Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng may mặc Xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Mỹ trước thềm hội nhập WTO

LỜI MỞ ĐẦU 1/Lý do chọn đề tài. Trong điều kiện kinh tế thị trường với xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có những chiến lược kinh doanh hợp lý để đảm bảo sản phẩm sản xuất ra có sức cạnh tranh. Đối với Việt Nam, ngành dệt may ( chủ yếu là sản phẩm may mặc) có một vai trò quan trọng, phục vụ nhu cầu đời sống nhân dân, là ngành đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu của nước ta hiện nay. Dệt may cũng là ngành thu hút một lượng lớn khối lượng lao động, điều này

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1535 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng may mặc Xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Mỹ trước thềm hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế các vùng và trong thời gian qua thu hút hấp dẫn vốn đầu tư nước ngoài. Khi đề ra các chiến lược về phát triển kinh tế thì không thể bỏ qua các chiến lược để phát triển ngành may mặc. Xu hướng hội nhập kinh tế và cạnh tranh gay gắt, đặc biệt là sức ép từ khi Trung Quốc gia nhập WTO buộc các quốc gia phải nỗ lực để nâng cao năng lực của mình trên thị trường, trong đó Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh là một đòi hỏi cấp thiết trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Mỹ là một thị trường tương đối mới nhưng cũng rất tiềm năng của ngành dệt may Việt Nam. Việc xuất khẩu sản phẩm dệt may, trong đó chủ yếu là hàng may mặc đòi hỏi phải xây dựng những căn cứ khoa học cho việc chủ động tìm kiếm cơ cấu mặt hàng sao cho phù hợp với thị trường và thích nghi với trình độ lao động cũng như trang thiết bị hiện có của nước ta. Đây là một vấn đề vô cùng khó khăn vì yêu cầu thị trường ngày càng cao.Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những vấn đề còn phải khắc phục để nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu hàng may mặc ra thị trường thế giới đặc biệt là thị trường Mỹ. Chính vì sự nhận thức được tầm quan trọng của nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng may mặc sang thị trường Mỹ nên em đã chọn đề tài ‘‘Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Mỹ trước thềm hội nhập WTO”. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu này có thể còn nhiều những thiếu sót và nhược điểm. Vì vậy chúng em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của cô và các bạn để có thể hoàn thiện đề tài nghiên cứu hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn TS. NGÔ KIM THANH đã nhiệt tình chỉ dẫn và giúp đỡ, để chúng em được nghiên cứu và hoàn thành đề tài này một các thành công. 2/Mục đích, phạm vi và đối tượng nghiên cứu. - Mục đích nghiên cứu: Đề tài Nghiên cứu khoa học cung cấp những thông tin, các số liệu cần thiết làm cơ sở xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sản phẩm. Bên cạnh đó, đưa ra cái nhìn đầy đủ và toàn diện về năng lực cạnh tranh sản phẩm, từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hàng may mặc trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. Bên cạnh đó, đề tài có đưa ra một số đóng góp khá quan trọng trong việc phân tích và lượng hoá các chỉ tiêu định tính để đo lường sức cạnh tranh của sản phẩm. - Phạm vi nghiên cứu: Sản phẩm hàng may mặc xuất khẩu khá đa dạng và phong phú. Đây là một mặt hàng truyền thống nhưng đang phát triển không ngừng, đóng góp ngày càng nhiều cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Do lĩnh vực của đề tài là rất rộng, đề tài nghiên cứu năng lực cạnh tranh sản phẩm hàng may mặc ở phạm vi doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, và đi sâu vào phân tích tại thị trường Mỹ. - Đối tượng nghiên cứu: May mặc là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Trong nhiều năm qua, các sản phẩm hàng may đã không ngừng được nâng cao cả về số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm và giá trị kim ngạch xuất khẩu. Vì thế, đề tài nghiên cứu năng lực cạnh tranh của sản phẩm, các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm, mà ở đây cụ thể là sản phẩm may mặc. 3/Kết cấu của đề tài. Bố cục đề tài được chia làm 3 phần: Chương I: Tổng quan về năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Mỹ trước thềm hội nhập WTO. Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Mỹ trước thềm hội nhập WTO. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM XUẤT KHẨU. I/Khái quát về năng lực cạnh tranh. 1/Khái niệm năng lực cạnh tranh. 1.1/Cạnh tranh trong nền kinh tế. - Là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực,gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. - Adam Smith là người đầu tiên đưa ra lý thuyết tương đối hoàn chỉnh về cạnh tranh. Luận thuyết của ông dựa trên ý tưởng về vai trò của ” Bàn tay vô hình” qua sự điều chỉnh biến động của giá cả thị trường và được thể hiện rõ qua mô hình cạnh tranh hoàn hảo.Trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo, mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, của người tiêu dùng là tiện ích của mình, thị trường sẽ phân bổ tối ưu các nguồn lực khan hiếm vốn có theo nghĩa, không thể có cách phân bổ khác có lợi hơn cho ai đó trong xã hội mà không làm hại đến người nào khác. Tuy nhiên trong thực tế, hầu như không tồn tại tất cả những giả thuyết về nhân tố hoàn hảo của thị trường. Mô hình cạnh tranh hoàn hảo là không lý tưởng. - Đến những năm 20 của thế kỷ 20, các nhà kinh tế học người Anh và Mỹ đã đưa ra những nghiên cứu đầy đủ hơn về cạnh tranh- mô hình cạnh tranh mang tính độc quyền. - Nhà kinh tế học người Mỹ John Maurise Clark đã đưa ra luận điểm: Những nhân tố không hoàn hảo trên thị trường có thể sửa chữa được bằng những nhân tố không hoàn hảo khác. Theo đó, xuất hiện cạnh tranh bằng sản phẩm mới, kỹ thuật mới, dẫn đến giảm giá, tăng chất lượng hàng hoá cũng như sự hợp lý trong sản xuất. Trước đây, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã đề cập tới vấn đề cạnh tranh của các nhà tư bản. Theo C.Mác: ”Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch”. Ở đây, C.Mác đã đề cập tới vấn đề cạnh tranh trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mà đặc trưng của chế độ này là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do vậy, theo quan niệm này thì sự cạnh tranh có nguồn gốc từ chế độ tư hữu. Cạnh tranh được xem xét là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại. Quan niệm đó về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ tiêu cực. Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội. Do vậy, cạnh tranh có thể hiểu như sau: Cạnh tranh là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường hàng hoá cụ thể nào đó nhằm giành giật khách hàng và thị trường, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hoá và thu được lợi nhuận cao. Như vậy, cạnh tranh là một xu thế tất yếu và là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Trên đà phát triển và hội nhập như ngày nay, quá trình cạnh tranh cũng luôn được thúc đẩy phát triển bởi các đối tượng tham gia trên thị trường luôn tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trước các đối thủ cạnh tranh khác nhằm đạt vị thế cao hơn trên thị trường. 1.2/Năng lực cạnh tranh. Nếu hiểu cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường thì có cạnh tranh giữa các cá nhân, các doanh nghiệp và cạnh tranh giữa các nền kinh tế, không có cạnh tranh của hàng hoá. Vì bản thân hàng hoá không phải là một chủ thể kinh doanh và do đó nó không thể tự cạnh tranh được. Nói cạnh tranh ở đây là nói đến hành vi của chủ thể và vì vậy có hành vi của doanh nghiệp kinh doanh, của cá nhân kinh doanh và của nền kinh tế không có hành vi của chủ thể. Trong quá trình các chủ thể cạnh tranh với nhau, để giành lợi thế về phía mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó hoặc một năng lực nào đó của chủ thể được gọi là năng lực cạnh tranh của chủ thể đó hoặc khả năng cạnh tranh của chủ thể đó. Trong thực tế, tồn tại rất nhiều khái niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh được sử dụng phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng sách báo chuyên môn, giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, các chính khách các nhà kinh doanh. Nhiều khi khái niệm về năng lực cạnh tranh vừa tỏ ra phổ biến lại hết sức mơ hồ. Những khái niệm về năng lực cạnh tranh từ các góc độ khác nhau cũng có sự khác biệt. Nguyên nhân ở đây là: Một là do phạm vi quá lớn để có thể tiếp cận từ nhiều khía cạnh, năng lực cạnh tranh có thể là của doanh nghiệp, ngành, lĩnh vực hoặc quốc gia và bao gồm tất cả các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả thị trường như các chính sách, cơ cấu thị trường và nghiệp vụ kinh doanh về thương mại, đầu tư và các quy định. Hai là, không có sự rõ ràng khi trả lời câu hỏi ai là người cạnh tranh, các nước hay công ty. Do đó, việc nhận biết và phân loại những khái niệm năng lực cạnh tranh khác nhau là rất cần thiết khi nghiên cứu về cạnh tranh trong hội nhập quốc tế. 1.2.1/Khái niệm năng lực cạnh tranh từ phạm vi quốc gia. Khái niệm về năng lực cạnh tranh ở tầm quốc gia theo nghĩa rộng nhất, sức mạnh thể hiện trong hiệu quả kinh tế vĩ mô. Có nhiều khái niệm về năng lực cạnh tranh của một quốc gia. Theo WEF, năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng đạt được và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và các đặc trưng kinh tế khác. Mặc dù, khái niệm về năng lực cạnh tranh dựa trên tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia khá đơn giản. Nhưng nó chỉ nói lên được khía cạnh tiền tệ của nền kinh tế mà không bao hàm được tất cả các khía cạnh về giá trị gia tăng, chẳng hạn sự tiến bộ về giáo dục, Khoa học và công nghệ ... những vấn đề được coi là quan trọng đối với tiềm năng tăng trưởng của một quốc gia. Đồng thời, nó cũng không phản ánh được nguyên nhân tạo ra năng lực cạnh tranh và kết quả của cạnh tranh. Một số nhà kinh tế khác đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh của một nước dựa vào năng suất lao động. M.PORTER (1985) cho rằng khái niệm chỉ có ý nghĩa nhất về năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia là năng suất lao động. Mở rộng khái niệm này thì tính cạnh tranh ở cấp quốc gia gần hơn với lí thuyết về lợi thế so sánh. Ngay như trong lí thuyết tuyệt đối của Ricardo, quốc gia có khả năng cạnh tranh hơn các quốc gia khác bởi sự vượt trội về một hay một vài thuộc tính. Ông cho rằng, khả năng cạnh tranh của một nước là một hệ thống gồm nhiều yếu tố liên quan đến nhau, có tác động qua lại và bổ sung cho nhau. Các yếu tố này là nền móng, chỗ dựa cho các công ty, giữ vai trò quyết định cho phép các công ty sáng tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh trên một lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, mọi yếu tố đều có thể thay đổi và do đó năng lực cạnh tranh cũng có thể bị thay đổi. Trong trường hợp này, uỷ ban về cạnh tranh công nghiệp thuộc tổng thống Mỹ đưa ra khái niệm: “ Một nước là cạnh tranh nếu như nước đó duy trì được một tỉ lệ tăng trưởng thu nhập thực ngang tầm với tỉ lệ đó của các nước bạn hàng trong một môi trường thương mại tự do”. Còn Fegerberg (1988) đã định nghĩa: năng lực cạnh tranh quốc tế của một nước như “ Khả năng của một đất nước trong việc nhận thức rõ mục đích của chính sách kinh tế tập trung, nhất là đối với tăng trưởng thu nhập và việc làm, mà không gặp phải các khó khăn trong cán cân thanh toán”. Nhưng khái niệm trên chỉ là một số khái niệm lí thuyết về năng lực cạnh tranh ở tầm quốc gia. 1.2.2/Khái niệm về năng lực cạnh tranh từ phạm vi của ngành, doanh nghiệp. Phần chung nhất cho hầu hết các khái niệm cạnh tranh xét từ phạm vi của ngành, doanh nghiệp là ý niệm sức mạnh cạnh tranh dựa trên cơ số chi phí thấp, sản phẩm tốt, công nghệ cao hoặc là tổ hợp của các yếu tố này. Một nhà sản xuất thường được gọi là nhà sản xuất cạnh tranh nếu có khả năng cung ứng 1 sản phẩm có chất lượng cao với mức giá thấp hơn. Đầu tiên, trong lý thuyết tổ chức công nghiệp, khái niệm năng lực cạnh tranh được áp dụng ở phạm vi xí nghiệp. Một xí nghiệp được xem là có sức mạnh khi xí nghiệp đó duy trì được vị thế của mình trên thị trường cùng với các nhà sản xuất khác với các sản phẩm thay thế, hoặc đưa ra thị trường các sản phẩm tương tự với mức giá thấp hơn, hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng, dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn. - Ưu thế cạnh tranh của một nhà sản xuất so với các đối thủ cạnh tranh trong một ngành công nghiệp được thể hiện trên hai mặt: ưu thế cạnh tranh bên trong (ưu thế về chi phí) về ưu thế cạnh tranh bên ngoài ( ưu thế về mức độ khác biệt hóa). - Ưu thế cạnh tranh bên trong là ưu thế được thể hiện trong việc làm giảm các chi phí sản xuất, chi phí quản lý của nhà sản xuất và tạo ra sản phẩm có giá thành thấp hơn so với giá thành của các đối thủ cạnh tranh nguy hiểm nhất. Ưu thế cạnh tranh bên trong của nhà sản xuất có được là do khả năng hạ thấp chi phí và do đó, nhà sản xuất này có hiệu quả cao hơn và có khả năng vững chắc để chống lại sự giảm giá trên thị trường do biến động của các yếu tố thị trường hoặc do cạnh tranh. + Ưu thế cạnh tranh bên ngoài (ưu thế về khác biệt hoá) là ưu thế dựa vào chất lượng khác biệt của sản phẩm mà nhà sản xuất tạo ra so với các sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, chất lượng khác biệt của sản phẩm phụ thuộc vào năng lực Marketing của nhà sản xuất. Chất lượng khác biệt của sản phẩm tạo nên giá trị cho người mua, thể hiện qua việc giảm chi phí sử dụng hay tính tuyệt hoá khi sử dụng sản phẩm. Ưu thế cạnh tranh bên ngoài tạo cho nhà sản xuất “ Quyền lực thị trường’’ngày càng tăng. M.Porter (1982) đã đưa khái niệm cạnh tranh mở rộng theo đó cạnh tranh trong một ngành công nghiệp phụ thuộc vào năm lực lượng: các đối thủ tiềm năng, sản phẩm thay thế, người cung ứng, khách hàng, đối thủ cạnh tranh đa ngành. Trong đó, bốn lực lượng đầu là các lực lượng cạnh tranh bên ngoài. Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất trong một ngành công nghiệp được xem là cạnh tranh trực tiếp và là vấn đề cốt lõi của phân tích cạnh tranh. Như vậy, ta có thể hiểu năng lực cạnh tranh của xí nghiệp, doanh nghiệp là thực lực và lợi thế mà doanh nghiệp có thể huy động để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường một cách lâu dài và có ý chí nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp của mình. 2/Năng lực cạnh tranh sản phẩm Quan điểm dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống đã xem năng lực cạnh tranh của một sản phẩm qua lợi thế so sánh về chi phí năng suất lao động. Bởi vì, chi phí các yếu tố sản suất thấp vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh. Hơn nữa các chỉ số chi phí còn cho phép xác định được những ngành công nghiệp có đóng góp tích cực cho nền kinh tế xét về mặt phúc lợi xã hội. - Từ cách tiếp cận khác, khi nói đến năng lực cạnh tranh nghĩa là so sánh các điểm (chi phí, giá cả, hoặc chỉ số công nghiệp) của một nhà sản xuất ở một nước xác định so với các nhà sản xuất ở các nước khác. Điều đó có nghĩa năng lực cạnh tranh của sản phẩm là tính hiệu quả hơn của quá trình khai thác các lợi thế cạnh tranh hay ưu thế đặc điểm nào đó của sản phẩm đang nghiên cứu so với sản phẩm cùng loại trên cùng một thị trường, một khoảng thời gian xác định. Hơn nữa, các đặc điểm của nhà sản xuất được thể hiện ra bên ngoài thông qua sản phẩm được nhà sản xuất thực hiện khi đưa ra thị trường. Vì vậy, các yếu tố xác định năng lực cạnh tranh của ngành, công ty hay quốc gia được kết tinh trong sản phẩm, khi sản phẩm đó được đặt trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Nói cách khác, sức cạnh tranh các sản phẩm trong thương mại quốc tế là kết quả tổng hoà sức cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và của quốc gia. Ở đây, bản chất của năng lực cạnh tranh sản phẩm là quá trình chuyển hoá lợi thế của sản phẩm thành hiện thực mà những lợi thế này có được một mặt do lợi thế so sánh tạo nên mặt khác do các tác động của các chính sách hay các quy định của chính phủ tạo ra. Những đặc điểm, ưu thế của sản phẩm biểu hiện sức cạnh tranh bao gồm: chi phí, giá thành sản xuất, chất lượng, giá bán sản phẩm, sự khác biệt hoá của sản phẩm của nhà sản xuất trong nước so với các nhà cạnh tranh quốc tế. Lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của sản phẩm có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không phải là lợi thế so sánh nào cũng trở thành lợi thế cạnh tranh và cũng không có nghĩa lợi thế cạnh tranh nào cũng là lợi thế so sánh. Một sản phẩm có lợi thế so sánh nhưng không được khai thác có hiệu quả sẽ không tạo nên năng lực cạnh tranh, trong khi đó một sản phẩm khác tuy lợi thế so sánh kém hơn so với lợi thế cạnh tranh nhưng nhờ có chính sách hỗ trợ hợp lý của chính phủ hoặc môi trường thương mại thuận lợi nên vẫn có thể có lợi thế cạnh tranh. Và lợi thế này chuyển hoá thành năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Vấn đề là ở chỗ để một sản phẩm có năng lực cạnh tranh trên thị trường nhất là trong môi trường thương mại quốc tế hiện nay, cả doanh nghiệp và chính phủ cần phải phát hiện, nuôi dưỡng và phát huy các lợi thế so sánh, khai thác có hiệu quả và luôn tìm cách tạo ra các lợi thế mới hơn là chỉ tác động vào những sai biệt những giá cả để có sức cạnh tranh ảo của sản phẩm nhờ chính sách vĩ mô. Có sự khác nhau cần phân biệt giữa khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh. Nói một cách vắn tắt, khả năng cạnh tranh của sản phẩm là “ Cái chưa có nhưng được giả định (dự báo) là sẽ có”, chủ yếu dựa trên các tiêu chí về sản phẩm, nhu cầu và tình hình thị trường. Còn năng lực cạnh tranh của sản phẩm là cái hiện hữu, chủ yếu dựa trên tiêu chí về thị phần, sự thoả mãn của khách hàng và “Chiến lược đối phó” của các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm cùng loại. Việc phân tích, đánh giá khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của sản phẩm thường được tiến hành đồng thời bằng ba phương pháp: (1) Đánh giá trực tiếp trên sản phẩm (tính năng, chất lượng, sự tiện ích, mẫu mã..); (2 ) Đánh giá trực tiếp thị trường( doanh số bán, thị phần, hệ thống phân phối ..); (3) Điều tra xã hội học- chủ yếu qua phiếu thăm dò khách hàng( sự thỏa mãn nhu cầu, sự nhận biết tên sản phẩm, sự trung thành với nhãn hiệu..). Qua đó, ta có thể thấy năng lực cạnh tranh của một hàng hoá, một doanh nghiệp và một nền kinh tế là khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nền kinh tế chỉ có năng lực cạnh tranh cao khi có nhiều doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao, và doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao khi có nhiều hàng hoá có năng lực cạnh tranh cao so với đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá là cơ sở và điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế quốc gia. II/ Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu trước thềm hội nhập WTO. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh hàng may mặc bao hàm các yếu tố từ phạm vi doanh nghiệp, ngành đến phạm vi quốc gia. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh hàng may mặc cũng chính là các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá nói chung, bao gồm các yếu tố bên trong và bên ngoài. 1/ Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp. 1.1/ Các yếu tố thuộc về khả năng tăng trưởng kinh tế đất nước. Có 3 yếu tố liên quan đến tăng trưởng kinh tế đất nước và tạo ra năng lực cạnh tranh: - Tài trợ và nợ nước ngoài có ảnh hưởng đến luồng vốn và chất lượng của nền tài chính quốc gia. - Tiết kiệm và đầu tư ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn đầu tư.Nếu khả năng tiết kiệm bị hạn chế mà yêu cầu đầu tư quá lớn sẽ dẫn đến lạm phát và lãi suất vay vốn cao. - Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến các hàng hoá xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá đồng nội tệ so với ngoại tệ quá thấp sẽ khuyến khích xuất khẩu,nhưng làm tăng giá hàng nhập khẩu và gây khó khăn trong thanh toán nợ nước ngoài. 1.2/ Các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế. - Chính sách thương mại . Mỗi quốc gia khi áp dụng sẽ gây nên những tác động ngược chiều nhau đến thương mại quốc tế. + Với nhập khẩu: chính sách hạn chế nhập khẩu sẽ làm giảm bớt lợi thế của hàng hóa nhập khẩu. + Với xuất khẩu: chính sách khuyến khích xuất khẩu, tăng lợi thế của hàng hoá trong nước khi xuất khẩu. - Môi trường đầu tư ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp cận các nguồn vốn của các doanh nghiệp: các thủ tục, quy chế và hiệu lực trong việc thực hiện vay vốn của doanh nghiệp, khả năng phát triển các nguồn vốn dài hạn và trung hạn. - Chế độ tài chính. Thực trạng và hoạt động của thị trường tài chính là một trong những nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh chung của đất nước. Bởi vì tăng trưởng kinh tế nhanh phụ thuộc chủ yếu vào khả năng của nền tài chính trong việc huy động và phân bổ có hiệu quả tín dụng vào các ngành kinh tế của đất nước. - Cơ cấu doanh nghiệp và tính ganh đua: Có ảnh hưởng đến sự gia tăng về năng suất, khả năng cạnh tranh, nâng cao mức thu nhập và tăng việc làm. Cơ cấu doanh nghiệp phải: + Nâng cao hiệu quả chung của ngành công nghiệp. + Tạo tính ganh đua giữa các doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh không bình đẳng. - Năng lực sản xuất công nghiệp. Bao gồm sự dồi dào nguồn nhân lực được đào tạo, có kỹ nghệ và trình độ công nghệ được nâng cao, qua đó nhấn mạnh lợi thế so sánh. 2/ Các yếu tố bên trong doanh nghiệp. 2.1/ Các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh. - Đó là sự dồi dào các tài nguyên thiên nhiên, cũng như lao động, và nguồn vốn. Các yếu tố này được phản ánh qua mức giá bình quân thấp. Một yếu tố nữa là năng suất lao động của nhà sản xuất, phản ánh qua hệ số đầu vào thấp. Ngoài ra, trong xu thế hội nhập WTO và cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, cần coi trọng các nhân tố bao tầm vĩ mô như: sự ổn định chính trị xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, trình độ kết cấu cơ sở hạ tầng, độ rõ của luật pháp và sự minh bạch, nhất quán, nhất quán của chính sách, đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, thông thạo công việc chuyên môn và đội ngũ lao động tốt. 2.2/ Các yếu tố thuộc về hoạt động của doanh nghiệp Ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp và chất lượng sản phẩm cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm và thị phần của doanh nghiệp. Nhóm các yếu tố này bao gồm: - Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. + Áp dụng công nghệ mới. + Sử dụng đầu vào mới hoặc thay thế. + Giới thiệu và phân phối sản phẩm. + Các giải pháp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. - Chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Mang lại cho doanh nghiệp triển vọng cạnh tranh dài hạn và đa phương tiện. Chiến lược là cách thức mà nhờ đó doanh nghiệp đạt được các mục tiêu dài hạn, nhờ có chiến lược phát triển mà doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu của mình, tận dụng những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu còn tồn tại bên trong doanh nghiệp. Đó có thể là các chiến lược về giá, chất lượng, dịch vụ trước và sau bán, phát triển khách hàng. III/ Những tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu trước thềm hội nhập WTO. Ngày nay, cùng với xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, việc xác định và đo lường năng lực cạnh tranh quốc tế đang ngày càng thu hút được sự quan tâm của các nhà kinh tế, đặc biệt là trong phân tích kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, do tính phức tạp, đa phương diện, đa chiều của lĩnh vực nghiên cứu cho nên khó có sự thống nhất ngay từ khái niệm năng lực cạnh tranh sản phẩm trong xu thế hội nhập WTO. Vì vậy, có nhiều cách tiếp cận khi tiến hành đo lường, phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm. Chúng ta có thể đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm thông qua nhiều chỉ tiêu định tính như: chất lượng sản phẩm, độ tiện ích, an toàn khi sử dụng sản phẩm, mức độ đa dạng hoá về kiểu dáng, mẫu mốt, tính phù hợp với thị hiếu, tập quán, thói quen người tiêu dùng… Và các chỉ tiêu định lượng như: hệ số khả năng cạnh tranh sản phẩm từ chất luợng và giá cả, hệ số lợi thế so sánh hiển thị, chỉ số cạnh tranh quốc tế từ chi phí đơn vị sản phẩm, chỉ số lợi thế so sánh dựa trên chi phí đầu vào (RFC)... Việc xác định và đánh giá các chỉ tiêu về sản phẩm thực hiện trên cả 2 phương diện: Vi mô và vĩ mô. Tuy nhiên, đề tài Nghiên cứu Khoa học chỉ xét phạm vi chủ yếu ở tầm doanh nghiệp. Do vậy, khi đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu, đề tài đưa ra sáu tiêu chí: 1/ Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm trong từng năm. Việc đánh giá tốc độ tăng trưởng là nhấn mạnh đến các biến động xảy ra từ kỳ này sang kỳ khác. Nó được vận dụng để so sánh số liệu qua thời gian. Kết quả tính được thường được thể hiện bằng số tương đối, phản ánh tính xu hướng của sự việc. Có thể xác định theo tốc độ tăng trưởng liên hoàn hoặc tốc độ tăng trưởng kiểu cố định gốc. - Tốc độ tăng trưởng kiểu liên hoàn là việc xác định các biến động bằng cách so sánh số liệu kỳ sau so với số liệu kỳ trước liền đó. - Tốc độ tăng trưởng kiểu cố định gốc là việc xác định các biến động bằng cách chọn một kỳ gốc làm cố định,có thể là kỳ kinh doanh hoặc kỳ bước ngoặt. Rồi lấy số liệu của kỳ khác so sánh với số liệu của kỳ gốc đó.Theo cách làm này, ta sẽ thu được một chuẩn mực các kết quả phản ánh tính xu hướng của sự việc đang xem xét. Đánh giá tốc độ tăng trưởng hàng may mặc cũng chính là đánh giá tốc độ tốc độ tăng trưởng của sản phẩm nói chung, dựa trên chỉ tiêu về doanh thu hàng bán. 2/ Thị phần của sản phẩm trên thị trường Trong xu hướng cạnh tranh gay gắt như hiện nay, có nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất và đưa ra thị trường một loại sản phẩm, trong đó mỗi doanh nghiệp chỉ chiếm một phần thị trường nhất định. Do đó,để đo lường phần thị trường của doanh nghiệp và sản phẩm hàng hoá đó (mà cụ thể ở đây là may mặc) so với các đối thủ cạnh tranh trên đoạn thị trường cụ thể, người ta sử dụng tiêu chí thị phần. Thị phần của doanh nghiệp thể hiện ở tỷ trọng hàng hoá nó tiêu thụ trong toàn bộ hàng hoá được tiêu thụ trên thị trường. Có 2 chỉ tiêu để đo lường: Chỉ tiêu phần thị trường tuyệt đối của doanh nghiệp Kdn = Ddn Dtt Trong đó: Kdn là phần thị trường tuyệt đối của doanh nghiệp Ddn là lượng hàng hoá doanh nghiệp tiêu thụ Dtt là tổng lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị trường. Chỉ tiêu Kdn luôn là một đại lượng nhỏ hơn 1 (Kdn <1) Chỉ tiêu phần thị trường tương đối của doanh nghiệp Hdn = Kdn Kdt Trong đó: Hdn là phần thị trường tương đối của doanh nghiệp. Kdn và Kdt là phần thị trường tuyệt đối của doanh nghiệp và của đối thủ cạnh tranh. Chỉ tiêu này dùng để so sánh phần thị trường của doanh nghiệp với phần thị trường của đối thủ cạnh tranh, từ đó xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên, chỉ số này có thể lớn hơn 1, bằng hoặc nhỏ hơn 1. Đối thủ cạnh tranh được đưa vào phân tích ở đây là đối thủ cạnh tranh gần nhất hoặc đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường đang xem xét. 3/ Mức độ hấp dẫn của sản phẩm về mẫu mã, kiểu cách so với các đối thủ cạnh tranh. Là một yếu tố quan trọng tác động lớn đến khả năng tiêu thụ sản phẩm. Nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng phong phú và đa dạng, vì vậy tiêu chí này cần phải được kiểm duyệt khắt khe trong từng khâu từ bước đầu đến khi hoàn thiện sản phẩm. Một doanh nghiệp, một quốc gia có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì tính độc đáo, sức hấp dẫn về mẫu mã, kiểu cách càng có tính chất quyết định. Đây là một tiêu chí bổ sung cho quá trình cạnh tranh sản phẩm hàng hoá. Tiêu chí này có thể được đánh giá thông qua số lượng, chủng loại hàng hoá của quốc gia so với đối thủ cạnh tranh. Từ đó có thể xác định sự đa dạng trong mẫu mã, kiểu cách của các sản phẩm, mà cụ thể ở đây là hàng may mặc. 4/ Mức chênh lệch về giá của sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh . Theo định nghĩa Marketing, giá cả là biểu tượng giá trị của sản phẩm trong hoạt động trao đổi, mua bán. Vì thế, giá cả có ảnh hưởng đến quyết định của doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh trên thị trường. Hơn thế nữa, giá cả chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố bên ngoài và nội tại của doanh nghiệp ( mức giá, doanh thu, lợi nhuận, chất lượng sản phẩm..). Chính vì tầm quan trọng đó mà ngày nay nhiều doanh nghiệp áp dụng các chiến lược dẫn đầu về chi phí hoặc chi phí thấp. Đó là điều kiện tiên quyết tạo sức bật cho sản phẩm của doanh nghiệp khác biệt so với đối thủ cạnh tranh. Để đánh giá mức chênh lệch về giá của sản phẩm, người ta thường sử dụng chỉ số giá. 5/ Mức chênh lệch về chất lượng của hàng may xuất khẩu so với hàng hoá cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Cùng với giá cả, mẫu mã, kiểu cách, chất lượng là một yếu tố quan trọng không thể thiếu. Trước đây, người ta cho rằng chất lượng là sự thoả mãn các yêu cầu về kỹ thuật, những tiêu chuẩn đã xây dựng. Nhưng thực tế, “chất lượng” được hiểu là khả năng của sản phẩm thoả mãn toàn bộ nhu cầu của người tiêu dùng, của xã hội về nhiều mặt. Theo định nghĩa của ISO: “ Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể đối tượng tạo ra cho thực thể, đối tượng, đó có khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn”. Đánh giá và lượng hoá chất lượng là việc xác định, xem xét một cách có hệ thống mức độ mà sản phẩm hoặc đối tượng có khả năng thoả mãn nhu cầu nhất định. Cơ sở của phương pháp đánh giá chất lượng thường dựa trên các tiêu chuẩn chất lượng đã xây dựng.Trên cơ sở đó, hình thành các chỉ tiêu chất lượng (chỉ tiêu về công dụng, chỉ tiêu công nghệ, độ an toàn v.v..). 6/ Mức ấn tượng về hình ảnh nhãn hiệu hàng hoá của nhà xuất khẩu ra mặt hàng đó so với hàng hoá cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Nhãn hiệu hàng hoá là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc là sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Một sản phẩm cạnh tranh tốt có chỗ đứng trên thị trường cần phải tính đến nhãn hiệu, thương hiệu của sản phẩm đó. Nhãn hiệu hàng hoá không chỉ tạo ra cho người tiêu dùng khả năng phân biệt hàng hoá dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh mà còn tạo ra giá trị cá nhân cho người sử dụng, sự yên tâm về chất lượng sản phẩm. Còn đối với các doanh nghiệp là hình ảnh, là uy tín, là lời cam kết giữa doanh nghiệp và khách hàng, là tài sản vô hình rất có giá trị. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia khi thâm nhập vào thị trường xuất khẩu cần chú ý đến nhãn hiệu, thương hiệu của sản phẩm. IV/ Những thuận lợi và khó khăn của hàng may mặc xuất khẩu trong xu thế hội nhập WTO. 1/ Yêu cầu đặt ra với hàng may mặc xuất khẩu khi tham gia vào thị trường Mỹ. Là một nền kinh tế lớn nhất thế giới với rất nhiều ngành nghề tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, Mỹ thực sự xứng đáng với cương vị thị trường đầy tiềm năng đối với các nhà xuất khẩu. Nhưng đồng thời, với hệ thống luật pháp và chính sách thương mại rất phức tạp, các doanh nghiệp muốn kinh doanh tại thị trường này cần phải thật hiểu biết hệ thống luật của Mỹ, các doanh nghiệp may mặc cũng không phải là ngoại lệ. Dưới đây._. là một số chính sách thương mại, các đạo luật thương mại của Mỹ. 1.1/ Các chính sách thương mại 1.1.1/Luật thuế quan và hải quan. - Biểu thuế nhập khẩu. Biểu thuế nhập khẩu của Mỹ là nội dung quan trọng nhất trong luật thuế của Mỹ. Biểu thuế này có hơn 1600 trang, liệt kê chi tiết các loại hàng hoá và thuế suất nhập khẩu, trong đó cột thuế suất dành cho hàng hoá nhập khẩu từ những nước không có quy chế quan hệ thương mại bình thường với Mỹ (NTR) và cột thuế dành cho các nước có quy chế NTR. Các loại thuế quan được phân loại là thuế quan theo giá hàng hoá nhập, theo lượng và thuế quan hỗn hợp. - Quy chế tối huệ quốc (MFN ). Với quy chế này, tất cả các hàng hoá của các nước được hưởng quy chế này đều chịu cùng một mức thuế. Các mặt hàng nhập khẩu từ các nước chưa được hưởng MFN phải chịu mức thuế cao hơn rất nhiều.Khi Mỹ giảm thuế, loại bỏ hoặc có những thay đổi trong hệ thống thuế thì những sự thay đổi đó được áp dụng đối với các nước thành viên được hưởng MFN. - Hạn ngạch. Mỹ áp dụng hạn ngạch để kiểm soát về khối lượng hàng hoá nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Theo đó, các mặt hàng này sẽ bị khống chế về số lượng khi nhập khẩu vào Mỹ. Đối với mặt hàng may mặc, hạn ngạch được áp dụng với các chủng loại hàng hoá- ký hiệu là Cat. Hiện nay, do chưa phải là thành viên của WTO nên sản phẩm dệt may Việt Nam vẫn phải chịu hạn ngạch nhập khẩu đối với một số mặt hàng may. - Quy định về xuất xứ hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ. Xác định xuất xứ hàng hoá rất quan trọng vì hàng nhập khẩu ở các nước đang phát triển hoặc những nước đã ký hiệp định thương mại với Mỹ sẽ được hưởng thuế suất thấp hơn. Xuất xứ của mặt hàng được xác định theo nguyên tắc biến đổi phần lớn về giá trị, và được định nghĩa: sản xuất ra sản phẩm với du lịch sản phẩm đã biến dạng để mang tên mới và có đặc tính sử dụng mới. Ví dụ khi Việt Nam nhập khẩu vải thành phẩm để may thành áo thì khi đó sản phẩm mang xuất xứ Việt Nam vì tên của sản phẩm lúc này là áo. Khi muốn được hưởng thuế suất ưu đãi theo nước xuất xứ, hàng hoá phải ghi rõ nhãn của nước xuất xứ. Ngoài ra, hàng hoá từ Mỹ đưa sang nước khác để gia công thêm, đóng gói thì khi nhập khẩu vào Mỹ sẽ không phải đóng thuế nhập khẩu cho phần nguyên liệu có gốc từ Mỹ. Nếu không xác định được xuất xứ của một sản phẩm bằng nguyên tắc thông thường, và do sản phẩm được sản xuất ở hai hay nhiều nước thì nước xuất xứ là:nước mà quá trình lắp ráp quan trọng nhất diễn ra. Nếu không xác định được quy trình nào là quan trọng nhất diễn ra thì nước xuất xứ là nước cuối cùng mà tại đó hoạt động lắp ráp hay sản xuất diễn ra. - Đánh dấu xuất xứ hàng hoá. Các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất cần biết rằng: theo phần 304 của đạo luật thuế quan, trừ khi được miễn thuế cụ thể, hàng hóa được sản xuất tại nước ngoài được nhập khẩu vào Mỹ, phải được đánh dấu tên của nước sản xuất ra hàng hóa đó, ở chỗ đáng lưu ý để có thể đọc được dễ dàng, không thể xóa được, và giữ được càng lâu càng tốt. Nếu hàng hóa không được đánh dấu khi nhập khẩu thì thuế đánh dấu sẽ tương đương 10% giá trị thuế quan của hàng hóa được định giá. Bên cạnh những yêu cầu về đánh dấu tên nước sản xuất, một vài cơ quan trong Chính phủ Mỹ đòi hỏi dấu hiện hay nhãn đặc biệt với hàng dệt. Cục Hải quan sẽ không tiếp nhận bất kỳ loại hàng sao chép hay làm giả nhãn hiệu hàng hóa, hay tên hàng giống hệt. - Quy định về nhãn hiệu hàng hoá . Luật áp dụng chủ yếu về nhãn hàng hoá là Luật xác định sản phẩm sợi dệt và Luật về nhãn hiệu sản phẩm bằng len. Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, tất cả các sản phẩm sợi dệt khi nhập khẩu vào Mỹ đều phải được đóng dấu, niêm phong kín và ghi nhãn hoặc được ghi những thông tin khác. 1.1.2/ Một số luật khác. -Luật về vải dễ cháy. Hầu hết các sản phẩm hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ để tiêu thụ đều phải tuân thủ các quy định của Luật về sản phẩm dễ cháy. Luật này quy định về tính dễ bén lửa đối với hàng dệt may. Không ai có thể xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ nếu họ không tuân thủ các tiêu chuẩn về hàng dễ cháy. Một số sản phẩm được phép nhập khẩu vào Mỹ rồi gia công lại để giảm tính chất dễ cháy của chúng nhưng phải đáp ứng được tiêu chuẩn của luật trên và điều này phải được ghi trong hoá đơn hay giấy tờ liên quan khác của lô hàng. - Luật chống bán phá giá. Luật thuế chống bán phá giá được sử dụng rất rộng rãi trên thị trường Mỹ. Thuế chống phá giá được ấn định vào hàng hoá nhập khẩu khi người ta xác định được là hàng hoá nước ngoài được bán phá giá hoặc sẽ bán phá giá ở Mỹ với giá thấp hơn giá trị thông thường. Thấp hơn giá trị thông thường nghĩa là giá của hàng nhập khẩu vào Mỹ- tức là giá mua hoặc giá bán của nhà nhập khẩu thấp hơn mức giá của hàng hoá đó ở nước xuất xứ. Nếu một nước bị quy cho là bán phá giá thị hàng hoá đó sẽ bị chịu mức thuế rất cao. Hiện nay, luật chống bán phá giá đang là vấn đề nổi cộm đối với hàng hoá Việt Nam khi nhập khẩu vào thị trường này. - Luật an toàn sản phẩm tiêu dùng. Theo đó, các sản phẩm tiêu dùng là những vật phẩm hay các bộ phận của những vật phẩm đó được sản xuất, phân phối hoặc có công dụng để sử dụng lâu dài hoặc tạm thời trong và xung quanh hộ gia đình hay trường học, nơi vui chơi hay những nơi khác. Luật này đề ra các tiêu chuẩn an toàn sản phẩm đến sự vận hành, thành phần, nội dung, thiết kế, sản xuất, đóng gói và dán nhãn. Nguyên tắc chung đối với nhà sản xuất là đối tượng của quy định này phải phát hành giấy chứng nhận khẳng định hàng phù hợp với các tiêu chuẩn quy định và phải dán nhãn trên sản phẩm ghi rõ ngày tháng và nơi sản xuất sản phẩm, tên và địa chỉ nhà sản xuất, chứng nhận tuân thủ các luật lệ áp dụng và mô tả ngắn gọn các luật lệ đó. - Luật trách nhiệm đối với sản phẩm (bảo vệ người tiêu dùng). Luật bảo vệ người tiêu dùng hay còn gọi là luật trách nhiệm đối với sản phẩm, cơ quan luật pháp Mỹ yêu cầu các nhà sản xuất, phân phối và bán lẻ phải có trách nhiệm đối với thương tật và thiệt hại do những khuyết tật của sản phẩm gây ra cho người sử dụng hoặc những người ở gần sản phẩm đó. Trách nhiệm sản phẩm thường dựa trên các nguyên tắc pháp lý về sự bất cẩn, vi phạm bảo hành hoặc trách nhiệm tuyệt đối. Nói chung, khi nói đến trách nhiệm sản phẩm, người ta phân thành 3 loại khuyết tật: khuyết tật sản xuất, lỗi thiết kế và lỗi cảnh báo không đầy đủ. - Các quy định cụ thể đối với hàng dệt may. Tiêu chuẩn thương phẩm đối với hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ được quy định rất chi tiết và rõ ràng đối với từng nhóm hàng. Các sản phẩm dệt nhập khẩu vào Mỹ phải ghi rõ tem mác theo quy định: các thành phần sợi được sử dụng có tỷ trọng trên 5% sản phẩm phải ghi rõ họ tên, các loại nhỏ hơn 5% phải ghi là ’’các loại sợi không”. Bên cạnh đó là các quy định về dán nhãn sinh thái, đây là quy định bảo vệ môi trường trong đó các sản phẩm may mặc và nguyên liệu khi nhập khẩu phải chịu một giới hạn chất có hại cho môi trường. 1.2/ Các tiêu chuẩn cần đáp ứng. Đáp ứng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng là nhiệm vụ quan trọng và là yếu tố cần thiết để các doanh nghiệp có thể đưa sản phẩm của mình ra cạnh tranh trên thị trường đầy biến động và phức tạp. * Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 được tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế công bố năm 1987. Sự ra đời của bộ tiêu chuẩn ISO 9000 đã tạo bước ngoặt trong hoạt động tiêu chuẩn và chất lượng trên thế giới nhờ nội dung thiết thực của nó và ở sự hưởng ứng rộng rãi, nhanh chóng của nhiều nước, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp. Cấu trúc của bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000 được chia thành các tiêu chuẩn sau: ISO 9000: 2000 Hệ thống quản lý chất lượng- Cơ sở từ vựng. ISO 9001: 2000 Hệ thống quản lý chất lượng- Các yêu cầu. ISO 9000: 2000 Hệ thống quản lý chất lượng- Hướng dẫn cải tiến thực hiện. ISO 19011: 2000 Các hướng dẫn đánh giá hệ thống chất lượng và môi truờng. ISO 9004: 2000 được sử dụng với ISO 9001:2000 như là một cặp thống nhất các tiêu chuẩn về hệ thống quản lý chất lượng ở một phạm vi rộng lớn. Cấu trúc của ISO 9001:2000 được phân làm 8 điều khoản, bao gồm các yêu cầu của hệ thống (Mục 1,2,3 là giới thiệu, phạm vi, thuật ngữ- từ vựng). Mục 4 Bao gồm các yêu cầu chung. Mục 5 Trách nhiệm của quản lý, lãnh đạo. Mục 6 Quản lý nguồn nhân lực bao gồm những nội dung về nguồn lực. Mục 7 Thực hiện sản phẩm từ hoạch định sản phẩm đến sản xuất và cung ứng dịch vụ. * Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000. Trong những năm gần đây,vấn đề môI trường ngày càng được người tiêu dùng, các tổ chức quốc gia và quốc tế quan tâm. Một sản phẩm nếu gây được ảnh hưởng đến môi trường rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu này. ISO 14000 bắt nguồn từ quy định về đánh giá sinh thái của Liên minh Châu âu từ những năm 90. Theo quy định này, các công ty phù hợp với một tiêu chuẩn về môi trường được chấp nhận có thể được đăng ký nhãn sinh thái. Tuy nhiên, lúc đó chưa có một tiêu chuẩn duy nhất nào được thừa nhận tại Châu Âu và tiêu chuẩn Anh 7550 được sử dụng trong giai đoạn này. Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 ra đời nhằm giúp các công ty tại các quốc gia đáp ứng mục tiêu ’’Phát triển bền vững” và không gây tác động xấu đến môi trường. ISO 14000 giúp các doanh nghiệp đạt các yêu cầu: bền vững về kinh tế;, bền vững về xã hội, bền vững về chất lượng và tài nguyên. ISO 14000 giúp tiết kiệm chi phí, giảm tình trạng chồng chéo trong quản lý môi trường, cung cấp cơ chế kiểm soát các phương pháp quản lý hiện có, hỗ trợ và đào tạo nhân viên bảo vệ môi trường… ISO 14000 không phải là điều kiện bắt buộc nhưng là điều kiện “ Giấy thông hành” để doanh nghiệp dự thầu quốc tế cũng như đáp ứng nhu cầu phát triển vươn ra thị trường khu vực và thế giới. * Hệ thống quản lý chất lượng xã hội theo tiêu chuẩn SA 8000. SA 8000 là tiêu chuẩn đưa các yêu cầu về quản trị trách nhiệm xã hội được ban hành năm 1997. Đây là một tiêu chuẩn quốc tế được xây dựng nhằm nhằm cải thiện điều kiện làm việc trên toàn cầu, tiêu chuẩn này được xây dựng dựa trên các Công ước của Tổ chức lao động quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và Tuyên bố toàn cầu về nhân quyền. SA 8000 được khởi xướng bởi Hội đồng công nhận Quyền ưu tiên kinh tế. Nội dung của SA 8000: Tuổi đời tối thiểu và các khuyến nghị, khuyến nghị về sức khoẻ và an toàn nghề nghiệp, thoả ước lao động có hiệu lực;xoá bỏ cưỡng bức lao động. Hệ thống quản trị trách nhiệm xã hội theo tiêu chuẩn SA 8000 cũng được thực hiện dựa trên chu trình P-D-C-A( lập kế hoạch- thực hiện- kiểm tra- hành động khắc phục) . Khi thực hiện SA 8000, các doanh nghiệp có lợi trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm chi phí các yêu cầu, tăng năng suất của tổ chức với quan hệ khách hàng tốt hơn và trong thời gian dài người tiêu dùng tín nhiệm hơn. 2/ Những thuận lợi và khó khăn của hàng may mặc xuất khẩu khi gia nhập WTO. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) chính thức ra đời vào ngày 1/1/1995 theo hiệp định thành lập tổ chức này ký tại Marakesh ( Marốc ) ngày 15/4/1994, và là kết quả của vòng đàm phán Uruguay, vòng thương thảo mậu dịch toàn cầu. WTO là một tổ chức mang tính thể chế của hệ thống thương mại đa phương. Nó đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế thế giới về cải thiện môi trường đầu tư và tạo công ăn việc làm, cũng như góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong đó, vai trò hàng đầu của WTO đối với nền kinh tế thế giới là hoạch định chính sách thương mại toàn cầu theo hướng ngày càng tự do hoá triệt để hơn. Gia nhập WTO trong thời đại toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan. Đối với các nước đang phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần đáng kể vào quá trình phát triển kinh tế, tạo những ý nghĩa quan trọng đối với các vấn đề kinh tế- xã hội. Hàng may mặc là sản phẩm tạo nên lợi thế cạnh tranh và sức bật kinh tế lớn, vì đây là sản phẩm có liên hệ với di sản văn hoá truyền thống, đặc biệt là tại các nước đang phát triển. Tuy vậy, với ngành dệt may nói chung và hàng may mặc nói riêng, hội nhập kinh tế quốc tế (mà trọng tâm ở đây là WTO) không chỉ tạo ra những cơ hội to lớn cho sự phát triển của ngành năng động đứng thứ hai trong hệ thống thương mại thế giới này mà còn đem đến những khó khăn, thách thức trên con đường phát triển kinh tế quốc tế. 2.1/Những cản trở (khó khăn ). Trong xu thế cạnh tranh càng ngày gay gắt và quyết liệt như hiện nay, những khó khăn và thách thức đặt ra cho hàng may mặc ngày càng lớn, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. - Ngành dệt và phụ liệu phục vụ cho ngành may của Việt Nam phát triển không tương xứng, chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài, do vậy việc đảm bảo giữ được tốc độ tăng trưởng cao và bị phụ thuộc vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn.Việt Nam chủ yếu nhập khẩu nguyên phụ liệu hàng may mặc từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Indonexia và Malaysia với tỷ lệ lớn. Tỷ lệ nhập khẩu nguyên phụ liệu trong giá trị xuất khẩu năm 2000 là 70,5% và năm 2001 là 80.98%. Đây thực sự là vấn đề mà ngành dệt may nói chung phải tính đến khi gia nhập WTO. - Về mặt hàng chất lượng sản phẩm may mặc Việt Nam được đánh giá chung là có chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu là làm gia công cho nước ngoài. Tỷ lệ giá cả/chất lượng cao, thường cao hơn các nước trong khu vực khoảng 10-15% và cao hơn gía hàng Trung Quốc khoảng 20%. Cơ cấu mặt hàng và khả năng đổi mới mặt hàng còn nhiều bất cập, chủ yếu tập trung vào những mặt hàng được cấp hạn ngạch như áo sơ mi, jacket và tập trung vào một số thị trường chính như Mỹ, EU, Nhật Bản. Bên cạnh đó, năng lực thiết kế thời trang cũng yếu, mẫu mốt tuy là một trong những nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm nhưng cũng chỉ mới được quan tâm gần đây, mang tính cục bộ và hình thức. - Về chính sách kinh doanh, tiến độ giao hàng đúng thời hạn, đặc biệt là với thị trường có khoảng cách xa như Mỹ là một vấn đề rất khó khăn. Cùng với đó là năng lực xúc tiến bán hàng còn yếu so với các nước trong khu vực, nhiều doanh nghiệp chưa thiết lập được mạng lưới trao đổi thông tin cũng như đại diện thương mại tại các thị trường quan trọng. - Hầu hết các doanh nghiệp may mặc Việt Nam đều tập trung sản xuất sản phẩm xuất khẩu theo phương thức CMT. Các công ty của Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản cung cấp vải, phụ liệu, mẫu mã và các thông tin về thời trang cho các doanh nghiệp Việt Nam, hay nói cách khác là sử dụng doanh nghiệp Việt Nam như những trung gian sản xuất, còn khách hàng tiêu thụ sản phẩm lại là Mỹ và EU. Phương thức này khiến cho các doanh nghiệp may phụ thuộc vào khách hàng và lợi nhuận thấp. Chính vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam, gần đây đã nỗ lực chuyển hướng từ hình thức CMT sang phương thức FOB. Với phương thức này, các doanh nghiệp may sẽ có thể thu lợi lớn hơn song lại đòi hỏi những khó khăn và thử thách mới. FOB đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những liên hệ trực tiếp với khách hàng, có kiến thức và kinh nghiệm trong việc tìm kiếm và thu mua nguyên phụ liệu đầu vào, việc cắt may, tạo mẫu và đặc biệt là nguồn tài chính lớn. - Một khó khăn và thách thức lớn đặt ra không chỉ đối với ngành may mặc Việt Nam mà còn với cả ngành dệt may toàn cầu khi hiệp định hàng dệt may ATC kết thúc ngày 1/1/2005. +Đối với ngành may mặc toàn cầu. Trong khi một số nước Châu Á có thể thu lợi được nhiều sau khi hiệp định ATC kết thúc thì nhiều nước khác có thị phần nhờ các hiệp định thương mại khu vực ưu đãi sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Những nước chuyên môn hoá vào may gia công và xuất khẩu các sản phẩm có ít giá trị gia tăng phải chịu cạnh tranh mạnh khi ATC hết hiệu lực. Bên cạnh đó, một số nước nhỏ khác có kim ngạch xuất khẩu chiếm 50-90% kim ngạch thương mại quốc tế cũng sẽ chịu những ảnh hưởng nặng nề. Họ không có khả năng điều chỉnh cơ cấu để phù hợp với môi trường kinh doanh cạnh tranh mới. Các nước được ưu đãi thu lợi nhiều hơn các nước không được hưởng ưu đãi. Cho dù đã được loại bỏ hạn ngạch, các nước này vẫn phải chịu đối xử khác biệt thông qua thuế quan. Khi đó, chi phí đầu vào của các nguyên phụ liệu và thành phẩm của các nước không được hưởng ưu đãi sẽ rất cao và thị phần của các nước này bị suy giảm. Những thay đổi trong đầu tư do việc xoá bỏ hạn ngạch sẽ có thể ảnh hưởng vì ngành may mặc đặc biệt là quá trình sản xuất toàn bộ đòi hỏi phải có lượng vốn lớn. Cùng với đó là các ảnh hưởng của các quy tắc xuất xứ không ưu đãi, các biện pháp tự vệ khẩn cấp (đặc biệt là biện pháp chống bán phá giá) của các nước phát triển như EU, Mỹ sẽ gây những tác động nghiêm trọng đến sự phát triển hàng may mặc xuất khẩu. Ngay cả khi thuế quan ở cả mức cao không cản được hàng nhập khẩu, các biện pháp phi thuế quan cũng sẽ có thể ngăn cản các nhà xuất khẩu khi không đáp ứng được yêu cầu, quy định hay tiêu chuẩn trong nước phức tạp. Đáp ứng được lại quá tốn kém, tốn thời gian, rắc rối và những rào cản này đã trở nên hữu hiệu các nhà xuất khẩu là các nước đang phát triển. Đồng thời, việc Trung Quốc gia nhập WTO là một yếu tố đẩy mạnh cạnh tranh trong thương mại dệt may. Khi đó, các nước khác sẽ vấp phải khó khăn trong việc cạnh tranh với hàng hoá giá rẻ của cường quốc dệt may này. + Đối với ngành may mặc Việt Nam. Hiệp định dệt may ATC dỡ bỏ vào 2005 đã tạo nên sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt do các đối thủ của Việt Nam không chỉ ở tầm tầm như Thái Lan, Indonexia mà là cả các đại gia trong ngành may mặc thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ. Khi đó, nhiều dự báo giá hàng may mặc sẽ giảm khoảng 20%, và là dấu hiệu rất lo ngại đối với Việt Nam. Tham gia vào thị trường của 148 quốc gia, Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn về thị phần may mặc do sự bành trướng của dệt may Trung Quốc và Ấn Độ. Một khó khăn nữa cũng nảy sinh khi các nước nhập khẩu áp dụng các biện pháp bảo vệ phi hạn ngạch. Tại thị trường Mỹ và EU, đó là các luật về thuế quan, hải quan, hạn ngạch, thuế nhập khẩu, luật chống bán phá giá và trách nhiệm sản phẩm. Tại thị trường Nhật Bản, đó là những đòi hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm, từ nguyên phụ liệu đến quy trình sản xuất đều phải tuân thủ nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn chất lượng JIS và một số luật khác. Mặt khác, Việt Nam cũng phải đối mặt với ba loại đối thủ chính là các đối thủ hàng đầu có vị trí địa lý gần với các thị trường chính, các đối thủ ký kết FTA với các nước nhập khẩu dệt may lớn, các nước có năng lực cạnh tranh cao như Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ… 2.2/Lợi thế (thuận lợi ). Bên cạnh những khó khăn trong quá trình cạnh tranh với các đối thủ mạnh trên thị trường, ngành may mặc Việt nam cũng tạo ra những cơ hội thuận lợi khi gia nhập WTO. - So với các đối thủ khác trên thị trường, ngành may mặc Việt Nam có những lợi thế về nguồn nhân công rẻ, khéo léo và có khả năng tiếp thu nhanh công nghệ tiên tiến. Theo đánh giá của các chuyên gia, giá công nhân lao động trong ngành may mặcViệt Nam chỉ 0,24 USD/h, trong khi của Thái lan là 1,18 USD/h và Xingapo là 3,16 USD/h. - Việt Nam cũng được hưởng lợi từ cơ chế mới của WTO. Tại vòng đàm phán Uruguay, hiệp định ATC thay thế cho MFA. Nhờ đó, khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, hàng may mặc của ta sẽ không phải chịu hạn ngạch hoặc được hưởng sự nới lỏng các hạn chế về số lượng đối với sản phẩm còn hạn ngạch. - Trong quá trình chuyển từ CMT sang FOB, các doanh nghiệp đã có những nhận thức về tầm quan trọng của khâu thiết kế mẫu và đa dạng sản phẩm. Cùng với quá trình đó, các doanh nghiệp đều giảm dần phương thức CMT, tăng tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm bằng cách mua và sử dụng các nguyên phụ liệu được sản xuất trong nước. - Trước đây, các doanh nghiệp đã khai thác hết sức có hiệu quả hạn ngạch của các thị trường lớn (đặc biệt là Mỹ). Khi hàng rào hạn ngạch được dỡ bỏ, Việt Nam sẽ càng nhanh chóng nắm bắt các cơ hội tại các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản, tạo vị thế quan trọng trong cơ cấu hàng may mặc xuất khẩu. V/ Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh hàng may mặc xuất khẩu trên thị trường mỹ trong xu thế hội nhập WTO. 1/ Xu hướng cạnh tranh hàng may mặc xuất khẩu nói chung trên thị trường Mỹ . Việc hủy bỏ chế độ hạn ngạch hàng may mặc xuất khẩu giữa thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO từ 1/1/2005 tiếp tục tăng lợi ích xuất khẩu hàng may mặc sang các khu vực áp dụng chế độ hạn ngạch trước đây như Mỹ, Canada, EU, đặc biệt là Mỹ. Tại thị trường này, sau 1/1/2005, ngành dệt may ( chủ yếu là hàng may) Trung Quốc và Ấn Độ và một số nước khác vẫn có đà tăng tăng trưởng và phát triển. Trái với dự báo sau khi hiệp định ATC hết hiệu lực, các nước Châu Á ít bị ảnh hưởng nhất. Do đó, tại thị trường Mỹ; Trung Quốc, ấn Độ và một số nước Châu á khác vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh, trong khi tại chính thị trường nội địa Mỹ và các nước xuất khẩu khác như Mỹ La Tinh, Châu Phi lại chịu ảnh hưởng nặng nề. Các doanh nghiệp Trung Quốc vẫn tiếp tục dẫn đầu thị trường do đầu tư mạnh vào tài sản cố định, phát triển công nghệ, tăng tính cạnh tranh trên thương trường. Cùng với đó là lợi thế về lực lượng lao động, nguyên nhiên liệu sẵn có, cho phép Trung Quốc sản xuất hàng loạt với mức giá rẻ. Ấn Độ cũng tỏ ra là một cường quốc về dệt may và hàng may mặc.Với lợi thế lao động nhiều, thị phần dệt may của nước này tăng lên 26% tại thị trường Mỹ. Các nước khác bất lợi hơn vẫn có cơ hội phát triển vì Trung Quốc chú ý đến sản xuất hàng loạt mà không quan tâm đến số lượng nhỏ hơn mà đắt tiền, do vậy các nước nhỏ vẫn có chỗ đứng. Bên cạnh đó, từ sự hạn chế về hạn ngạch nhập khẩu mới đây từ Mỹ,Trung Quốc đã có dấu hiệu giảm sút đà tăng trưởng, nhường bước cho các nước xuất khẩu khác. Do vậy, bối cảnh thị trường dệt và may tại Mỹ vẫn khả quan, cho dù có sự bành trướng của Trung Quốc nhưng các nước xuất khẩu vẫn được lợi. 2/ Xu hướng cạnh tranh hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Mỹ . Hoà mình cùng với dòng chảy hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng chịu những ảnh hưởng của cuộc cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu khác. Trên thị trường Mỹ, hàng may mặc Việt Nam phải cạnh tranh với các quốc gia lớn như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Mỹ la tinh, Thái lan, Bănglađét... Trong năm 2005, Việt Nam đã đạt mức tăng 9% về xuất khẩu hàng dệt may, vì vậy sẽ có thể cạnh tranh với Trung Quốc về sản xuất nhiều hơn nữa về nguyên vật liệu thô và chi phí sản xuất thấp. Với việc thành lập tập đoàn dệt may Vinatex, Việt Nam sẽ chú trọng phát triển các sản phẩm phụ trợ và phát triển ngành thiết kế thời trang, lập thêm các trung tâm dịch vụ và mở rộng mạng lưới bán hàng, tiêu thụ sản phẩm. Điểm cốt lõi trong xuất khẩu hàng dệt may nói chung và may mặc nói riêng, Bộ thương mại đã hướng dẫn giao và thực hiện hạn ngạch xuất khẩu sang Mỹ. Trước đây, các hàng hoá Việt nam có năng lực cạnh tranh cao, nhưng chưa sử dụng hết hạn ngạch nên tổng kim ngạch luôn dưới mức yêu cầu. Nay Bộ đã sử dụng đồng thời 2 hình thức cấp visa tự động và ký quỹ bảo lãnh để hàng may mặc Việt Nam được xuất khẩu thuận tiện hơn. Trong khi hàng xuất khẩu phi hạn ngạch giảm thì hàng xuất khẩu theo hạn ngạch lại tăng trưởng tốt. Đây cũng có thể coi là một tín hiệu khả quan cho sản phẩm xuất khẩu dệt may Việt nam. 3/ Vai trò, ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh hàng may mặc xuất khẩu trên thị trường Mỹ. Mỹ là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, là một trong ba nước thành lập ra Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Mỹ cũng đã ký kết hiệp định song phương với một số nước và dành các ưu đãi thương mại đơn phương cho nhiều nước đang phát triển và chậm phát triển. Hiện nay, Mỹ có quan hệ thương mại với hơn 230 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Chính vì quan hệ thương mại rộng lớn, Mỹ luôn là một điểm đến hấp dẫn đối với các nhà xuất khẩu thế giới. Thị trường Mỹ rất lớn, nhu cầu nhập khẩu đa dạng nên hầu hết các nước đều đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này và do đó sự cạnh tranh giữa các nước để chiếm lĩnh thị trường ngày diễn ra gay gắt và khốc liệt. Hiện tại có khoảng 170 nước xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ, mỗi nước đều cố gắng phát huy những thế mạnh của mình để chiếm lĩnh thị trường. Đối với Việt Nam nói riêng và các nước xuất khẩu nói chung, hàng may mặc chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu vào Mỹ. Với Việt Nam, hàng dệt và may chiếm hơn 60% tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Mỹ, nhất là sau khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực. Do vậy, ngành hàng này có ảnh hưởng rất lớn đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Với sự cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã, giá cả hàng may mặc của các đối thủ vừa tầm như Thái Lan, Indonêxia, Pakixstan đến các đại gia, cường quốc dệt may như Trung Quốc, Ấn Độ; Việt Nam cần nâng cao năng lực của mình để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú. * Kết luận chung. Tóm lại, nâng cao năng lực cạnh tranh là một xu thế tất yếu và bắt buộc đối với sản phẩm hàng hoá xuất khẩu khi muốn tham gia cạnh tranh trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh khác. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay cùng với vô số các rào cản và định chế thương mại, các sản phẩm hàng hoá chủ lực như hàng may mặc muốn có được chỗ đứng trên thị trường cần phải vượt qua các tiêu chuẩn đáp ứng khắt khe đó đồng thời tạo nên sức hút đối với nhu cầu thị trường. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH HÀNG MAY MẶC XUẤT KHẨU VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ TRƯỚC THỀM HỘI NHẬP WTO I. Tình hình xuất khẩu hàng hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Mỹ trong thời gian vừa qua. 1./ Tình hình xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang thị trường quốc tế. * Thực trạng ngành may mặc và xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam. Về cơ cấu xuất khẩu: So với ngành may thì công nghiệp dệt của Việt Nam còn rất hạn chế. Đây là ngành yêu cầu lượng máy móc thiết bị hiện đại, đồng bộ và tốn kém. Do vậy ngành dệt chưa đủ khả năng phục vụ ngay chính ngành may trong nước. Nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu của ta chủ yếu vẫn phải nhập ngoại. Như vậy, kim ngạch xuất khẩu khá cao nhưng lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu chưa tương xứng. Hiện có tới gần 60% kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc& dệt là để chi trả cho việc mua nguyên liệu, phụ liệu từ nước ngoài. Một vấn đề đáng lưu ý là giá trị gia công chiếm tới 80% kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc. Hơn nữa, các hợp đồng gia công không ổn định, giá gia công thấp và sự phụ thuộc vào nguyên vật liệu đã khiến không ít doanh nghiệp may mặc nước ta lúng túng, bị động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những mặt hàng xuất khẩu khó làm như quần âu, áo veston chiếm tỷ lệ nhỏ vì rất ít doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ để có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của ngành may mặc Việt Nam chủ yếu là áo jacket, áo váy, sơ mi đơn giản. Đến nay, những mặt hàng cao cấp đòi hỏi công nhân lành nghề, máy móc hiện đại còn nhiều hạn ngạch nhưng chỉ một số ít doanh nghiệp có khả năng thực hiện. Như vậy, trong thời gian tới, các doanh nghiệp không tự lấp lỗ hổng về mặt kỹ thuật và tay nghề tức là sẽ tự mình làm mất đi một thị trường rất có tiềm năng và nhiều cơ hội làm ăn như thị trường Mỹ. * Thực tế cho thấy trong những năm gần đây, nhóm chủng loại hàng quản lý bằng hạn ngạch đã có nhiều đột biến. Cụ thể là kim ngạch xuất khẩu hàng quản lý bằng hạn ngạch trong tháng 1/2006 đạt 152 triệu đô la Mỹ, tăng 65% so với tháng 1-2005 đạt 92 triệu. Tháng 1/2005 là tháng không thuận lợi của Việt nam với tất cả các nước thành viên sẽ được bỏ hạn ngạch vào năm 2005 nên không có hạn ngạch trước năm 2005 để dựng cuối năm 2004, duy chỉ có Việt Nam được ứng cuối năm 2004 để tăng xuất khẩu năm 2005 nhưng kim ngạch cũng chỉ đạt 92 triệu.    Tháng 1/2006 có 7 cat đạt trên 10%, 6 cat đạt trên 6% tổng nguồn hạn hạn ngạch, cụ thể cat 359/659S( quần áo bơi) đạt 18,19%, cat 342/642 đạt 15,11%).  Ngoài những chủng loại hàng tỷ trọng lớn có sự tăng trưởng rất cao so với cùng kì xuất hiện nhiều chủng loại mặt hàng đó xuất khẩu được ngay trong tháng 1/2006 mà cùng kỳ năm ngoái vẫn chưa thực hiện đựơc, đáng lưu ý là các Cat 200, 301, 332, 434, 448, 620 và 645/646.   Bảng 1: Hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam sang một số thị trường chính. (Hàng quần áo và phụ liệu, không kể sản phẩm đan, móc..) Đơn vị :1000 USD Năm Nước 2001 2002 2003 2004 Mỹ 26.442 438.985 1.241.937 1.421.889 EU 797.527,777 706.545,413 514.255,087 607260,357 Nguồn: Bộ thương mại Mỹ Uỷ ban Châu Âu Tại một số thị trường chính như Mỹ và EU Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc sang Mỹ liên tục tăng qua các năm, từ 26,442 triệu USD (2001) lên 1421,889 triệu USD (2004). Còn tại thị trường EU, kim ngạch xuất khẩu giảm từ năm 2001 đến năm 2003, bắt đầu tăng trở lại vào năm 2004 với giá trị tăng 93,00527 triệu USD tương ứng tốc độ tăng 18,08% . Sau đây là một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Bảng 2: Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tại thị trường Mỹ. STT Chủng loại Mặt hàng 1 4 Sơ mi, sơ mi ngắn tay bằng vải dệt kim 2 5 Áo đan, áo cổ lọ 3 6 Quần dài, quần short dệt kim 4 7 Áo blouse, áo blouse ngắn tay 5 8 Áo sơ mi dệt 6 12 Tất nữ, tất mỏng dài, bít tất 7 13 Quần áo lót nam nữ bằng vải dệt kim 8 18 Áo gilê, áo ngủ, pizama 9 21 Áo jacket 10 24 Áo ngủ, pizama bằng dệt kim 11 26 Áo dài phụ nữ 12 31 Áo nịt nửa thân 13 76 Quần áo lao dộng không phải dệt kim 2/ Tình hình xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang thị trường Mỹ. - Triển vọng về quan hệ thương mại hai nước sau khi ký Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là rất lớn. Do Mỹ là thị trường hấp dẫn và khá lý tưởng đối với các nước xuất khẩu hàng hoá trên thế giới. Nước Mỹ có một triển vọng về quan hệ thương mại hai nước sau khi ký Hiệp định nền ngoại thương phát triển mạnh và là một thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá hàng năm tăng lên đến trên một ngàn tỷ USD. Chiếm trên 12% tổng giá trị xuất khẩu và trên 14% tổng giá trị nhập khẩu của thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận được với thị trường Mỹ, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang Mỹ tuy thấp nhưng có tốc độ tăng trưởng cao. Thực tế cho thấy ngành may nói riêng đã có những bước đầu hội nhập vào thị trường Mỹ khá thành công. Mỹ là thị trường có sức mua các loại sản phẩm may mặc lớn nhất thế giới bao gồm nhiều chủng loại khác nhau kể cả các sản phẩm trung bình. Thách thức với các doanh nghiệp Việt Nam ở chỗ Mỹ là nước nhập khẩu nhiều nhưng Mỹ vẫn giành một thị phần đáng kể cho các doanh ._.Tấn/ha 1,4 1,8    +Sản lượng bông hạt Tấn 54 000 182 000    + sản lượng bông sợi " 18 000 60 000 - Dâu tơ tằm   Diện tích trồng dâu Ha 25 000 40 000  Sản lượng tơ tằm Tấn 2 000 4 000 Bảng 14: Chỉ tiêu và nhu cầu tổng vốn đầu tư đến năm 2010:                                                             Đơn vị: Triệu USD - Diện tích chiều sâu 756,9 + Dệt 709,0 + May 47,9 - Dâu tơ tằm 2 516,4 + Dệt 2 306,4 + May 210,2 Tổng số 3 973,3 Chỉ tiêu về nhu cầu tổng vốn đầu tư đến năm 2010 là định hướng, Bộ Công nghiệp căn cứ định hướng này và điều kiện thực tế từng thời kỳ để có những tính toán và hiệu chỉnh phù hợp.     2.2./ Lựa chọn sản phẩm và cơ cấu sản phẩm may xuất khẩu để phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm trên thị trường thế giới Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chỉ tập trung vào một số sản phẩm quen thuộc như áo Jacket, sơmi, váy các loại trong khi đó chưa có điều kiện và khả năng cải tiến về mẫu mã, kiểu dáng. Đặc biệt phụ thuộc rất nhiều vào đơn hàng, thiếu hiểu biết về thị trường cũng như nhu cầu tiêu dùng có sự thay đổi. Vì vậy việc lựa chọn một cơ cấu sản phẩm là cơ sở quan trọng gia nhập thị trường và phát huy lợi thế nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Muốn làm được điều này cần phải thực hiện tốt các biện pháp sau : - Tăng cường nghiên cứu xu hướng phát triển của thị trường, phát triển của sản phẩm, xu hướng của khách hàng cho các doanh nghiệp sản xuất cũng như xuất khẩu hàng may mặc trên cơ sở hỗ trợ của nhà nước thông qua các tổ chức xúc tiến. - Tổ chức đội ngũ cán bộ phát triển thị trường, phát triển sản phẩm, thiết kế sản phẩm. - Tăng cường khuyến mại sản phẩm trên các thị trường xuất khẩu. Chú trọng các hoạt động khuyếch trương của doanh nghiệp như giới thiệu sản phẩm mới, giới thiệu công ty, tham gia hội chợ, tích cực quảng cáo và khuyến mại sản phẩm . 2.3./ Hỗ trợ các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh Xoá bỏ các khoản trợ cấp đặc biệt đối với doanh nghiệp nhà nước và thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Bảo hộ nhập khẩu cho ngành may mặc cần phải thực hiện qua hệ thống thuế quan thấp và đồng bộ . Thủ tục xuất khẩu hàng hoá cần được đơn giản hoá và rõ ràng . Cần có một sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm về lĩnh vực kinh doanh của mình. Thành lập các tổ chức trợ giúp các doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh như đào tạo cải tiến kỹ thuật, trong công tác thiết kế mẫu mốt thời trang, cán bộ quản lý và tiếp cận thị trường cũng cần có chính sách động viên và khuyến khích phù hợp . Thiết lập hiệp hội ngành hàng để có đủ sức cạnh tranh . II/Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Mỹ . 1./ Các giải pháp đối với doanh nghiệp . ./ Đề cao tư tưởng cạnh tranh trong hoạt động của doanh nghiệp. Như chúng ta đã phân tích ở trên thì hàng dệt may nói chung và ngày may nói riêng được xếp vào nhóm ngành hàng có năng lực cạnh tranh nhưng ở một mức độ nhất định. Vì thế các doanh nghiệp may Việt Nam có đủ sức cạnh tranh manh mẽ trên thị trường nội địa và quốc tế buộc các doanh nghiệp sản xuất phải cạnh tranh theo tiêu chí sau: Cạnh tranh = uy tín + chất lượng + giá cả + dịch vụ. Đó không phải là tiêu chí dành riêng cho ngành may mà nó còn đúng với hầu hết các sản phẩm hiện nay có mặt trên thị trường. Trước kia cạnh tranh bằng giá cả là một phương thức có hiệu quả đôi khi có tính chất quyết định đến sự thắng lợi của doanh nghiệp trước đối thủ cạnh tranh. Trng khi cường độ cạnh tranh ngày càng quyết liệt thì việc các doanh nghiệp cần xác định đúng chiến lược cạnh tranh là điêu đặc biệt quan trọng. Mà cụ thể là chiến lược Marketing hỗn hộp. Chiến lược canh tranh cũng là một bộ phận cấu thành chiến lược Marketing của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có được chiến lược cạnh tranh hiệu quả sẽ đưa doanh nghiệp vượt lên trên đối thủ cạnh tranh để đạt được lợi nhuận, giành được ưu thế trong kinh doanh. Do đó các biện pháp mà doanh nghiệp áp dụng : - Các chiến lược Marketing hỗn hợp bao gồm chiến dịch quảng cáo, tham gia hội chợ triển lãm, hội nghị khách hàng, dịch vụ sau bán hàng. - Chiến lược sản phẩm: chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, khai thác chu kỳ sống của sản phẩm . Chiến lược giá cả: chính sách giá thấp, chính sách phản ứng linh hoạt, chính sách giá theo giá thị trường,.v.v.. Chính sách phân phối: Đa dạng hoá các kênh phân phối, tăng cường dịch vụ, đang ký hệ thông các kênh phan phối chính thức. Chiến lược xúc tiến thương mại và các biện pháp hỗ trợ kinh doanh: các thông tin về tổ chức, cơ cấu sản phẩm, đầu tư công nghệ .. 1.2./ áp dụng chiến lược Marketing thích hợp Với quan điểm một doanh nghiệp tồn tại và phát triển trên thị trường cần sản xuất ra sản phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường, những mong muốn của khách hàng mục tiêu và đem đến cho khách hàng sự hài lòng nhất về sản phẩm và dịch vụ có chât lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh. Vì thế một trong những lý do tại sao trong chiến lược kinh doanh của mình các doanh nghiệp lựa chọn cho mình chiến lược Markeing phù hợp. Chiến lược đó không chỉ tính đến kế hoạch mục tiêu có tính đến tính chất dài hạn mà còn phải tính đến chiến lược của đối thủ cạnh tranh. Từ việc so sánh với chiến lược của đối thủ cạnh tranh doanh nghiệp có những phản ứng linh hoạt, trước sự biến động của môi trường kinh doanh mà quan trọng là những biện pháp đối phó của đối thủ cạnh tranh. - Từ nhiệm vụ của chiến lược Marketing đưa doanh nghiệp từ vị trí cạnh tranh hiện tại đến một vị trí cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong tương lai, các doanh nghiệp đã có những biện pháp nhằm thích nghi và có những phản ứng đối với lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm linh hoạt với những xu hướng của môi trường và lực lượng canh tranh, phân tích và phối hợp các nguồn lực, phân tích những cơ hội và nguy cơ . 1.3./ Nhóm giải pháp về sản phẩm . 1.3.1/. Cải thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm. Do Mỹ là một thị trường có nhu cầu nhiều hơn về chất lượng sản phẩm cao. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những chiến lược lâu dài có tính chất quyết định để thâm nhập vào thị trường Mỹ. Mặt khác để xây dựng hình ảnh uy tín của doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam trên thị trường Mỹ các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000. Có thể nói ISO là giấy phép thông hành để các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu vào thị trường Mỹ để cạnh tranh trên nước Mỹ . Nhà nước khuyến khích chuyển dịch cơ cấu hàng may mặc từ xuất khẩu hàng gia công chuyển sang xuất khẩu sản phẩm đồng bộ. Các doanh nghiệp cần tổ chức phối hợp liên kết tốt trong nội bộ ngành may từ khâu nắm bắt thị trường, tìm hiểu thị hiếu của người tiêu dùng , thu thập thông tin nhanh. Mà quan trọng hơn cả là việc đầu tư vào khâu dệt vải và kéo sợi cần vốn lớn . Do đó sự phối hợp này là cần thiết nhằm tạo hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Trong khi môi trường cạnh tranh ngày càng diễn ra khốc liệt. Hàng rào và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ khi mà các nước thành viên gia nhập WTO, thị phần của mỗi quốc gia xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Các biện pháp cạnh tranh “ phi giá cả “ trước hết là về chất lượng trở thành yếu tố hàng đầu buộc các doanh nghiệp cần phải tính đến. Để làm được điều đó cá doanh nghiệp thực hiện một các biện pháp sau: - Đầu tư đồng bộ xây dựng mới và nâng cấp thiết bị cho các cơ sở sản xuất, kho bảo quản chuyên dùng. Các doanh nghiệp dệt may phải huy động vốn từ các nguồn như phát hành cổ phiếu hay trái phiếu, vay ngân hàng, huy động trong nội bộ doanh nghiệp .v.v.. Kêu gọi đầu tư nước ngoài liên doanh hoặc đầu tư liên doanh, cấp tín dụng chung dài hạn. - Các doanh nghiệp dệt may cần thực hiện nghiêm chỉnh khâu kiểm tra chất lượng hàng trước khi giao đảm bảo hàng xuất đúng với các yêu cầu đã ký kết trong hợp đồng. - Song song với các thay đổi về công nghệ, trang thiết bị, các doanh nghiệp cần phải tiếp tục nâng cao ý thức trách nhiệm và trình độ chuyên môn đội ngũ cán bộ công nhân viên. Có chương trình giáo dục tuyên truyền và đào tạo cụ thể đối với từng đối tượng trong doanh nghiệp. Riêng với cán bộ quản lý chất lượng, cần đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn để họ thực hiện tốt các công tác quản lý chất lượng hàng dệt may từ khâu nhập nguyên liệu, thực hiện quy trình sản xuất đến nghiệm thu. - Một trong những biện pháp mà các doanh nghiệp từ xưa tới nay không chú ý đến đó là việc tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng của bạn hàng. Vì vậy mặc dù hàng xuất khẩu tuy đã đáp ứng được yêu cầu chất lượng trong nước nhưng vẫn bị trả lại hoặc là doanh nghiệp Việt Nam phải chịu thiệt rất nhiều. Để khắc phục yếu điểm này buộc các doanh nghiệp phải khắt khe trong công tác kiểm tra lại hàng hoá trước khi đem đi xuất khẩu. Điều đó không chỉ là biện pháp mang tính chất đối phó trong từng lô hàng xuất khẩu mà nó còn là căn cứ đánh giá uy tín của doanh nghiệp trên thị trường thế giới . Doanh nghiệp cần tăng cường về nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm mình để có thể cạnh tranh với các đôí thủ trên một sân chơi bình đẳng. Hiện nay hàng hoá của Việt Nam còn yếu về mẫu mã, chủng loại, chất lượng hàng kệt có thể thấy hàng dệt may chủ yếu là hàng thủ công, máy móc không hiện đại và chất lượng không đạt tiêu chuẩn. Do đó cũng cần bỏ ra một lượng vốn lớn để cải tiến máy móc và và cơ sở sản xuất. Điều quan trọng nhất với ngành dệt may Việt Nam là mỹ thuật còn chưa tinh vi, do thiếu kiến thức và kinh nghiệm trong ngành này mà dẫn đến chất lượng hàng kém khả năng cạnh tranh trên thị trường. Do đó cần gấp rút đào tạo ra những chuyên viên, những nhà tạo mẫu giỏi mới mong có thể phát triển được ngành. Ngoài ra, cùng việc nâng cao chất lượng, mẫu mã cũng phải hạ giá thành của sản phẩm. Nếu như giá cả cao thì hàng cũng không có tính cạnh tranh. Một người chào hàng cho Công ty Mỹ đã nói: “Ví như một mặt hàng là loại quần Jean, chúng tôi đã đưa mẫu chào xuống nhiều Công ty dệt may Việt Nam, thì thấy những công ty này đáp ứng được về những đòi hỏi chất lượng, song về giá thì đành chào thua. Với lượng giá ấy thì ngay sản phẩm làm ra ở Việt Nam cũng khó bán chứ chưa nói chuyện tính công vận chuyển và các loại phí khác cho xuất khẩu”. 1.3.2./ Đa dạng hoá hàng may mặc xuất khẩu . Mặc dù hàng may mặc Việt Nam có thay đổi vè hình dáng, mẫu mã, chất liệu, chủng loại hàng nhưng khi hàng may mặc Việt Nam thay đổi được một phần thì háng may mặc của đối thủ cạnh tranh đã thay đổi phần lớn về kiểu dáng, mẫu mã, chủng loại, chất liệu. Mặt hàng này bao gồm áo sơ mi, Jacket, quần âu của Việt Nam chỉ thay đổi chút ít về mầu sắc còn chất liệu vải, kiểu dáng thay đổi không đáng kể, chủng loại hàng qua các năm hầu như không tăng lên. Vì vậy trong thời gian ngắn 2-3 năm cần tập trung vào mặt hàng áo sơ mi, Jacket, quần âu, quần áo dệt kim, quần áo thể thao tạo ra sự đa dạng theo các hướng sau: Đa dạng hoá chất liệu sản phẩm nhờ vào ý tưởng của nhà thiết kế: Vì các nhà thiết kế biết cách sử dụng những chất liệu khác nhau cho ngững sản phẩm khác nhau mặc dù chất liệu đó phải nhập khẩu từ nước ngoài. Các nhà thiết kế cần phải phát huy tính sáng tạo trong khâu thiết kế đến khâu chọn lựa chất liệu vải cho phù hợp, tránh sao chép theo khuân mẫu của nước ngoài, ý tưởng thiết kế phải xuất phát từ nhu cầu và thị hiếu của khách hàng Mỹ, những ý tưởng thiết kế mang tính thương mại, góp phần tạo ra sản phẩm để xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. - Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm: Do sản phẩm may mặc Việt Nam trên thị trường Mỹ về chủng loại còn hạn chế, trong khi yêu cầu của thị trường này rất đa dạng. Thậm chí những sản phẩm khác nhau cũng cần sản xuất theo nhu cấu khác nhau theo khoảng thời gian theo mùa khác nhau. Chính vì vậy cần có những bộ sưu tập thời trang theo mùa, trong mỗi bộ sưu tập này cần có những loại quần áo khác nhau sử dụng những chất liệu khác nhau. Hướng sưu tập bộ thời trang theo mùa, với nhiều loại sản phẩm khác nhau rất phù hợp với cách thức giới thiệu thời trang tại các trung tâm thời trang nổi tiếng ở Mỹ. 1.4 ./ Duy trì lợi thế về giá nhân công trong chi phí sản xuất Việt Nam được coi là quốc gia có giá nhân công tương đối thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Với đặc điểm lao động ở Việt Nam dồi dào, con người cần cù chăm chỉ, khéo léo có khả năng tiếp thu nhanh trình độ khoa học công nghệ. Đặc điểm đó rất phù hợp với công việc mang tính chất truyền thống như ngành may- một ngành có hàm lượng chất xám không cao trong khi không cần yêu cầu nhiều về trình độ nhưng cần có kinh nghiệm lâu năm cũng như sự khéo léo. Do đó các doanh nghiệp cần phải đảm bảo tỷ lệ hợp lý về chi phí lao động trong chi phí sản xuất 1 đơn vị sản phẩm, chi phí lao động cấu thành trong giá trị xuất khẩu của hàng may mặc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tiền lương và năng suất lao động của mỗi người nhằm cải thiện đời sống của người lao động và lợi thế về giá nhân công rẻ để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Cần có quan điểm và định hướng đúng đắn trong việc sử dụng và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sản xuất sản phẩm. Đó là lợi thế giá nhân công phải đặt trong mối quan hệ vối các lợi thế khác như lao động có kỹ năng, chất lượng sản phẩm và dịch vụ giao hàng nhằm đảm bảo tốt và tiết kiệm các chi phí khác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên chúng ta cũng cần chấp nhận một thực tế lao động trong lĩnh vực này mới chỉ phần nào đáp ứng về số lượng nhưng chất lượng còn chưa cao. Mà sản phẩm may kết tinh giá trị gia tăng cao trong các khâu cắt vải hay khâu tạo mẫu thời trang vì vậy doanh nghiệp cần tầp trung tuyển chọn và đào tạo đội ngũ lao động phục vụ tốt cho những khâu trên . 1.5/ Đảm bảo cung cấp nguyên phụ liệu. Với đặc điểm nguyên liệu chủ yếu của ngành may là cây bông, bên cạnh đó còn kể đến cây dâu, tơ tằm ...Trong khi đó chúng ta chưa thực sự đầu tư tương xứng với tiềm năng của ngành hay có đầu tư phát triển nhưng hiệu quả chưa cao. Một trong những công việc hiện nay cần phải biện pháp đầu tư và phát triển cho phù hợp . - Có chiến lược phát triển đồng bộ các vùng nguyên liệu cho công nghiệp dệt may, xây dựng chương trình phát triển cây bông, dâu, tơ tằm, ... Ngoài ra cần tận dụng phế liệu để sản xuất sợi không dệt nhằm giảm giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất tạo ra sức cạnh tranh về giá cho sản phẩm của doanh nghiệp . - Thị trường Mỹ là một trong những thị trường đòi hỏi khắt khe về vấn đề vệ sinh môi trường cho sản phẩm. Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng may mặc nói riêng và những hàng xuất khẩu nói chung chưa quan tâm nhiều đến yêu cầu này. Khi các doanh nghiệp của chúng ta không đáp ứng được yêu cầu này là một bất lợi khi cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh khác như Trung Quốc, ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan …Hệ thống tiêu chuẩn mà sản phẩm của chúng ta cần phải đạt ISO 9000, ISO 14000. Có như vậy các sản phẩm mới có thể xuất khẩu và làm nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu. Kết hợp phát triển sản xuất phụ liệu trong nước với việc tranh thủ đàm phán để giành quyền chủ động trong việc chọn nhà cung cấp phụ liệu cho sản phẩm may xuất khẩu. Nhờ thực hiện được biện pháp trên doanh nghiệp sẽ chủ động hạ chi phí về phụ liệu góp phần nâng cao hiệu quả đáng kể trong việc giảm giá thành sản phẩm. 1.6./ Tạo lập thương hiệu và khẳng định uy tín sản phẩm bằng nhẵn mác sản phẩm trên thị trường Mỹ. Mỹ là một trong những thị trường đò hỏi khắt khe về nhãn mác, thương hiệu hàng hoá. Chúng ta thường thấy có những sản phẩm may có giá trị đến vài triệu trong khi có nhưng sản phẩm chỉ đáng giá đến vài chục hay hàng trăm nghìn đồng. Ngoài sự khác nhau về chất lượng, mấu mã, chất liệu…còn phải kể đến sự khác nhau về nhãn hiệu, thương hiệu của sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp. Một sản phẩm có thương hiệu mạnh tạo ra giá trị vô hình rất lớn cho sản phẩm, nó không chỉ là sự khẳng định chất lượng vượt trội mà còn khẳng định uy tín, là lời cam kết giữa doanh nghiệp và khách hàng. Mặc dù một số sản phẩm may của Việt Nam ngày càng nâng cao chất lượng và uy tín trên thị trường cạnh tranh được với một số sản phẩm của Trung Quốc và ấn Độ. Nhưng khách hàng Mỹ đã quen với nhưng sản phẩm may có tên tuổi, thương hiệu trên thị trường, những sản phẩm may không có nhẵn mác thường gắn với chất lượng thấp, kém tính cạnh tranh. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần tạo lập cho mình một thương hiệu mạnh đi đôi với nó là đăng ký thương hiệu tạo cơ sở pháp lý cho ngành lĩnh vực của mình tham gia. Các biện pháp cụ thể đó là: Cần tập trung cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu vải cũng như sản phẩm may . Tổ chức tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Các doanh nghiệp chủ động hợp tác với các viện mốt, trung tâm thời trang hoặc thuê chuyên gia thiết kế mốt của nước ngoài . Khắc phục khó khăn về thiếu nguồn tài chính, nhân lực trong công việc thiết kế mẫu mã, phát triển sán phẩm thông qua trao đổi bản quyền giữa các công ty. Các doanh nghiệp cần tìm cho mình một con đường tạo lập thương hiệu nhanh chóng mà có giá trị. Khi mà doanh nghiệp chưa có tên tuổi trên thị trường thì cách tốt nhất để thâm nhập thị trường là mua bằng sáng chế, nhãn hiệu của các công ty nước ngoài để tạo được lợi thế làm ra sản phẩm có giá rẻ hơn. Đó là các thâm nhập thị trường thế giới bằng sản phẩm "sản xuất tại Việt Nam". 1.7./ Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, nâng cao hiệu quả các hoạt động tiếp cận thị trường và xúc tiến thương mại. Để xâm nhập được vào thi trường Mỹ, một mặt các cán bộ và ngành có cần phải tăng cường công tác nghiên cứu các chính sách về thị trường Mỹ, trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch sản xuất các mặt hàng may hướng vào xuất khẩu. Mặt khác, cần tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu sản phẩm may tiến hành mở văn phòng đại diện tại Mỹ, nhằm củng cố và khuyếch trương hàng may mặc Việt Nam tại thị trường này. Đồng thời tiến tới thành lập cơ quan xúc tiến thương mại thuộc chính phủ tại Mỹ để làm cầu nối cho mối quan hệ cho hai nước nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng dệt may nói riêng. Nếu doanh nghiệp may có hướng quan hệ làm ăn lâu dài và ổn định trên thị trường Mỹ thì nên lập văn phòng đại diện tại Mỹ. Các văn phòng này có nhiệm vụ cung cấp các thông tin về luật pháp, thị hiếu, giá cả, chất lượng sản phẩm và mẫu mã…để các doanh nghiệp trong nước kịp thời nắm bắt được các cơ hội kinh doanh trên thị trường Mỹ. Doanh nghiệp dệt may cũng có thể tìm hiểu và có được tư vấn về hệ thống luật pháp Mỹ thông qua các tổ chức trông nước như Bộ Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam, Trung tâm phát triển ngoại thương tại thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan Thương vụ Mỹ tại Việt nam, các nhà môi giới hải quan Mỹ và các ngân hàng Mỹ tại Việt nam…Các doanh nghiệp dệt may cũng cần tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác thông tin thường xuyên, trực tiếp tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua các hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế ở cả trong nước và ở cả Mỹ. Các doanh nghiệp cũng cần phải chủ động tìm kiếm, đàm phán, ký kết hợp đồng với các bạn hàng Mỹ, tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, có thể tận dụng được lực lượng Việt kiều với tư cách là các chuyên gia cố vấn về thị trường và luật pháp. Bên cạnh đó, yêu cầu các doanh nghiệp dệt may phải đào tạo được đội ngũ nhân viên marketing với trình độ chuyên môn cao, năng lực nhạy bén để có thể nắm bắt và xử lý các thông tin về thị trường một cách chính xác, làm cơ sở để sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu, thị hiếu và thu nhập của khách hàng. Ngoài việc nắm bắt được nhu cầu thị trường, đội ngũ nhân viên này còn phải thông hiểu hệ thống luật pháp của Mỹ, đặc biệt về các quy định có liên quan đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may. 1.8/ Nâng cao kỹ năng đàm phán với các doanh nhân Mỹ và nên mua bảo hiểm rủi ro xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường Mỹ. Do đặc diểm nổi bật trong cách đàm phán của người Mỹ là đi thẳng vào vấn đề chính yếu nhất nên khi tham gia đàm phán ký kết các hợp đồng các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú ý những vấn đề sau: Các doanh nghiệp Mỹ có bộ phận thu thập thông tin riêng và các hoạt động quảng cáo bao giờ cũng tiến hành trước nếu các doanh nghiệp Mỹ định tham gia thị trường mới. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chuẩn bị chu đáo, đầy đủ mọi thông tin và kèm theo sản phẩm của mình tốt khi tham gia đàm phán. Các doanh nghiệp Mỹ thường có luật sư riêng vì hệ thông luật pháp của họ rất phức tạp hơn nữa mỗi bang lại có một hệ thống pháp luật riêng. Đặc điểm nổi bật của người Mỹ là rất thẳng thắn cho nên khi tham gia thương lượng đàm phán cần phải minh bạch, công khai vấn đề lợi nhuận. Làm việc đúng giờ lá một phong cách của người Mỹ nhất là cần chính xác trong những cuộc hẹn. Do đó dù trong bất kỳ hoàn cảnh và lý do nào cũng phải thông báo trước cho đối tác biết khi vắng mặt hoặc là chậm trễ. Khi đàm phán nên nói bằng Tiếng Anh, tốt nhất là bằng tiếng Mỹ. Đặc điểm quan trọng nữa là người tiêu dùng Mỹ rất hay kiện cáo. Vì vậy một trong những lý do cần quan tâm của luật pháp Mỹ là bảo vệ người tiêu dùng. Hầu hết các vụ kiện này đều làm cho các doanh nghiệp không chỉ tiêu tốn một khoản chi phí lớn mà còn ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp, của toàn nền kinh tế của nước ta. Để tránh những rắc rối trên các doanh nghiệp xuất khẩu nên mua bảo hiểm rủi ro khi vào thị trường Mỹ. 2./ Giải pháp vĩ mô 2.1/ Chính sách đầu tư phát triển - Quan điểm chung: Cùng với sự phát triển không ngừng của công nghiệp nói chung, công nghiệp ngành may mặc nói riêng Đảng và nhà nước ta đã có quan điểm và chiến lược phát triển cho ngành may mặc như sau: Tập trung có trọng điểm cho ngành sản xuất và xuất khẩu sản phẩm may mặc hướng vao xuất khẩu đi đôi với việc tăng cường phát triển ngành công nghiệp dệt và sản xuất phụ liệu phục vụ cho ngành may, tiến tới tự túc phần lớn nguyên vật liệu, phụ liệu thay thế cho nhập khẩu. - Mục tiêu đầu tư: Việc xác định đúng mục tiêu không chỉ tạo điều kiện cho việc sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc trong thời điểm hiện tại mà còn có ý nghĩa có tính chất dài hạn và chiến lược trong tương lai, là một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của mỗi doanh nghiệp, tổng công ty dệt may Việt Nam. Vì vậy mục tiêu sắp tới của ngành may mặc đã được xác định trong thời gian sắp tới là đổi mới công nghệ may, khắc phục khâu yếu nhằm sử dụng có hiệu quả thiết bị . - Các biện pháp : + Hỗ trợ đầu tư cho khâu thiết kế, sản xuất hàng mẫu, đào tạo đội ngũ cán bộ, chuyên viên nghiên cứu thị trường + Đẩy nhanh cổ phần hoá ngành may nhằm tự túc nguồn vốn sản xuất kinh doanh và giành cho mục tiêu ưu tiên trên. + Đáp ứng ngày càng cao về môi trường, an toàn về sản phẩm, có chính sách khuyến khích đầu tư để sản phẩm may mặc đáp ứng hệ thống tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000. 2.2./ Chính sách thị trường xuất khẩu. Hàng may mặc là một trong những mặt hàng nằm trong chiến lược ưu tiên phát triển trong những năm gần đây bên cạnh hàng thực phẩm, thuỷ hải sản vào thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU… Là một mặt hàng không chỉ đóng góp lớn vào giá trị xuất khẩu, mà còn có triển vọng phát triển trong tương lai. Đảng và Nhà nước đã xác định Mỹ là một thị trường đầy tiềm năng, các doanh nghiệp cần thâm nhập và cạnh tranh có hiệu quả thì mới đứng vững trên thị trường này. Việc nhà nước ưu tiên và định hướng đúng thị trường xuất khẩu giúp các doanh nghiệp có hướng đi đúng đắn và có động lực phấn đấu trong tương lai. Chính sách thị trường xuất khẩu cần hướng vào và thực hiện những yêu cầu sau: - Phát triển thị trường theo hướng đa dạng hoá đa phương hoá. Chiến lược phát triển thị trường phải gắn với việc khuếch trương các sản phẩm có nhãn mác và thương hiệu Việt Nam với các bạn hàng trên thế giới . - Cần nắm vững các đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hoá, truyền thống, pháp luật của Mỹ. - Tăng cường vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại của chính phủ, hiệp hội ngành dệt may, các tổ chức khác trong công tác marketing. - Đề ra các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước chống buôn lậu, kinh doanh hàng giả, chính sách quản lý hàng nhập khẩu chặt chẽ. 2.3./ Chính sách cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành may. - Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực cung cấp nguyên liệu, phụ liệu, đặc biệt là khâu nhuộm và khâu hoàn thiện sản phẩm. - Có chiến lược quy hoạch phát triển tổng thể vùng nguyên liệu, các loại tơ tằm, tơ sợi tự nhiên cho ngành dệt và các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, tạo nguồn nguyên liệu ổn định. - Khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất trong nước các nguyên phụ liệu đủ tiêu chuẩn quốc tế có chất lượng cao, mẫu mã phù hợp . 2.4./ Chính sách về khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ. - Kết hợp hài hoà giữa nghiên cứu thiết bị công nghệ hiện đại với thiết bị công nghệ đã qua sử dụng. - Nghiên cứu ứng dụng khoa học nguyên vật liệu mới, công nghệ thiết bị hiện đại, tận dụng phế liệu trong lĩnh vực vải không sợi, tận dụng phế liệu tơ tằm để kéo sợi, Spunsil, đẩy mạnh công suất kéo sợi OE, sớm có công nghệ pha len, acrylic cho mặt hàng Veston Complet . - Trong lĩnh vực tạo mốt: Hợp tác với các viện tạo mốt hoặc thuê các chuyên gia thiết kế mốt người nước ngoài để rút ngắn quá trình thâm nhập vaò thị trường Mỹ. 2.5./ Chính sách về tài chính tín dụng. - Đổi mới chính sách tín dụng: Mở rộng tín dụng dài hạn cho phép sử dụng nguồn vốn ODA với những điều kiện ưu đãi về mặt thời gian hoàn vốn, lãi suất. - Các dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất: Vải, sợi, in, nhuộm…được vay vốn tín dụng của nhà nước (50% vay vốn lãi suất ưu đãi bằng 1/2 lãi suất theo qui định hiện hành). - Nhà nước dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch và đấu thầu hạn ngạch dệt may cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu: tham gia tổ chức dệt may quốc tế, xúc tiến thương mại, đào tạo nguồn nhân lực. 2.6./ Chính sách về tổ chức quản lí và đào tạo con người - Gắn cụm công nghiệp dệt may mặc với ngành công nghiệp khác nhằm tận dụng lao động. - Gắn chính sách sản xuất dệt may mặc với các vùng trung tâm dân cư. - Gắn chu trình mới về kéo sợi và dệt vải tổng hợp với các khu vực quy hoạch của nhà nước về dầu khí, chương trính chế biến sợi dệt tơ tằm với vùng nguyên liệu dâu tằm. - Khắc phục bất cập trong chương trình quản lý xuất nhập khẩu, chính sách thuế, vốn ưu đãi, thủ tục hành chính . - Gắn công nghiệp quy mô nhỏ, xí nghiệp tư nhân, và các hộ sản xuất cá thể để phát huy sức mạnh của mọi thành phần kinh tế . - Gấn công nghiệp dệt may thành khu công nghiệp liên hoàn nhiên liệu, sợi dệt, nhuộm, may, dịch vụ… 2.7./ Cải thiện thủ tục xuất nhập khẩu. - Đơn giản thủ tục hoàn thuế nhập khẩu, xây dựng mức thuế chi tiết cho các loại nguyên liệu nhập khẩu. - Doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu đầu vào sau khi xuẩt khẩu thay vì nộp thuế trước khi nhập khẩu. - Rút ngắn thời gian cấp giấy xuất xứ hàng hoá . - Đổi mới công tác quản lý phân bố hạn ngạch. 2.8./ Cải thiện công tác xúc tiến thương mại và tiếp thị thị trường. - Mở văn phong đại diện tại các thị trường khác nhau . - Nắm bắt kịp thời nhu cầu thay đổi giá cả, tỷ giá, quy định hải quan, chính sách thương mại, chính sách đầu tư của nước nhập khẩu. - Tìm hiểu thông tin về thị trường, tiếp cận khảo sát hệ thống phân phôi sản phẩm dệt may tong quốc gia. - Tiếp thị giới thiệu sản phẩm. Để làm tốt công tác này và đạt hiệu quả cao thì cần phải có đầy đủ thông tin giới thiệu về doanh nghiệp, các sản phẩm. Ngoài ra cần quan tâm phát triển hệ thống phân phối sẵn có của Việt Kiều tại nước ngoài. Kết luận Việt Nam đang tiến tới gia nhập vào hệ thống thương mại tự do toàn cầu đang trong quá trình đàm phán đi đến gia nhập WTO. Trong thời gian sắp tới đã mở ra nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức cho các sản phẩm xuất khẩu nói chung và sản phẩm may mặc nói riêng. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là sự tồn tại trên những thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản mà còn phải cạnh tranh khốc liệt với những đối thủ lớn như Trung Quốc, Thái Lan, Ấn độ…Tập trung cho ngành may tồn tại và phát triển, cạnh tranh trên thị trường là cơ sở tốt cho ngành dệt phát triển- ngành cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành may. Điều đó càng được khẳng định trong chiến lược phát triển của toàn ngành trong những năm sắp tới. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Mỹ nói riêng cũng như thị trường quốc tế nói chung thành công sẽ là yếu tố giúp nâng cao uy tín hàng may mặc Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời là công cụ giúp đa dạng và làm cân bằng thị trường xuất khẩu Việt Nam. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng với những giải pháp phù hợp và thực tế, chắc chắn ngành may mặc Việt Nam sẽ vượt qua được những rào cản, để xứng đáng là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng vào xuất khẩu của đất nước. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Dệt may Việt Nam- Cơ hội và thách thức- NXB Chính trị quốc gia (2003) 2. Cẩm nang về xâm nhập thị trường Mỹ- TS.Hồ Sĩ Hưng- NXB Thống Kê (2003) 3. Xuất khẩu sang Hoa kỳ,những điều cần biết phần I- Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ- Hà nội (2005-2006) 4. Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam (2003) 5. Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế- Luận án TS kinh tế Thân Danh Phúc. 6. Những giải pháp chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả ngành may Việt nam- Phạm thị Thu Hương (2000) 7. Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt nam đến năm 2010- Báo điện tử công nghiệp Việt Nam (20/12/2003) 8. Xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Hoa Kỳ- báo điện tử thương mại www.baothuongmai.com.vn 9. Phân biệt năng lực cạnh tranh của hàng hoá,của doanh nghiệp và của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế-báo điện tử công nghiệp Việt Nam (4/6/2004) 10. Các bài viết khác trong trang điện tử vneconomy.com.vn 11. Tình hình phân bổ hạn ngạch sang Hoa Kỳ-trang điện tử của bộ thương mại www.mot.gov.vn MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0076.doc
Tài liệu liên quan