Mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang tích cực chuẩn bị hành trang cho mình để đón nhận những cơ hội và thách thức do mở cửa mang lại. Với việc thực hiện các cam kết song phương và đa phương, hướng tới gia nhập WTO, một nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển của nền kinh tế, đó là nâng cao năng lực cạnh tranh bởi cạnh tranh là đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường và trong điều kiện hội
119 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập thì cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Doanh nghiệp nào có sự chuẩn bị tốt về năng lực cạnh tranh sẽ nắm được quyền chủ động trên thị trường.
Theo cách của mình, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đang phấn đấu cho mục tiêu đó và đã đạt được những thành tích nhất định. Các doanh nghiệp Nhà Nước, trong đó có Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi đã không ngừng đổi mới bằng các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và tổ chức để nâng cao năng lực cạnh tranh. Song so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường, kết quả đạt được còn khiêm tốn. Là một trong những Tổng Công ty lớn của bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển và thực hiện tốt những nhiệm vụ kinh tế - chính trị do Nhà Nước giao là mối quan tâm hàng đầu của Tổng Công ty.
Để tìm được câu trả lời cho vấn đề này cần có những nghiên cứu về lý luận và thực tiễn nhằm tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu. Trên tinh thần đó tác giả chọn vấn đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cạnh tranh kinh tế không còn là vấn đề mới mẻ với thế giới. Trong bộ “Tư bản” và những tác phẩm trước đó, Các Mác đã nói đến cơ sở ra đời và tồn tại của cạnh tranh, các tiêu thức phân loại, những mặt tích cực và tiêu cực của cạnh tranh. Vấn đề này cũng được Lê Nin nhắc đến khi phân tích giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nhất là từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20 trở lại đây, các lý thuyết về cạnh tranh đã được phát triển thành những chiến lược cạnh tranh áp dụng trong quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô ở nhiều quốc gia.
ở Việt Nam, vấn đề này bắt đầu được nhắc đến nhiều khi Việt Nam chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã có một số cuộc hội thảo, công trình nghiên cứu và các bài viết trên các tạp chí về vấn đề này. Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về cạnh tranh đã được công bố như: luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Quốc Dũng về đề tài “Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” (2001), luận văn thạc sĩ về đề tài “Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam nhằm thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Bùi Văn Thành (2003). Nghiên cứu “Năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam – nhân tố quan trọng trong hội nhập” của tiến sĩ Lê Đăng Doanh – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế trung ương (2003). Tác phẩm “Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Chu Văn Cấp (2003), nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia – Hà Nội. Đề án phát triển Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi từ năm 2001 đến 2010. Các nghiên cứu trên đã hệ thống được cơ sở lý luận về cạnh tranh và những kinh nghiệm thực tế quí báu. Tuy nhiên nghiên cứu dưới góc độ quản trị kinh doanh về năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi chưa được thực hiện. Tác giả mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu theo hướng này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, đánh giá những thành công đã đạt được, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng, từ đó chỉ ra định hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là: Hệ thống hóa những cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hai là: Nghiên cứu một số kinh nghiệm quốc tế và của các Tổng Công ty khác của Việt Nam, rút ra bài học về nâng cao năng lực cạnh tranh.
Ba là: Khảo sát các điều kiện về nguồn lực và hoạt động kinh doanh, những công cụ Tổng Công ty đang sử dụng trong cạnh tranh từ đó làm rõ năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, đánh giá thành công, hạn chế, nguyên nhân thực trạng đó.
Bốn là: Đưa ra các định hướng, tìm kiếm và đề xuất giải pháp hữu hiệu để nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi thuộc bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn.
- Phạm vi nghiên cứu: Lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty khá rộng gồm sản xuất sản phẩm cơ khí, xây dựng, thương mại. Trong phạm vi đề tài này, luận văn đi sâu nghiên cứu lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty về các sản phẩm cơ khí xây lắp phục vụ nông nghiệp, thủy lợi và thủy điện.
Phạm vi thời gian: Luận văn chọn mốc thời gian từ năm 2003 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học kinh tế là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp giữa lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh định lượng nhằm tạo một phương pháp tiếp cận phù hợp với đối tượng và mục tiêu nghiên cứu.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
Về lý luận: Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh trong kinh tế thị trường và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó chỉ ra cách thức vận dụng các lý luận về cạnh tranh để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Về thực tiễn:
- Khái quát một số bài học kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp từ đó chỉ ra những vấn đề cần quan tâm khi xây dựng chiến lược cạnh tranh cho doanh nghiệp.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn cho thấy một bức tranh toàn cảnh về năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, những điểm mạnh, điểm yếu và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho Tổng Công ty.
7. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây
Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi.
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi.
Chương 1 Những vấn đề cơ bản về năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1. Cạnh tranh và sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Kinh tế thị trường được xem là nền kinh tế năng động nhất, mang lại nhiều thành tựu đóng góp cho sự phát triển của văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường vận động dưới sự tác động tổng hợp của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó phải kể đến quy luật cạnh tranh. Quy luật này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự thích nghi với những biến chuyển của nền kinh tế để tồn tại và phát triển. Cạnh tranh đã, đang và sẽ là vấn đề được quan tâm nghiên cứu cả trên lý luận và trong thực tiễn nhằm vận dụng ngày càng hiệu quả quy luật này phục vụ cho sự phát triển của mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia.
1.1.1. Khái niệm và phân loại cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một thuật ngữ đã được sử dụng từ khá lâu song trong những năm gần đây được nhắc đến nhiều hơn, nhất là ở Việt Nam. Bởi trong nền kinh tế mở hiện nay, khi xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng phổ biến thì cạnh tranh là phương thức để đứng vững và phát triển của doanh nghiệp. Nhưng “cạnh tranh là gì” thì vẫn đang là một khái niệm chưa thống nhất, các nhà nghiên cứu đưa ra các khái niệm cạnh tranh dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD: “Cạnh tranh là khả năng các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Định nghĩa trên đã cố gắng kết hợp cả hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và quốc gia.
ủy ban Cạnh tranh Công nghiệp của Tổng thống Mỹ đưa ra khái niệm cạnh tranh đối với một quốc gia như sau: “Cạnh tranh đối với một quốc gia thể hiện trình độ sản xuất hàng hóa dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó trong những điều kiện thị trường tự do và công bằng xã hội” [3]. Trong định nghĩa này người ta đề cao vai trò của các điều kiện cạnh tranh là “tự do và công bằng xã hội”.
Như vậy, xét trên góc độ vĩ mô các khái niệm về cạnh tranh đều cho thấy mục tiêu chung của hoạt động cạnh tranh là thỏa mãn tối đa nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, tạo việc làm và thu nhập cao cho nền kinh tế.
Các nhà kinh tế của trường phái tư sản cổ điển quan niệm: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với khả năng của mình”. Theo quan niệm này cạnh tranh chủ yếu là cạnh tranh về giá, vì thế lý thuyết giá cả gắn chặt với lý thuyết cạnh tranh.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác cũng đã đưa ra khái niệm về cạnh tranh: “Cạnh tranh tư bản là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch” [21]. Như vậy cạnh tranh là hoạt động của các doanh nghiệp trong nền sản xuất hàng hóa với mục đích ganh đua, giành giật những điều kiện thuận lợi tronh sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận cao.
Kế thừa những tính hợp lý và khoa học của các quan niệm về cạnh tranh trước đây, luận văn cho rằng để đưa ra một khái niệm đầy đủ cần chỉ ra được chủ thể cạnh tranh, tính chất, phương thức và mục đích của quá trình cạnh tranh. Theo đó chúng ta có thể quan niệm “ cạnh tranh là một quá trình kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế (quốc gia, ngành hay doanh nghiệp) ganh đua với nhau để chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cùng các điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có lợi nhất nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận”.
Như vậy về bản chất, cạnh tranh là mối quan hệ giữa người với người trong việc giải quyết lợi ích kinh tế. Bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện ở mục đích lợi nhuận và chi phối thị trường. Bản chất xã hội của cạnh tranh bộc lộ đạo đức kinh doanh và uy tín kinh doanh của mỗi chủ thể cạnh tranh trong quan hệ với những người lao động trực tiếp tạo ra tiềm lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và trong mối quan hệ với người tiêu dùng và đối thủ cạnh tranh khác.
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, nó chịu nhiều chi phối của quan hệ sản xuất giữ vị trí thống trị trong xã hội, nó có quan hệ hữu cơ với các quy luật kinh tế khác như quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cung cầu…, đây là một đặc trưng gắn với bản chất của cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh chỉ ra cách thức làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó nó làm giảm giá cả thị trường, nó tạo ra sức ép làm gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất, nó chỉ ra ai là người sản xuất kinh doanh thành công nhất.
1.1.1.2. Phân loại cạnh tranh
* Căn cứ tính chất cạnh tranh trên thị trường.
- Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều người bán và người mua, mỗi người bán chỉ cung ứng một lượng hàng rất nhỏ trong tổng cung của thị trường. Họ luôn luôn bán hết số hàng mà họ muốn bán với giá thị trường. Bất cứ doanh nghiệp nào gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường cũng không gây ảnh hưởng tới giá cả thị trường. Để tối đa hóa lợi nhuận họ chỉ còn có thể tìm mọi cách để giảm chi phí sản xuất. Trong thị trường này mọi thông tin đều đầy đủ và không có hiện tượng cung cầu giả tạo. Khi chi phí biên của doanh nghiệp giảm xuống bằng với giá thị trường doanh nghiệp sẽ đạt lợi nhuận tối đa.
- Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà mỗi doanh nghiệp đều có sức mạnh thị trường (dù nhiều hay ít), họ có quyền quyết định giá bán của mình, qua đó tác động đến giá cả thị trường.
+ Cạnh tranh độc quyền (cạnh tranh có tính độc quyền) là thị trường có nhiều người bán và nhiều người mua, sản phẩm của các doanh nghiệp có thể thay thế cho nhau ở một mức độ nào đó. Bằng các biện pháp như thay đổi mẫu mã, chất lượng, kiểu dáng, quảng cáo thương hiệu, uy tín … các doanh nghiệp cố gắng khác biệt hóa sản phẩm của mình để cạnh tranh và thu hút khách hàng. Trong thị trường này, bên cạnh các biện pháp khác biệt hóa sản phẩm, chiến lược giá cả và chính sách đối với khách hàng là các vấn đề mỗi doanh nghiệp luôn quan tâm để đảm bảo khả năng cạnh tranh.
+ Độc quyền tập đoàn là trường hợp trên thị trường chỉ có một số hãng lớn bán các sản phẩm đồng nhất hoặc không đồng nhất. Họ kiểm soát gần như toàn bộ lượng cung trên thị trường nên có sức mạnh thị trường khá lớn. Các hãng trong tập đoàn có tính phụ thuộc lẫn nhau nên quyết định giá và sản lượng của mỗi hãng đều ảnh hưởng trực tiếp đến hãng khác trong tập đoàn và giá thị trường. Vì vậy họ thường cấu kết với nhau để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Nguyên nhân sự hình thành thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là do quá trình phấn đấu tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp, cạnh tranh thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư bản diễn ra không đều ở các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Mặc dù vậy, cạnh tranh độc quyền lại có tác động tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, nó làm lợi cho xã hội nhiều hơn là gây thiệt hại.
- Độc quyền hoàn toàn là hình thái thị trường đối lập với cạnh tranh hoàn hảo. Chỉ có một người bán (hoặc mua) duy nhất trên thị trường, hàng hóa là độc nhất và không có hàng thay thế gần gũi nên họ có sức mạnh thị trường rất lớn. Doanh nghiệp độc quyền luôn quyết định giá và sản lượng sao cho thu được lợi nhuận siêu ngạch. Nguyên nhân của độc quyền là do họ đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô (độc quyền tự nhiên), hoặc do cấu kết, thôn tính, kiểm soát được đầu vào… Độc quyền luôn có những tác động xấu đến kinh tế xã hội như sản lượng bán thấp (không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho xã hội), giá quá cao và gây mất công bằng xã hội. ở một số nước có luật chống độc quyền nhằm đảm bảo các lợi ích kinh tế xã hội.
* Căn cứ chủ thể tham gia thị trường: Đây là sự cạnh tranh trong khâu lưu thông hàng hóa nhằm tối đa hóa lợi ích cho những chủ thể tham gia cạnh tranh.
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua với đặc trưng nổi bật là người mua luôn muốn mua rẻ và người bán luôn muốn bán đắt. Hai lực lượng này hình thành hai phía cung cầu trên thị trường. Kết quả sự cạnh tranh trên là hình thành giá cân bằng của thị trường, đó là giá mà cả hai phía đều chấp nhận được.
- Cạnh tranh giữa những người mua là sự cạnh tranh do ảnh hưởng của quy luật cung cầu. Khi lượng cung một hàng hóa quá thấp so với lượng cầu làm cho người mua phải cạnh tranh nhau để mua được hàng hóa mà mình cần dẫn tới giá cả tăng vọt. Kết quả là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua phải mất thêm một số tiền. Như vậy sự cạnh tranh này làm cho người bán được lợi và người mua bị thiệt.
- Cạnh tranh giữa những người bán là sự cạnh tranh nhằm tăng sản lượng bán. Do sản xuất ngày càng phát triển, thị trường mở cửa, lượng cung tăng nhanh trong khi lượng cầu tăng chậm dẫn tới người bán (các doanh nghiệp) phải cạnh tranh khốc liệt để giành thị trường và khách hàng. Kết quả là giá cả không ngừng giảm xuống và người mua được lợi. Doanh nghiệp nào thắng trong cuộc cạnh tranh này mới có thể tồn tại và phát triển.
* Căn cứ cấp độ cạnh tranh: Đây là sự cạnh tranh diễn ra trong lĩnh vực sản xuất.
- Cạnh tranh giữa các sản phẩm là sự cạnh tranh về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng, giá cả, phương thức bán hàng … Sản phẩm nào phù hợp nhất với yêu cầu của khách hàng thì sản phẩm đó sẽ đảm bảo được khả năng tiêu thụ, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm và tạo cơ hội thu thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành (cạnh tranh nội bộ ngành) là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường, theo quy luật, doanh nghiệp nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thu lợi nhuận siêu ngạch. Các doanh nghiệp sẽ áp dụng các biện pháp như cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm. Doanh nghiệp nào có nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh cao sẽ cạnh tranh thắng lợi trong ngành.
Như vậy cạnh tranh nội bộ ngành làm giảm chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa, là động lực thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và tiến bộ kỹ thuật. Không có cạnh tranh nội bộ ngành thì ngành đó không thể phát triển và kinh tế sẽ bị trì trệ.
- Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất ở các ngành khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất. Giữa các ngành kinh tế, do điều kiện tự nhiên, kỹ thuật và một số nhân tố khách quan khác (như tâm lý, thị hiếu, kỳ vọng, mức độ quan trọng,…) nên cùng với một lượng vốn, đầu tư vào ngành này có thể mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn ngành khác. Nhà sản xuất ở những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp có xu hướng di chuyển nguồn lực sang những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Kết quả là trong những ngành có thêm nhiều doanh nghiệp tham gia lượng cung tăng vượt quá cầu, giá giảm dẫn tới tỷ suất lợi nhuận của ngành giảm. Ngược lại, những ngành có nhiều doanh nghiệp rút lui sẽ có lượng cung nhỏ hơn lượng cầu, giá tăng và tỷ suất lợi nhuận của ngành lại tăng.
Việc di chuyển nguồn lực giữa các ngành kéo theo sự biến động của tỷ suất lợi nhuận diễn ra cho đến khi với một số vốn nhất định dù đầu tư vào ngành nào cũng sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận như nhau. Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Như vậy cạnh tranh giữa các ngành dẫn tới sự cân bằng cung cầu sản phẩm trong mỗi ngành và bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, đảm bảo sự bình đẳng cho việc đầu tư vốn giữa các ngành, tạo nhân tố tích cực cho sự phát triển.
- Cạnh tranh giữa các quốc gia: Là các hoạt động nhằm duy trì và cải thiện vị trí của nền kinh tế quốc gia trên thị trường thế giới một cách lâu dài dể thu được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế quốc gia đó. Tuy nhiên chủ thể trực tiếp tham gia cạnh tranh là các doanh nghiệp. Nên nếu quốc gia nào có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao thì quốc gia đó cũng có năng lực cạnh tranh tốt hơn.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh
Từ thế kỷ 18, Adam Smith, nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại của Anh đã chỉ ra vai trò quan trọng của cạnh tranh tự do trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776). Ông cho rằng sức ép cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của mình một cách chính xác và do đó nó tạo ra sự cố gắng lớn nhất. Kết quả của sự cố gắng đó là lòng hăng say lao động, sự phân phối các yếu tố sản xuất một cách hợp lý và tăng của cải cho xã hội. Cho tới nay, cạnh tranh được coi là phương thức hoạt động để tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, không có cạnh tranh thì không thể có sự tăng trưởng kinh tế.
Vai trò của cạnh tranh được thể hiện ở hai mặt tích cực và hạn chế sau đây:
*Mặt tích cực:
- Đối với nền kinh tế: Cạnh tranh làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy quá trình lưu thông các yếu tố sản xuất. Thông qua cạnh tranh, các nguồn tài nguyên được phân phối hợp lý hơn dẫn đến sự điều chỉnh kết cấu ngành, cơ cấu lao động được thực hiện mau chóng và tối ưu.
Cạnh tranh là đòn bẩy mạnh mẽ nhất đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn, luân chuyển các yếu tố sản xuất, phân phối lại tài nguyên, tập trung sản xuất và tích luỹ tư bản.
Đồng thời cạnh tranh còn là cơ chế điều tiết việc phân phối lợi nhuận giữa các ngành và trong nền kinh tế do chịu ảnh hưởng của quy luật bình quân hoá lợi nhuận.
- Đối với chủ thể kinh doanh: Do động lực tối đa hoá lợi nhuận và áp lực phá sản nếu dừng lại, cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế phải không ngừng tăng cường thực lực của mình bằng các biện pháp đầu tư mở rộng sản xuất, thường xuyên sáng tạo cải tiến kỹ thuật, công nghệ, tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất...Qua đó cạnh tranh nâng cao trình độ mọi mặt của người lao động, nhất là đội ngũ quản trị kinh doanh, đồng thời sàng lọc và đào thải những chủ thể kinh tế không thích nghi được với sự khắc nghiệt của thị trường.
- Đối với người tiêu dùng: Cạnh tranh cho thấy những hàng hoá nào phù hợp nhất với yêu cầu và khả năng thanh toán của người tiêu dùng bởi cạnh tranh làm cho giá cả có xu hướng ngày càng giảm, lượng hàng hoá trên thị trường ngày càng tăng, chất lượng tốt, hàng hoá đa dạng, phong phú. Như vậy cạnh tranh làm lợi cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó cạnh tranh còn đảm bảo rằng cả người sản xuất và người tiêu dùng đều không thể dùng sức mạnh áp đặt ý muốn chủ quan cho người khác. Nên nói cách khác, cạnh tranh còn có vai trò là một lực lượng điều tiết thị trường.
Như vậy, cùng với tác động của các quy luật kinh tế khách quan khác, cạnh tranh đã giúp các doanh nghiệp trả lời các câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào một cách thoả đáng nhất. Vận dụng quy luật cạnh tranh, Nhà Nước và doanh nghiệp có điều kiện hoạch định các chiến lược phát triển một cách khoa học mà vẫn đảm bảo tính thực tiễn, chủ động hơn trong đối phó với mọi biến động của thị trường.
*Về hạn chế:
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, cạnh tranh cũng có một số hạn chế. Do chạy theo lợi nhuận nên cạnh tranh có tác dụng không hoàn hảo, vừa là động lực tăng trưởng kinh tế vừa bao hàm sức mạnh tàn phá mù quáng. Sự đào thải không khoan nhượng những doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả của cạnh tranh mặc dù phù hợp quy luật kinh tế khách quan nhưng lại gây ra những hậu quả kinh tế xã hội như thất nghiệp gia tăng, mất ổn định xã hội.
Cạnh tranh là quá trình kinh tế mà các chủ thể sử dụng mọi biện pháp trong đó có cả những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh để giành chiến thắng trên thương trường như gian lận, quảng cáo lừa gạt khách hàng, tình trạng cá lớn nuốt cá bé, lũng đoạn thị trường. Cuối cùng cạnh tranh có xu hướng dẫn đến độc quyền làm cho nền kinh tế phát triển theo chiều hướng không tốt.
Tuy nhiên do cạnh tranh đã, đang và sẽ luôn là phương thức hoạt động của kinh tế thị trường nên chúng ta cần nhận thức được các vai trò tích cực và hạn chế của cạnh tranh để vận dụng quy luật này sao cho hiệu quả nhất.
1.1.3. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong hoạt động cạnh tranh trên thị trường doanh nghiệp có thể sử dụng các công cụ cạnh tranh khác nhau để chiếm lĩnh thị trường, tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng thị phần... Các công cụ thường được các doanh nghiệp sử dụng là chất lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối.
1.1.3.1. Chất lượng sản phẩm
Để có thể sử dụng công cụ chất lượng sản phẩm để cạnh tranh có hiệu quả cần làm rõ thế nào là chất lượng sản phẩm. Cách hiểu về chất lượng sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý chất lượng sản phẩm. Bởi chất lượng sản phẩm là một phạm trù khá rộng và phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung kinh tế, kỹ thuật và xã hội.
Về phía khách hàng hoặc người tiêu dùng chất lượng sản phẩm được định nghĩa là sự phù hợp và thoả mãn nhu cầu hoặc mục đích sử dụng của họ.
Về phía doanh nghiệp hoặc nhà sản xuất thì chất lượng sản phẩm là sự hoàn hảo và phù hợp của sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn quy cách đã xác định trước.
Nếu chỉ xét từ mỗi loại sản phẩm thì chất lượng sản phẩm được phản ánh bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc số lượng và chất lượng các thuộc tính được thiết kế đưa vào sản phẩm. Những thuộc tính đó phản ánh công dụng hoặc giá trị sử dụng của sản phẩm và biểu hiện ở những chỉ tiêu chất lượng cụ thể.
Nếu xét trên góc độ giá trị, chất lượng sản phẩm được hiểu là đại lượng đo bằng tỷ số giữa lợi ích thu được từ tiêu dùng sản phẩm với chi phí phải bỏ ra để có được lợi ích đó.
Dựa trên nghiên cứu các định nghĩa trên, tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO) đã đưa ra định nghĩa chất lượng sản phẩm trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000 như sau: “Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các thuộc tính của sản phẩm, tạo cho sản phẩm đó khả năng thoả mãn yêu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn ”. Định nghĩa trên cho thấy sự thống nhất giữa các thuộc tính nội tại của sản phẩm, các nhu cầu của khách hàng, giữa các yêu cầu của người sản xuất và người tiêu dùng, giữa nhu cầu hiện tại và kỳ vọng trong tương lai của khách hàng về sản phẩm. Vì vậy định nghĩa này được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong các hoạt động kinh tế hiện nay.
Chất lượng sản phẩm có vai trò quan trọng trong cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Một trong các căn cứ quan trọng khi người tiêu dùng quyết định lựa chọn sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp là chất lượng sản phẩm. Theo M.Porter thì năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được thể hiện thông qua hai chiến lược cơ bản là phân biệt hoá sản phẩm (chất lượng) và chi phí thấp. Vì vậy chất lượng sản phẩm trở thành một trong những công cụ quan trọng nhất làm tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm thể hiện khả năng thỏa mãn nhu cầu khách hàng của doanh nghiệp. Sản lượng tiêu thụ sẽ tăng cùng với sự gia tăng mức độ thoả mãn của khách hàng. Đặc biệt khi trình độ xã hội ngày càng cao, xã hội ngày càng văn minh, thị hiếu của người tiêu dùng đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao về mọi mặt chứ không chỉ đơn giản là tốt - bền - đẹp như trước kia. Như vậy chất lượng và cạnh tranh là hai phạm trù luôn đi cùng và gắn bó chặt chẽ với nhau, chất lượng làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và ngược lại năng lực cạnh tranh cao lại tạo cơ sở tài chính và vật chất cần thiết cho nâng cao chất lượng sản phẩm.
Mặt khác trong nền kinh tế mở hiện nay, khi tham gia các tổ chức thương mại quốc tế (AFTA, WTO...) cùng với các cơ hội kinh doanh là việc mỗi nước phải dỡ bỏ khá nhiều các hàng rào thuế quan để hàng ngoại tràn vào cạnh tranh tự do ngay trên sân nhà. Tuy vậy, không một quốc gia nào lại không tìm cách bảo hộ nền sản xuất trong nước và một hàng rào mới lại được dựng lên. Đó là những tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng sản phẩm như giấy chứng nhận về mức độ phóng xạ cho phép đối với hàng thực phẩm, chất lượng đóng gói bao bì, nhãn mác, giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá... Các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi trên sân nhà mà còn nhằm hướng tới khả năng vươn ra thị trường quốc tế.
Để sử dụng có hiệu quả công cụ chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần làm tốt công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Quản lý chất lượng là các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng. Nói cách khác quản lý chất lượng sản phẩm bao gồm toàn bộ các hoạt động từ việc xây dựng các quy trình đảm bảo chất lượng, thiết lập các văn bản xác định trình tự và tương tác các quy trình, đảm bảo nguồn lực và thông tin cần thiết, theo dõi kiểm tra và phân tích các quá trình nhằm đảm bảo mục tiêu chất lượng đã đề ra. Và hệ thống quản lý chất lượng là một hệ thống để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng [8]. Đây là một hoạt động không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp để phát huy được lợi ích cạnh tranh đích thực từ sản phẩm.
Trên cơ sở nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng, các doanh nghiệp cần xây dựng và tổ chức triển khai các hoạt động đẩy nhanh quá trình cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, tận dụng tốt nhất công cụ này cho nâng cao năng lực cạnh tranh.
1.1.3.2. Giá cả
Giá cả là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh, phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá. Ngày nay, giá cả hiện diện trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, các ngành, các khu vực của nền kinh tế, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Giá cả không chỉ là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, nó còn biểu hiện tổng hợp các quan hệ kinh tế như cung cầu hàng hoá, tích luỹ, tiêu dùng ... Vì vậy giá cả hình thành thông qua quan hệ cung cầu hàng hoá, thông qua sự thoả thuận giữa người mua và người bán, giá được chấp nhận là giá mà cả hai bên đều có lợi.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì giá bán sản phẩm là một trong những công cụ quan trọng thường được sử dụng. Bởi giá bán sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hấp dẫn của sản phẩm và sản lượng tiêu thụ. Hai hàng hoá có cùng công dụng chất lượng như nhau, khách hàng sẽ mua hàng hóa nào có giá thấp hơn. Có nhiều chính sách giá khác nhau được doanh nghiệp sử dụng phù hợp với sản phẩm, mục tiêu, tình hình thị trường và khả năng thanh toán của khách hàng. Trong quá trình hình thành và xác định giá bán, doanh nghiệp có thể tham khảo một số chính sách định giá sau:
- Chính sách định giá thấp: Là chính sách doanh nghiệp đưa ra mức giá thấp hơn giá thị trường. Có hai cách áp dụng chính sách này:
+ Thứ nhất: Định giá thấp hơn giá thị trường nhưng vẫn cao hơn giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp sử dụng chính sách này khi sản phảm mới thâm nhập thị trường, doanh nghiệp cần thu hút sự chú ý của khách hàng. Trường hợp này doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận thấp.
+ Thứ hai: Chính sách định giá thấp hơn giá thị trường và thấp hơn giá thành sản phẩm. Trường hợp này doanh nghiệp không có lợi nhuận nhưng sẽ đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ tăng nhanh vòng quay của vốn, làm cơ sở cho chính sách định giá cao sau này.
- Chính sách định giá cao: Doanh nghiệp áp dụng mức giá cao hơn giá thị trường và cao hơn giá thành sản phẩm trong trường hợp sản phẩm mới tung ra thị trường, chưa có đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng chưa biết rõ về sản phẩm và chưa có cơ hội so sánh về giá. Giai đoạn này doanh nghiệp sẽ tranh thủ chiếm lĩnh thị trường sau đó sẽ hạ dần đến mức bằng hoặc thấp hơn giá thị trường nhưng vẫn đảm bảo thu lợi nhuận.
- Chính sách ổn định giá: Theo chính sách này doanh nghiệp sẽ chọn một mức giá vừa phải và áp dụng trong thời gian dài để tạo uy tín và củng cố niềm tin của khách hàng về sự ổn định của sản phẩm. Nó giúp sản phẩm có những nét độc đáo khác biệt với đối thủ cạnh tranh từ đó doanh nghiệp có điều kiện giữ vững và mở rộng thị phần.
- Chính sách bán phá giá: Là chính sách doanh nghiệp bán hàng với mức giá rất thấp, không có lợi nhuận, thậm chí không bù đắp được chi phí sản xuất làm cho đối thủ không thể cạnh tranh được về giá và p._.hải tự rút lui khỏi thị trường. Khi đó doanh nghiệp độc chiếm thị trường và lại chủ động nâng giá lên. Chính sách này rất nguy hiểm, ít được sử dụng vì nó là con dao hai lưỡi. Hiện nay bán phá giá được coi là phương thức cạnh tranh không lành mạnh và bị cấm sử dụng.
- Chính sách phân biệt giá: Là chính sách đưa ra những mức giá khác nhau đối với cùng một loại sản phẩm khi bán cho những đối tượng khác nhau, cho những khu vực thị trường khác nhau, hoặc khách hàng mua với số lượng khác nhau hoặc trong những thời điểm khác nhau. Chính sách này giúp doanh nghiệp thoả mãn được nhiều đối tượng khách hàng có nhu cầu và khả năng thanh toán khác nhau, tạo nên sự linh hoạt về giá để hấp dẫn khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo bù đắp được những chi phí phát sinh do sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao hơn hoặc do vận chuyển sản phẩm đến những địa điểm khác nhau.
Như vậy việc nghiên cứu và vận dụng chính sách định giá là một vấn đề khá phức tạp đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn linh hoạt và sáng tạo bởi giá cả không chỉ được quyết định bởi giá trị hàng hoá mà còn phụ thuộc khả năng thanh toán của khách hàng. Để có thể vận dụng thắng lợi chiến lược giá cả trong cạnh tranh cần chú ý một số vấn đề sau:
- Việc định giá chỉ là một yếu tố trong chiến lược tổng hợp nhằm đem lại doanh thu và đảm bảo sức cạnh tranh cho doanh nghiệp nên không nhất thiết phải giảm giá hoặc tăng giá trong mọi trường hợp có biến động.
- Việc định giá phải gắn liền với chính sách chiếm giữ thị phần. Doanh nghiệp phải coi chiếm giữ thị phần là mục tiêu chiến lược và việc định giá phải góp phần thực hiện mục tiêu này.
- Chiến lược định giá phải gắn liền với chiến lược cắt giảm chi phí. Dù việc định giá phải dựa trên nhiều căn cứ khác nhau song chi phí vẫn là một yếu tố quan trọng để định giá.
- Chiến lược giá cả phải dựa trên cơ sở cạnh tranh vì vậy doanh nghiệp cần quan tâm thích đáng đến sự thay đổi giá và chính sách giá của đối thủ cạnh tranh.
- Chiến lược giá cả phải gắn với chiến lược phân khúc thị trường để có thể áp dụng những chính sách giá khác nhau cho phù hợp.
- Một số nhóm khách hàng sẵn sàng chấp nhận giá cao để được sử dụng những sản phẩm có chất lượng cao và nhãn hiệu nổi tiếng vì vậy doanh nghiệp nên thực hiện chính sách đặt giá cao đối với những sản phẩm này để củng cố uy tín cho sản phẩm, không bỏ lỡ cơ hội tăng lợi nhuận nhưng cần đảm bảo cung cấp cho người tiêu dùng đủ những gì đã hứa hẹn trong sản phẩm.
Cần xây dựng hệ thống đo lường để đánh giá kết quả công tác định giá. Đây là hoạt động không thể thiếu để đánh giá hiệu quả công tác định giá, qua đó đưa ra những điều chỉnh kịp thời, đáp ứng mọi biến động của thị trường.
Tóm lại, chiến lược giá cả là một công cụ cạnh tranh sắc bén của doanh nghiệp, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy mỗi doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ các chiến lược giá và hoạch định chiến lược giá cả sao cho phù hợp với biến động của thị trường và mục tiêu phát triển của doanh nghiệp.
1.1.3.3. Hệ thống phân phối.
Có thể hiểu kênh phân phối là một tập hợp các cá nhân và tổ chức tham gia vào quá trình làm cho sản phẩm tới được với khách hàng. Nếu doanh nghiệp lựa chọn kênh phân phối không hợp lý có thể sẽ làm giảm sản lượng tiêu thụ rất nhiều và gặp thất bại trong cạnh tranh. Nhất là trong giai đoạn hiện nay kênh phân phối càng thể hiện vai trò quan trọng của nó vì :
- Chi phí vận chuyển thường tăng lên sau mỗi lần biến động giá nhiên liệu. Điều đó thúc đẩy mỗi doanh nghiệp tìm ra phương thức vận chuyển hợp lý nhất, tiết kiệm nhất.
- Mặc dù khoa học kỹ thuật đang phát triển với tốc độ chóng mặt nhưng lợi thế cạnh tranh dựa vào công nghệ dễ bị đối thủ bắt chước. Hơn nữa hiệu quả sản xuất không thể tăng vô hạn, nó gần như đã đạt điểm tối đa nên các doanh nghiệp khó hy vọng vượt trội ở mặt này do đó phải đặt hy vọng vào kênh phân phối.
- Các sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú về mẫu mã, chất lượng, kích thước, vì vậy các công ty dễ gặp khó khăn khi muốn giao hàng cho khách đúng sản phẩm vào đúng thời điểm mà họ cần. Nhiệm vụ này lại đặt lên vai của bộ phận phân phối.
- Đã có nhiều thay đổi lớn trong phương pháp quản lý tồn kho. Hiện nay thay vì để hàng hoá tồn kho với số lượng lớn dẫn tới tăng chi phí bảo quản và lưu kho, các doanh nghiệp có xu hướng giảm tồn kho xuống mức cần thiết tối thiểu để giảm chi phí. Điển hình nhất là phương pháp quản lý “vừa kịp lúc” của Nhật Bản đã giúp các doanh nghiệp Nhật Bản có lợi thế cạnh tranh rất lớn và thắng được các doanh nghiệp của Mỹ. Để thực hiện hiệu quả phương pháp quản lý này không gì hơn là phải lựa chọn được kênh phân phối hợp lý nhất và tốt nhất.
- Để xây dựng hoặc thay đổi được một kênh phân phối cần rất nhiều công sức và thời gian vì nó còn phụ thuộc nhiều nhân tố khách quan khác chứ không chỉ phụ thuộc mong muốn chủ quan của doanh nghiệp. Trên thực tế để lựa chọn và tiến hành xây dựng một kênh phân phối vận hành trơn tru có khi phải mất nhiều năm. Vì vậy chọn kênh phân phối hợp lý sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ và duy trì sức cạnh tranh trong doanh nghiệp.
Tuy có rất nhiều hình thức tiêu thụ nhưng đa số các sản phẩm là những máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng trong quá trình tiêu thụ nói chung đều thông qua một số kênh chủ yếu như bán trực tiếp, bán thông qua các công ty bán buôn của mình và các hãng bán buôn độc lập, sử dụng mạng lưới bán lẻ của hãng, bán qua các cửa hàng, các hãng bán lẻ độc lập hoặc bán hàng qua điện thoại, qua mạng. Việc lựa chọn và xây dựng kênh phân phối phải dựa trên các kết quả nghiên cứu các đặc điểm thị trường bao gồm đặc điểm của nhóm khách hàng (cá nhân, tổ chức, khách hàng mục tiêu, khách hàng tiềm năng,...), đặc tính sản phẩm (tính dễ hư hỏng, tính thời vụ, đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm,...), đặc điểm môi trường (điều kiện kinh tế, khả năng quản lý, các ràng buộc pháp lý, điều kiện địa lý,...).
Trong những năm gần đây có nhiều thay đổi trong lựa chọn kênh phân phối, các doanh nghiệp có xu hướng chọn kênh phân phối trực tiếp. Hình thức này cho phép phát triển các quan hệ hợp đồng và hệ thống các đơn hàng cá biệt. Việc thực hiện lịch giao hàng theo quy định sẽ tạo điều kiện cho khách hàng giảm được lượng dự trữ tồn kho. Điều đó cũng là tiền đề để phát triển sản xuất kinh doanh có tính đến yêu cầu cụ thể của khách hàng.
1.1.4. Khái niệm và sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.4.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
ở phần trên ta đã nghiên cứu các định nghĩa về cạnh tranh, để có thể cạnh tranh thắng lợi mỗi doanh nghiệp phải có năng lực cạnh tranh nhất định. Vậy thế nào là năng lực cạnh tranh? Các học giả và giới chuyên môn vẫn chưa có một sự nhất trí cao về định nghĩa này.
Khi các chủ thể cạnh tranh với nhau để giành lợi thế về phía mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó, một khả năng nào đó hoặc một năng lực nào đó của chủ thể được gọi là năng lực cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn chỉ một sức mạnh, một khả năng duy trì được vị trí của một hàng hoá nào đó trên thị trường người ta cũng dùng thuật ngữ năng lực cạnh tranh của hàng hoá, đó cũng là chỉ mức độ hấp dẫn của hàng hoá đó đối với khách hàng. Có tác giả sau khi phân tích bản chất năng lực cạnh tranh đã đi đến kết luận “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế so sánh của nó so với đối thủ khác trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp của mình.”
Có quan điểm đã cho rằng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Các quan niệm xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau nhưng đều liên quan đến hai khía cạnh là chiếm lĩnh thị trường và lợi nhuận. Như vậy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được hiểu là “khả năng tồn tại, duy trì hoặc gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp”.
ở đây chúng ta cần phân biệt năng lực cạnh tranh của hàng hoá, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có thể hiểu khái quát là tổng thể các yếu tố gắn trực tiếp với hàng hoá cùng với các điều kiện, công cụ và biện pháp cấu thành khả năng cạnh tranh được chủ thể dùng trong ganh đua với nhau nhằm chiếm lĩnh thị trường, giành khách hàng và đem lại nhiều lợi ích cho chủ thể tham gia cạnh tranh.
Còn năng lực cạnh tranh quốc gia, theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cho rằng “khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởng trên cơ sở các chính sách thể chế vững bền tương đối và các đặc trưng kinh tế khác”.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm khác nhau ở chỗ doanh nghiệp là một tổ chức chặt chẽ, có thể đồng thời sản xuất nhiều mặt hàng với năng lực cạnh tranh khác nhau. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm thể hiện năng lực của sản phẩm đó thay thế một sản phẩm khác đồng nhất hoặc khác biệt, có thể do đặc tính chất lượng sản phẩm hoặc giá cả sản phẩm. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là một trong những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong khi đó cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có thể diễn ra khi họ cung ứng những sản phẩm hoàn toàn giống nhau hoặc khác nhau và có thể thay thế cho nhau. Nếu doanh nghiệp nào bán được nhiều sản phẩm hơn và ngày càng chiếm nhiều thị phần hơn so với đối thủ thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh cao hơn.
Năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong quốc gia đó. Vì vậy hai vấn đề này luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau. Và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp là một trong những vấn đề then chốt mà mỗi doanh nghiệp nói riêng và mỗi quốc gia nói chung luôn quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
1.1.4.2. Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang thúc đẩy mạnh mẽ, sâu sắc quá trình chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế, lực lượng sản xuất lớn mạnh đang được quốc tế hoá. Công nghệ thông tin làm cho nền kinh tế thế giới gắn bó, ràng buộc lẫn nhau dẫn tới không một quốc gia nào, một nền kinh tế dân tộc nào muốn phát triển mà có thể tách rời khỏi hệ thống kinh tế thế giới, không hoà nhập vào sự vận động chung của nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của nước mình với kinh tế khu vực và thế giới, tham gia vào phân công lao động quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế song phương và đa phương, chấp nhận tuân thủ những quy định chung được hình thành trong quá trình hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên của tổ chức. Trong quá trình hội nhập, các nước tham gia đều phải tuân theo những luật chơi chung khá phức tạp được thể hiện trong nhiều điều ước quốc tế:
Một là: Khái niệm thương mại đã được mở rộng, không chỉ gồm thương mại các hàng hoá và dịch vụ thông thường mà còn bao gồm cả các lĩnh vực đầu tư bản quyền, tư vấn, sở hữu trí tuệ...Nói cách khác các hàng hoá được buôn bán hiện nay không chỉ bao gồm phần cứng mà còn cả phần mềm, trong đó phần mềm ngày càng quan trọng hơn.
Hai là: Khi gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, các quốc gia đều phải giảm thiểu, thậm chí xoá bỏ hàng rào thuế quan. Ví dụ trong khuôn khổ AFTA, các nước thành viên cam kết cắt giảm thuế quan xuống mức từ 0 đến 5% theo một lộ trình nhất định [18]. Trong khuôn khổ WTO các nước công nghiệp phát triển phải giảm thuế xuất nhập khẩu hàng công nghiệp xuống 3 đến 4%, hàng nông sản chỉ còn 6%. Các nước đang phát triển được duy trì mức thuế suất cao hơn, khoảng 10 đến 12%.
Ba là: Giảm dần tiến tới xoá bỏ hàng rào phi thuế quan. Chỉ được áp dụng một số biện pháp hạn chế để bảo vệ môi trường, vệ sinh, bản sắc văn hoá, an ninh. Ngày nay, khi chất xám chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong sản phẩm, việc bảo hộ bản quyền sở hữu trí tuệ, nhãn mác sản phẩm được quy định rất chặt chẽ.
Bốn là: Nhà Nước không được bao cấp cho doanh nghiệp, chỉ đối với nông sản thì được phép bao cấp ở một số khâu hỗ trợ sản xuất.
Năm là: Mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài vào kinh doanh, tạo sân chơi bình đẳng cho doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hệ thống luật pháp về kinh tế - thương mại phải rõ ràng công khai.
Sáu là: Các nước đang phát triển, các nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường được hưởng một số ưu đãi về cam kết và thời gian thực hiện.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và sự phát triển của doanh nghiệp có sự tác động qua lại hỗ trợ lẫn nhau:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh giúp doanh nghiệp phát triển và hội nhập. Nó sẽ thúc đẩy tiến trình phát triển của doanh nghiệp bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Nó còn giúp doanh nghiệp hội nhập kinh tế thuận lợi cả về chiều rộng và chiều sâu một cách chủ động.
- Khi doanh nghiệp đứng vững và phát triển sẽ tạo điều kiện ngược lại để doanh nghiệp nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình. Bởi những thành tựu của sự phát triển sẽ giúp doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội kinh doanh, có đủ khả năng về nguồn lực để tiếp cận những tiến bộ về kỹ thuật, công nghệ mới, về tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn hiện nay vấn đề có tính chất quyết định là mỗi doanh nghiệp phải luôn phấn đấu nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để sẵn sàng nắm lấy cơ hội và đủ khả năng đối mặt với các thách thức trong quá trình hội nhập để tồn tại và phát triển bền vững.
1.2. Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Để lựa chọn các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần có các tiêu chí định lượng và định tính để đo lường và đánh giá năng lực cạnh tranh. Có nhiều tiêu chí có thể sử dụng, trong đó tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất và có thể phản ánh tương đối đầy đủ và sát thực về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thương hiệu và thị phần, chi phí sản xuất, tỷ suất lợi nhuận.
1.2.1. Thương hiệu và thị phần của doanh nghiệp
Trong quá trình phát triển sản xuất và lưu thông, các nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ đã đặc định hàng hóa của mình bằng cách sử dụng những dấu hiệu dưới hình thức nào đó để thể hiện. Những dấu hiệu đó được gọi là thương hiệu, được nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ sử dụng trong thương mại nhằm ám chỉ sự liên quan giữa hàng hóa và dịch vụ với người có quyền sử dụng dấu hiệu đó với tư cách là người chủ sở hữu hoặc đăng ký thương hiệu.
Theo định nghĩa của Hiệp hội Marketting Hoa Kỳ “thương hiệu là một cái tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hoặc tổng hợp tất cả các yếu tố trên nhằm xác định một sản phẩm hoặc dịch vụ của một (hoặc một nhóm người) và phân biệt sản phẩm dịch vụ đó với các đối thủ cạnh tranh” [2]. Có thể nói thương hiệu là hình thức thể hiện bên ngoài tạo ra ấn tượng, thể hiện cái bên trong cho sản phẩm hoặc doanh nghiệp. Thương hiệu tạo ra nhận thức và niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng. Giá trị của một thương hiệu là triển vọng lợi nhuận mà thương hiệu đó có thể đem lại cho nhà sản xuất trong tương lai. Nói cách khác thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Ví dụ, khi nói đến cà phê người ta nghĩ ngay đến Trung Nguyên, khi nói đến xe máy người ta nghĩ ngay đến Honda, khi nói đến máy vi tính người ta nghĩ ngay đến Microsoft, đó chính là thương hiệu. Tên hàng hóa gắn với thương hiệu trở thành một cụm từ dễ nhớ và làm cho khách hàng nhớ đến doanh nghiệp.
Xây dựng thương hiệu là vấn đề đòi hỏi thời gian, khả năng tài chính và ý chí không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao cũng có nghĩa là họ đã xây dựng được thương hiệu mạnh, thương hiệu đó luôn được khách hàng nhớ và nhận biết rõ ràng. Một thương hiệu mạnh là một thương hiệu có thể tạo được sự thích thú cho khách hàng mục tiêu, làm cho họ tiêu dùng và tiếp tục tiêu dùng nó. Nếu khách hàng đã đam mê thích thú một thương hiệu, họ sẽ trung thành với thương hiệu đó và như vậy doanh nghiệp đã đạt được mục tiêu cạnh tranh của mình.
Qua việc xây dựng thành công một thương hiệu người ta có thể đánh giá về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó vì:
- Thương hiệu làm cho khách hàng tin tưởng vào chất lượng, yên tâm và tự hào khi sử dụng thương hiệu.
- Thương hiệu tốt giúp tạo dựng hình ảnh công ty, thu hút khách hàng mới, vốn đầu tư, thu hút nhân tài.
- Thương hiệu tốt giúp phân phối sản phẩm dễ dàng hơn, tạo thuận lợi khi tìm thị trường mới.
- Uy tín cao của thương hiệu tạo lòng trung thành của khách hàng đối với sản phẩm, đem lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, giúp cho việc triển khai khuếch trương sản phẩm dễ dàng hơn, đòng thời giảm chi phí tiếp thị, giúp doanh nghiệp có điều kiện phòng thủ, chống lại sự cạnh tranh quyết liệt về giá.
- Thương hiệu của người bán khi đã đăng ký bao hàm sự bảo hộ của pháp luật đối với những tính chất độc đáo của sản phẩm trước những sản phẩm bị đối thủ cạnh tranh bắt chước.
Để có một thương hiệu mạnh doanh nghiệp phải xây dựng một chiến lược về thương hiệu nằm trong chiến lược marketting tổng thể căn cứ các kết quả về nghiên cứu thị trường, đồng thời phải đăng ký thương hiệu trong và ngoài nước. Như vậy thương hiệu mới trở thành một tài sản thực sự có giá trị đối với doanh nghiệp.
Cùng với thương hiệu, thị phần cũng là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thị phần của doanh nghiệp là tỷ trọng giữa số hàng hóa của doanh nghiệp so với tổng số hàng hóa được bán trên thị trường. Hoặc là tỷ trọng giữa doanh thu của doanh nghiệp về một loại sản phẩm nào đó so với tổng doanh thu sản phẩm đó trên thị trường. Thị phần tương đối là tỷ lệ so sánh giữa doanh thu của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao sẽ chiếm được thị phần tương ứng với năng lực cạnh tranh đó và có nhiều khả năng tăng thị phần. Thị phần là một loại tài sản vô hình của doanh nghiệp, để giành và giữ vững được thị phần đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự nỗ lực không ngừng trong việc sản xuất các sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường, làn tốt công tác marketting và đảm bảo chất lượng sản phẩm như đã hứa. Năm 1997, kem đánh răng P/S có thị phần khoảng 80 đến 90% thị trường kem đánh răng Việt Nam, khi tham gia liên doanh góp 8 triệu đô la trong đó tài sản cố định hữu hình là đất được đánh giá 3,5 triệu đô la, còn tài sản cố định vô hình là thị phần trên thị trường Việt Nam được đánh giá 4,5 triệu đô la. Điều đó cho thấy, P/S có năng lực cạnh tranh cao và năng lực cạnh tranh đó giúp P/S chiếm được một thị phần đáng kể, nó thực sự trở thành tài sản và là thế mạnh của P/S.
1.2.2. Chi phí sản xuất.
Cạnh tranh thắng lợi trên thị trường, nói cách khác là có năng lực cạnh tranh cao được thể hiện ở kết quả tuyệt đối là tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, khi giá cả hàng hóa có xu hướng giảm xuống, để tăng lợi nhuận doanh nghiệp phải tìm mọi cách giảm chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất cho đơn vị sản phẩm là toàn bộ các chi phí về nguyên vật liệu, lao động, máy móc thiết bị và các chi phí khác doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Một loại sản phẩm có chất lượng tương đương, doanh nghiệp nào sản xuất với chi phí thấp hơn có thể bán với giá thấp mà vẫn đảm bảo mục tiêu lợi nhuận. Trong trường hợp phải cạnh tranh gay gắt về giá thì doanh nghiệp nào có chi phí thấp sẽ có lợi thế, nhất là đối với những sản phẩm nhạy cảm về giá.
Giảm chi phí sản xuất là quá trình doanh nghiệp tìm mọi biện pháp về kỹ thuật, công nghệ, quản lý, tổ chức để làm cho hao phí cá biệt của doanh nghiệp nhỏ hơn hao phí xã hội. Nhất là hoạt động đầu tư cho máy móc thiết bị và công nghệ, nếu lựa chọn và thực hiện tốt một dự án sẽ có tác dụng giảm chi phí một cách hiệu quả và lâu dài, ngược lại, hoạt động đầu tư thiếu tính toán sẽ tăng thêm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp và sẽ rất khó khắc phục. Quá trình này đòi hỏi phải có những nỗ lực thực sự bởi để thực hiện giảm chi phí cho mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp phải xem xét nghiên cứu kỹ và giảm chi phí đúng lúc, đúng chỗ. Những chi phí nào là chi phí tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp thì không thể cắt giảm, những chi phí nào bất hợp lý không tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp thì phải giảm triệt để. Điều này đòi hỏi phải quản lý rất tốt tổng chi phí và kết cấu chi phí của doanh nghiệp.
Để đạt được hiệu quả bền vững phải đảm bảo các mối quan hệ tốc độ tăng năng lực sản xuất luôn luôn lớn hơn tốc độ tăng chi phí đầu tư hoặc đảm bảo được mối tương quan mức biến động doanh thu phải luôn lớn hơn mức biến động chi phí.
1.2.3. Tỷ suất lợi nhuận
Để lượng hóa hiệu quả sản xuất kinh doanh người ta thường sử dụng các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn kinh doanh = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế) / Vốn kinh doanh cho biết mức sinh lời của một đồng vốn bỏ ra từ đó đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Tỷ suất lợi nhuận cần bù đắp được chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Thông thường một đồng vốn được coi là sử dụng có hiệu quả nếu tỷ lệ nói trên cao hơn mức sinh lời khi đầu tư vào các cơ hội khác, hoặc ít nhất phải cao lãi suất tín dụng ngân hàng.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn lưu động = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế) / Vốn lưu động cho thấy mức sinh lời của vốn lưu động.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn cố định = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế) / Vốn cố định cho thấy mức sinh lời của vốn cố định.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Doanh thu = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế) / Doanh thu giúp doanh nghiệp biết được trong một đồng doanh thu của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận / Vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế / Vốn chủ sở hữu cho thấy hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu.
Tuỳ thuộc yêu cầu phân tích có thể lựa chọn sử dụng các chỉ tiêu thích hợp để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Đồng thời có thể so sánh tỷ suất lợi nhuận giữa các năm để thấy được sự gia tăng lợi nhuận một cách tổng quát. Nếu tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp tương đương hoặc cao hơn tỷ suất lợi nhuận của ngành thì doanh nghiệp đó được coi là có năng lực cạnh tranh cao.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh mà doanh nghiệp có được là do sự phấn đấu bền bỉ và lâu dài của doanh nghiệp. Nó là kết quả của rất nhiều hoạt động thực hiện theo chiến lược cạnh tranh đã đề ra và phụ thuộc vào nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
1.3.1. Các nhân tố bên trong
1.3.1.1. Tài chính
Nguồn lực tài chính là vấn đề không thể không nhắc đến bởi nó có vai trò quyết định đến hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp. Trước hết, nguồn lực tài chính được thể hiện ở quy mô vốn tự có, khả năng huy động các nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đó. Quy mô vốn tự có phụ thuộc quá trình tích luỹ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, lợi nhuận hàng năm cao, phần lợi nhuận để lại tái đầu tư cho sản xuất kinh doanh sẽ lớn và quy mô vốn tự có sẽ tăng. Doanh nghiệp có quy mô vốn tự có lớn cho thấy khả năng tự chủ về tài chính và chiếm được lòng tin của nhà cung cấp, chủ đầu tư và khách hàng… Doanh nghiệp nên phấn đấu tăng vốn tự có lên một mức nhất định đủ đảm bảo khả năng thanh toán nhưng vẫn đủ kích thích để doanh nghiệp tận dụng đòn bẩy tài chính làm tăng lợi nhuận.
Để đáp ứng các yêu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ rất nhiều nguồn, chiếm dụng tạm thời của các nhà cung cấp, hoặc khách hàng, vay các tổ chức tài chính hoặc huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp phụ thuộc vào mối quan hệ của doanh nghiệp với các bên cung ứng vốn và sự phát triển của thị trường tài chính. Nếu thị trường tài chính phát triển mạnh, tạo được nhiều kênh huy động với những công cụ phong phú sẽ mở ra nhiều cơ hội đầu tư phát triển cho doanh nghiệp. Lựa chọn phương thức huy động vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường sức mạnh tài chính.
Mặt khác để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng cần xem xét kết cấu vốn cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp. Kết cấu vốn hợp lý sẽ có tác dụng đòn bẩy góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Có những doanh nghiệp có quy mô vốn lớn nhưng không mạnh, đó là do kết cấu tài sản và nguồn vốn không phù hợp với quy mô và đặc điểm sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp đó chưa biết cách khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính của mình. Ngược lại, có những doanh nghiệp có quy mô vốn không lớn nhưng vẫn được coi là mạnh vì doanh nghiệp đó đã duy trì được tình trạng tài chính tốt, biết cách huy động những nguồn tài chính thích hợp để sản xuất những sản phẩm đáp ứng các nhu cầu của thị trường mục tiêu. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh sẽ có điều kiện thuận lợi trong đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, giữ vững được sức cạnh tranh và củng cố vị thế của mình trên thị trường.
1.3.1.2 Máy móc thiết bị và công nghệ
Máy móc thiết bị là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong tài sản cố định, nó là những cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu quyết định năng lực sản xuất của doanh nghiệp, là nhân tố đảm bảo năng lực cạnh tranh. Nếu máy móc thiết bị và trình độ công nghệ thấp kém sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản phẩm, làm tăng các chi phí sản xuất. sản phẩm của doanhnghiệp sẽ không đạt các yêu cầu về tiêu chuẩn hoá và thống nhất hóa sẽ rất khó xuất khẩu, tham gia vào thị trường khu vực và thế giới.
Để đánh giá về năng lực máy móc thiết bị và công nghệ có thể dựa vào các đặc tính sau:
-Tính hiện đại của thiết bị công nghệ: Biểu hiện ở các thông số như hãng sản xuất, năm sản xuất, công suất thiết kế, giá trị còn lại của thiết bị.
-Tính đồng bộ : Thiết bị đồng bộ là điều kiện đảm bảo sự phù hợp giữa thiết bị, công nghệ với phương pháp sản xuất, với chất lượng và độ phức tạp của sản phẩm do công nghệ đó sản xuất ra.
-Tính hiệu quả : Thể hiện trình độ sử dụng máy móc thiết bị sẵn có để phục vụ mục tiêu cạnh tranh của doanh nghiệp.
-Tính đổi mới : Hoạt động sản xuất kinh doanh luôn có nhiều biến động, máy móc thiết bị phải thích ứng được với yêu cầu sản xuất kinh doanh của từng giai đoạn, từng phương án sản xuất kinh doanh, nếu máy móc thiết bị không thể sử dụng linh hoạt và chậm đổi mới thì sẽ không đảm bảo năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Cùng với máy móc thiết bị, công nghệ là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo M. Porter mỗi doanh nghiệp phải làm chủ hoặc ít ra là có khả năng tiếp thu các công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Không đơn giản là việc có được công nghệ mà điều quan trọng hơn là khả năng áp dụng công nghệ, đó mới là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh. Để áp dụng được công nghệ, các doanh nghiệp phải kết hợp nhiều yếu tố khác nữa. Người đi đầu vào thị trường công nghệ mới chưa chắc là người chiến thắng. Người chiến thắng là người biết làm thế nào để công nghệ đó áp dụng rộng rãi trong doanh nghiệp [35].
Có thể khẳng định một doanh nghiệp với hệ thống máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến cộng với khả năng quản lý tốt sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ và đảm bảo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
1.3.1.3. Nguồn nhân lực
Nhân tố con người là vô cùng quan trọng đối với hoạt động của mỗi doanh nghiệp, để quản lý tốt các hoạt động sản xuất kinh doanh trước hết phải làm tốt công tác về quản lý nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực không đảm bảo về số lượng và chất lượng là nguyên nhân giảm sút năng suất và chất lượng sản phẩm. Làm tốt công tác quản lý nguồn nhân lực là con đường dẫn tới thành công của các doanh nghiệp bởi quản lý nguồn nhân lực giúp doanh nghịêp khai thác được mọi tiềm năng của người lao động đóng góp vào sự phát triển, sử dụng chi phí tiền lương một cách hiệu quả nhất, ngăn chặn mọi sự di chuyển lao động ra khỏi doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến hoạt động của bộ máy.
Nguồn nhân lực của doanh nghiệp cần đáp ứng được các yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ đối với từng vị trí làm việc. Yêu cầu đối với giám đốc và quản trị viên các cấp không chỉ cần trình độ về nghiệp vụ mà còn phải có khả năng sáng tạo, tinh thần trách nhiệm, sự nhanh nhẹn, linh hoạt trong thu thập và xử lý thông tin, sáng suốt dự báo và đối phó với các biến động của thương trường. Chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
- Ban giám đốc doanh nghiệp: Là những người vạch ra các chiến lược kinh doanh, trực tiếp điều hành và tổ chức sản xuất kinh doanh, quyết định sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Những thành viên của ban giám đốc cần có kinh nghiệm lãnh đạo, trình độ và hiểu biết về các hoạt động của doanh nghiệp, biết cách động viên sức mạnh tập thể cùng phấn đấu cho sự nghiệp chung.
- Cán bộ quản trị cấp trung gian và cấp cơ sở: Là những người trực tiếp điều hành và thực hiện các kế hoạch, phương án kinh doanh do ban giám đốc đề ra. Họ góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của doanh nghiệp. Họ cần thành thạo chuyên môn và có kinh nghiệm quản lý, năng động, có khả năng ra quyết định và tham mưu cho ban giám đốc.
- Đội ngũ công nhân: Để đứng vững trên thị trường không chỉ cần cán bộ lãnh đạo giỏi mà còn cần có đội ngũ công nhân lành nghề, trung thực và sáng tạo. Họ là những người trực tiếp tạo nên chất lượng sản phẩm, lòng hăng say nhiệt tình làm việc của họ là yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.1.4. Khả năng liên doanh liên kết của doanh nghiệp.
Liên doanh liên kết là sự kết hợp hai hay nhiều pháp nhân kinh tế để tạo ra một pháp nhân mới có sức mạnh tổng hợp về kinh nghiệm và khả năng tài chính. Đây là một trong những yếu tố đánh giá năng lực của doanh nghiệp. Nhất là đối với những doanh nghiệp thường tham gia các dự án với quy mô lớn, những yêu cầu đôi khi vượt năng lực một doanh nghiệp đơn lẻ trong cạnh tranh. Để tăng năng lực cạn._.hư quảng cáo, xúc tiến thương mại, Tổng Công ty có thể khơi dậy nhu cầu của những khách hàng tiềm năng, gây ấn tượng mạnh khi họ chưa ký hợp đồng với Tổng Công ty. Hiệu quả hoạt động giao tiếp, khuếch trương thể hiện trước hết là nó thúc đẩy nhu cầu tiềm năng trở thành nhu cầu thật sự, biến khách hàng tiềm năng trở thành khách hàng hiện thực.
Hơn nữa, để có các thông tin chính xác về nhu cầu thị trường, về yêu cầu đối với các sản phẩm hiện tại và sản phẩm tương lai làm căn cứ lập kế hoạch chiến lược cho hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và hiện đại hóa máy móc thiết bị cần có hoạt động tích cực của bộ phận Marketting. Không chỉ giới hạn ở các sản phẩm hiện tại, cần thu thập các thông tin thị trường về một số sản phẩm trước đây đã từng là sản phẩm chính của một số đơn vị thành viên của Tổng Công ty nay do không thích ứng được với sự chuyển đổi cơ chế đã phải tạm ngừng sản xuất hoặc sản xuất rất hạn chế, đó là các máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp nông thôn. Hiện nay thực trạng cơ giới hóa nông lâm ngư nghiệp ở Việt Nam còn nghèo nàn, năng suất lao động trong nông nghiệp ở mức rất thấp vì vậy nhu cầu cơ khí hóa trong sản xuất nông lâm ngư nghiệp và thủy lợi là rất lớn, thị trường các sản phẩm này lâu nay gần như bỏ ngỏ cho các hàng hóa nước ngoài chiếm lĩnh (chỉ có Tổng Công ty Máy Động Lực Và Máy Nông Nghiệp Việt Nam và một số công ty cơ khí nhỏ khác còn sản xuất với sản lượng thấp). Việt Nam là một nước nông nghiệp, trong thời gian tới mặc dù cố gắng giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế nhưng chắc chắn vẫn còn ở mức cao. Theo dự báo, nhu cầu về máy kéo đa năng cỡ nhỏ (< 1 tấn, 10 đến 25 mã lực) khoảng 5.000 đến 10.000 máy/năm. Nhu cầu động lực cả nước khoảng 70.000 máy/năm. Các máy sơ chế, bảo quản nông lâm sản, máy móc phục vụ nghề rừng và trang trại cũng có nhu cầu rất lớn. Tổng Công ty nên quan tâm hơn đến hướng sản xuất này vì đây là một thị trường tiềm năng và lâu dài, khôi phục sản xuất máy kéo, máy nông nghiệp để đa dạng hóa sản phẩm, phát huy hết nội lực về chế tạo cơ khí có thể là một hướng phát triển đúng đắn và hợp lý. Vì cần tính đến thời điểm sau năm 2015, khi nhu cầu xây dựng thuỷ lợi và thuỷ điện đã gần bão hòa thì thế mạnh về thi công xây lắp và cơ khí thủy công sẽ không phát huy được tác dụng nữa, nếu không vươn lên tham gia thị trường xây dựng trong khu vực và thế giới thì chỉ còn một sản phẩm là xi lanh thủy lực sẽ không đảm bảo năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của Tổng Công ty. Đến lúc đó mới nghiên cứu thị trường để đầu tư mở rộng mặt hàng thì đã là quá muộn.
Để bộ phận Marketting hoạt động có hiệu quả, việc quy định một khoản tài chính cho các hoạt động marketting như điều tra, thu thập thông tin, quảng cáo là một việc làm cần thiết và hợp lý.
+ Tổng Công ty nên thành lập phòng Quản lý chất lượng sản phẩm. Hiện nay việc quản lý chất lượng thuộc phòng Kỹ thuật, mới chỉ dừng ở mức theo dõi ghi chép tình hình chất lượng sản phẩm, lập hồ sơ thẩm định cho các đơn vị thành viên và quản lý Sổ tay chất lượng theo hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001-2000. Tình hình chất lượng sản phẩm ở cả khâu sản xuất và khâu thi công đều không được giám sát chặt chẽ, việc thực hiện Sổ tay chất lượng chỉ có tính chất hình thức và không thường xuyên. Trong xu thế hội nhập hiện nay, chất lượng sẩn phẩm luôn được đề cao ở tất cả các khía cạnh. Khi nền kinh tế các nước đều phải lần lượt dỡ bỏ bớt các hàng rào thuế quan và phi thuế quan thì mỗi nước đều tìm cách dựng lên một hàng rào khác để bảo hộ sản xuất trong nước, đó là các quy định chặt chẽ về chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm, về môi trường,... Nếu Tổng Công ty không quan tâm kịp thời đến khâu chất lượng sẽ không thể cạnh tranh được vì ngay cả chủ đầu tư trong nước cũng sẽ thích chọn đối tác nào vừa đảm bảo các yêu cầu về sản phẩm vừa bảo vệ được môi trường vì đó là phương pháp hành động phù hợp với xu hướng phát triển tiến tới một xã hội văn minh hơn. Bên cạnh chỉ đạo và kiểm tra thực hiện sổ tay chất lượng ISO 9001-2000, Tổng Công ty còn cần vươn lên đạt tiêu chuẩn chất lượng về môi trường ISO 14000. Phòng Quản lý chất lượng sản phẩm hoạt động độc lập trực thuộc Ban lãnh đạo Tổng Công ty sẽ có chức năng xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng chung cơ bản cho các sản phẩm của Tổng Công ty, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện hệ thống tiêu chuẩn đó. Hệ thống tiêu chuẩn chung cần cập nhật và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế trong từng lĩnh vực của sản phẩm (nếu để các đơn vị thành viên tự tìm kiếm thông tin và cập nhật sẽ phát sinh các chi phí trùng lắp và có thể không đạt yêu cầu do năng lực hạn chế). Các đơn vị thành viên trên cơ sở đó sẽ xác định các tiêu chuẩn cụ thể cho sản phẩm của đơn vị mình. Chức năng thứ hai là quản lý và đôn đốc kiểm tra việc thực hiện Sổ tay chất lượng ISO 9001-2000. Chức năng thứ ba là tham mưu cho một số bộ phận chức năng khác như phòng Kỹ thuật, phòng Thiết kế,… các yêu cầu về chất lượng sản phẩm để họ có định hướng nghiên cứu đổi mới cho phù hợp.
Cùng với việc thành lập một số bộ phận chức năng, Tổng Công ty cần đầu tư thêm cho phòng Thiết kế, nhất là về nhân lực. Yếu tố quyết định tính dài hạn của thắng lợi trong cạnh tranh là chất lượng công trình xây dựng, gắn liền với cải tiến kỹ thuật và chất lượng thiết kế. Sản phẩm xây dựng có năng lực cạnh tranh cao trước hết là những sản phẩm có kiểu dáng kiến trúc độc đáo, phù hợp với cảnh quan và thẩm mỹ, có ý nghĩa hướng dẫn thẩm mỹ kiến trúc xã hội. Các công trình Tổng Công ty tham gia không chỉ là những công trình phục vụ quốc kế dân sinh mà còn đóng góp nâng cao điều kiện về cơ sở hạ tầng và làm thay đổi cảnh quan nơi đó. Vì vậy nếu sản phẩm được thiết kế không chỉ đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật mà nó còn là một sản phẩm độc đáo, có tính thẩm mỹ cao là lời giới thiệu về Tổng Công ty mà mọi người dễ nhớ. Trong các cách quảng cáo thì quảng cáo thông qua công trình xây dựng (sản phẩm) là hiệu quả nhất. Tổng Công ty nên đầu tư thích đáng cho khâu nghiên cứu, thiết kế kiểu dáng, kiến trúc công trình. Đón đầu các xu thế, thị hiếu của người tiêu dùng về kiểu dáng kiến trúc công trình, kiểu dáng sản phẩm cơ khí là một định hướng chiến lược đảm bảo năng lực cạnh tranh lâu dài cho Tổng Công ty.
Trên đây là một số giải pháp tác giả mạnh dạn đóng góp trên cơ sở đã nghiên cứu tình hình thực tế và năng lực cạnh tranh hiện nay của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi. Muốn thực hiện thành công các giải pháp trên đòi hỏi sự nỗ lực, kiên trì và quyết tâm của cả Tổng Công ty. Để tạo môi trường và hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp nói chung và Tổng Công ty nói riêng nâng cao được năng lực cạnh tranh, Nhà Nước cũng cần có một số thay đổi bổ sung cho phù hợp hơn với tình hình kinh tế trong nước và thế giới.
3.3. Một số kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà Nước
Trong nền kinh tế hiện nay, sự cạnh tranh gay gắt đã hạn chế khả năng tìm kiếm lợi nhuận nên các doanh nghiệp thường tìm mọi cách giảm bớt cạnh tranh, né tránh cạnh tranh. Tình hình đó làm hiệu năng của cả hệ thống kinh tế thị trường bị kém đi, Nhà Nước có vai trò quan trọng là tạo lập môi trường cạnh tranh, duy trì cạnh tranh trong khuôn khổ pháp lý, chính sách, chế độ do Nhà Nước đặt ra. Tuy nhiên, hiện nay các bộ luật, các chính sách chế độ còn một số vấn đề bất cập chưa phù hợp với sự phát triển nói chung và quá trình hoạt động, phát triển của ngành cơ khí và xây dựng nói riêng.
Thứ nhất: Hiện nay hầu hết nguyên vật liệu đầu vào của ngành cơ khí phải nhập khẩu rất bị động và ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, vì vậy Nhà Nước cần có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các nhà máy luyện thép, sản xuất các loại thép chế tạo. Hiện nay, ngành cơ khí – luyện kim cần có lò luyện thép lớn hơn 30 tấn và một số máy rèn dập công suất lớn tới 2.500 tấn để tạo phôi lớn cho gia công cơ khí. Như vậy có thể giúp ngành cơ khí chủ động vật tư đầu vào cho sản xuất và tăng cường chuyên môn hóa cho nền kinh tế.
Thứ hai: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được quyết định bởi đội ngũ nhân lực lành nghề. Hiện nay ở Việt Nam thiếu rất nhiều những công nhân được đào tạo bài bản và hiện đại, có tay nghề chuyên môn cao đòi hỏi Nhà Nước quan tâm mở rộng và tăng năng lực hoạt động cho các trường dạy nghề để họ cung cấp nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp, có cơ chế động viên các trường đại học tích cực đào tạo các kỹ sư giỏi về cơ khí chế tạo, quản lý và chỉ đạo công trình lớn, các dự án công nghiệp quan trọng. Cần hoàn thiện thể chế của thị trường sức lao động, kích thích di chuyển nguồn nhân lực, tạo sức ép buộc họ phải nâng cao tay nghề và trình độ để đảm bảo việc làm, thu hút tài năng trong xã hội và đào thải những người không thích ứng được.
Thứ ba: Để công nghiệp cơ khí Việt Nam từ nay đến năm 2020 có đủ nội lực, Nhà Nước nên sớm ban hành quy hoạch đầu tư phát triển đối với một số sản phẩm cơ khí trọng điểm như đóng tàu thủy, lắp ráp ô tô, chế tạo thiết bị toàn bộ, sản xuất máy động lực và máy nông nghiệp, thiết bị điện theo vùng lãnh thổ trong cả nước. Từ đó định hướng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động, tránh tình trạng đầu tư trùng lắp gây tổn thất cho nền kinh tế và hỗn loạn thị trường. Vận dụng quy chế giao thầu 797 đối với các công trình công nghiệp lớn để tạo đơn hàng lớn, tạo thị trường cho công nghiệp cơ khí Việt Nam phát triển. Đó là việc giao cho các Tổng Công ty xây lắp và cơ khí làm tổng thầu EPC một số dự án đầu tư lớn để các Tổng Công ty đó có thể vươn lên từ thầu phụ trở thành thầu chính, từ làm thuê lên làm chủ, tiến tới cạnh tranh được trong đấu thầu quốc tế. Các Tổng Công ty trong nước được làm tổng thầu EPC sẽ thu được nguồn tài chính trên 40% giá trị công trình thay vì 10% như trước đây vẫn làm thuê cho các tập đoàn nước ngoài. Các giá trị sản lượng sản xuất được tính vào giá trị sản xuất công nghiệp của Việt Nam sẽ góp phần tăng trưởng GDP của cả nước. Phần lợi nhuận sinh ra là của phía Việt Nam thay vì trước đây phải chuyển ra nước ngoài. áp dụng cơ chế giao tổng thầu cũng là một biện pháp Nhà Nước đầu tư gián tiếp cho ngành cơ khí vì sau khi được nhận làm tổng thầu, các Tổng Công ty mới có điều kiện đầu tư trang thiết bị, xây dựng mới các nhà máy cơ khí chế tạo góp phần quan trọng vào công nghiệp hóa đất nước. Mặc dù làm tổng thầu không phải chịu áp lực về tỷ lệ nội địa hóa nhưng thực tế cho thấy các nhà thầu trong nước có ý thức hơn nhà thầu nước ngoài trong việc tận dụng hàng hóa sản xuất trong nước, riêng thiết bị phi tiêu chuẩn thường là làm đến mức tối đa, đặt hàng lại không ép giá như các nhà thầu nước ngoài. Như vậy cơ chế giao thầu là một chủ trương rất đúng đắn của Nhà Nước nhằm tạo động lực phát triển công nghiệp cơ khí Việt Nam cần được nhân rộng và phát huy.
Thứ tư: Nhà Nước đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại nhằm tạo chỗ dựa cho các doanh nghiệp trong nước khi vươn ra thị trường quốc tế. Xúc tiến thương mại là một trong những giải pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh. Xét ở tầm vĩ mô, xúc tiến thương mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam chưa có kinh nghiệm cũng như những hiểu biết cần thiết về thị trường nước ngoài. Nhà Nước cần nâng cao hơn nữa nhận thức của doanh nghiệp về lĩnh vực này và có các biện pháp hỗ trợ thông qua con đường ngoại giao. Nhà Nước có thể lập các văn phòng đại diện, các cơ quan thương vụ, hội đồng tư vấn xuất khẩu ở nước ngoài tại các thị trường điểm, các khu vực kinh tế lớn. Xây dựng hệ thống chính sách và các biện pháp đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại ở nước ngoài như khuyến khích doanh nghiệp thành lập ở nước ngoài những đại lý phân phối hàng hóa, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm,… Nhà Nước có thể tổ chức nghiên cứu học tập kinh nghiệm tổ chức và quản lý của một số tổ chức xúc tiến thương mại lớn trên thế giới để sắp xếp và hoàn thiện bộ máy của hệ thống xúc tiến thương mại ở Việt Nam.
Thứ năm: Thông tin là đầu vào tất yếu của quá trình kinh doanh, doanh nghiệp nào có thông tin nhanh nhất, doanh nghiệp đó sẽ có nhiều cơ hội chiến thắng. Có đầy đủ thông tin và xử lý đúng đắn thông tin là công cụ quan trọng để doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình vì đó là căn cứ để doanh nghiệp đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh, sản xuất cái gì, cho ai và như thế nào? Đa số các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế trong tổ chức tiếp cận thông tin thị trường trong nước và quốc tế, các nguồn thông tin còn phân tán, không hệ thống và không mang tính chuyên nghiệp. Mọi doanh nghiệp Việt Nam dù ở quy mô nào khi thu thập thông tin đều bắt đầu từ con số không, thu thập những thông tin cơ bản nhất rồi mới đến các thông tin chuyên ngành dẫn đến rất tốn kém mà chưa chắc đã hiệu quả. Nếu Nhà Nước đứng ra cung cấp phần thông tin nền này sẽ tiết kiệm cho doanh nghiệp một khoản đáng kể. Nhà Nước có thể đẩy mạnh hoạt động cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bằng cách hình thành các trung tâm thu thập, phân tích và cung cấp thông tin trong nước, khu vực và thế giới. Qua đó cung cấp thông tin cho doanh nghiệp trên tất cả các lĩnh vực như thông tin kinh tế, thông tin khoa học kỹ thuật,…Đây là một bước để công khai hóa thông tin và giảm chi phí xã hội.
Thứ sáu: Một vấn đề được quan tâm hàng đầu của Nhà Nước ta hiện nay là việc hoàn thiện chính sách thuế và công cụ thuế. Thuế luôn được coi là một khoản chi phí của doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến giá cả và năng lực cạnh tranh. Chính sách thuế ở Việt Nam hiện nay thường xuyên thay đổi, đặc biệt là thuế nhập khẩu làm cho doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhất là đối với các doanh nghiệp sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu như ngành cơ khí. Chính sách thuế cho phép miễn thuế đối với nhập khẩu thiết bị đồng bộ, trong khi trong nước tự sản xuất thiết bị cho dây chuyền đồng bộ vẫn phải đóng thuế nhập khẩu vật tư thiết bị. Như vậy đã trói buộc nhà sản xuất cơ khí trong nước và lại tạo điều kiện cho nhập khẩu những thiết bị trong nước có thể sản xuất được. Nên chăng Nhà Nước có cơ chế miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu vật tư thiết bị phục vụ chế tạo cơ khí trong nước. Nhà Nước nên tích cực cải cách hệ thống thuế và phí nói chung để giảm gánh nặng cho doanh nghiệp và đảm bảo tính minh bạch của hệ thống thuế. Chính sách thuế cần khuyến khích đầu tư nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Nhà Nước thực hiện hỗ trợ có thời hạn hợp lý và hiệu quả đối với một số sản phẩm quan trọng. Công cụ thuế phải trở thành đòn bẩy kích thích đầu tư sản xuất kinh doanh và tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển chứ không phải là công cụ tận thu vắt kiệt nguồn lực của doanh nghiệp. Chính sách thuế cần được hoàn thiện theo hướng khắc phục thất thu và lạm thu thuế, đảm bảo công bằng giữa các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế.
Thứ bảy: Nhà Nước cần có các chính sách giúp doanh nghiệp giải quyết các vướng mắc về vốn. Các doanh nghiệp được quyền huy động vốn dưới nhiều hình thức như gọi vốn cổ phần, góp vốn liên doanh, phát hành trái phiếu, tín phiếu. Cùng với đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính, các chính sách của Nhà Nước phải tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư, thu hút các nguồn vốn trực tiếp, gián tiếp và các nguồn vốn khác.
Với vai trò là người nhạc trưởng điều tiết các hoạt động trong nền kinh tế thị trường, nếu Nhà Nước thiết lập được một hành lang pháp lý rõ ràng, nhất quán, ổn định, tạo dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, tiếp tục cải thiện chính sách đầu tư, đảm bảo tính minh bạch hiệu quả của hệ thống thuế, hệ thống ngân hàng sẽ giúp cho mỗi doanh nghiệp, mỗi thành viên của nền kinh tế nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập một cách thuận lợi vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Hòa cùng xu thế hội nhập và phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh là một trong những vấn đề đang được quan tâm ở Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi. Môi trường cạnh tranh càng gay gắt, Tổng Công ty càng cần xây dựng cho mình năng lực cạnh tranh mạnh và bền vững để đi trước một bước so với đối thủ và giành phần thắng trong cạnh tranh. Dựa trên thực trạng của Tổng Công ty và tình hình môi trường bên ngoài, các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh được đưa ra theo phương châm góp phần tạo dựng cho Tổng Công ty những nguồn lực độc đáo, khó sao chép và có giá trị, đồng thời tăng cường khả năng khai thác nhằm tạo ra các sản phẩm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó kiến nghị một số vấn đề với các cơ quan quản lý Nhà Nước nhằm tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi, làm tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho Tổng Công ty cũng như các doanh nghiệp khác trong ngành cơ khí và xây dựng. Mỗi doanh nghiệp có những điều kiện đặc thù riêng, có khả năng khai thác cơ hội khác nhau và có thể được hưởng lợi ở những mức độ không giống nhau từ sự thuận lợi của môi trường vĩ mô, doanh nghiệp nào khai thác cơ hội tốt hơn sẽ có năng lực cạnh tranh mạnh hơn trên thương trường. Các giải pháp đã đề xuất nếu được thực hiện một cách đồng bộ và linh hoạt sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh, củng cố vị thế trên thị trường, thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược của Tổng Công ty và có những đóng góp xứng đáng vào quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Kết luận
Lịch sử kinh tế thị trường cho thấy cạnh tranh là một tất yếu khách quan, một động lực của tăng trưởng kinh tế. Tham gia cạnh tranh và thắng lợi trong cạnh tranh, mỗi doanh nghiệp có thể khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Bới vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thuỷ Lợi nói riêng đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu.
Những phân tích về năng lực cạnh tranh cuả Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thuỷ Lợi cho thấy:
Thứ nhất: Là một doanh nghiệp hoạt động trong hai lĩnh vực chính là cơ khí và xây lắp, Tổng Công ty đã năng động vượt ra khỏi những lúng túng về hướng đi trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế, kịp thời có những quyết sách củng cố năng lực cạnh tranh để tự đứng vững trong cơ chế mới. Điều đó được thể hiện ở các sản phẩm, các công trình Tổng Công ty đã và đang tham gia thi công, thể hiện ở thị phần đã giành được và thương hiệu AGRIMECO được nhiều người biết đến.
Thứ hai: Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ, Tổng Công ty vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục như máy móc thiết bị chưa đồng bộ và hiện đại, nguồn nhân lực cần phải bổ sung và đào tạo lại, cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý vẫn đang ở giai đoạn ổn định và hoàn thiện có tác động ít nhiều đến hiệu quả hoạt động chung của Tổng Công ty.
Thứ ba: Để tiếp tục tăng trường và phát triển bền vững, Tổng Công ty cần phấn đấu giải quyết các hạn chế để nâng cao năng lực cạnh tranh. Thực hiện thành công các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, Tổng Công ty sẽ có đủ điều kiện để nắm bắt các cơ hội và đối mặt với thách thức của nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Thứ tư: Trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế gay gắt, có rất nhiều vấn đề mà một doanh nghiệp đơn lẻ không thể làm được. Điều đó nghĩa là, trong khi phải ngày càng tham gia và thực hiện mở cửa theo các cam kết quốc tế, Nhà Nước cần tranh thủ mọi khả năng có thể để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp ngành cơ khí nói riêng, giúp các doanh nghiệp từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia hiệu quả vào thị trường thế giới.
Nâng cao năng lực cạnh tranh là một đề tài bao quát nhiều mặt hoạt động của doanh nghiệp, nhiều lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế. Do vậy mặc dù đã có nhiều cố gắng, những gì đạt được trong luận văn tác giả quan niệm mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu, đóng góp những kết quả nhỏ bé vào sự phát triển và thịnh vượng của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thuỷ Lợi.
Tài liệu tham khảo
1. Thanh Bình (2005), “Gánh nặng đầu vào- nỗi lo của các doanh nghiệp”, tạp
chí Thông tin Tài chính, (số 12), trang 4-5.
2. Bộ Kế Hoạch Và Đầu Tư, Trung tâm Thông tin Kinh tế Xã hội Quốc Gia
(2004), “Doanh nghiệp Việt Nam với vấn đề thương hiệu trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế”, nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.
3. Bộ Tài Chính (2005), “Yêu cầu khắt khe của chất lượng tăng trưởng”, trang
tin điệntử
4. Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhà xuất bản Chính Trị Quốc
Gia.
5. Bạch Thụ Cường (2002),Bàn về cạnh tranh toàn cầu, nhà xuất bản Thông
Tấn, Hà Nội.
6. Lê Đăng Doanh (2005), bài dịch “Đánh giá của diễn đần kinh tế thế giớivề
năng lực cạnh tranh của Việt nam”, Vietnam Economic Review, (số 72),
trang 43-44
7. Nguyễn Quốc Dũng (2000), “Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam”,luận án Tiến sỹ Kinh tế, Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
8. Trang Đan (2003), “Yếu tố nào hạn chế khả năng cạnh tranh khi hội nhập”,
tạp chí Đầu tư chứng khoán, (số 186), trang 19.
9. Bùi Hữu Đạo (2003), “Hệ thống Quản lý Chất Lượng- Công cụ để nâng cao
sức cạnh tranh của doanh nghiệp”,tạp chí Thương Mại, (số 17), trang 6-7.
10. Trần Bảo Giốc (2006), “Làm thiết bị toàn bộ thực hiện tiến trình nội địa
hoá”, tạp chí Cơ Khí Việt Nam, (số 108), trang 10-14.
11. Hoàng Nguyên Học (2004), “Cơ chế và giải pháp tài chính nâng cao hiệu
quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp”, tạp chí Tài Chính, (số 1),
trang 48-50.
12. Phạm Hùng (2006), Để phát triển mô hình tổng thầu EPC”, báo Công
Nghiệp Việt Nam, (số 28), trang 5.
13. Nguyễn Thị Hường (2004), “Phân biệt sức cạnh tranh của hàng hóa, của
doanh nghiệp và của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế”, tạp chí kinh tế và phát triển, (số 83),trang 41-43.
14. Đoàn Khải (2005), “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam trước khi gia nhập WTO”, tạp chí Giáo Dục Lý Luận,
(số 7), trang 20-24.
15. Phillip Kotler, (1994), “Quản Trị Marketting”, nhà xuất bản Thống Kê, Hà
Nội.
16. Hà Văn Lê (2001), “Đổi mới quản lý nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế của Xi Măng Việt Nam”, luận án Tiến sỹ
Kinh Tế, Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
17. Đặng Thành Lê (2003), “Tác động của rào cản trong cạnh tranh đối với
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí nghiên
cứu kinh tế,(số 9), trang 32-48.
18. Đào Phan Long (2005), “Công nghiệp cơ khí trong quá trình đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020”, tạp chí Cơ Khí Việt
Nam, (số 104), trang 14-16.
19. Hoàng Xuân Long (2005), “Về đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp ở
nước ta”, tạp chí Hoạt động khách hàng, (số 5), trang 27-28.
20. Vũ Tiến Lộc (2003), “Về chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản , (số 12),trang 24-28.
21. C. Mac (2004), “Mac – Angghen tuyển tập”, tập 2, Nhà xuất bản Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Hoa Nhài (2003), “Nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp Nhà Nước Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA”, Tạp chí
Kinh tế –Châu á - Thái Bình Dương,(số3), trang 1-11.
23. An Thị Thanh Nhàn (2004),” Giảm chi phí đầu vào và nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp”, Tạp chí Thuế Nhà Nước, (số 6), trang
43-45.
24. V.P. (2006), “Xoá bỏ độc quyền và đặc quyền trong kinh doanh”, trang tin
điện tử Vn.Express.net.
25. Nguyễn Minh Phong (2003), “Doanh nghiệp Hà Nội trong hội nhập kinh
té quốc tế”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, (số 8), trang 71-77.
26. Michael E. Porter (1996), Chiến lược cạnh tranh, NXB Khoa Học Kỹ
Thuật, Hà Nội.
27.Watanabe Sadanori (2003), “Các doanh nghiệp Việt Nam đối phó như thế
nào với cơn lốc cạnh tranh toàn cầu”, Thông tin khoa học - Xã hội, (số
9), trang 29-34.
28. Nguyễn Hồng Thái (2005), “Nhân tố ảnh hưởng khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp”, tạp chí Giao Thông Vận Tải, (số 6), trang 23, 26-28.
29. Nguyễn Vĩnh Thanh (2006), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, tạp chí Giáo Dục Lý Luận,
(số 2), trang 30-34.
30. Phan Ngọc Thảo (2003), “Giảm chi phí – Giải pháp nâng cao hiệu quả và
năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp”, Tạp chí Phát triển kinh tế,
(số 150),trang 15,16.
31. Nguyễn Văn Thụ (2006), “Báo cáo của hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt
nam trong hội nghị Thủ Tướng Chính Phủ gặp doanh nghiệp 2006 tại Hà
Nội”, tạp chí Cơ khí Việt Nam, (số 108), trang 7-9.
32. Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thuỷ Lợi “Báo cáo
tổng kết công tác sản xuất kinh doanh năm 2003, 2004, 2005 và phương
hướng sảnxuất kinh doanh năm 2006”.
33. Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thuỷ Lợi “Đề án
Phát Triển Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thuỷ Lợi,
kế hoạch 2005-2010”.
34. Lê Anh Tuấn (2005), “Một số quy định về chống cạnh tranh không lành
mạnh theo luật cạnh tranh Việt Nam”, tạp chí Nhà Nước và Pháp Luật, số
10, trang 30-34.
35. Trần Văn Tùng (2004), Cạnh tranh kinh tế – Lợi thế cạnh tranh quốc gia
và chiến lược cạnh tranh của công ty, NXB Thế giới.
36. Trần Trịnh Tường (2006), “Hai năm triển khai thực hiện Luật Xây Dựng”,
tạp chí Xây dựng, (số 1), trang 14-16.
37. Lê Danh Vĩnh (2003), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Việt Nam trong quá trình hội nhập”, Tạp chí Thương mại, (số 16), trang 2-4.
phụ lục
Phụ lục 1: Danh sách các đơn vị thành viên của
Tổng Công ty cơ điện xây dựng nông nghiệp và thuỷ lợi
STT
Tên đơn vị thành viên
Địa điểm
1
Công ty Cơ Khí Điện Thủy Lợi
Hà nội
2
Công ty Cổ Phần Cơ Điện Và Xây Dựng
Hà nội
3
Công ty Cơ Điện XD Và Hợp Tác Lao Động
Hà nội
4
Công ty CP Thiết Bị Phụ Tùng Cơ Điện
Hà nội
5
Công ty CP Thiết Bị Vật T Nông Sản
Hà nội
6
Công ty CP Thiết Bị Thủy Lợi
Hà nội
7
Công ty CP Nồi Hơi Việt Nam
Hà nội
8
Trung Tâm Nghiên Cứu- TVCĐ và Xây Dựng
Hà nội
9
Công ty CP Xây Dựng Thủy Lợi 1
Bắc Ninh
10
Công ty Cơ Điện Nông Nghiệp Và Thủy Lợi 4
Hải Dơng
11
Công ty CP Cơ Điện NN Và Thủy Lợi 18
Nam Định
12
Công ty Xây Dựng Thủy Lợi Nam Sông Hồng
Nam Định
13
Công ty CP Xây Dựng Thủy lợi 24
Vinh–Nghệ An
14
Công ty CP Xây Dựng 26
Huế
15
Xí nghiệp Xây Dựng Công Trình 2
Đà Nẵng
16
Công ty CP Cơ Điện Nông Nghiệp Và Thủy Lợi 2
Đà Nẵng
17
Công ty CP Xây Dựng 25
Quảng Ngãi
18
Công ty CP Cơ Khí Và Xây Lắp 276
TP Hồ Chí Minh
19
Công ty T Vấn Đầu T Kỹ Thuật Cơ Điện
TP Hồ Chí Minh
20
Công ty Cơ Điện XDNN Và Thủy Lợi MêKông
TP Hồ Chí Minh
21
Chi nhánh TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh
Phụ lục 2: Tình hình đầu tư tài sản cố định hữu hình của các đơn vị thành viên trong 3 năm 2003-2005
(Đơn vị tính: triệu đồng)
S
TT
Đơn vị thành viên
Tổng
TSCĐHH
Nhà cửa vật kiến trúc
Máy móc thiết bị
Phương tiện vận tải
Thiết bị dụng cụ quản lý
1
Văn phòng Tổng Công ty
3.490
-
1.136
1.954
400
2
Công ty Cơ Khí Điện Thủy Lợi
3.191
184
2.994
-
13
3
Công ty Cơ Điện Nông Nghiệp Và Thủy Lợi 4
2.283
754
751
685
93
4
Công ty CP Cơ Điện Nông Nghiệp Và Thủy Lợi 2
792
765
-
-
27
5
Công ty Cơ Điện XDNN Và Thủy Lợi MêKông
335
75
15
245
6
Công ty Cổ Phần Cơ Điện Và Xây Dựng
62.048
12.808
34.661
14.168
411
7
Công ty CP Xây Dựng Thủy Lợi 1
24.235
8.791
3.597
11.847
-
8
Công ty Xây Dựng Thủy Lợi Nam Sông Hồng
1.509
-
481
860
168
9
Công ty CP Xây Dựng Thủy lợi 24
31.581
2.850
20.194
8.242
295
10
Công ty CP Xây Dựng 25
6.706
-
4.759
1.766
181
11
Công ty CP Xây Dựng 26
12.276
221
7.609
4.382
64
13
Công ty CP Thiết Bị Vật T Nông Sản
8.997
8.847
114
-
36
14
Công ty CP Thiết Bị Phụ Tùng Cơ Điện
10.048
9.392
586
21
49
15
Công ty CP Thiết Bị Thủy Lợi
2.653
678
1.458
477
40
16
Công ty CP Cơ Điện NN Và Thủy Lợi 18
1.042
1.032
10
-
-
17
Công ty T Vấn Đầu T Kỹ Thuật Cơ Điện
1.088
889
-
138
61
18
Công ty CP Cơ Khí Và Xây Lắp 276
14.869
11.384
2.567
918
-
19
Trung Tâm Nghiên Cứu- TVCĐ và Xây Dựng
372
-
-
-
372
Tổng cộng
193.051
58.670
83.951
47.892
2.538
Phụ lục 3 : Biểu số lượng máy móc thiết bị hiện có của các đơn vị thành viên của
Tổng Công ty năm 2005
STT
Tên thiết bị
Tổng số
A
B
C
D
E
G
H
I
K
L
M
N
O
P
Q
R
S
T
U
1
Máy gia công cơ khí
432
48
66
55
33
33
17
48
21
75
5
4
1
8
1
-
-
-
-
17
2
Máy cắt uốn đột dập
517
51
111
50
62
29
12
18
7
44
2
-
-
16
6
10
26
-
35
38
3
Máy phát điện
68
7
7
2
-
3
-
5
5
1
4
-
-
7
2
11
6
1
5
2
4
Máy nén khí
49
8
11
6
4
8
1
-
-
3
-
-
-
3
1
5
-
-
-
-
5
Thiết bị thi công đất
490
-
-
-
-
-
-
70
-
36
-
-
3
69
38
146
34
6
88
-
6
Thiết bị thi công bê tông
290
-
-
-
-
17
1
42
-
-
30
-
-
24
21
54
58
-
43
-
7
Thiết bị khai thác đá
36
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
3
6
27
-
-
-
-
8
Thiết bị nạo vét và bơm các loại
142
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
27
21
-
15
12
67
-
9
Thiết bị phục vụ
360
26
43
66
7
28
11
2
7
35
2
3
3
11
22
40
16
7
31
-
10
Xe con các loại
62
6
4
2
1
2
3
2
2
8
2
2
2
3
-
4
4
1
14
-
Bảng ký hiệu các đơn vị theo thứ tự chữ cái
STT
Tên đơn vị thành viên
Ký hiệu
STT
Tên đơn vị thành viên
Ký hiệu
1
Công ty Cơ Khí Điện Thủy Lợi
A
11
Công ty CP Cơ Điện Nông Nghiệp Và Thủy Lợi 2
M
2
Công ty CP Cơ Khí Và Xây Lắp 276
B
12
Công ty CP Thiết Bị Phụ Tùng Cơ Điện
N
3
Công ty CP Thiết Bị Thủy Lợi
C
13
Công ty CP Xây Dựng Thủy lợi 24
O
4
Công ty CP Thiết Bị Vật T Nông Sản
D
14
Công ty CP Xây Dựng 25
P
5
Công ty Cơ Điện Nông Nghiệp Và Thủy Lợi 4
E
15
Công ty CP Xây Dựng 26
Q
6
Công ty T Vấn Đầu T Kỹ Thuật Cơ Điện
G
16
Công ty Xây Dựng Thủy Lợi Nam Sông Hồng
R
7
Công ty CP Xây Dựng Thủy Lợi 1
H
17
Xí nghiệp Xây Dựng Công Trình 2
S
8
Công ty Cơ Điện XDNN Và Thủy Lợi MêKông
I
18
Công ty Cơ Điện XD Và Hợp Tác Lao Động
T
9
Công ty Cổ Phần Cơ Điện Và Xây Dựng
K
19
Công ty CP Nồi Hơi Việt Nam
U
10
Công ty CP Cơ Điện NN Và Thủy Lợi 18
L
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-T05.doc