phẩm tốt cho sức khoẻ nên sẽ luôn có nhu cầu cho sản phẩm này. 3.1.3. Dự báo khả năng xuất khẩu và năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần Long Sơn sang thị trường Mỹ Hiện nay công ty Long Sơn đã mở rộng quy mô sản xuất với 4 nhà máy ở Gia Lai và 3 công ty chế biến thành viên. Tổng công suất của toàn bộ hệ thống gần 50.000 tấn/ năm hoàn toàn có khả năng đáp ứng nhiều đơn đặt hàng không chỉ ở thị trường Mỹ mà còn từ các thị trường lớn khác. Với địa điểm đặt các nhà máy ở Gia Lai, công ty giảm thiểu tình trạng thiếu lao động, lao động bỏ việc. Qua 8 năm hoạt động, công ty đã xây dựng được các mối quan hệ tốt với nhiều đầu mối cung cấp điều thô, các nông trại, đảm bảo nguồn hàng cung cấp. Bên cạnh đó với sự năng động của ban quản trị, công ty đã tìm kiếm và có nguồn điều thô nhập khẩu từ châu Phi ổn định với chất lượng tốt. Nếu công ty đạt được các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng thì chắc chắn sức cạnh tranh sản phẩm của công ty sẽ được cải thiện đáng kể. Bên cạnh đó việc đa dạng hoá sản phẩm cũng không nằm ngoài khả năng của công ty. Không giống như các loại nông sản khác, thuế nhập khẩu điều vào thị trường Mỹ đã băng 0% trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Chính vì vậy, khối lượng mặt hàng này xuất sang Mỹ sẽ không có chuyển biến đáng kể nếu không có những biện pháp kích cầu tích cực. Chuyến xúc tiến thương mại vừa qua (4/2007) đã quảng bá hình ảnh công ty và có thêm nhiều cơ hội hợp tác mới. Dự kiến năm 2010 khối lượng điều xuất khẩu điều nhân của công ty sẽ tăng 30% so với năm 2007 và đạt kim ngạch xuất khẩu là 7,12 triệu USD. Đồng thời trong năm 2010 công ty sẽ đưa sản phẩm điều chiên đã thành công trên thị trường Úc của mình thâm nhập vào thị trường Mỹ. 3.2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG ĐIỀU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN LONG SƠN TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ 3.2.1. Các giải pháp từ phía công ty 3.3.1.1. Điều chỉnh chiến lược xuất khẩu phù hợp với tình hình mới Thị trường Mỹ những năm gần đây có những biến động khá phức tạp. Nền kinh tế Mỹ suy thoái làm ảnh hưởng phần nào đến sức mua những loại thực phẩm xa xỉ như hạt điều. Mặc dù chính sách miến thuế nhập khẩu hạt điều của nước Mỹ mang lại nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nhưng đây cũng là điểm thu hút nhiều đối thủ cạnh tranh vào thị trường này. Các doanh nghiệp Châu Phi đang dần tiến tới xuất khẩu điều nhân với chiến lược sản xuất bằng phương pháp sạch (phương pháp sinh học, tối thiểu việc dùng hoá chất), đồng thời do vị trí địa lý gần châu Mỹ hơn, tiết kiệm chi phí vận chuyển nên điều nhân của các quốc gia này sẽ rất có sức cạnh tranh. Chính sách định giá cao của công ty đã làm hạn chế khối lượng hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ và ít thích hợp khi nền kinh tế Mỹ đang trong thời kỳ khó khăn, các nhà nhập khẩu rất quan tâm đến giá cả. Rất nhiều doanh nghiệp có uy tín khác đã xuất được hàng sang Mỹ với mức giá thấp hơn. Khi môi trường cạnh tranh thay đổi thì chiến lược của doanh nghiệp cũng cấn phải được điều chỉnh cho phù hợp thì mới có được những biện pháp để hạn chế bất lợi và phát huy lợi thế của mình, qua đó duy trì, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Như vậy, với năng lực cạnh tranh mặt hàng điều trên thị trường Mỹ giảm trong năm 2007 vừa qua, công ty cần ngay lập tức thay đổi chiến lược cạnh tranh của mình. Hội đồng quản trị, ban giám đốc cần bàn bạc xây dựng lại chiến lược cạnh tranh của công ty trên thị trường Mỹ. Đó có thể là chiến lược cạnh tranh bằng giá, giảm giá bán sản phẩm trên thị trường hoặc cạnh tranh bằng kênh phân phối: tiếp cận trực tiếp với các siêu thị, các nhà chiên điều để từng bước tiến đến gần hơn với người tiêu dùng. Việc giảm bớt các khâu trung gian sẽ giúp giảm bớt chi phí cũng như sự phụ thuộc vào các nhà nhập khẩu. Thêm vào đó công ty cũng gần hơn với khách hàng, nắm bắt được nhu cầu để có thay đổi phù hợp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. 3.3.1.2. Tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường Mỹ Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của một cách hiệu quả phải tạo ra được những sản phẩm khác biệt, nổi trội và đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng. Công ty chỉ có thể làm được điều đó trên cơ sở nắm vững những đặc điểm của thị trường và phân tích, đánh giá, dự báo về thị trường trong tương lai, công ty có thể đưa ra quyết định cạnh tranh bằng công cụ, chiến lược nào. Trong thời gian qua do cả yếu tố về vốn, bộ máy và con người mà công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu nói chung và thị trường Mỹ nói riêng của công ty còn chưa được quan tâm thích đáng. Vì vậy, thời gian tới công ty cần chú trọng hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường, cụ thể là: Trong năm nay (2008) cũng như những năm sau công ty cần tăng thêm kinh phí để hỗ trợ việc nghiên cứu thị trường hiệu quả hơn. Thông qua sự tư vấn của các công ty nghiên cứu thị trường uy tín để đa dạng hoá sản phẩm, thâm nhập sâu hơn vào các kênh phân phối. Bên cạnh đó, công ty có thể đầu tư cho việc đào tạo cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực nghiên cứu thị trường. Thành lập phòng Marketing riêng hoặc có chuyên viên chuyên nghiên cứu thị trường riêng biệt. Việc này sẽ khiến cho công tác nghiên cứu thị trường được chuyên sâu và bài bản hơn, hơn nữa tránh được tình trạng phòng Kế hoạch thị trường phải làm quá nhiều công việc nên kém hiệu quả hay sự trùng lặp trong nghiên cứu giữa các phòng nghiệp vụ với nhau. 3.2.1.3. Nâng cao chất lượng mặt hàng điều xuất khẩu Chất lượng sản phẩm luôn là một yếu tố hàng đầu được các khách hàng quan tâm khi chọn mua sản phẩm, đối với mặt hàng nông sản như hạt điều thì điều đó càng quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ con người. Để nâng cao chất lượng của các sản phẩm điều, việc trước tiên cần làm là đảm bảo có nguồn nguyên liệu sạch, đáp ứng nhu cầu sản xuất. Vì thế, công ty cần chủ động phối hợp xây dựng vùng nguyên liệu sạch, năng suất cao. Hiện nay để ổn định nguồn nguyên liệu công ty chỉ mới dừng lại ở việc ứng trước vốn cho nông dân, các hộ trồng điều mà chưa thực sự chủ trọng đến việc xây dựng nguồn nguyên liệu sạch theo tiêu chuẩn GAP. Đó là nguyên nhân khiến chất lượng sản phẩm của công ty không đồng đều, hàm lượng thuốc trừ sâu còn cao so với điều châu Phi.Hiện nay có rất nhiều tiến bộ trong nông nghiệp giúp tăng sản lượng, năng suất cây điều, phòng trừ sâu bệnh mà không tốn quá nhiều chi phí. Công ty nên phối hợp với các địa phương, các ban ngành, các hộ trồng điều tuyên truyền, hướng dẫn về những phương pháp mới này. Mặc dù sản phẩm của công ty chưa xảy ra tình trạng có tạp chất, ngâm nước hoặc dư lượng thuốc trừ sâu vượt qua mức cho phép, nhưng để có nguồn nguyên liệu sạch nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh lâu dài khi mà thị trường Mỹ ngày càng khó tính hơn về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như cạnh tranh với đối thủ tiềm ẩn Châu Phi trong tương lai. Bên cạnh đó, một giải pháp giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm điều mà Hiệp hội điều Việt Nam cũng như các chuyên gia kinh tế nông nghiệp đã nêu ra là doanh nghiệp cần tập trung đổi mới trang thiết bị, nhà xưởng sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt, đảm vảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế như ISO, HACCP, GMP,.. Hiện nay chỉ có 14 trong tổng số 164 doanh nghiệp xuất khẩu điều Việt Nam có được chứng chỉ này. Những công ty này sản xuất ra bao nhiêu hàng tiêu thụ hết bấy nhiêu. Đây là điều Long Sơn cần học tập nếu muốn nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều trên thị trường Mỹ. 3.2.1.4. Đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu Bên cạnh chất lượng thì chủng loại sản phẩm cũng cần được công ty lưu tâm hơn. Hiện nay sản phẩm của công ty xuất sang thị trường Mỹ mới chỉ là điều nhân- sản phẩm có giá thường xuyên biến động, nhiều rủi ro. Các sản phẩm điều chế biến có giá cao, không chịu nhiều sự biến động của giá điều thế giới lại dễ làm sẽ là những mặt hàng có tính cạnh tranh cao, mag lại nhiều lợi nhuận nếu được công ty quan tâm thích đáng. Các sản phẩm ăn liền được chế biến từ điều rất đa dạng ví dụ như điều rang muối, điều trộn đậu phộng, kẹo hạt điều, kẹo nhân điều thập cẩm, nhân điều wasabi, nhân điều hương tỏi,..Vì vậy, trong những năm tới công ty nên chú ý việc đa dạng hoá sản phẩm, tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm nhằm tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình. 3.2.1.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ lao động Chất lượng nguồn nhân lực ảnh hưởng rất nhiều tới hoạt động kinh doanh trong đó có xuất khẩu của công ty. Để thực hiện tốt các nội dung của hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu như nghiên cứu thị trường, đàm phán, ký kết hợp đồng, ra quyết định… đòi hỏi cán bộ công nhân viên phải có trình độ cao cả về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm và nhạy bén trước sự thay đổi của thị trường. Công ty hiện nay cần bổ sung thêm cán bộ quản lý về công nghiệp thực phẩm cũng như nhân viên marketing quốc tế. Đồng thời công ty cũng nên tạo điều kiện cho nhân viên học tập nâng cao các kỹ năng làm việc cũng như trình độ ngoại ngữ. Với công nhân, nên phát động các cuộc thi tay nghề, thi đua năng suất. Để tạo được lòng trung thành cũng như trách nhiệm với công việc, công ty nên nhanh chóng tiến hành bán cổ phần cho đội ngũ lao động. 3.2.2. Các kiến nghị với Hiệp hội điều Việt Nam- VINACAS Xu thế các doanh nghiệp trong cùng môt ngành hiện nay là liên kết với nhau trong các hiệp hội. Hiệp hội sẽ là người bảo vệ quyền lợi chung của các doanh nghiệp, là cầu nối giữa các doanh nghiệp với nhau. Là một thành viên trong Hiệp hội điều Việt Nam, những hoạt động của Hiệp hội ngày càng có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty Long Sơn. Hiệp hội điều trong những năm qua còn nhiều bất cập, nhiều chuyện xích mích đáng tiếc, làm ảnh hưởng đến uy tín cũng như hiệu quả của hội. Do vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh của điều Việt Nam, Hiệp hội cần nâng cao vai trò, chất lượng và hiệu quả của mình, trước hết là những nhiệm vụ sau: Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực quản lý điều hành, thiết lập quan hệ gắn bó với các Bộ, Ngành, địa phưong để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hội viên, tiếp tục đưa sản phẩm điều Việt Nam có vị trí xứng đáng trên thị trường Mỹ cũng như thế giới. Hiệp hội phải tạo ra sự đồng thuận cao giữa các hội viên trong việc tổ chức thu mua, nhập khẩu hạt điều, tăng cường thông tin, nâng cao hiệu quả hoạt động, dự báo thị trường và xúc tiến thương mại, hội thảo khoa học ứng dụng công nghệ và kỹ thuật mới vào chế biến, tổ chức hội thi tay nghê cho công nhân chế biến điều,...Những hoạt động này phần nào sẽ quảng bá cho sản phẩm điều Việt Nam và giảm giá thành sản phẩm. Hiệp hội phải trở thành tổ chức bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của các hội viên, để các doanh nghiệp có thể yên tâm kinh doanh một cách lành mạnh, tránh được những thiệt hại do cạnh tranh không lành mạnh. Đối với những doanh nghiệp thường xuyên không thực hiện hợp đồng, Hiệp hội có thể cho đăng tên vào “ danh sách đen” trên trang web của hội thông báo cho toàn thể các nhà nhập khẩu. Từ đó giúp củng cố thương hiệu điều Việt Nam. 3.2.3. Các kiến nghị với Nhà nước 3.2.3.1. Điều chỉnh chính sách đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu điều phù hợp hơn với thực tế Quy hoạch nguồn nguyên liệu trong nước cho sản xuất, chế biến điều Công suất thiết kế 731.700 tấn, có 245 cơ sỏ chế biến điều, diện tích hiện nay có 433.546 ha Cây điều là một loại cây tương đối dễ trồng và có giá trị kinh tế cao. Trong thời gian qua, Nhà nước đã triển khai đề án 120/TTg để phát triển vùng nguyên liệu điều phục vụ cho xuất khẩu. Tuy nhiên đề án này còn những bất cập, ví dụ như: Đề án ưu tiên phát triển điều ở duyên hải miền Trung nhưng thực tế đây lại là nơi không hoặc ít thích hợp với sinh thái cây điều, lại gặp thiên tai nên tỷ lệ đậu quả thấp, hạt và nhân điều nhỏ. Việc phát triển trồng điều tràn lan không căn cứ vào các dự báo, xu hướng biến động thị trường cũng khiến ngành điều lao đao. Theo các chuyên gia nghiên cứu về thực trạng và xu hướng phát triển của xuất khẩu điều Việt Nam thì để ngành điều phát triển bền vững trong cuộc cạnh tranh thời hội nhập thì việc quy hoạch, tổ chức lại vùng sản xuất nguyên liệu điều cần được điều chỉnh lại. Theo đó, nên thu hẹp lại những vùng trồng điều không phù hợp, tiến hành tập trung thâm canh cho diện tích 400.000 – 440.000 ha thay vì 500.000 ha vào năm 2010 như đề án đề ra. Giảm thuế nhập khẩu điều thô nguyên liệu xuống 0% Do sản lượng trong nước không đáp ứng đủ công suất chế biến, mỗi năm sản lượng chỉ khoảng 350.000-400.000 tấn, thiếu 150.000-200.000 tấn điều thô, phải nhập khẩu từ bên ngoài. Như vậy, việc nhập khẩu điều thô của ngành điều là bắt buộc. Chính sách thuế áp dụng cho hạt điều thô nhập khâu hiện nay là 5%-7.5% nhưng được hưởng ân hạn về thuế trong vòng 275 ngày (được hoàn thuế nếu xuất khẩu sau 275 ngày). Mặc dù vậy, doanh nghiệp nhập khẩu, trong đó có công ty Long Sơn lại vướng mắc nhiều về cơ chế Hải quan trong việc kiểm tra định mức xuất khẩu. Bên cạnh đó, Ấn Độ đã áp mức thuế 0% cho điều thô nhập khẩu. Để đảm bảo khả năng cạnh tranh của ngành điều Việt Nam phù hợp với cam kết WTO, Nhà nước cần thống nhất chủ trương và xây dựng đề án tăng cường nhập khẩu nguyên liệu điều thô phục vị chế biến tái xuất với mức thuế nhập nhẩu hợp lý. Đây là giải pháp để giải quyết vướng mắc về cơ chế chính sách khi quyết toán vói ngành Hải quan; tạo điều kiện pháp lý thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp nhập khẩu, tiết kiệm thời gian, giảm chi phí snả xuất, tăng khả năng cạnh tranh. 3.2.3.2. Thay đổi chính sách thuế VAT với các sản phẩm điều Hiện nay có đến 99% điều xuất khẩu của Việt Nam được xuất khẩu dưới dạng điều nhân (chưa rang muối, chiên chao hay làm bánh kẹo điều). Trên thực tế, các doanh nghiệp mua bán điều thô và nhân điều trong nước đều chịu mức thuế VAT là 5% , nhưng vì là mặt hàng xuất khẩu nên thuế xuất khẩu nhân điều là 0%, vì vậy các doanh nghiệp được hoàn thuế VAT nếu có đủ hồ sơ hợp lệ trình cơ quan thuế. Cơ chế này đã kiến những doanh nghiệp điều bị kẹt vốn do phải trả laĩ vay ngân hàng trong thời gian chờ đợi cơ quan thuế thẩm định, chưa kể đến việc tăng chi phí sản xuất. Ấn Độ, đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam đã và đang áp dụng mức thuế 0% với hạt điều thô và nhân điều sơ chế. Với lý do trên, để tiết kiệm chi phí và đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn dẫn đến giảm chi phí và hạn chế tình trạng thiếu vốn đầu tư vào công nghệ của các doanh nghiệp điều Việt Nam, Chính phủ nên thống nhất chủ trương và sớm xây dựng đề án đưa thuế VAT xuống 0% đối với điều thô và nhân điều sơ chế. 3.2.3.3. Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ người trồng điều Mặc dù ngành điều có sự phát triển rất nhanh (năm 2008, với sản lượng dự kiến 400.000 tấn, giá trị sản xuất hàng hoá nguyên liệu ngành điều Việt Nam khoảng 5.000-5.500 tỷ đồng ) nhưng chứa đựng nhiều rủi ro, không bền vững do Nhà nước thiếu chính sách hỗ trợ đối với người trồng điều. Theo cam kết WTO, Chính phủ được phép hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất nông nghiệp bằng 12% giá trị ngành hàng. Vấn đề về giống,kỹ thuật trồng, phòng trừ sâu bệnh và các yếu tố thổ nhưỡng, khí hậu… quyết định chủ yếu đến năng suất, chất lượng cây điều. Hiện nay các vùng nguyên liệu nước ta đã chuyển đổi trên 30% thành giống mới cao sản với sản lượng bình quân trên 1tấn/ha. Nếu đầu tư có chiều sâu, nghiên cứu giống mới, chuyển giao tiến bộ và tăng cường công tác khuyến nông thì sản lượng bình quân toàn quốc đạt 2 tấn/ha. Chính vì những lý do trên, Nhà nước nên có kế hoạch hỗ trợ trực tiếp cho người trông điều 50-60 tỷ đồng để xây dựng các viện nghiên cứu cây điều, tăng cường công tác khuyến nông và bảo vệ thực vật ở vùng trồng điều và đầu tư xây dựng tiêu chuẩn GAP nhằm mục tiêu xây dựng nguồn nguyên liệu điều theo hướng canh tác sạch. Việc thực hiện những công tác này sẽ trực tiếp hỗ trợ nông dân trồng điều các địa phương. Việc xây dựng tiêu chuẩn GAP, xây dựng vùng nguyên liệu theo hướng canh tác sạch góp phần phục vụ đắc lực cho công nghiệp chế biến, là”giấy thông hành” cho các mặt hàng điều chất lượng cao của Việt Nam vào thị trường Mỹ trong tương lai một cách bền vững cũng như nâng cao chất lượng và giá trị xuất khẩu cho những mặt hàng này. 3.2.3.4. Sửa đổi tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về điều nhân Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có tiêu chuẩn TCVN4850-1998 về nhân điều và điều thô. Tiêu chuẩn này được ban hành từ lâu mà không có sửa đổi bổ sung nên đã lạc hậu so với nhiều tiêu chuẩn khác về điều nhân thế giới. Hiện nay các nhà xuất khẩu Việt Nam đều phải ký hợp đồng bán nhân không chỉ với nhà nhập khẩu Mỹ mà còn cả các nước khác dựa trên tiêu chuẩn điều nhân của AFI. Nếu không tiến hành sửa đổi TCVN4850-1998, không xây dựng TCVN về điều thô và xây dựng GAP thì lợi thế canh tranh về giá của điều Việt Nam sẽ thấp hơn các nước khác trên thế giới. 3.2.3.5.Nhà nước nên có các ưu đãi về tín dụng và vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu điều Vốn là một trong những vấn đề nan giải trong những năm gần đây đối với các doanh nghiệp nói chung. Đặc biệt do đặc thù của mình, ngành điều cần một khối lượng vốn rất lớn. Thường thì vốn kinh doanh của các doanh nghiệp điều chỉ có từ 10-30% là vốn tự có, còn lại là vốn vay. Các doanh nghiệp thường dùng vốn vay để mua điều thô, chế biến xuất khẩu rồi lấy tiền xuất hàng trả các khoản vay và lãi. Nhu cầu vốn hàng năm của ngành điều Việt Nam khoảng 5.000 tỷ, những năm gần đây lượng điều thô nhập khẩu ngày càng tăng, khiến nhu cầu về vốn vay ngày càng cao hơn. Tuy nhiên, nếu các ngân hàng tiếp tục cho vay như những năm trước: đồng loạt cho vay ngắn hạn khối lượng tiền lớn vào thời gian thu hoạch điều thì tình trạng “sốt giá ảo” là không thể tránh khỏi. Rất nhiều doanh nghiệp điều muốn vay vốn để mở rộng nhà xưởng, cải tiến công nghệ theo các tiêu chuẩn quốc tế nhưng với lãi suất cao như hiện nay (1,5%/tháng) thì khó có thể thực hiện được. Muốn giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu điều trong thời gian tới thì Ngành ngân hàng và các ngành hữu quan cần xem xét và có các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu điều các ưu đãi về tín dụng và vốn để đầu tư máy móc, công nghệ. Để làm được việc này Nhà nước cần đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp, thời gian cho vay hợp lý, không giải ngân chậm, thúc nợ sớm... Có như vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu hạt điều mới có điều kiện đầu tư vốn cho mua nguyên liệu, nghiên cứu thị trường, cải tiến công nghệ chế biến… góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều. 3.2.3.6. Cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp điều về thị trường Mỹ và hỗ trợ xúc tiến thương mại mặt hàng này trên thị trường Mỹ Tình trạng thiếu thông tin về thị trường khiến các doanh nghiệp khó khăn cho việc tiếp cận các kênh phân phối cũng như tiếp cận người tiêu dùng. Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ nên quan tâm giúp đỡ các doanh nghiệp điều trong việc cung cấp thông tin về thị trường tiêu dùng các sản phẩm từ điều. Qua đó các doanh nghiệp sẽ mạnh dạn hơn trong việc đưa các sản phẩm có giá trị gia tăng cao vào thị trường này. Các sản phẩm này muốn có sức cạnh tranh mạnh thì phải phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, đồng thời tạo được sự khác biệt với các sản phẩm cùng loại. Muốn làm được điều đó nhất thiết phải phân tích các thông tin về thị trường tiêu dùng hiện tại. Việc xây dựng thương hiệu điều Việt Nam trên thị trường Mỹ có ý nghĩa chiến lược trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều. Qua đây, hình ảnh các sản phẩm điều Việt Nam sẽ đến được với các nhà chiên điều, các siêu thị cũng như người tiêu dùng, tạo điều kiện cho cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào kênh phân phối. 3.2.3.7. Tăng cường sự hỗ trợ và giám sát của Nhà nước với ngành điều Hiện nay cây điều không chỉ là loại cây xoá đói giảm nghèo mà còn là loại cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu cao, có sức cạnh tranh, hứa hẹn đem lại nhiều ngoại tệ trong đất nước. Tuy nhiên, nhà nước chưa có sự quan tâm thích đáng đến ngành này,số lượng các đề tài nghiên cứu về cây điều còn ít. Hiện nay các giống điều cho năng suất cao đều là do nhân dân tạo ra, việc nghiên cứu máy móc thiết bị cho ngành điều chưa được sự hỗ trợ của nhà nước dẫn đến thiếu kinh phí. Ngành điều là ngành rất có tiềm năng, không đòi hỏi đầu tư nhiều, Nhà nước nên quan tâm đầu tư và phát triển. Bên cạnh đó, do yêu cầu ngày của thị trường Mỹ ngày càng khát khe về vệ sinh an toàn thực phẩm và chất lượng trong khi hiểu biết của các doanh nghiệp còn hạn chế. Chính vì vậy, Nhà nước nên hỗ trợ và chỉ đạo doanh nghiệp xây dựng lộ trình quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO, HACCP, GMP và giám sát việc thực hiện nhãn hiệu đã đăng ký. Bên cạnh đó, việc tăng cường hoạt động quản lý thị trường, không để xảy ra gian lận thương mại xử nghiêm nếu vi phạm cũng rất quan trọng trong việc tạo điều kiện nâng cao thương hiệu điều Việt Nam cũng như phát triển ngành một cách ổn định. KẾT LUẬN Thị trường Mỹ đa chủng tộc, đa văn hóa với dân số trên 300 triệu dân, thu nhập bình quân vào khoảng 42.000USD/năm luôn là một thị trường đầy tiềm năng với các sản phẩm tiêu dùng nói chung và với mặt hàng điều nói riêng. Tuy nhiên đây cũng là thị trường đòi hỏi cao về chất lượng cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm. Đây là điều cần lưu ý không chỉ đối với công ty Long Sơn mà cả với các doanh nghiệp xuất khẩu điều Việt Nam khác. Mặt hàng điều là mặt hàng rất có lợi thế cạnh tranh trong hoàn cảnh hiện nay- khi mà Việt Nam đã gia nhập WTO do đây là mặt hàng Việt Nam tự trồng, tự chế biến điều, giá nhân công lao động rẻ, vốn nhiều năm đã không được trợ cấp của Nhà nước. Cái khó của ngành này đó là nguồn nguyên liệu bấp bênh, thiếu các vùng trồng điều được quy hoạch khoa học, thiếu giống cây tốt. Nhà nước cần xem xét và hỗ trợ vấn đề này để ổn định nguồn nguyên liệu cho các doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh cho điều xuất khẩu. Với những thành tựu đã và đang đạt được, tương lai phát triển thị trường Mỹ là rất có triển vọng. Thế mạnh đặc biệt của mặt hàng điều của công ty đó là thương hiệu điều mà rất nhiều các tên tuổi xuất khẩu điều ở Việt Nam không có được. Phương châm “Chữ tín hàng đầu” giúp công ty vượt qua bao thăng trầm trong 7 năm qua. Tuy nhiên mặt hàng điều xuất khẩu của công ty Long Sơn nói riêng và ngành điều Việt nói chung vẫn chỉ là những mặt hàng ít giá trị gia tăng, dễ bị biến động giá cả. Trong thời gian thực tập ở công ty, em đã tìm hiểu, thu thập thông tin, tài liệu về thực trạng xuất khẩu hạt điều của công ty và của Việt Nam qua đó đánh giá điểm mạnh, điểm yếu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh đối với mặt hàng điều của công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ. Do kinh nghiệm, trình độ còn có hạn nên chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong ban lãnh đạo công ty, các thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để chuyên đề được hoàn thiện hơn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26427.doc