Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính tất yếu của đề tài Hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, các lĩnh vực và các ngành. Theo xu thế đó, các quốc gia đã và đang tiến hành các hoạt động mở cửa, hội nhập vào xu hướng này. Việt Nam thực sự đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật đặc biệt là thành tựu về xuất khẩu. Việt Nam đã xác định cho mình những mặt hàng chủ lực như gạo, cà phê, may mặc, đồ gỗ...Trong đó sản phẩm đồ gỗ ngày càng có vị trí quan trọ

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trong nền kinh tế quốc dân. Nó không chỉ góp phần tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động mà giá trị xuất khẩu của ngành còn chiếm tỉ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đặc biệt tại một số thị trường lớn như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU...sản phẩm đồ gỗ Việt Nam đã có được một chỗ đứng, vị thế quan trọng trên thị trường, chiếm một tỷ lệ thị phần đáng kể đặc biệt là thị trường Nhật Bản với tốc độ tăng thị phần khá nhanh, với kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng qua các năm, sản phẩm chủng loại khá đa dạng. Tuy đã đạt được những thành tựu nổi bật về xuất khẩu nhưng nếu so sánh với các đối thủ trên thị trường có cùng mặt hàng xuất khẩu thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn. Thị phần chiếm lĩnh so với các đối thủ còn quá nhỏ. Nguyên nhân chính là do năng lực cạnh tranh hàng Việt Nam trên thị trường thế giới còn chưa cao, còn nhiều bất cập, chưa tạo được niềm tin với khách hàng, thị trường không ổn định....mặt hàng sản phẩm đồ gỗ cũng không phải là một ngoại lệ, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn về khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường mà điển hình ở đây là thị trường Nhật Bản - một thị trường lớn, tiềm năng. Vì vậy em đã chọn đề tài " Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản" để nghiên cứu. 2. Mục tiêu nghiên cứu Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh của sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗViệt Nam trên thị trường xuất khẩu ( Nhật Bản ) để từ đó đề xuất các giải pháp đối với các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng Nghiên cứu năng lực cạnh tranh sản phẩm đồ gỗ Việt Nam - Phạm vi nghiên cứu Đề tài này nghiên cứu sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp duy vật biện chứng - Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp - Phương pháp toán thống kê 5. Kết cấu đề tài Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phục lục, mục lục thì nội dung của đề tài được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Tổng quan chung về cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam Chương 2: Thực trạnh khả năng cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản Chương 3: Dự báo, phương hướng và các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản trong thời gian tới Trong quá trình nghiên cứu và viết đề tài này do trình độ, thời gian, kinh nghiệm còn hạn chế và nguồn tài liệu còn hạn hẹp nên chắc chắn em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của thầy cô giáo. Và em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s.Ngô Thị Tuyết Mai đã tận tình giúp đỡ em để em hoàn thành bài viết này CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM ĐỒ GỖ VIỆT NAM 1.1. Tổng quan chung về cạnh tranh 1.1.1. Khái niệm, phân loại và vai trò của cạnh tranh 1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh * Khái niệm cạnh tranh Cạnh tranh là một phạm trù kinh tế khách quan, là quan hệ kinh tế giữa những người cùng sản xuất kinh doanh một loại sản phẩm, nó vừa là môi trường, vừa là động lực phát triển kinh tế. Trong kinh tế học, cạnh tranh được định nghĩa là sự giành giật thị trường để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Theo C.Mác: "cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được những lợi nhuận siêu ngạch". Đây là định nghĩa khái quát nhất về cạnh tranh, nó đã nói lên được mục đích của cạnh tranh, nhưng chưa nói lên cách thức để giành thắng lợi trong cạnh tranh. Cạnh tranh là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa, là sự đối chọi giữa những người sản xuất hàng hóa dựa trên thực lực kinh tế của họ. Cơ sở của cạnh tranh là chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chế độ này đẻ ra cạnh tranh, chèn ép lẫn nhau, " cá lớn nuốt cá bé". Quan niệm đó về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ tiêu cực. Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội. Do vậy cạnh tranh có thể được hiểu như sau: Cạnh tranh là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường hàng hóa cụ thể nào đó nhằm giành giật khách hàng và thị trường, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hóa và thu được lợi nhuận cao. * Khái niệm năng lực cạnh tranh Năng lực cạnh tranh của hàng hóa được hiểu là tất cả những đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà sản phẩm đó có thể duy trì và phát triển vị trí của mình trên thị trường trong một thời gian dài. Năng lực cạnh tranh là khả năng chiếm lĩnh thị trường của một mặt hàng, là khả năng mà doanh nghiệp có thể đạt được những điều kiện thuận lợi trong tiêu thụ hàng hóa của mình. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa còn được thể hiện ở vị trí của mặt hàng đó trên thị trường, hay nói cách khác đó là sức mua đối với hàng hóa trên thị trường, là mức độ chấp nhận của người tiêu dùng. Tóm lại: Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là sự biểu hiện “tính trội” của sản phẩm về chất lượng, giá cả và hình thức lưu chuyển của nó trên thị trường, tạo nên sự hấp dẫn và thuận tiện cho khách hàng trong việc tiếp cận và sử dụng nó. Năng lực cạnh tranh có thể được hiểu là khả năng giành lợi thế, chiếm ưu thế trong cạnh tranh của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại trên cùng đoạn thị trường tại cùng thời điểm. Cần phân biệt " năng lực cạnh tranh của sản phẩm " và " năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ". Hai khái niệm này liên quan mật thiết với nhau. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là một trong những nhân tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của của sản phẩm thể hiện năng lực của sản phẩm đó thay thế một sản phẩm khác đồng nhất hoặc khác biệt, có thể do đặc tính, chất lượng hoặc giá cả sản phẩm. Trên thực tế, hai khái niệm này có thể sử dụng thay thế cho nhau. Các yếu tố cấu thành Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của sản phẩm bao gồm: sự khác biệt (vượt trội) về chất lượng, số lượng, giá cả, mẫu mã, độc đáo hay kiểu dáng, tính tiện dụng, hình thức phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng, dịch vụ sau bán hàng, lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm… so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trên cùng một phân đoạn thị trường vào cùng một thời điểm. Năng lực cạnh tranh còn thể hiện qua mức độ chiếm lĩnh thị trường (thị phần của nó) tốc độ tăng thị phần, khả năng gây ấn tượng đối với người sử dụng… Các chỉ tiêu đo lường năng lực cạnh tranh của sản phẩm Như vậy, năng lực cạnh tranh của sản phẩm là cái hiện hữu trong sản phẩm. Việc phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm thường được tiến hành đồng thời bằng 3 phương pháp: (1) đánh giá trực tiếp trên sản phẩm (tính năng, chất lượng, giá cả, sự tiện ích, mẫu mã...); (2) đánh giá trực tiếp thị trường (doanh số bán, thị phần, tốc độ tăng thị phần, hệ thống phân phối...); (3) điều tra xã hội học - chủ yếu qua phiếu thăm dò khách hàng (sự thoả mãn nhu cầu, sự nhận biết tên sản phẩm, sự trung thành với nhãn hiệu...). Sau đó so sánh các tiêu chí đó với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trên cùng thị trường tại cùng thời điểm để xác định năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm là tìm ra những biện pháp tác động vào quá trình sản xuất và lưu thông sản phẩm, làm cho nó có “tính vượt trội” so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh (nếu nó chưa có năng lực cạnh tranh) hoặc làm tăng thêm sức mạnh cho sản phẩm, làm cho “tính trội” của nó ở mức tốt hơn, cao hơn trên thị trường tiêu thụ (nếu sản phẩm đã có năng lực cạnh tranh nhưng năng lực cạnh tranh còn yếu). Nói cách khác: nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm là sử dụng một số yếu tố tác động nhằm khắc phục những tồn tại được coi là trở ngại làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm đồng thời hoàn thiện những nhân tố làm tăng tính trội của nó so với đối thủ khác (chứ không phải so với chính nó), nhằm làm cho thị phần của sản phẩm tăng lên so với thị phần của đối thủ cạnh tranh của nó. Quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm khác với việc hoàn thiện sản phẩm ở chỗ: hoàn thiện sản phẩm chỉ là quá trình làm cho sản phẩm đó trở nên tốt hơn, có tính mới hơn so với chính nó ở những thời điểm khác nhau. Vì vậy, có trường hợp sản phẩm không hoàn thiện nhưng lại có có sức cạnh tranh do nó có tính trội hơn tương đối khi so sánh một cách tương đối với sản phẩm khác. 1.1.1.2. Phân loại cạnh tranh Căn cứ vào chủ thể tham gia - Cạnh tranh giữa người bán với người mua: Đây là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt, người bán luôn mong muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất, ngược lại người mua lại muốn mua sản phẩm đó với mức giá thấp nhất. Sự cạnh tranh này được thực hiện qua quá trình " mặc cả ", kết thúc quá trình này, người bán sẽ chỉ đồng ý bán sản phẩm của mình và người mua sẽ chỉ chấp nhận mua sản phẩm với giá chấp nhận là giá thỏa thuận giữa người bán và người mua. - Cạnh tranh giữa những người mua Đây là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu. Loại cạnh tranh này xảy ra khi mức cầu đối với một hàng hóa hay dịch vụ nào đó trên thị trường lớn hơn lượng hàng hóa, dịch vụ nào đó mà người bán có thể cung cấp. Do đó, cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt hơn khi càng có ít người bán nhưng lại nhiều người muốn mua và giá cả hàng hóa, dịch vụ sẽ được người bán đẩy lên cao. Kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao, sang người mua phải chịu thiệt thòi. - Cạnh tranh giữa những người bán Đây là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất. Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp khác nhau để tạo cho mình thế mạnh nhằm vượt lên trên đối thủ hoặc thôn tính lẫn nhau để tranh giành khách hàng và thị trường. Kết quả để đánh giá doanh nghiệp nào thắng trong cuộc cạnh tranh là việc tăng doanh số tiêu thụ và tăng tỉ lệ thị phần, theo đó tăng lợi nhuận, tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuât. Căn cứ vào phạm vi cạnh tranh - Cạnh tranh trong nội bộ ngành Đây là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong nội bộ ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa nhằm mục đích tiêu thụ hàng hóa có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch. Để cạnh tranh cùng với đối thủ cùng ngành, các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nâng cao năng xuất lao động nhằm làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu lợi nhuận siêu ngạch. - Cạnh tranh giữa các ngành: Đây là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau, nhằm giành nơi đầu tư có lợi nhất. Trong quá trình cạnh tranh, các doanh nghiệp bị hấp dẫn bởi khách hàng nên đã chyển vốn đầu tư từ ngành ít lợi nhuận sang ngành lợi nhuận cao. Sự điều chỉnh này sau một thời gian nhất định sẽ hình thành nên sự phân phối hợp lý giữa các ngành sản xuất và hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các nghành. Căn cứ vào mức độ, tính chất cạnh tranh thị trường - Cạnh tranh hoàn hảo Đây là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có nhiều người bán và người mua độc lập với nhau, không có người nào có ưu thế để có thể ảnh hưởng tới giá cả. Các sản phẩm làm ra được người mua xem là đồng nhất tức là ít có sự khác biệt về quy cánh phẩm chất mẫu mã. Tất cả người mua và bán đều có hiểu biết đầy đủ về thông tin liên quan đến việc trao đổi. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo đòi hỏi tất cả người mua và người bán đều có liên hệ với tất cả những người trao đổi tiềm năng, biết tất cả các đặc trưng của các mặt hàng trao đổi, biết tất cả giá người bán đòi bán và giá người mua trả. Không có gì ngăn cản việc gia nhập và rút khỏi thị trường. Người bán tham gia trên thị trường chỉ có cách thích ứng với giá cả trên thị trường, họ chủ yếu tìm cách giảm chi phí và sản xuất một mức sản phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên. - Cạnh tranh không hoàn hảo Đây là trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn sản phẩm là không đồng nhất với nhau, mỗi sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau, mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh và uy tín khác nhau mặc dù khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể. Trong môi trường cạnh tranh không hoàn hảo, mức độ cạnh tranh gay gắt và các hình thức cạnh tranh cũng hết sức đa dạng. Bằng nhiều hình thức khác nhau của cạnh tranh, người bán lợi dụng uy tín của mình, hay sử dụng các biện pháp khuếch trương sản phẩm, khuyến mại, các dịch vụ đặc biệt sau bán hàng...có thể có những lợi thế hơn, có được những điều kiện bán hàng tốt hơn, cạnh tranh tốt hơn so với các đối thủ cạnh tranh, đáp ứng tối ưu các nhu cầu của khách hàng, duy trì và ngày càng mở rộng hơn thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình...kết quả của cạnh tranh là dẫn đến cuộc chiến về giá cả giữa người bán với nhau. Đây là hình thức cạnh tranh được coi là phổ biến trong giai đoạn hiện nay. - Cạnh tranh độc quyền Đây là trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà ở đó chỉ có một hay một số ít người bán cung cấp một loại sản phẩm đồng nhất hoặc chỉ có một hay một số ít người mua một loại sản phẩm đó. Số ít người này có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm bán ra hay mua vào thị trường. Thị trường có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh được gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền. Trong thị trường này không có cạnh tranh về giá như ở thị trường cạnh tranh không hoàn hảo mà các nhà độc quyền quyết định về giá cả. Việc định giá này nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho các nhà độc quyền. 1.1.1.3 Phân loại khả năng cạnh tranh Khả năng cạnh tranh quốc gia Đây là một khái niệm phức tạp, bao gồm các yếu tố ở tầm vĩ mô, đồng thời cũng bao gồm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cả nước. Khả năng cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là khả năng của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư ,bảo đảm ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của người dân. Một số tổ chức quốc tế (như diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), viện phát triển quản lý (IMD) ở Lausanne, Thụy Sĩ...) tiến hành điều tra, so sánh và xếp hạng khả năng cạnh tranh của các nền kinh tế thế giới. Các xếp hạng đó áp dụng các phương pháp luận tương tự như nhau và đi đến kết quả giống nhau về xu thế, tuy không hoàn toàn giống nhau về xếp hạng do có những khác biệt trong phương pháp luận (thí dụ như về trọng số cho từng yếu tố, về cơ sở dữ liệu...). Các nhà đầu tư quốc tế thường tham khảo các xếp hạng này như một căn cứ để lựa chọn địa điểm đầu tư, vì vậy, các xếp hạng đó có ý nghĩa quan trọng đối với các chính phủ và doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm và dịch vụ, vì vậy cần phân biệt khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm - dịch vụ Khả năng cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ thường được đo bằng thị phần của sản phẩm hay dịch vụ cụ thể trên thị trường. Giữa ba cấp độ khả năng cạnh tranh có mối quan hệ mật thiết qua lại với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh, ngược lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh thì môi trường kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, nền kinh tế phải ổn định; bộ máy nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả, có tính chuyên nghiệp. Đồng thời, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay một số sản phẩm và dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao. 1.2. Các lý thuyết lợi thế cạnh tranh Thuyết thương mại quốc tế cổ điển sử dụng lợi thế của năng suất lao động để định nghĩa lợi thế cạnh tranh, chúng ta xem xét lý thuyết của học thuyết lợi thế so sánh qua mô hình đơn giản sau đây: Trên thế giới khi một quốc gia có thể sản xuất ra một loại sản phẩm có giá thấp hơn quốc gia khác thì số hàng hóa này có thể được xuất khẩu để bù đắp cho việc nhập các loại hàng hóa có giá trị cao hơn nhằm đem lại lợi ích cao nhất. Adam smith ( 1723- 1790) đã dẫn chứng ví dụ về lợi điểm tuyệt đối mà cả 2 quốc gia có thể thu được lợi nhuận từ thương mại: Số lượng trên mỗi đơn vị lao động đầu vào Hàng hóa Hoa Kỳ Nhật Bản Số tần gạo 4 2 Xe hơi 2 4 Tại Hoa kỳ 4 tấn gạo có giá trị tương đương 2 chiếc xe hơi, ở Nhật Bản 2 tấn gạo có giá trị tương đương 4 xe hơi, Hoa kỳ có lợi điểm tuyệt đối với sản xuất gạo còn Nhật Bản có lợi điểm tuyệt đối về sản xuất xe hơi. Như vậy Hoa Kỳ xuất khẩu gạo, nhập khẩu xe hơi còn Nhật Bản xuất khẩu xe hơi và nhập khẩu gạo. Hoa kỳ nên chuyên môn hóa sản xuất gạo và Nhật Bản nên chuyên môn hóa sản xuất xe hơi. Sau khi đã chuyên môn hóa sản xuất, Hoa Kỳ và Nhật Bản tiến hành trao đổi thặng dư sản phẩm của mình cho đến khi nào sự trao đổi ấy còn hiệu quả hơn trao đổi nội địa, kết quả trao đổi: Hàng hóa Hoa Kỳ Nhật Bản Số tần gạo 3 3 Xe hơi 3 3 Như vậy lý thuyết của Adam smith đã sử dụng yếu tố năng xuất lao động để định nghĩa lợi thế cạnh tranh,theo ông thì một quốc gia nên lựa chọn những ngành sản xuất mà có lợi thế so sánh về năng suất lao động thì sẽ có được lợi thế cạnh tranh trên thị trường và thu được hiệu quả cao nhất. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh thuyết truyền thống của David Ricardo và lý thuyết của hai nhà kinh tế học Scandinavian, Heckscher và Ohlin. Cả hai người, đều dựa trên một loạt các giả định được minh hoạ dưới đây. Giả sử chỉ có hai nước (Phần Lan và Ấn Độ) và hai mặt hàng (dệt và giấy). Lấy K=vốn ($); L=lao động(giờ); r=giá thuê vốn ($); và w=giá đơn vị lao động hoặc mức lương ($/giờ). Tương tự, lấy Lhàng dệt= số giờ lao động cần để sản xuất ra 1 m hàng dệt và Lgiấy=số giờ cần để sản xuất ra 1 tấn giấy. Mô Hình Lợi Thế Giá Cạnh Tranh Truyền Thống: Như đã so sánh với Ấn Độ và xem xét lý thuyết giá trị của lao động truyền thống, Phần Lan có lợi thế giá trị cạnh tranh về sản xuất giấy và Ấn Độ về ngành dệt nếu: Phần Lan > Ấn Độ hoặc > Thậm chí nếu Phần Lan có hiệu quả hơn đối với mỗi mặt hàng mà, theo nghĩa: Ldệt Phần Lan Ldệt Ấn Độ và L giấy Phần Lan < Lgiấy Ấn Độ. Khi trao đổi thương mại diễn ra, Phần Lan nên xuất khẩu giấy sang Ấn Độ để đổi lấy mặt hàng dệt. Ví dụ: Công nghệ sản xuất hàng dệt và giấy ở Phần Lan và Ấn Độ (tính theo giờ quy định để sản xuất ra một mặt hàng) 1 tấn giấy 1 m hàng dệt Ở Phần Lan 10 15 Ở Ấn Độ 40 20 Vì 15/10 < 20/40 (nói cách khác 10/40 < 15/20, Phần Lan có lợi thế cạnh tranh về sản xuất giấy và ấn Độ về dệt may) *Mô Hình Lợi Thế Cạnh Tranh Của Heckscher-Ohlin: Theo Heckscher - Ohlin thì lợi thế cạnh tranh khác nhau giữa các nước là do sự khan hiếm tương đối của các yếu tố sản xuất khác nhau, sự khan hiếm khan hiếm khác nhau đó còn do cơ cấu các nguồn lực sẵn có và các giai đoạn phát triển khác nhau. Xem xét mô hình cạnh tranh dưới đây: Ngành dệt cần nhiều lao động hơn trong sản xuất và giấy cần nhiều vốn hơn nếu: đối với giấy > đối với ngành dệt Và Phần Lan nhiều vốn hơn còn Ấn Độ nhiều lao động hơn nếu: Phần Lan < Ấn Độ Điều này có nghĩa là Phần Lan (nơi giá vốn khá rẽ) có lợi thế cạnh tranh về sản xuất những hàng hoá cần nhiều vốn (như giấy) và ấn Độ (nơi vốn khá đắt và hiếm) lại có lợi thế cạnh tranh về những mặt hàng cần nhiều lao động. Khi trao đổi thương mại diễn ra, Phần Lan nên xuất khẩu giấy sang ấn Độ và nhập khẩu hàng dệt. *Cả hai đều cần được minh hoạ bằng mô hình giá cả hàng hoá như bảng dưới đây. Từ đó, có thể thấy rằng cứ mỗi 4 tấn giấy Phần Lan xuất bằng đường biển sang ấn Độ, họ sẽ thu về hơn 1m vải (và có thể gần 2m), trong khi đó, nếu không trao đổi cứ mỗi 4 tấn giấy được dùng trong nước sẽ chỉ mua được 1m vải. Tương tự, cứ mỗi m vải ấn Độ xuất sang Phần Lan sẽ thu về được 2 tấn giấy (có thể lên tới 4 tấn) mà nếu không trao đổi mỗi mét vải bán đi chỉ thu về được 2 tấn giấy. Giá cạnh tranh của hàng dệt may và giấy ở Phần Lan và ấn Độ trước khi có trao đổi thương mại Phần Lan Ấn Độ Hàng dệt may (m) FM 80 Rs.200 Giấy (tấn) FM 20 Rs.100 Giá trước khi trao đổi của 1m hàng dệt tính theo tấn giấy 1m vải có giá bằng 4 tấn giấy 1m vải chỉ bằng 2 tấn giấy Nhận xét: trước khi đem trao đổi, vải giá cao hơn ở Phần Lan so với giá của nó ở Ấn Độ, tức là Phần Lan có lợi thế cạnh tranh về sản xuất giấy và Ấn Độ về sản xuất hàng dệt may *Nguốn Gốc hay Cơ Sở Cho Lợi Thế Cạnh Tranh: -Lợi thế về kỹ thuật: Một nước có thể có lợi thế về kỹ thuật trong sản xuất cả hai sản phẩm hơn nước kia nhưng sự khác nhau về lợi thế có thể lớn hơn trong một mặt hàng. -Các khoản thiên phú: Một nước (như Ấn Độ) có thể được thiên phú nhiều hơn các nước khác (như Phần Lan) về nguồn lực (như lao động) , tài nguyên thiên nhiên sẵn có, đất đai, khí hậu....đó là những lợi thế so sánh sẵn có, nhưng không hẳn là đó là những lợi thế cạnh tranh nếu như không biết khai thác, biến cái lợi thế so sánh đó thành lợi thế cạnh tranh của mình, ví dụ, như Việt Nam có lợi thế về nguồn lao động dồi dào, tài nguyên thiên nhiên, địa hình 3/4 là đồi núi, đấy là điều kiện, lợi thế rất có lợi cho việc sản xuất các mặt hàng chế biến từ gỗ, nhưng chúng ta phải biết sử dụng lợi thế so sánh đấy như thế nào cho hợp lý, để biến thành lợi thế cạnh tranh. Từ cơ sở các học thuyết trên, thấy rằng việc sử dụng lợi thế cạnh tranh trong một nền kinh tế là quá trình lựa chọn cơ cấu nghành phù hợp, phát huy được những lợi thế hiện có thành lợi thế cạnh tranh. Các hàng hóa khác nhau đòi hỏi sự kết hợp các yếu tố sản xuất khác nhau, mỗi nước phải lựa chọn một cơ cấu ngành phù hợp với cơ cấu nguồn lực hiện có. Cơ cấu các nguồn lực của một quốc gia luôn luôn thay đổi, do đó cách thức khai thác các nguồn lực cũng phải thay đổi theo. Một nền kinh tế khai thác tốt lợi thế cạnh tranh sẽ nhanh chóng nhận ra sự thay đổi đó. Theo các học thuyết cổ điển, các yếu tố đầu vào của sản xuất bao gồm đất đai, tài nguyên khoáng sản, kết cấu hạ tầng, lao động, vốn... trong đó, đất đai hoặc tài nguyên khoáng sản là những yếu tố có giới hạn bởi vậy phải " sử dụng như thế nào ". Tìm ra một tỉ lệ sử dụng các nguồn lực và phân bố sản xuất như thế nào cho từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế để khai thác lợi thế cạnh tranh một cách tốt nhất. 1.3. Các tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh 1.3.1. Các tiêu chí thuộc sản phẩm (tính năng, chất lượng, giá cả, sự tiện ích, mẫu mã...) - Tính năng của sản phẩm đó có phù hợp với yêu cầu của khách hàng hay không: Sản phẩm có tính năng, công dụng phù hợp hơn với yêu cầu của khách hàng sẽ có năng lực cạnh tranh cao hơn. - Mức độ hấp dẫn của sản phẩm đó về mẫu mã kiểu cách so với các đối thủ cạnh tranh. Trong quá trình quyết định mua của mình khách hàng thường xem xét mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm có phù hợp với yêu cầu và thị hiếu của mình hay không trước khi tìm hiểu những thông tin khác về sản phẩm. - Mức chênh lệch về giá của mặt hàng đó so với các đối thủ cạnh tranh. Rõ ràng giá cả là một trong những yếu tố quan trọng nhất thể hiện năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Với hai sản phẩm tương tự nhau, khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm nào có giá thấp hơn. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của marketing và quá trình khác biệt hoá sản phẩm hiện nay hầu như không thể tìm thấy hai sản phẩm hoàn toàn giống nhau trên thị trường. Tuy nhiên doanh nghiệp hoàn toàn có thể định giá cho sản phẩm của mình tùy theo mục đích kinh doanh cụ thể. Doanh nghiệp có thể đi theo chiến lược giá cao hoặc theo chiến lược giá thấp chỉ cần mức giá đó bù đắp được chi phí, bù đắp được chi phí, đạt được mục đích đặt ra và doanh nghiệp vẫn có thể có lãi. Nếu sự định giá cho sản phẩm tạo ra sự chênh lệch cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường đồng thời đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với các đối thủ cạnh tranh thì sản phẩm sẽ có sức cạnh tranh lớn hơn trên thị trường, sản phẩm sẽ ngày càng chiếm được lòng tin của người tiêu dùng, thu hút được nhiều khách hàng, qua đó tăng doanh số bán hàng và sẽ có được thị trường lớn trên thị trường. Hay để có thể cạnh tranh bằng chiến lược giá thấp thì doanh nghiệp cần phải xem xét khả năng hạ giá sản phẩm của đơn vị mình. Doanh nghiệp càng có nhiều khả năng hạ giá thì sẽ có nhiều lợi thế hơn so với đối thủ cạnh tranh, tất nhiên còn nhiều yếu tố liên quan đến như, chất lượng sản phẩm...Tuy nhiên khả năng hạ giá thành còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: chi phí sản xuất, chi phí quản lý, tiềm lực tài chính của doanh nghiệp, khả năng bán hàng, phân phối sản phẩm...Việc hạ giá thành để nâng cao khả năng cạnh tranh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Bởi vậy việc định giá cao, giá thấp, giá thế giới, phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố, đặc tính của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loai, hay mục đích của doanh nghiệp, cũng như trên từng phân đoạn thị trường liên quan đến chu kỳ sống của sản phẩm...Vì vậy, để đánh giá năng lực cạnh tranh chính xác cần phải đánh giá thêm tiêu chí khác thể hiện năng lực cạnh tranh của sản phẩm như. - Mức chênh lệch về chất lượng của sản phẩm so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Ngày nay chất lượng sản phẩm là yếu tố được quan tâm hàng đầu sản phẩm được coi là có năng lực cạnh tranh nếu các tính năng của sản phẩm đó vượt trội hơn so với sản phẩm cạnh tranh trên thị trường. Yếu tố này có thể đánh giá thông qua so sánh hai sản phẩm với nhau về chất lượng, độ bền. tiện ích trong sử dụng…Đây là một trong những yếu tố tương đối dễ so sánh đối với đa số những sản phẩm đơn giản. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm phức tạp khách hàng không thể đánh giá ngay được chất lượng của sản phẩm. Do đó khách hàng sẽ đánh giá chất lượng sản phẩm gián tiếp thông qua uy tín của người sản xuất, của nước sản xuất…vì vậy xây dựng uy tín về 1.3.2. Các tiêu chí trên thị trường (doanh số bán, thị phần, tốc độ tăng thị phần, hệ thống phân phối...) - Mức doanh thu của sản phẩm đó trong từng năm: Năng lực cạnh tranh cũng biểu hiện qua doanh thu của sản phẩm trên thị trường. Nếu sản phẩm có doanh thu cao, tốc độ tăng doanh thu cao so với đối thủ cạnh tranh chứng tỏ sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao. Chỉ tiêu này thể hiện khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh. Doanh thu = số lượng hàng hóa tiêu thụ * giá cả hàng hóa ( trong một khoảng thời gian nhất định ) - Thị phần của sản phẩm trên thị trường: Thị phần của một hàng hóa trên thị trường là tỷ lệ phần trăm mà một mặt hàng chiếm lĩnh được trên thị trường đó. Thị phần của hàng hóa A trên thị trường = mA / M mA: Số lượng hàng hóa A được tiêu thụ trên thị trường M: Tổng số lượng được tiêu thụ trên thị trường Độ lớn của chỉ tiêu này nói lên mức độ chiếm lĩnh thị trường của một sản phẩm. Thông qua chỉ tiêu này có thể đánh giá mức độ cạnh tranh của một sản phẩm so với sản phẩm cùng loại khác. Tuỳ theo loại mặt hàng, thị trường và theo quy mô của thị trường có thể xem xét năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, thông qua đánh giá thị phần của sản phẩm đó. Một sản phẩm được coi là có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường khi chúng chiếm thị phần lớn so với sản phẩm cùng loại được bán trên thị trường. Tuy nhiên, cũng phải vận dụng chỉ tiêu này một cách linh hoạt. Với một số sản phẩm mới ra đời, chưa chiếm lĩnh được thị trường thì không thể sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường vì khi đó phân tích sẽ có sự sai lệch nhất định. Đây cũng chính là cơ sở để hình thành chỉ tiêu thứ 2 nhằm đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm là tốc độ tăng thị phần của sản phẩm. - Tốc độ tăng thị phần của sản phẩm đó có thể so sánh theo tính lịch sử, tức là năm sau tốt hơn năm trước, để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nếu sản phẩm có tốc độ tăng thị phần cao thì sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao. Và ngược lại nếu thị phần của sản phẩm cạnh tranh tăng nhanh hơn thì sản phẩm có năng lực cạnh tranh thấp hơn so với sản phẩm cạnh tranh. - Hệ thống phân phối: Hệ thống phân phối cho sản phẩm càng hợp lý thì thị phần do hàng hoá chiếm lĩnh sẽ càng lớn. Hệ thống phân phối được thiết kế hợp lý so với cách thức phân phối của sản phẩm cạnh tranh khác, vùng với việc đẩy mạnh xúc tiến bán hàng sẽ tăng thêm năng lực cạnh tranh của sản phẩm do đáp ứng được kịp thời yêu cầu của thị trường về số lượng và chất lượng. Một hệ thống phân phối hợp lý bao gồm mạng lưới các cơ sở giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá với mọi hình thức bán buôn, bán lẻ vừa thích hợp với phong tục, tập quán địa phương, tiện lợi cho người tiêu dùng đồng thời phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng. Kênh phân phối còn giúp khách hàng tiếp cận với các dịch vụ của nhà sản xuất dễ dàng hơn như dịch dụ trước trong và sau khi bán hàng. 1.3.3. Các tiêu chí liên quan đến quan điểm của khách hà._.ng (sự thoả mãn nhu cầu, sự nhận biết tên sản phẩm, sự trung thành với nhãn hiệu...) Trong quá trình phân tích, đánh giá sẽ rất khó khăn cho việc lượng hoá toàn bộ các yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Vì vậy, chúng ta phải kết hợp vừa định lượng vừa định tính nhằm xác định năng lực cạnh tranh thực sự của sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Nếu như trước kia hai yếu tố chất lượng, giá cả có tính chất quyết định đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm thì ngày nay cùng với quá trình toàn cầu hoá, phạm vi đánh giá các tiêu chí thể hiện năng lực cạnh tranh cần phải được mở rộng hơn. Trong quá trình đánh giá cũng cần đưa thêm các yếu tố định tính khác như hình ảnh của các doanh nghiệp tham gia thị trường, hình ảnh của quốc gia, lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm, sự thoả mãn của khách hàng đối với sản phẩm, thương hiệu của sản phẩm… 1.3.4. Một số tiêu chí khác - Tăng trưởng xuất khẩu của sản phẩm: Việc tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm nhanh cho thấy năng lực cạnh tranh của sản phẩm tăng. Ngược lại nếu tốc độ tăng trưởng giảm hoặc đình trệ cho thấy năng lực cạnh tranh của sản phẩm thấp. Với những yếu tố khác không đổi, những sản phẩm xuất khẩu tăng trưởng nhanh, dù được thể hiện bằng những con số tuyệt đối nhỏ, cho thấy những sản phẩm này có năng lực cạnh tranh cao. - Các cơ hội cung: Một số nhân tố quyết định các điều kiện cung và năng lực cạnh tranh sản phẩm là năng lực của các ngành phụ trợ, khả năng tiếp cận nguyên liệu thô, công nghệ, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh nội địa v.v. Các điều kiện cung và năng lực cạnh tranh càng cao thì tiềm năng xuất khẩu càng cao, với điều kiện các yếu tố khác không đổi. - Ưu tiên quốc gia: Chính phủ các nước đều đề ra các ưu tiên trong hầu hết các chiến lược xuất khẩu của mình. Những ưu tiên này phần nào phản ánh những nhận định kinh tế, như tốc độ tăng trưởng, hình thái cầu thế giới và tình hình cung sản phẩm đó trên thị trường. Tuy nhiên, những ưu tiên này cũng phản ánh những mối quan tâm khác như an ninh lương thực, cung của thị trường nội địa, tạo việc làm, ưu tiên vùng, tiến bộ công nghệ v.v. Đối với những sản phẩm mà Chính phủ ưu tiên, Chính phủ cũng sẽ có những hình thức hỗ trợ đặc biệt như các chính sách khuyến khích, ưu tiên đầu tư. Do đó, nếu những yếu tố khác không đổi, khi sản phẩm càng được ưu tiên thì năng lực xuất khẩu càng lớn. - Chất lượng môi trường và xã hội của sản phẩm xuất khẩu: Giá trị của sản phẩm xuất khẩu có thể được phản ánh không chính xác nếu chỉ xét trên yếu tố kinh tế vì nó còn có những tác động phụ và/hay những tác động ngoại lai tích cực hoặc tiêu cực. Những ví dụ rõ rệt nhất là những tác động ngoại lai liên quan đến môi trường, sản phẩm xuất khẩu có thể có những tác động tiêu cực lớn hoặc nhỏ đối với môi trường tuỳ theo công nghệ được áp dụng. Những chi phí này xã hội phải gánh chịu, chứ không phải là người nhập khẩu hay thị trường. Những tác động tích cực bao gồm tạo việc làm, trực tiếp hỗ trợ những nhóm người nghèo, nâng cao hơn sự tham gia và tầm quan trọng của phụ nữ. Do đó, xuất khẩu sản phẩm có tiềm năng tạo ra nhiều việc làm, không gây ra hoặc chỉ gây ra những hậu quả thấp đối với môi trường, mang lại những lợi ích đặc biệt cho phụ nữ và người nghèo, đặc biệt ở vùng nông thôn, cần được chú ý nhiều hơn, với điều kiện những yếu tố khác không đổi. Hiện nay nhiều thị trường nhập khẩu đã sử dụng tiêu chí này để áp dụng các rào cản thương mại đối với một số sản phẩm như sản phẩm dệt may phải áp dụng tiêu chuẩn SA8000…Nếu sản phẩm của nước nào đó đáp ứng được tốt hơn các tiêu chuẩn về môi trường và xã hội sẽ có năng lực cạnh tranh cao hơn. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh Có hàng loạt nhân tố có tính chất lịch sử, kinh tế - xã hội chi phối năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Tuỳ theo bản sắc dân tộc, thói quen tiêu dùng, cơ chế quản lý, mức thu nhập dân cư…để có cách xác định chỉ tiêu biểu hiện năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nếu như mức thu nhập thấp, khi mua hàng vấn đề người mua hàng quan tâm đầu tiên là giá cả. Chẳng hạn ở Việt Nam trong những năm qua, mặc dầu người tiêu dùng đều biết sản phẩm dệt may giá rẻ của Trung Quốc có chất lượng thấp hơn nhiều so với sản phẩm dệt may của Việt Nam nhưng hàng dệt may Trung Quốc vẫn tràn ngập thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, khi thị trường đã phát triển, người tiêu dùng lại quan tâm nhiều hơn đến kiểu dáng, mẫu mã mầu sắc và độ bền của sản phẩm. Trong điều kiện thu nhập thấp người tiêu dùng thường quan tâm tới độ bền của sản phẩm, song khi thu nhập tăng thêm (tuy không tăng nhiều) thì cách đánh giá và nhìn nhận tiện ích của sản phẩm cũng thay đổi. Ví dụ, khi có mức GDP/người 200 USD, người Việt Nam thích mặc áo pha nilon vì nó bền. Đến khi GDP/người tăng lên 300 USD, người tiêu dùng lại ưa thích sử dụng các loại quần áo có 100% cotton hơn. Cũng có nhiều quan điểm cho rằng việc tổ chức tiêu thụ theo các kênh phân phối có ảnh hưởng nhiều đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Điều này chỉ đúng với các quốc gia có mạng lưới siêu thị tốt và người tiêu dùng thường lui tới để mua hàng. Còn ở Việt Nam, người tiêu dùng lại thích mua hàng ở các chợ cóc, chợ xanh hơn là mua hàng ở các siêu thị. Do đó khó có thể tiêu thụ với khối lượng lớn. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng có ảnh hưởng lớn đến hình thức tiêu thụ sản phẩm. Khi mà thương mại điện tử phát triển, người tiêu dùng mua hàng theo dịch vụ internet thì việc cung cấp trên mạng và dịch vụ mang hàng đến tận nhà có thể trở thành phương thức tiêu thụ tốt hơn… Qua sự phân tích nói trên có thể thấy rằng, có rất nhiều yếu tố chi phối đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm-hàng hoá-dịch vụ như: giá cả; chất lượng; nhu cầu thị trường; lao động; công nghệ; môi trường kinh doanh…Vì thế, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh bất cứ một sản phẩm nào cũng cần phải kết hợp tất cả những yếu tố nói trên trong điều kiện có thể. Đồng thời, phải thực hiện hàng loạt các biện pháp và duy trì ở mức tối ưu các mối quan hệ đa tầng và đa chiều. Tuy nhiên, xem xét tất cả những yếu tố và điều kiện nói trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng việc áp dụng chúng đều hướng tới mục tiêu: nâng cao chất lượng và hạ thấp giá thành sản phẩm nhằm mở rộng thị trường. Ngược lại khi sản phẩm-hàng hoá-dịch vụ có năng lực cạnh tranh tốt thì mới có khả năng vật chất và kỹ thuật để tái đầu tư cho hoạt động sản xuất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành. Chất lượng sản phẩm và giá cả hàng hoá là hai yếu tố quan trọng hàng đầu. Hai yếu tố này gắn liền với những thuộc tính vốn có của hàng hoá góp phần tạo nên giá trị của sản phẩm. Đây có thể nói là hai yếu tố có ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm đặc biệt là trong điều kiện tự do hoá thương mại. Quá trình tự do hoá thương mại đang tiến lại rất gần thì vấn đề còn lại của các sản phẩm xuất khẩu là: chất lượng và giá cả, khả. Nhưng giá cả sản phẩm cũng phụ thuộc vào các yếu tố công nghệ, mẫu mã, chi phí đầu vào, cơ sở hạ tầng… Phân tích trên cho thấy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Trong đó, ngoài các yếu tố được coi là căn bản và cổ điển như chất lượng, giá cả… còn nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm như năng lực cạnh tranh của ngành, năng lực cạnh tranh quốc gia. 1.4.1. Các nhân tố thuộc ngành a. Các nhân tố bên trong - Các yếu tố sản xuất, đó là những yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất. Nó bao gồm lao động, đất đai, tài nguyên, vốn, cơ cấu, cơ sở hạ tầng…Các yếu tố sản xuất được chia thành hai loại là các yếu tố chủ yếu và những yếu tố không chủ yếu: Những yếu tố chủ yếu là những yếu tố như: lao động có tay nghề, vốn, công nghệ, cơ sở hạ tầng đây là những yếu tố được do con người tạo ra. Những yếu tố không chủ yếu hay những yếu tố thông dụng như lao động phổ thông và những nguyên vật liệu mà mọi ngành đều có thể sở hữu, do đó không thể tạo nên một năng lực cạnh tranh bền vững được. Vì vậy những yếu tố chủ yếu cần phải được đầu tư và duy trì. - Kinh nghiệm của người lao động hoặc trình độ chuyên môn của họ sẽ quyết định đến năng suất, chất lượng của sản phẩm. - Đầu tư vào công nghệ: Nếu đầu tư vào công nghệ cao sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng phù hợp hơn với yêu cầu của người tiêu dùng hiện tại, đây là một phương pháp hữu hiệu để sản phẩm chiếm được lòng tin của khách hàng trên phạm vi rộng. - Đầu tư vào con người: Con người được đầu tư cùng lúc với đầu tư công nghệ sẽ tăng khả năng sáng tạo, nâng hàm lượng chất xám làm cho sản phẩm có tính độc đáo, chiếm lĩnh thị trường ở mức độ cao hơn. Nói cách khách nếu đầu tư vào con người sẽ làm tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm. b. Nhóm nhân tố bên ngoài Các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm bao gồm những yếu tố bên ngoài như nhu cầu thị trường, liên kết ngành, môi trường cạnh tranh và những công cụ tác động đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm và các biện pháp nhằm xây dựng “sức mạnh” hay “tính vượt trội” cho hàng hoá so với đối thủ khác. - Về nhu cầu thị trường, khi thị trường khó tính các doanh nghiệp sẽ tiếp xúc với những khách hàng khó tính từ đó hiểu rõ hơn về nhu cầu và sở thích người tiêu dùng. Nếu muốn tăng năng lực cạnh tranh thì các doanh nghiệp sản xuất cần phải trực tiếp tiếp xúc với khách hàng tinh tế và khó tính. Phân tích và nghiên cứu đầy đủ về quy mô và thị phần của nhu những khách hàng thông thạo Internet, những người mua hàng di động, phải có năng lực quan sát và đáp ứng xu hướng thị trường ... - Vấn đề liên kết ngành, đặc biệt là hợp tác liên kết quốc tế bao gồm những nhà cung cấp và các ngành liên quan thường xảy ra ở cấp độ khu vực hơn là cả nước. Khả năng duy trì các liên kết quốc tế có tầm quan trọng ngày càng lớn đối với các nước đang phát triển (UNCTAD, 1999). Do quá trình toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại và quá trình hội nhập diễn ra ngày càng sâu rộng, vị thế cạnh tranh của các sản phẩm của các nước đang phát triển ngày càng xoay quanh khả năng thiết lập các liên kết quốc tế của các doanh nghiệp và các ngành, - Môi trường cạnh tranh. Sự phát triển của năng lực cạnh tranh của sản phẩm chịu ảnh hưởng bởi các chính sách của chính phủ. Chính phủ đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra môi trường cạnh tranh, tính cạnh tranh. Cụ thể là tác động đến nội dung và phạm vi của các hoạt động xuất nhập khẩu, các yếu tố về môi trường thể chế, chính sách, các mối liên kết xuyên quốc gia... Các chính sách và biện pháp của chính phủ đóng vai trò quan trọng, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Cần xác xây dựng các chương trình và sử dụng các công cụ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Tuy nhiên, việc phân tích các chương trình cụ thể này phải xem xét các điều kiện và khuôn khổ kinh tế tổng thể, bằng cách kiểm soát ảnh hưởng của các nhân tố như ổn định kinh tế vĩ mô, sự cởi mở trong chính sách thương mại và chế độ đầu tư. - Năng lực tiếp thị ở tầm vĩ mô: Khả năng thu thập, phân tích thông tin của các cơ quan đại diện chính phủ ở nước ngoài, các cơ quan nghiên cứu tầm cỡ quốc gia. Các chiến lược phối hợp quốc gia, chính sách thương mại trong việc hỗ trợ sản phẩm thâm nhập thị trường nước ngoài như chính sách thuế, chương trình tín dụng, hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp trong xúc tiến thương mại- tìm kiếm khách hàng, khuyến khích và ưu đãi đầu tư ra nước ngoài. - Năng lực tổ chức tiếp thị ở tầm vi mô phụ thuộc vào trình độ nghiệp vụ, khả năng thu thập và phân tích thông tin của nhân viên nghiệp vụ marketing. Khả năng khám phá thị trường và tiếp cận thị trường với phí tốn thấp nhất. Cách thực lựa các chiến lược, kỹ thuật phù hợp với loại sản phẩm để áp dụng vào công tác tiếp thị như quảng cáo, phân phối tài liệu, hội chợ, khuyến mãi...nhằm tăng thị phần hàng hoá. Sản phẩm sẽ thực sự có giá trị, có năng lực cạnh tranh khi bản thân nó có thương hiệu vì trong thực tế khách hàng thường chọn một loại sản phẩm mang thương hiệu thoả mãn với mong muốn của họ trong hàng trăm thương hiệu của các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Do nhãn hiệu này đã in đậm trong tâm trí của họ tạo nên sự trung thành của khách hàng đối với sản phẩm. Vì vậy, với những sản phẩm mới tham gia thị trường chưa có uy tín, tiếng tăm thường áp dụng chiến lược “sản xuất dán nhãn” hay “mượn” thương hiệu của những hàng hoá mang đẳng cấp quốc tế để “dán” vào hàng hoá do mình sản xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngày nay, cùng với xu hướng toàn cầu hoá, việc xác định, đo lường năng lực cạnh tranh quốc tế của sản phẩm đang ngày càng thu hút được sự quan tâm của các nhà kinh tế, đặc biệt trong việc phân tích kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, do tính phức tạp, đa phương diện, đa chiều của lĩnh vực nghiên cứu, cho nên rất khó có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu kinh tế ngay từ các khái niệm về năng lực cạnh tranh sản phẩm trong thương mại quốc tế. Vì vậy, trên thực tế có rất nhiều cách tiếp cận khi tiến hành phân tích, đo lường năng lực cạnh tranh sản phẩm theo các góc độ khác nhau. 1.4.2. Mô hình về lợi thế cạnh tranh ngành ( mô hình 5 nhân tố của M.Porter ) Theo quan điểm của M.porter các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng hóa có thể tổng hợp thành 5 nhóm nhân tố cơ bản và được coi là năm sức mạnh tác động đến cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Và thông qua năm nhóm nhân tố này chúng ta có thể đánh giá được thực trạng sức cạnh tranh hàng Sản phẩm thay thế Nhà cung ứng Các đối thủ cạnh tranh hiện tại Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn Khách hàng Mô hình 1.1. Mô hình cạnh tranh 5 nhân tố của M.Porter Các đối thủ cạnh tranh hiện tại Các đối thủ cạnh tranh hiện tại là những công ty, doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh trong một ngành nhất định, những công ty, doanh nghiệp này đã vượt qua những rào cản để xâm nhập vào ngành hoặc những hãng muốn rút lui nhưng chưa có cơ hội. Các đối thủ cạnh tranh hiện tại của trong ngành quyết định mức độ và tính chất tranh đua nhằm giành giật lợi thế trong ngành mà mục đích cuối cùng là giữ vững và phát triển thị phần hiện có, đảm bảo có thể có được mức lợi nhuận cao nhất. Chúng ta có thể đánh giá sức cạnh tranh hàng hóa của doanh nghiệp qua đối thủ cạnh tranh hiện tại bằng cách so sánh tương quan giữa doanh nghiệp ta và đối thủ hiện tại về thị phần hàng hóa chiếm lĩnh hiện tại, về môi trường sản xuất, về tiềm năng...Nếu mọi yếu tố trên mà đối thủ cạnh tranh hiện tại tốt hơn thì sản phẩm của doanh nghiệp kém sức cạnh tranh hơn và ngược lại... Nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác mục đích tương lai, các nhận định, các tiềm năng và chiến lược hiện tại của những đối thủ cạnh tranh hiện tại, đặc biệt là đối thủ cạnh tranh hiện tại chính để là cơ sở đánh giá được sức cạnh tranh của mình trên thị trường để xây dựng chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn Khi một ngành có sự tăng thêm về số lượng các đối thủ cạnh tranh mới thì hệ quả có thể là tỷ suất lợi nhuận bị giảm và tăng thêm mức độ cạnh tranh. Các đối thủ cạnh tranh mới tham gia vào thị trường sau, nên họ có khả năng ứng dụng những thành tựu mói của khoa học, công nghệ. Sự xuất hiện của một đối thủ cạnh tranh mới trong ngành thường thông qua việc mua lại các doanh nghiệp đang hoạt động, nhưng đang có ý định rút lui khỏi ngành. Không phải bao giờ cũng gặp phải các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng, nhưng khi đối thủ mới xuất hiện thì vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ thay đổi. Vì vậy, doanh nghiệp cần tự tạo một hàng rào ngăn cản sự xâm nhập của đối thủ mới. Những hàng rào này là lợi thế sản xuất theo quy mô, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, chi phí chuyển đổi mặt hàng cao, khả năng hạn chế xâm nhập các kênh tiêu thụ... Các nhà cung ứng Các nhà cung ứng bao gồm các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động của một công ty, như các nhà cung cấp vốn, nguyên liệu...Các nhà cung ứng có thể gây áp lực khá mạnh tới hoạt động của công ty. Cho nên, việc phân tích và tìm hiểu các nhà cung ứng là vấn đề quan trọng trong quá trình phân tích cạnh tranh. Khách hàng Là đối tượng chính của hoạt động kinh doanh. Nếu doanh nghiệp nào đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh thì họ càng nhận được sự ủng hộ và trung thành từ phía khách hàng. Về mặt lý thuyết, lợi ích của khách hàng và của nhà sản xuất thường mâu thuẫn với nhau. Khách hàng mong muốn có được những chủng loại hàng hóa và dịch vụ với chất lượng tốt nhất và giá cả thấp nhất. Còn nhà sản xuất lại mong muốn khách hàng trả cho hàng hóa của họ mức giá cao. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt thì vai trò của khách hàng càng trở nên quan trọng và cần được ưu tiên hơn. Một doanh nghiệp không thể thỏa mãn được tất cả nhu cầu của các loại khách hàng cho nên nhất thiết các doanh nghiệp phải phân loại khách hàng thành các nhóm khác nhau. Trên cơ sở đó mới tiến hành phân tích và đưa ra các chính sách thích hợp để thu hút ngày càng nhiều khách hành về phía mình. Sản phẩm thay thế Sức ép do xuất hiện sản phẩm thay thế làm hạn chế lợi nhuận tiềm năng của ngành do mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới các sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh nghiệp có thể bị tụt lại ở các thị trường nhỏ bé. Vì vậy, các hãng không ngừng nghiên cứu và tung ra các mặt hàng thay thế. Muốn đạt thành công thì phải luôn cập nhật các công nghệ mới của nhân loại vào sản xuất và hoạt động kinh doanh. 1.4.3. Mô hình phân tích SWOT SWOT viết tắt của 4 từ: Thế mạnh ( Strenghts ); điểm yếu ( Weaknesses ); cơ hội ( Opportunities ); đe dọa ( Threats ). Là mô hình được dùng phổ biến trong thực tế để đánh giá hoạt động của một công ty, một ngành từ đó rút ra được những chiến lược hợp lý cho hoạt động của công ty hoặc cho ngành đó trong thời gian tới. Mô hình này bao gồm 2 mảng: S-W, là các nhân tố bên trong, chủ quan như nhân sự, tài chính, công nghệ, uy tín, tiếng tăm, mối quan hệ, văn hóa, truyền thống của tổ chức,... O-T, là nhân tố đến từ môi trường bên ngoài vì những nhân tố đó đến từ môi trường khách quan. Những khía cạnh liên quan đến cơ hội và mối đe dọa có thể do sự biến động của nền kinh tế ( tăng trưởng hay suy thoái ), sự thay đổi trong chính sách của Nhà nước, cán cân cạnh tranh thay đổi...Nếu như việc phân tích này được thực hiện một cách kỹ lưỡng và sáng suốt, các chiến lược cấp ngành đề ra có thể nắm bắt được các cơ hội và sẵn sàng đối phó với các đe dọa có thể xảy ra. 1.5. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh Nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu là yêu cầu khách quan và sống còn của các nhà kinh doanh quốc tế. Ngày nay với xu hướng quốc tế hóa, hội nhập hóa dường như thị trường thế giới đã trở thành một thể thống nhất, các rào cản thương mại ngày càng giảm thiểu, bởi vậy các công ty muốn tồn tại và phát triển, đặc biệt trong hoạt động xuất khẩu thì việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa là một tất yếu, đem lại ý nghĩa hết sức to lớn. Đối với các doanh nghiệp, sản phẩm có sức cạnh tranh hơn thì đồng nghĩa với doanh thu và thị phần sẽ tăng trưởng, việc thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường mới sẽ dễ dàng hơn, đồng thời củng cố được vị thế của mình ở thị trượng hiện tại. Việc nâng cao khả năng cạnh tranh góp phần đem lại cho người tiêu dùng nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn những sản phẩm cùng loại, với mức giá rẻ hơn. 1.6. Kinh nghiệm nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm đồ gỗ của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 1.6.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Trung Quốc là thị trường cung cấp lớn nhất về sản phẩm đồ gỗ cho các thị trường nhập khẩu, các sản phẩm đồ gỗ của Trung Quốc có khả năng cạnh tranh lớn. Đây là kết quả điều chỉnh của Chính phủ Trung Quốc mang lại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm đồ gỗ Trung Quốc trên thị trường thế giới. Trung Quốc hầu như đã giải quyết được vấn đề đảm bảo nguyên liệu gỗ, do tận dụng nguồn tài nguyên rừng phong phú sẵn có. Một trong những biện pháp quan trọng nhất mà Chính phủ Trung Quốc đã làm thành công là không ngưng khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội trực tiếp tham gia quá trình sản xuất nguyên liệu (trồng rừng, mua rừng ở cả trong nước và nước ngoài). Hiện nay, nguồn nguyên liệu trong nước đã đáp ứng khoảng 70% nhu cầu gỗ nguyên liệu của Trung Quốc. Bên cạnh với việc đảm bảo nguồn nguyên liệu, việc tận dụng nguồn nhân công rẻ dồi dào cũng là một bước đi quan trọng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm gỗ nội thất trên thị trường thế giới. Trung Quốc là quốc gia có tới hơn một tỷ dân, và hầu như có thể đáp ứng mọi nhu cầu về nguồn nhân công cho các ngành nghề. Để tận dụng lợi thế, Trung Quốc đã chủ động xây dựng các doanh nghiệp đồ gỗ lớn mạnh. Tập trung thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như không ngừng đổi mới công nghệ để có thể sử dụng các máy móc hiện đại, nó cho phép các doanh nghiệp chế biến Trung Quốc có thể tiến hành sản xuất hàng loạt. Đây có lẽ là điều mà các doanh nghiệp Việt Nam nên học tập Trung Quốc. Có thể nói việc Trung Quốc có được vị thế và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm đồ gỗ đó là do, Trung Quốc đã tận dụng được các lợi thế so sánh như về: nguồn lao động dồi dào, tài nguyên thiên nhiên phong phú...và đã biến các lợi thế so sánh đó thành lợi thế cạnh tranh, Trung Quốc bên cạnh việc có nguồn nhân lực dồi dào, đồng thời tiến hành đào tạo nâng cao tay nghề cho lao động, bên cạnh việc khai thác nguồn tài nguyên rừng phong phú đồng thời tiến hành việc sản xuất vùng nguyên liệu để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu về nguyên liệu sản xuất, cắt giảm được chi phí mua nguyên liệu từ bên ngoai. Bởi vậy hàng hóa trung Quốc có giá thưởng rẻ hơn các sản phẩm khác cùng loại mà chất lượng lại cao, nên các đối thủ khác rất khó cạnh tranh với hàng hóa Trung Quốc về giá. Một trong những thành công của việc hàng hóa Trung Quốc có sức cạnh tranh cao đó là việc, Trung Quốc xây dựng được các mối quan hệ quan trọng với các đối tác trên thị trường từ đó thiết lập được các hệ thống phân phối rộng khắp trên thị trường. Đó là kết quả của việc hình thành các cục xúc tiến xuất khẩu các sản phẩm gỗ, cung cấp thông tin thường xuyên tại các thị trường này. 1.6.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Việt Nam là một nước có nhiều lợi thế so sánh cạnh tranh, có nguồn lao động dồi dào, nguồn tài nguyên đất, rừng, ..phong phú, khí hậu thuận lợi nhưng chúng chúng ta chưa khai thác được hết các lợi thế đó mà thậm chí nhiều khi còn làm mất đi các lợi thế cạnh tranh đó. Bởi vậy chúng ta cần phải học hỏi từ Trung Quốc, một nước đã biết tận dụng rất tôt các lợi thế sẵn có, và đã đạt được những thành công nhất định. Bên cạnh đó Việt Nam cũng cần phải thu hút đầu tư từ nước ngoài để thu hút vốn, công nghệ mới, hiện đại. Để nâng cao được sức cạnh tranh trên thị trường thì các doanh nghiệp trong ngành gỗ phải liên kết lại với nhau để tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường, đây cũng là điều mà Trung Quốc đã thực hiện rất tốt và chúng ta cần phải học hỏi. Trong những năm gần đây, ngành chế biến gỗ xuất khẩu Việt Nam đã có những thành công ban đầu, là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo của VIệt Nam với kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng liên tục qua các năm (thường là 30 - 40 % / năm), sản phẩm gỗ Việt Nam bắt đầu có chỗ đứng trên thị trường thế giới, có khả năng cạnh tranh lớn so với các nước khác (như: Trung Quốc, Thái lan, Inđônêsia, Malaysia, Philippines). Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM ĐỒ GỖ VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN 2.1. Tổng quan về thị trường Nhật Bản 2.1.1. Khái quát về nền kinh tế Nhật Bản Với dân số 127,2 triệu người, GDP đạt 545,5 ngàn tỷ yên ( 4.326,4 tỷ USD), GDP bình quân đầu người đạt 34.012 USD (2003), Nhật bản là thị trường tiêu thụ lớn thứ 2 trên thế giới sau Hoa Kỳ, đồng thời cũng là nước nhập khẩu lớn với kim ngạch xuất khẩu hàng năm lên tới 350 - 400 tỷ USD. Trong nền kinh tế Nhật Bản, dịch vụ có vai trò quan trọng nhất, hàng năm các ngành dịch vụ chiếm tới trên 60% GDP của Nhật Bản, tiếp theo là các ngành công nghiệp, nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhiều trong GDP. Tỷ trọng các ngành kinh tế trong cơ cấu GDP của Nhật Bản như sau: công nghiệp chiếm 30,9%, nông nghiệp chỉ chiếm 1,4%, dịch vụ chiếm 67,7% ( 2005). Cán cân thương mại của Nhật Bản luôn nghiêng về xuất khẩu. Nhật Bản xuất khẩu chủ yếu là các loại thiết bị điện, điện tử, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải...trong khi nhập khẩu lớn nguyên, nhiên liệu và nông sản. Sản xuất công nghiệp của Nhật Bản chủ yếu phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu ( khoảng 90% nhu cầu năng lượng của Nhật Bản phải nhập từ nước ngoài, đặc biệt là dầu mỏ). Thành tựu kinh tế Nhật Bản chủ yếu tập trung trong ngành chế tạo. Nhật Bản đứng đầu thế giới về sản xuất ô tô, xe máy và là một trong những nước hàng đầu về đóng tầu, sản xuất sắt thép, sợi tổng hợp, hóa chất, xi măng... Các đối tác thương mại lớn của Nhật Bản là các nước Châu Á, Bắc Mỹ ( chủ yếu là Hoa Kỳ) và EU. Nhật Bản xuất khẩu chủ yếu sang Châu Á ( chiếm 45% - 50% kim ngạch xuất khẩu của nước này ) , nhất là sang các nước và vùng lãnh thổ Đông Á gồm các nền kinh tế mới công nghiệp hóa ( Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore ) và Trung Quốc, trong khi cũng nhập khẩu chủ yếu từ các nguồn này ( Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU...) và từ Trung Đông. 2.1.2. Khái quát mối quan hệ thương mại Việt Nam-Nhật Bản Sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1973, Việt Nam và Nhật Bản đã phát triển các mối quan hệ trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Hiện nay Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam sau Hoa Kỳ, là một trong ba nhà đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam. Năm 2002, lãnh đạo cấp cao hai nước thống nhất xây dựng quan hệ Việt Nam-Nhật Bản theo phương châm "đối tác tin cậy, ổn định lâu dài". Trong chuyến thăm Việt Nam 7/2004 của Ngoại trưởng Nhật Bản, hai bên đã ký Tuyên bố chung "Vươn tới tầm cao mới của đối tác bền vững". Điểm nổi bật trong mối quan hệ song phương ấy chính là viện trợ ODA. Liên tục nhiều năm liền, Nhật đứng đầu danh sách các nhà tài trợ ODA cho Việt Nam. Tại Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) mới đây, một lần nữa, Nhật lại khẳng định vị trí đứng đầu của mình với cam kết tài trợ ODA trong năm 2006 trị giá 835,6 triệu USD. Nhờ nguồn vốn ODA này, nhiều công trình trọng điểm góp phần phát triển kinh tế xã hội của VN đã và đang được tiến hành, tiêu biểu như dự án Quốc lộ 1A, Nhà máy điện Phú Mỹ 2-1, Đại lộ Đông - Tây (Tp HCM), cầu Bãi Cháy, cầu Thanh Trì, đường hầm xuyên đèo Hải Vân... Bước sang năm 2007, một năm được đánh giá là năm tăng tốc của Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế, chúng ta hy vọng, quy mô quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ được mở rộng hơn nữa, để Nhật có thể trở thành một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. 2.1.3. Khái quát về thị trường Nhật Bản Nhật Bản là một trong những nước có nền công nghiệp phát triển mạnh và đứng hàng đầu thế giới. Nhưng do đặc điểm về địa lý, Nhật Bản là một trong số những nước rất hiếm về tài nguyên thiên nhiên, ngoại trừ nguồn hải sản, do đó hầu hết các sản phẩm gia dụng, trang trí nội ngoại thất đều phải nhập khẩu. Xu hướng tiêu dùng và sính đồ ngoại của người Nhật Bản ngày càng gia tăng và sức tiêu thụ của thị trường này rất lớn, vào khoảng 3,000 tỷ Yên, bao gồm cả hàng gia dụng, trong đó đồ gỗ nhập khẩu chiếm 37% thị phần tại thị trường Nhật. Nhật Bản là thị trường tiêu thụ sản phẩm gỗ lớn nhất trên thế giới, đặc biệt trong xã hội công nghiệp với mức độ rất cao như hiện này, người Nhật ngày càng có nhu cầu sử dụng đồ vật bằng chất liệu gỗ thay thế các vật liệu sắt, nhôm… Nhập khẩu các mặt hàng đồ gỗ nội thất có xu hướng tăng trưởng khá nhanh ở Nhật còn do qúa trình chuyển sản xuất các đồ gỗ giá rẻ sang khu vực Đông Nam Á là nơi có nhân công rẻ, nguồn nguyên liệu dồi dào, chi phí nhập khẩu thấp và đặc biệt là nỗ lực của các nhà nhập khẩu Nhật Bản giảm chi phí trong khâu phân phối đã cho phép giảm giá bán đồ gỗ nhập khẩu. Về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, mặt hàng ghế gỗ chiếm 28,6% tổng giá trị đồ gỗ nhập khẩu, đồ gỗ sử dụng trong văn phòng, đồ gỗ sử dụng trong nhà bếp, đồ gỗ sử dụng trong phòng ngủ và cho mục đích khác chiếm 71,4% (năm 2002). Trong các loại ghế gỗ, các loại ghế nệm khung gỗ bọc da, ghế nệm khung gỗ bọc vải chiếm tỷ trọng 94%. Đồ gỗ nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản chủ yếu bao gồm đồ gỗ cao cấp nhập từ Châu Âu (Italia, Đức, Áo, Đan Mạch), Mỹ và một khối lượng từ các nước ASEAN. Đồ nội thất của Mỹ và Châu Âu (đặc biệt là Italia và Đức) thu hút người tiêu dùng Nhật Bản do kiểu cách đẹp, chất lượng tốt và uy tín nhãn hiệu hàng hoá cao. Nhiều sản phẩm nhập từ châu Á là sản phẩm sản xuất dưới dạng OEM (còn gọi là "mặt hàng nhập khẩu phát triển") từ các cơ sở của Nhật đóng gói tại nước ngoài. Các sản phẩm này thay đổi ít nhiều về thiết kế so với các sản phẩm sản xuất tại Nhật. Trong những năm gần đây hàng đồ gỗ xuất xứ Trung Quốc và Mỹ tăng đáng kể ở Nhật Bản. Đài Loan chuyển từ việc xuất khẩu đồ mây tre sang xuất khẩu đồ gỗ và đồ kim loại. Philipine đã thay đổi việc xuất khẩu mây tre sang Nhật bằng các hàng nội thất đắt tiền có chất lượng cao do nguồn mây tre trong nước giảm. Thái Lan chủ yếu cung cấp hàng đồ gỗ cao su. Các nước ASEAN đã có tiến bộ rất nhiều về chất lượng và kiểu dáng, tuy nhiên các sản phẩm của các nước ASEAN trước khi nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản vẫn phải trải qua các cuộc kiểm tra khắt khe. Nói chung, đồ gỗ giá rẻ được nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài Loan và các nước ASEAN, trong khi đó đồ gỗ cao cấp được nhập từ Châu Âu, Mỹ. Nhập khẩu từ Trung Quốc tăng mạnh trong những năm gần đây. Bắt đầu từ năm 2000, Trung Quốc đứng đầu các nước xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật. Nhập khẩu từ Thái Lan, Indonesia và các nước ASEAN khác cũng tăng. Trong số các nước, lãnh thổ xuất khẩu hàng đầu đồ gỗ vào Nhật Bản, chỉ có Đài Loan xuất khẩu giảm đáng kể về trị giá (trung bình 15,7%/năm trong khoảng 5 năm gần đây). Điều này phản ánh thực tế rằng các nhà xuất khẩu gỗ Đài Loan cũng đang chuyển dần các cơ sở sản xuất sang Trung Quốc để xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Trong._. vào nhưng thông tin đó là đủ. Điều quan trọng hơn, là các doanh nghiệp phải có một quá trình sàng lọc những thông tin được thu thập, có cách thu thập thông tin hiệu quả, phải có quá trình phân tích thông tin và cuối cùng là cho ra đời những chiến lược dựa trên cơ sở những thông tin đó. Để làm được điều đó, việc cần làm là doanh nghiệp nên xây dựng một bộ phận chuyên ngành. Đây là một bộ phận có trách nhiệm lựa chọn những cách thu thập thông tin hiệu quả phù hợp với doanh nghiệp, sàng lọc các thông tin do các bộ phận bên ngoài thu thập đưa về, và quan trọng hơn cả là phải có khả năng phân tích để biến những thông tin tạp nham đó thành những cơ hội mà doanh nghiệp có thể tận dụng để tạo ra ưu thế cho mình trên thị trường Nhật. Việc tuyển chọn những con người làm việc trong bộ phận này cũng cần đặc biệt chú ý. Họ nhất định phải là những người giỏi chuyên môn sản xuất và có tính sáng tạo, họ phải là những người am hiểu về sản phẩm của công ty, am hiểu về thị trường đồ gỗ Nhật và thị hiếu tiêu dùng của này, có khả năng phân tích những dữ liệu đơn giản thành những con số có lợi cho công ty. 3.2.4. Đa dạng mẫu mã chủng loại, nâng cao chất lượng và hạ giá thành 3.2.4.1. Đa dạng hoá mẫu mã chủng loại Tạo nét đẹp thủ công - những kinh nghiệm thành công Tình trạng phổ biến ở nhiều doanh nghiệp chế biến gỗ hiện nay là làm hàng chủ yếu theo mẫu mã, kiểu dáng của đơn đặt hàng nước ngoài với nguyên liệu gỗ cũng nhập từ nước ngoài. Do đó giá trị gia tăng trên mỗi sản phẩm gỗ xuất khẩu không cao, chỉ đạt 10-15% trên giá trị sản phẩm gỗ xuất khẩu. Cách bứt phá của một số nhà sản xuất đồ gỗ để tăng giá trị xuất khẩu là đưa vào sản phẩm đồ gỗ những nét chạm trổ tỉ mỉ bằng tay. Ông Nguyễn Văn Quý - Giám đốc Công ty Gỗ Hố Nai (tỉnh Đồng Nai) - chọn cách đưa nhiều công đoạn chạm trổ bằng tay tỉ mỉ trên sản phẩm gỗ nội thất để nâng giá trị hàng lên. “Với cách làm này, chúng tôi chuyển từ sử dụng nhân công giá rẻ sang nhân công lành nghề, lại bán được giá cao”, ông Quý nói. Công ty Mạnh Hùng (Quận 1, Tp.HCM) của ông Trần Mạnh Hùng lại chọn những họa tiết ghép bằng gỗ lạng mỏng, tạo nét đặc sắc riêng cho sản phẩm gỗ nội thất. “Họa tiết gỗ làm tỉ mỉ bằng tay chính là ưu thế của dòng sản phẩm gỗ nội thất này và đẩy giá trị xuất khẩu lên rất nhiều”, ông Hùng cho biết. Điều đáng ngại nhất đối với cơ sở của ông Hùng vẫn là cạnh tranh với Trung Quốc về kiểu dáng, giá cả. Hàng Trung Quốc cũng có dạng hàng gỗ gia dụng đưa vào họa tiết ghép bằng gỗ nhưng mẫu không phong phú bằng. Trong khi đó, Công ty Việt Collection (Bình Dương) chọn lối đi riêng bằng cách chỉ làm các loại cửa nhà bằng gỗ. “Làm cửa gỗ là ngành hàng rất chuyên biệt, chưa có nhiều người làm và xuất sang thị trường Mỹ. Chúng tôi hướng tới mặt hàng cửa gỗ cao cấp để tạo hướng đi có lợi nhất vào lúc này”, ông Phạm Hưng Andrew - chủ tịch hội đồng quản trị công ty - thổ lộ. Mặt hàng chuyên biệt Các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đều đầu tư từ A-Z để hoàn thiện nhiều sản phẩm, vì vậy vốn đầu tư rất lớn mà sản phẩm làm ra không nhiều, giá lại cao, không cạnh tranh nổi với “người khổng lồ” Trung Quốc. “Phải làm sao để có được hiệp hội hoặc liên kết để tổ chức mỗi người một công đoạn sản xuất nhằm giảm vốn đầu tư, làm được nhiều sản phẩm, hạ giá thành. Và điều đặc biệt là phải có sản phẩm độc đáo của riêng mình mới có thể có được hợp đồng”. Sau vài năm đưa hàng vào Nhật, ông Trần Mạnh Hùng đúc kết được gu hàng của khách Nhật để đưa ra những mẫu bán được: hàng có màu sắc không lòe loẹt, đồng gam màu, gam màu tối, họa tiết đơn giản. Mặc dù một số nhà sản xuất đồ gỗ Việt Nam đã tìm được những hướng đi riêng vào thị trường Nhật, nhưng vẫn còn có những điểm chưa gặp nhau giữa nhà sản xuất và người mua hàng. Ông August Wingardh - Trưởng đại diện Tập đoàn Ikea (Thụy Điển) tại Việt Nam - cho rằng doanh nghiệp nhỏ và vừa nên hướng đến khả năng cung cấp những mặt hàng chuyên biệt, tạo sự khác biệt so với hàng của công ty khác để tránh cạnh tranh giá, chào được giá tốt. Ông August Wingardh đánh giá đồ gỗ của nhiều doanh nghiệp Việt Nam sản xuất quá giống nhau về nguyên liệu lẫn kiểu dáng dẫn đến chuyện phải cạnh tranh lẫn nhau. 3.2.5. Nâng cao chất lượng sản phẩm 3.2.5.1. Đào tạo nghệ nhân, thợ cả cho các làng nghề Các nghệ nhân được coi là linh hồn của làng nghề, của các đơn vị sản xuất, không có nghệ nhân sẽ không thể có làng nghề phát triển và nổi tiếng. Nghệ nhân và thợ cả là lợi thế và nguồn lực quan trọng nhất của làng nghề vì họ là người có tay nghề cao, điêu luyện, có kỹ xảo riêng, có khả năng sáng tạo, cải tiến công cụ và sử dụng các nguyên liệu mới trong sản xuất. Hiện đội ngũ này ở các làng nghề cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu còn quá ít, nếu không đào tạo sẽ có không cơ hội phát triển. Nâng cao trình độ cán bộ nhân viên về nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu, luật thương mại quốc tế, kỹ năng sử dụng các phương tiện hiện đại để có thể tự tìm kiếm khách hàng, ký kết hợp đồng, nâng cao khả năng thâm nhập thị trường quốc tế. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong xuất khẩu chỉ được nâng cao khi thực hiện đồng bộ các giải pháp trên cùng với sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân. 3.2.5.2. Đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất Một trong những hạn chế của sản phẩm đồ gỗ nội thất xuất khẩu Việt Nam là yếu kém về chất lượng. Nguyên nhân chủ yếu là 2/3 các doanh nghiệp trong ngành này của chúng ta vẫn sử dụng những máy móc cũ kỹ, lạc hậu, năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm kém. Do đó, để cạnh tranh về chất lượng sản phẩm thì các daonh nghiệp cần thiết phải đổi mới công nghệ, với những máy móc công nghệ hiện đại, các doanh nghiệp có thể sản xuất hàng loạt mà vẫn đảm bảo chất lượng. Để có nguồn vốn đầu tư mới cho máy móc, các doanh nghiệp trong nước cùng sản xuất một lĩnh vực ngành hàng nào đó có thể hợp tác với nhau để tạo ra nguồn vốn lớn, bởi những công nghệ hiện đại hiện nay có giá trị rất cao, nếu chỉ dựa vào nội lực của bản thân doanh nghiệp thì cả nước ta cũng không có mấy doanh nghiêp có khả năng đầu tư. Các doanh nghiệp cũng có thể huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính trong nước như: vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu trái phiếu, nhưng nếu doanh nghiệp đi theo con đường này thì doanh nghiệp cần phải có kế hoạch, chiến lược đúng đắn. Bởi nếu thất bại thì xem như doanh nghiệp bi xoá sổ. Một trong những cách được sử dụng phổ biến và thường mang lại hiệu quả cao là tiến hành liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp từ Trung Quốc, Đài Loan đang đổ xô vào đầu tư ở Việt Nam để đối phó với cảnh bị Mỹ áp thuế chống bán phá giá. 3.2.5.3. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với quốc tế Yếu tố quyết định để người tiêu dùng ở các nước lựa chọn một sản phẩm gỗ chế biến không chỉ là chất lượng hay mẫu mã mà còn là xuất xứ của nguồn nguyên liệu tạo ra sản phẩm đó. Đây là xu hướng của người tiêu dùng thế giới, đối tượng chính của sản phẩm gỗ Việt Nam và cũng là mối quan tâm hàng đầu hiện nay của nhiều doanh nghiệp chế biến gỗ... FSC (Forest Stewardship Council) là tên của Hội đồng quản trị rừng quốc tế và cũng là một loại chứng chỉ rừng do chính Hội đồng này quản lý. FSC là chương trình toàn cầu kiểm định chuỗi hành trình sản phẩm từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm. FSC trong ngành chế biến gỗ giống như chứng chỉ ISO, hệ thống quản lý chất lượng quốc tế áp dụng cho các ngành nghề hoặc như HACCP, tiêu chuẩn chất lượng của ngành thuỷ sản, GMP đối với ngành dược, hoặc SA 8000 tiêu chuẩn về sử dụng lao động và trách nhiệm xã hội trong ngành giầy da và dệt may... Các doanh nghiệp Việt Nam cho biết FSC ngày càng trở nên quan trọng đối với sản phẩm gỗ chế biến xuất khẩu, nhất là những sản phẩm gỗ ngoài trời. Đại Thành tham gia xuất khẩu hơn 10 năm nay, phần lớn khách hàng của công ty là châu Âu với kim ngạch hàng năm đạt đến 15 triệu USD, trong đó 6 triệu USD doanh thu do sản phẩm có chứng chỉ FSC tạo ra. Đại Thành có kế hoạch mở rộng thị trường đến những nhà phân phối và chuỗi siêu thị lớn ở châu Âu. Một trong những giải pháp thực hiện chiến lược này của Đại Thành là chứng chỉ FSC với mục tiêu nâng tỷ lệ sử dụng gỗ có chứng chỉ FSC từ 30% hiện nay lên 100%. Sở dĩ các công ty nhập khẩu yêu cầu chứng chỉ vì khách hàng của họ, những người tiêu dùng, chỉ lựa chọn sản phẩm bảo vệ môi trường. Muốn tồn tại và phát triển bền vững, doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn nguyên liệu gỗ rõ ràng, có chứng chỉ. Đó không chỉ tạo lợi thế cạnh tranh cho các công ty xuất khẩu gỗ mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp chế biến gỗ trong tương lai. Điều phối viên của Mạng kinh doanh lâm sản Việt Nam (VFTN), ông Sander Van den Ende cho biết: nhận thức của người tiêu dùng ở các nước ngày càng cao, sản phẩm không phải chỉ có giá rẻ, chất lượng tốt hay mẫu mã đẹp được người tiêu dùng lựa chọn mà còn phải bảo vệ môi trường. Vấn đề tiên quyết là thói quen lựa chọn của người tiêu dùng cấp tiến. Cũng giống như trong ngành dệt may hay hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm làm ra từ lao động trẻ em hay có tính chất bóc lột đều bị người tiêu dùng tẩy chay. Chính chứng chỉ SA 8000 giúp doanh nghiệp chứng minh sản phẩm của họ được sản xuất trong điều kiện tốt và trách nhiệm. Người tiêu dùng nước ngoài ngày càng kỹ tính hơn đối với sản phẩm chế biến gỗ. Họ chỉ sử dụng sản phẩm khi biết chắc rằng nó được tạo ra không phải từ việc phá rừng. Chứng chỉ FSC không chỉ thỏa mãn đòi hỏi của khách hàng mà còn là cơ hội quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp ở những thị trường lớn như châu Âu và Hoa Kỳ. Theo Hội đồng quản trị rừng quốc tế, hiện nay đã có trên 3.000 đơn vị, tổ chức có chứng chỉ FSC bao gồm công ty chế biến, chủ rừng, doanh nghiệp thương mại... Trong số này 84 doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam có chứng chỉ FSC trong tổng số hơn 1.200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Cũng theo hội đồng này, khảo sát trên 250 công ty có chứng chỉ trên thế giới cho thấy nhờ có FSC mà doanh thu của các công ty gia tăng đáng kể và tính chung cả thị trường gỗ thế giới tăng thêm 5 tỷ USD trong năm qua. VFTN là tổ chức thuộc Quỹ bảo vệ động vật hoang dã (WWF). VFTN có mặt ở Việt Nam năm 2005 nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ Việt Nam tham gia với mong muốn hình thành môi trường bền vững và qui trình khai thác, sử dụng gỗ có nguồn gốc và có chứng chỉ. Bốn công ty đầu tiên bao gồm ba công ty trong nước và một công ty nước ngoài đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Ông Ende của VFTN nói rằng trở thành thành viên của mạng lưới VFTN sẽ mang lại cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thành viên, đồng thời doanh nghiệp còn có cơ hội tìm kiếm nhiều khách hàng trong mạng lưới mang tính toàn cầu này bên cạnh mục tiêu góp phần bảo vệ môi trường sống cho cả thế giới. Trường Thành ở Bình Dương là một trong những công ty thành viên đầu tiên của VFTN. Tổng giám đốc công ty, cho biết mặc dù mới tham gia vào VFTN nhưng từ nhiều năm nay công ty ý thức về nguồn nguyên liệu có chứng chỉ nhiều năm nay. Từ 1995 công ty bắt đầu nhập nguyên liệu gỗ có chứng chỉ FSC từ châu Phi, tuy nhiên tỷ lệ sử dụng còn thấp. Trường Thành cố gắng phấn đấu nâng tỷ lệ nguồn nguyên liệu có chứng chỉ FSC lên 50%-90% vào năm 2014-2015. Hiện tại tập đoàn gỗ kỹ nghệ này đang thực hiện dự án trồng rừng ở Đắc Lắc và dự án này sẽ được công ty hướng đến nguồn nguyên liệu đạt chứng chỉ FSC. Ngành chế biến gỗ của Việt Nam đang tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây với kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1,5 tỷ USD năm ngoái và dự kiến sẽ đạt 2 tỷ USD năm nay, tăng trưởng trung bình hàng năm trên 50%. Tuy nhiên, trên 80%-85% nguyên liệu gỗ cho các nhà máy chế biến ở Việt Nam do các công ty nước ngoài cung cấp, do đó có được nguồn cung cấp gỗ ổn định là điều doanh nghiệp trong nước quan tâm hơn cả. Có hay không có chứng chỉ FSC chưa thực sự thu hút sự quan tâm của hầu hết các doanh nghiệp trong ngành chế biến này. 3.2.6. Giảm chi phí sản xuất để giảm giá thành sản phẩm - nâng cao khả năng cạnh tranh 3.2.6.1. Đảm bảo nguyên liệu, giảm chi phí gia tăng do giá nguyên liệu gỗ có xu hướng tăng Trước mắt, các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến gỗ và các địa phương liên quan, bằng mọi cách mở rộng thị trường, tăng cường khả năng nhập khẩu gỗ, phát triển chế biến mạnh hơn nữa, đi đôi với sử dụng gỗ tiết kiệm; vận động, thuyết phục các cơ quan, đoàn thể, các ngành và địa phương trong cả nước thay đổi tập quán sử dụng gỗ rừng sang sử dụng ván nhân tạo, làm giảm sức ép đối với rừng. Về lâu dài, Nhà nước phải có cơ chế, chính sách đầu tư thỏa đáng, đẩy nhanh tốc độ trồng rừng, nhất là rừng nguyên liệu (còn gọi là rừng sản xuất). Song song với công tác quy hoạch, cần tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao và áp dụng công nghệ mới vào trồng rừng, bảo vệ rừng như: áp dụng kỹ thuật tạo giống cây bằng phương pháp mô, hom. Lựa chọn và đưa vào trồng những cây thích hợp, bảo đảm vừa có cây gỗ nhỏ mọc nhanh, chu kỳ kinh doanh ngắn (6-7 năm), vừa có cây gỗ lớn dài ngày (10-15 năm). Đẩy mạnh hoạt động của hệ thống khuyến lâm, nhất là khuyến lâm cơ sở đối với các xã vùng sâu, vùng xa nhằm chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật về thâm canh tăng năng suất rừng đến các chủ rừng. Làm tốt các biện pháp quản lý bảo vệ rừng. Các bộ, ngành liên quan sớm có chính sách ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nước, nhất là doanh nghiệp công nghiệp chế biến gỗ và nhà đầu tư nước ngoài tham gia trồng rừng sản xuất, kinh doanh rừng. Trong chính sách cần xác định rõ hỗ trợ của Nhà nước, có thể hỗ trợ sau đầu tư, hỗ trợ giống cây. Tiếp tục thực hiện việc giao đất, giao rừng cho tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân. Rà soát, bổ sung, sửa đổi chính sách về khoán bảo vệ rừng, chính sách hưởng lợi từ rừng bảo đảm các lợi ích, trong đó lợi ích của người lao động là rất quan trọng, để họ yên tâm gắn bó với rừng lâu dài, có thu nhập ổn định, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống, không phá rừng, hủy hoại tài nguyên rừng. Các giải pháp định hướng khái quát nêu trên nhằm từng bước giải quyết vấn đề nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến gỗ phát triển bền vững, hiệu quả. 3.2.6.2. Tận dụng tối đa các lợi thế Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ nội thất Việt Nam đang có những thuận lợi rất lớn để có thể giảm giá hàng xuất khẩu, nhưng điều cần thiết là các doanh nghiệp phải biết đó là những lợi thế để vượt qua khó khăn, để cạnh tranh với đối thủ. Không nên quan niệm, dựa vào những lợi thế đó mà ỷ lại. Thêm vào đó, Việt Nam sẽ là thành viên của WTO trong thời gian tới, do đó các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng nhiều ưu đãi hơn nữa. Một lợi thế khác nữa, các doanh nghiệp Việt Nam có nguồn nguyên liệu gỗ tự nhiên dồi dào và đội ngũ lao động đông đảo với giá rẻ, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay nên lợi dụng những ưu thế này để tạo ra khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng loại ở các quốc gia khác. Tuy nhiên, trong tương lai ưu thế về lao động giá rẻ sẽ không con là yếu tố quyết định, mà yếu tố then chốt là trình độ lành nghề của công nhân, những công nhân lành nghề có thể tạo ra những sản phẩm độc đáo, chuyên biệt. Với dòng sản phẩm này, các doanh nghiệp có thể không phải quan tâm tới vấn đề cạnh tranh về giá, bởi những người tiêu dùng thường chấp nhận những sản phẩm này dù với mức giá cao. Đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng và giảm giá thành. Nghe thì có vẻ vô lý, nhưng trên thực tế 3 giải pháp này phải tiến hành đồng thời. Các doanh nghiệp không nên chỉ chú trọng một giải pháp cụ thể nào đó, bởi như thế là thất bại. Cần phải chú trọng cùng một lúc tới cả 3 chỉ tiêu trên, tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể mà tầm quan trọng của từng chỉ tiêu là khác nhau. 3.2.7. Tăng cường quảng cáo, khuếch trương sản phẩm Tích cực tham gia các buổi hội trợ giới thiệu sản phẩm. Hội trợ là nơi gặp gỡ trực tiếp giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng và các nhà nhập khẩu. Do vậy, các doanh nghiệp cần có một cách nhìn đúng về hoạt động này, thường xuyên tham gia các cuộc hội trợ để giới thiệu sản phẩm tới người tiêu dùng. Ở Nhật, hội chợ diễn ra quanh năm, là nơi các nhà sản xuất và nhập khẩu hoặc đại lý phân phối của các nhà nhập khẩu thường trưng bày, giao dịch, bán buôn sản phẩm cho cho những người bán lẻ. Hội chợ thương mại Nhật là cơ hội rất tốt cho các doanh nghiệp đến tìm kiếm đối tác kinh doanh. Trước khi tham gia hội chợ, doanh nghiệp phải nghiên cứu xác định hội chợ phù hợp với ngành hàng sản xuất của mình và liên hệ với nhà tổ chức làm các thủ tục đăng ký, thuê gian hàng, chuẩn bị chu đáo hàng hóa và tài liệu quảng cáo về sản phẩm, đến trước từ 1- 2 ngày để dàn dựng, trưng bày hàng hóa. Khách hàng đến thăm quan gian hàng có thể là các nhà nhập khẩu, các chủ cửa hàng bán lẻ lớn nhỏ khác nhau nên khả năng đặt hàng của họ cũng rất khác nhau. Tùy từng khách hàng và số lượng hàng khách yêu cầu để đàm phán điều chỉnh giá cả cũng như các điều kiện sao cho phù hợp. Đặc biệt, tại hội chợ tối kỵ việc bán lẻ trao tay trực tiếp hàng hóa cho khách thăm quan. Ở Việt Nam, hội chợ cũng thường xuyên diễn ra và thu hút đông đảo các doanh nghiệp tham gia như tại Hội chợ quốc tế đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ 2005 (Expo 2005) tổ chức tại TP.HCM, có 120 hợp đồng xuất khẩu và bản ghi nhớ đặt hàng đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ trị giá hơn 4,5 triệu USD đã được ký kết. Với việc tổ chức hội chợ trong nước, đây là cơ hội đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội tiếp cận với nhưng nhà nhập khẩu, đây là cơ hội hiếm có để giới thiệu về sản phẩm của mình. Vì vậy, các doanh nghiệp cần có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, chuyên nghiệp để thu hút các nhà nhập khẩu, không nên quan niệm hội chợ chỉ là nơi mang sản phẩm đến là hết, còn đâu mặc kệ khách tham quan. Hội chợ vừa là nơi giới thiệu sản phẩm, vừa cho đối tác thấy phong cách làm việc chuyên nghiệp của mình. 3.2.8. Xâm nhập thị trường Nhật Bản bằng thương hiệu Muốn đưa hàng vào Nhật đạt kết quả, trước tiên doanh nghiệp cần xây dựng thương hiệu cho mình thật vững chắc. Kế tiếp là khâu tìm nhà phân phối nguồn hàng và lựa chọn cách quảng cáo hợp lý. Doanh nghiệp Việt Nam còn yếu ở những khâu này. Muốn thành công trên thị trường Nhật, nhà xuất khẩu cần biết xây dựng thương hiệu, làm thế nào để thương hiệu có thể ăn sâu vào trong tâm trí của người tiêu dùng. So với doanh nghiệp Việt Nam, nhà sản xuất Nhật luôn bỏ ra rất nhiều tiền để xây dựng thương hiệu. Quan niệm của họ là xây dựng thương hiệu trước khi tìm kiếm thị trường, trong khi đó, hầu hết các nhà xuất khẩu Việt Nam hiện chỉ chú trọng đến quảng cáo, bởi vậy khó khăn lớn nhất là hàng Việt Nam vẫn là chưa xây dựng được thương hiệu trong lòng người tiêu dùng ở đây. Khâu tiếp cận yếu kém hoặc khi tiếp cận được thì không biết ở đâu thị trường cần, nên đã đi lạc hướng với thị hiếu của người tiêu dùng. Kinh nghiệm của nước láng giềng Trung Quốc cũng cần cho các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam chưa có đủ khả năng để xây dựng lên một thương hiệu tầm cỡ quốc tế. Trong khi đó, những thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam thì hầu hết người tiêu dùng Nhật đều không biết tới. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam có thế đi theo cách mà Trung Quốc đã từng làm là mang nhãn mác không nổi tiếng vào bán với giá rẻ ở các siêu thị bách hoá Mỹ như: Wal-mart; Target; K-mart; Sears...là những siêu thị chuyên bán hàng tiêu dùng cao cấp và nổi tiếng. Điều này gây sự bất ngờ cho người tiêu dùng, mặc dù bán với giá rẻ so với các mặt hàng cùng loại trong siêu thị nhưng các doanh nghiệp vẫn đảm bảo có lãi. 3.2.9. Nâng cao vai trò của hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam Một trong những hạn chế căn bản của các hiệp hội ở Việt Nam là khả năng hoạt động rất hạn chê. Hiệp hội phần lớn là những người già đang đảm đương, không có những người trẻ, có năng lực, cập nhất thời đại đang sung sức nắm giữ. Kinh phí hoạt động của hội chủ yếu dực vào ngân sách của nhà nước, do đó hoạt động của hội còn rất hạn chế. Vì vậy, Chính phủ chỉ nên tạo hành lang pháp lý để hiệp hội hình thành rồi cho các hiệp hội này tự chủ. Chỉ có như thế các hiệp hội mới trở lên năng động cũng như nâng cao vai trò hoạt động của hiệp hội. Vai trò quan trọng của hiệp hội là cung cấp thông tin và tư vấn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam khi có nhu cầu xuất khẩu hàng hoá ra thị trường các nước khác.Vì vậy, các hiệp hội cần hoạt động có hiệu quả để đảm bảo vai trò của mình. Thị trường gỗ nội thất ở Nhậtrất đa dạng và phong phú. Nhu cầu về mẫu mã, chất lượng và mức giá hợp hợp lý là thay đổi thất thường, các nhà nhập khẩu mặt hàng gỗ nội thất thì rất tinh tường và nhạy bén, cũng rất khó tính. Do đó, hiệp hội gỗ muốn tư vấn có hiệu quả cho các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này thì cần phải tiến hành hoạt động quảng bá, xúc tiến trên thị trường này. HIện tại, hiệp hội cần thiết phải có trụ sở tại thị trường Nhật trực tiếp trên thị trường này để đảm bảo nguồn thông tin đước cập nhật thường xuyên và chính xác. Trước hết, hiệp hội càn phải tận dụng triệt để các cơ hội để quảng bá những sản phẩm chất lượng, mẫu mã đẹp và giá cả hợp lý của Việt Nam tới các nhà nhập khẩu , rút ngắn khoảng cách giữa các nhà nhập khẩu với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Tạo cở sở cho việc tiến tới các hợp đồng xuất khẩu lớn. Tiếp theo, hiệp hội cũng nên thường xuyên tiếp xúc với thị trường, với các nhà nhập khẩu, với các nhà phân phối, bán lẻ để có những thông tin mới mẻ về thị trường, cũng như cập nhật nhanh chóng những thay đổi bất thường về thị hiếu tiêu dùng. Đây sẽ là nguồn dữ liệu quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam để có thể đưa ra các quyết định kinh doanh hiệu quả nhất. Hiệp hội cũng nên có những chương trình cho nhà nhập khẩu đồ gỗ nộ thất của Nhật giao lưu trực tiếp với các nhà nhập khẩu Việt Nam. Hiệp hội nên thông báo, tư vấn để các doanh nghiệp có thể tham gia các buổi hội chợ quan trong ở nước ngoài. Hiệp hội nên chủ động tổ chức hay đứng ra đăng cai những ngày hội trợ đồ gỗ ngay ở Việt Nam, đây sẽ là điều kiện vô cùng thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với các nhà nhập khẩu và đầu tư nước ngoài. Cùng với những hoạt đông này, Hiệp hội cũng nên có nhưng chương trình tạo điều kiện cho các nhà nhập khẩu và đầu tư Mỹ tham quan các cơ sở kinh doanh của Việt Nam, chỉ có quan sát trực tiếp mới có thể làm thay đổi cách nhìn về hàng Việt Nam, đây cũng là nơi diễn ra kí kết các hợp đồng lớn và dài hạn. Hiệp hội cũng cần phải tư vấn khi nhà nhâp khẩu và đầu tư nước ngoài quan tâm tới thị trường Việt Nam. Một hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam là kém hiểu biết về pháp luật của nước nhập khẩu và những thông lệ quốc tế cũng như những ngoại lệ bất thường ở thị trường nước nhập khẩu và quốc tế. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam thường xuyên gặp khó khăn mỗi khi ký kết những hợp đồng lớn, đặc biệt đã có nhiều lô hàng bị đối tác trả lại. Vì vậy, vấn đề trước mắt là các doanh nghiệp cán có sự tư vấn về kinh nghiệm của các chuyên gia trong ngành cũng như sự am hiểu luật pháp quốc tê của các luật sư. Còn Về lâu dài, Hiệp hội lên có chương trình đào tạo cho các nhà lãnh đạo này. 3.2.10. Xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp trên thị trường Nhật Bản Đa dạng hóa mặt hàng và các hình thức xuất khẩu Theo các chuyên gia, con số 1,6 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ chưa phản ánh đúng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước cũng như nhu cầu thị trường. Bài toán đặt ra hiện nay là ngoài 120 thị trường sẵn có, các doanh nghiệp cần phải khai thác tốt hơn nữa các thị trường như Mỹ, Nhật, Đức…, đồng thời phải mở rộng ra những thị trường tiềm năng như Canada, Nga và các nước Đông Âu. Theo đánh giá của ông Trần Quốc Mạnh, Canada không chỉ có thế mạnh về cung cấp nguyên liệu mà năng lực tiêu thụ đồ gỗ nội thất hàng năm là rất lớn. Nếu các doanh nghiệp biết liên kết để làm ăn (các đối tác từ Canada vừa cung cấp nguyên liệu, vừa là đầu mối phân phối thành phẩm) thì việc sản xuất gỗ trong nước sẽ rất có lợi. Tương tự, Nga cũng là một trong những thị trường có nguồn nguyên liệu khá dồi dào. Các doanh nghiệp cũng cần chú trọng liên kết để có đầu vào ổn định, từ đó xuất khẩu ngược thành phẩm vào thị trường này. Việc mở rộng, đa dạng hóa thị trường còn tránh được nhiều vấn đề bất trắc có thể xảy ra nhưng không làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của ngành. Liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp Liên kết đang trở thành một xu hướng trong lĩnh vực sản xuất đồ gỗ nội thất xuất khẩu. Các doanh nghiệp chỉ có liên kết với nhau mới có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, có nguồn vốn để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và hạ giá thành hàng xuất khẩu. Mặt khác, quá trình liên kết cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giải quyết được vấn đề nguyên liệu sản xuất. Liên kết cũng là một xu hướng tất yếu của các doanh nghiệp đồ gỗ còn nhỏ bé của Việt Nam trước những đơn hàng lớn của nước ngoài, nhất là các nhà nhập khẩu đồ gỗ lớn từ Nhật. Tức là, mỗi doanh nghiệp sẽ làm một khâu để hoàn chỉnh sản phẩm. Điển hình cho sự liên kết này là cụm công nghiệp gỗ Phú Tài (Bình Định), với 60 doanh nghiệp đang cùng hợp tác để sản xuất và kinh doanh. Kinh nghiệm từ các nước có thế mạnh về xuất khẩu đồ gỗ cho thấy, chỉ khi các doanh nghiệp trong cùng ngành có sự liên kết để sản xuất thì mới tạo nên sức mạnh, tăng khả năng xuất khẩu. Bằng không, doanh nghiệp nào đứng ngoài sẽ bị đào thải. Ông Trần Quốc Mạnh, Phó chủ tịch Hội mỹ nghệ và chế biến gỗ TPHCM (HAWA), cho biết. Mỗi khi nhận một đơn hàng lớn của khách hàng nước ngoài vượt quá năng lực doanh nghiệp thì ngay lập tức doanh nghiệp đó sẽ liên kết với các doanh nghiệp khác để chia xẻ từng công đoạn sản xuất.  Xu hướng liên kết giữa các doanh nghiệp càng được củng cố khi công nghiệp gỗ Việt Nam tập trung hình thành các vùng tam giác Tp.HCM - Đồng Nai - Bình Dương ở phía nam, chiếm ít nhất 60% năng lực chế biến gỗ của cả nước, Bình Định - Gia Lai - Daklak ở miền Trung và Tây Nguyên. Đặc điểm nổi bật của các vùng này là có nghề chế biến gỗ phát triển từ lâu, gắn liền với các cảng biển vận chuyển hàng hóa. Khu công nghiệp Phú Tài ở Bình Định là một điển hình cho việc tập trung các doanh nghiệp chế biến gỗ vì khu công nghiệp này thu hút gần 50 doanh nghiệp chế biến gỗ, thuận lợi cho liên kết trong nhập khẩu gỗ nguyên liệu và xuất khẩu thành phẩm.  Thiếu nguyên liệu, phải nhập khẩu từ nước ngoài trong bối cảnh nhu cầu sử dụng gỗ nguyên liệu tăng nhanh chóng cũng đặt ra nhu cầu liên kết cho các doanh nghiệp. Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vietfores), các doanh nghiệp chế biến gỗ thành viên của hiệp hội này đang xúc tiến thành lập ba đầu mối nhập khẩu gỗ nguyên liệu có quy mô lớn ở ba miền Bắc, Trung và Nam theo hình thức mỗi đầu mối là một công ty cổ phần với nguồn vốn tối thiểu 10 triệu Đôla Mỹ. “Việc thành lập các đầu mối nhập khẩu gỗ nguyên liệu là để chủ động nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ đang tăng trưởng nóng trong nước, giúp hạ giá gỗ nguyên liệu đầu vào cho các nhà chế biến gỗ xuất khẩu nhờ nhập khẩu tập trung, thay vì nhập khẩu nhỏ lẻ như lâu nay”, ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó chủ tịch Vietfores, giải thích.  Theo thỏa thuận, các nhà nhập khẩu gỗ nguyên liệu, nhà chế biến xuất khẩu gỗ thành phẩm từng miền sẽ ngồi lại với nhau để tính toán việc thành lập đầu mối nhập khẩu gỗ, cũng như đóng góp cổ phần của từng doanh nghiệp, dưới sự hỗ trợ của Bộ Thương mại. Trước mắt, Vietfores xúc tiến thành lập đầu mối nhập khẩu gỗ ở phía Bắc, rồi sau đó rút kinh nghiệm thành lập đầu mối nhập khẩu cho miền Trung ở Bình Định và miền Nam ở Tp.HCM. “Mỗi đầu mối phải có nguồn vốn tối thiểu 10 triệu đô la Mỹ thì mới có hy vọng nhập khẩu được số lượng lớn, đủ sức hạ giá thành gỗ nhập khẩu khi về đến Việt Nam”.  Ý tưởng thành lập các đầu mối nhập khẩu gỗ tập trung được Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển đưa ra tại hội nghị xuất khẩu gỗ toàn quốc hồi tháng 3 năm ngoái. Tuy nhiên, Vietfores rất cần Chính phủ hỗ trợ. Đó là hỗ trợ về mặt bằng để xây dựng kho bãi chứa gỗ, nguồn vốn vay ưu đãi trong chương trình tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Chính phủ.  KẾT LUẬN Các ngành kinh tế của Việt Nam phát triển chủ yếu dựa vào các lợi thế sẵn có, một số ngành đã và đang phát huy được lợi thế của mình và có được một vị thế cao trên thị trường quốc tế. Hiện nay sản phẩm đồ gỗ là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên hiện nay sản phẩm này đang gặp rất nhiều khó khăn trên thị trường quốc tế. Vì vậy yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ việt Nam trong là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với ngành đồ gỗ nói chung và đối với các doanh nghiệp may nói riêng. Với xu thế cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường hiện nay đòi hỏi những nước có lợi thế so sánh phải vận dụng nhiều biện pháp, hoạch định các chiến lược phù hợp với lợi thế cạnh tranh trong sản xuất của quốc gia mới giúp nhà sản xuất kinh doanh trụ vững trên thị trường quốc tế nói riêng và thị trường Nhật Bản nói riêng. Đề tài đã nghiên năng lực cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ trên thị trường Nhật Bản để từ đó kiến nghị các chính sách và đề ra giải pháp đối với nhà nước và đối với các doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bạch Thụ Cường (2002) Bàn về cạnh tranh toàn cầu , Nxb, Thông tấn, Hà nội 2. Đinh Văn Ân- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Nxb, Giao thông vận tải 3. Đinh Văn Ân- Hội nhập kinh tế áp lực cạnh tranh trên thị trường và đối sách của một số nước, Nxb, Giao thông vận tải 4. Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 5. PGS.TS. Nguyễn Thị Hường ( 2003 ), Giáo trình kinh doanh quốc tế, Nxb, Lao động - Xã hội. 6. Đinh Văn Thành (2001), Dự báo thị trường thế giới đến năm 2010, Đề tài nhánh số 3 thuộc đề tài cấp Nhà nước “Chính sách và giải pháp phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001-2010, tầm nhìn đến 2020”, Viện nghiên cứu thương mại, Hà nội. 7. Một số tạp chí: - Thời báo kinh tế sài gòn - Kinh tế Việt Nam - Dự báo thị trường... 8. Một số trang Web - Google.com, www.vneconomy.vn, MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36717.doc
Tài liệu liên quan