Lời Mở đầu
sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, tạo ra được khối lượng nông sản không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn có giá trị xuất khẩu cao mang về hàng tỉ đô la. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ cao và ổn định, hình thành những vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá với quy mô lớn. Sự phát triển nhanh của ngành nông nghiệp đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế, góp phần
37 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1671 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Là một trong những mặt hàng nông sản chủ lực, cà phê Việt Nam có tốc độ phát triển rất cao, hàng năm thu về hàng trăm triệu đô la từ việc xuất khẩu, mang lại nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền núi. Tuy nhiên, bên cạnh những thế mạnh của mình, ngành cà phê vẫn tồn tại những hạn chế ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Do đó, làm sao phát huy hết nội lực, hết lợi thế để cà phê Việt Nam có thể đứng vững và phát triển trên thị trường thế giới vẫn là một câu hỏi bất cập cần có lời giải đáp.
đề tài “Giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam “ mà em chọn là một đóng góp nhỏ ý kiến của bản thân mong góp phần giải quyết câu hỏi đó.
Tuy đây là lần đầu tiên tiếp cận với cách thức viết đề án môn chuyên ngành, nhưng dưới sự hướng dẫn tận tình của Ths Nguyễn Đình Trung, em đã hoàn thành đề án này. Em xin chân thành cảm ơn thầy!
Sinh viên thực hiện
Tạ Thị Bình Minh
thực chất và các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.
I.1 khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, là năng lực phát triển của kinh tế thị trường. Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua nhau giữa các nhà doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được một mục tiêu kinh doanh cụ thể.
Quan điểm đầy đủ về cạnh tranh có thể được nhìn nhận như sau:” cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất, kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển.”
I.2. Khái niệm khả năng cạnh tranh.
Hiện nay, một doanh nghiệp muốn có vị trí vững chắc trên thị trường và thị trường ngày càng được mở rộng thì cần phải có một tiềm lực đủ mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường. Cái đó chính là khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp chính là việc có được các lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp đối thủ. Cạnh tranh để duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo thực hiện mức lợi nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp.
I.3 .Phân loại cạnh tranh
3.1. Cạnh tranh quốc gia.
Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân.
3.2. Cạnh tranh ngành.
Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia làm hai loại :
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành : là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất kinh doanh một loại dịch vụ. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là một cuộc cạnh tranh tất yếu phải xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật, năng lực quản lý...nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để tìm lợi nhuận siêu ngạch.
- Cạnh tranh giữa các ngành : là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu hướng di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
3.3. Cạnh tranh sản phẩm.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường của các doanh nghiệp, vấn đề sản phẩm bán tới tay khách hàng được coi trọng hàng đầu. Bởi sản phẩm là đại diện cho thương hiệu của doanh nghiệp, cho sự lớn mạnh hoặc yếu kém trong lĩnh vực cung cấp mặt hàng cùng công cụ sử dụng. Cạnh tranh về sản phẩm thường được thể hiện qua các mặt:
Cạnh tranh về trình độ sản phẩm: tuỳ theo những sản phẩm khác nhau để chúng ta lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau có tính chất quyết định trình độ của sản phẩm. Doanh nghiệp sẽ chiến thắng trong cạnh tranh nếu như lựa chọn trình độ sản phẩm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng.
Cạnh tranh về chất lượng: Tùy theo từng sản phẩm với đặc điểm khác nhau để lựa chọn chỉ tiêu phản ánh chất lượng khác nhau. Nếu tạo ra nhiều lợi thế cho chỉ tiêu này thì sản phẩm càng có nhiều cơ hội giành thắng lợi cạnh tranh trên thị trường.
Cạnh tranh về bao bì: Cùng với việc thiết kế bao bì cho phù hợp, doanh nghiệp còn phải lựa chọn cơ cấu sản phẩm phù hợp, lựa chọn cơ cấu hàng hóa và cơ cấu chủng loại hợp lý.
Cạnh tranh về nhãn mác, uy tín sản phẩm. Doanh nghiệp sử dụng công cụ này để đánh trực tiếp vào trực giác của người tiêu dùng.
Cạnh tranh do khai thác hợp lý chu kỳ sống của sản phẩm. Sử dụng biện pháp này, doanh nghiệp cần phải có những quyết định sáng suốt để đưa ra một sản phẩm mới hoặc dừng việc cung cấp một sản phẩm đã lỗi thời.
I.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.
4.1. Các nhân tố chủ quan.
Nhân tố con người
Con người ở đây phản ánh đến đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua các yếu tố như trình độ lao động, năng suất lao động, thái độ phục vụ khách hàng, sự sáng tạo trong sản xuất... Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới việc nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất ra sản phẩm hàng hóa.
4.1.2. Khả năng về tài chính .
Bất cứ một hoạt động đầu tư, sản xuất phân phối nào cũng đều phải xét, tính toán đến tiềm lực, khả năng tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị, bảo đảm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, duy trì và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận và củng cố vị thế của mình trên thương trường.
4.1.3. Trình độ công nghệ.
Tình trạng trình độ công nghệ máy móc thiết bị có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp. Đó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của một doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến chất lượng, năng suất sản xuất. Ngoài ra, công nghệ sản xuất cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán của sản phẩm. Một doanh nghiệp có công nghệ phù hợp sẽ có một lợi thế cạnh tranh rất lớn do chi phí sản xuất thấp, chất lượng sản phẩm và dịch vụ cao. Ngược lại doanh nghiệp sẽ có bất lợi cạnh tranh khi họ chỉ có công nghệ lạc hậu.
4.2. Nhân tố chủ quan.
4.2.1. Các nhân tố kinh tế.
Trong môi trường kinh doanh, các nhân tố kinh tế luôn có những ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung cũng như sức cạnh tranh của sản phẩm doang nghiệp nói riêng. Các nhân tố kinh tế bao gồm: tốc độ phát triển kinh tế, lãi suất trên thị trường vốn...
Tốc độ phát triển kinh tế cao sẽ làm cho thu nhập của người dân tăng lên. Thu nhập tăng có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán của họ khi nhu cầu về hàng hoá thiết yếu và hàng hoá cao cấp cũng tăng lên.
Lãi cho vay của ngân hàng cũng ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Hiện nay có một phần không nhỏ vốn đầu tư của doanh nghiệp trong ngành là đi vay. Do đó khi lãi suất tăng lên sẽ dẫn tới chi phí sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp tăng và ngược lại. Như vậy, doanh nghiệp nào có lượng vốn chủ sở hữu lớn xét về mặt nào đó sẽ thuận lợi hơn trong cạnh tranh và rõ ràng năng lực cạnh tranh về tài chính của doanh nghiệp sẽ tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh.
Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp trong các ngành. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải đánh giá được tác động của nó để tìm ra những cơ hội cũng như thách thức.
4.2.2. Các nhân tố về chính trị pháp luật.
Các nhân tố về chính trị pháp luật là nền tảng quy định các yếu tố khác của môi trường kinh tế. Nền kinh tế ảnh hưởng đến hệ thống chính trị nhưng ngược lại hệ thống chính trị cũng tác động trở lại các hoạt động kinh tế. Pháp luật và chính trị ổn định sẽ tạo ra một cơ chế chính sách trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng lĩnh vực cụ thể có được lợi thế cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hoá của thế giới.
Nói tóm lại, khi xem xét khả năng cạnh tranh của một ngành, của một doanh nghiệp thậm chí kể cả của đối thủ cạnh tranh, cần phải xem xét đầy đủ các nhân tố tác động, từ đó tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành hay của doanh nghiệp đó.
Thực trạng về thị trường cà phê thế giới và ngành cà phê Việt Nam
II.1. Tổng quan về thị trường cà phê thế giới.
Nhìn lại sự phát triển thị trường tiêu thụ cà phê thế giới cho thấy sau thế chiến II, nhu cầu dùng cà phê ở nhiều quốc gia tăng lên nhanh chóng. Bắt đầu từ Mỹ ở thập niên 1950-1960 khi những cựu chiến binh mang sở thích uống cà phê về truyền bá trong quân đội và dân chúng, rồi dần dần phát triển sang Châu Âu ở những năm 1960-1970. Vào cuối thập niên 1970, khi thị trường Mỹ và Châu Âu gần như chững lại thì những thị trường mới lại mở ra ở vùng Viễn Đông như Nhật Bản và gần đây là thị trường Đông Âu, Trung Quốc có dấu hiệu tăng. Cùng với sự mở rộng thị trường ở khắp nơi, sản lượng cà phê thế giới không ngừng tăng lên, đáp ứng nhu cầu ngày cao của người tiêu dùng. Sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2002-2003 đạt 122.6 triệu bao, tăng 10.7% so với mức 110.7 triệu bao của năm trước. Brazil, nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới đạt mức sản lượng kỷ lục 46.9 triệu bao trong khi sản lượng của hai nước Côlômbia và Việt Nam, nước đứng thứ hai và thứ ba về sản xuất cà phê đạt khoảng 10 triệu tấn. ICO (tổ chức cà phê quốc tế) cho rằng, niên vụ 2003/04 sẽ là năm mất mùa trong kì sản xuất cà phê thế giới bởi cây cà phê sẽ cần một thời gian để hồi phục sau vụ mùa bội thu.
Sản lượng cà phê của những nước sản xuất chính ( đơn vị : triệu bao )
2000/01
2001/02
2002/03
Brazil
43.1
33.7
46.9
Colômbia
10.5
11.0
10.9
Indonesia
6.5
6.0
5.8
Mêxicô
4.8
4.7
5.2
Việt Nam
15.3
12.3
10.5
Thế giới
117.0
110.7
122.6
( số liệu theo tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam*số tháng 2/2001)
Mức tiêu thụ cà phê bình quân đầu người trên phạm vi toàn cầu ít thay đổi trong những năm qua, dao động trong khoảng 4.5-4.7 kg/người/năm.
Tổng mức tiêu thụ cà phê toàn cầu ( đơn vị : triệu bao ).
2001/02
2000/01
1999/00
Nước NK
78.6
78.1
77.1
Nước SX
27.0
26.4
25.9
Tổng
105.6
104.5
103.3
( số liệu theo tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam* số tháng 2/2002 )
Với khoảng 1/4 dân số thế giới hiện uống cà phê thường xuyên, triển vọng tăng tiêu thụ cà phê trong những năm tới là rất khả quan. Tuy nhiên, nếu không có hành động tích nào để đẩy mạnh, tốc độ tăng sẽ không có tiến triển gì khá hơn những năm vừa qua. Và nếu cứ giữ mức tăng chưa đầy 5% mỗi năm hiện nay, có lẽ tới vụ 2005/06 mới hy vọng tổng lượng tiêu thụ đạt mức 1190 triệu bao.
Brazil là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới chiếm khoảng 26% tổng lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu, chủ yếu là cà phê Arabica. Côlômbia đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê Arabica toàn cầu, chiếm khoảng 19%, chủ yếu là loại cà phê Arabica dịu. Đứng thứ ba về xuất khẩu cà phê Arabica là Guatêmala, chiếm khoảng 5% tổng sản lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu.
Mỹ là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 29% tổng sản lượng cà phê nhập khẩu. Đứng thứ hai là Đức với tỷ trọng khoảng 18% tổng lượng nhập khẩu. Nhập khẩu cà phê của Nhật Bản tăng nhanh, đưa Nhật Bản trở thành nước đứng thứ ba thế giới về nhập khẩu cà phê trong những năm qua với tỷ trọng khoảng 9% tổng lượng cà phê nhập khẩu toàn cầu.
Do mất cân đối nghiêm trọng trong cán cân cung-cầu, giá cà phê đã liên tục giảm trong những năm gần đây, giảm xuống tới mức kỷ lục trong năm 2002 chỉ bằng 1/3 mức giá bình quân của thập niên 60 ( tính theo giá thực tế ). Theo dự báo của WB( ngân hàng thế giới ), giá cả hai loại cà phê Rôbusta và Arabica đều tăng lên trong năm 2003 và sẽ tiếp tục tăng trong năm 2004. Tuy nhiên, giá cà phê khó có thể tăng nhanh do nguồn cung vẫn ở trong tình trạng dư thừa. Về dài hạn, giá cà phê có thể hồi phục nhưng chắc chắn khó có thể trở lại mức giá kỷ lục của những năm 70 hay đầu thập niên 90 của thế kỷ 20.
II.2. Thực trạng ngành cà phê Việt Nam.
2.1. Về sản xuất.
Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam từ năm 1870, mãi đến đầu thế kỷ 20 mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Năm 1930 ở Việt Nam có 5900 ha. Trong thời kì những năm 1960-1970, cây cà phê được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh miền Bắc, khi cao nhất ( 1964-1966 ) đã đạt tới 13000 ha song không bền vững do sâu bệnh ở cà phê Arabica và do các yếu tố tự nhiên không phù hợp với cà phê Robusta nên một số lớn diện tích cà phê phải thanh lý.
Cho đến năm 1975, đất nước thống nhất, diện tích cà phê của các nước có khoảng trên 13000 ha, cho sản lượng 6000 tấn. Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây Nguyên nhờ có vốn từ các hiệp định hợp tác liên chính phủ với các nước : Liên Xô cũ, CHDC Đức, Bungary, Tiệp Khắc, Ba Lan, đến năm 1990 đã có 119300 ha. Trên cơ sở này, từ 1986, phong trào trồng cà phê phát triển mạnh trong nhân dân. Đến nay đã có trên 390000ha, đạt sản lượng gần 700000 tấn.
Ngành cà phê nước ta đã có những bước phát triển nhanh vượt bậc. chỉ trong vòng 15-20 năm trở lại đây chúng ta đã đưa sản lượng cà phê cả nước tăng lên hàng trăm lần. Hiện nay, cà phê Việt Nam đang trực tiếp xuất sang 50 nước với khối lượng lớn đứng hàng thứ 4 trên thế giới. Mức tăng trưởng lượng cà phê xuất khẩu hàng năm khá lớn.
Sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam giai đoạn 1998-2002
sản lượng ( ngàn tấn)
xuất khẩu
sản lượng
% tăng
sản lượng
% tăng
1998
409.3
97.3
382.0
97.5
1999
509.8
124.6
482.0
126.2
2000
800.4
157.0
733.0
152.1
2001
847.0
105.5
931.0
127.0
2002
710.0
76.3
(số liệu theo tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam * số tháng 2/2002 )
Cà phê hiện đang là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn đứng thứ hai sau gạo. Giá trị cà phê xuất khẩu thường chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Ngay cả những thị trường khó tính như Mỹ, Đức, Bỉ... cũng dần bị cà phê Việt Nam chinh phục.
5 nước nhập khẩu cà phê đứng đầu niên vụ 2000/01:
STT
tên nước
sản lượng
trị giá
tỷ phần so với tổng XK (%)
1
Bỉ
138.603
57.974.984
15.85
2
Mỹ
137.501
59.371.585
15.72
3
Đức
134.321
60.054.805
15.36
4
Tây Ban Nha
73.852
31.666.889
8.44
5
ý
62.559
27.796.789
7.15
( số liệu theo trang web : vicofa.com )
2.2. Về công nghệ.
Sau 1975, khi đi vào phát triển sản xuất cà phê, chúng ta mới có một ít xưởng chế biến cũ kỹ, chắp vá. ở phía bắc có một số xưởng chế biến ở Đồng Giao, Phủ Quỳ với thiết bị lắp đặt từ năm 1960-1962 do CHDC Đức chế tạo. ở phía nam có một số xưởng của các doanh điền cũ như Rossi, Delphante để lại công suất không lớn. Cùng với việc mở rộng diện tích trồng cà phê, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng các xưởng chế biến mới, bắt đầu từ những thiết bị lẻ, rồi đến các dây chuyền sản xuất sao chép theo mẫu của Hang-xa như nhà máy 1/5 Hải Phòng, nhà máy A74 Bộ Công Nghiệp ở Thủ Đức-TpHCM. Những năm gần đây, nhiều công ty, nông trưòng đã xây dựng các xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết bị nhập từ CHLB Đức, Brazil. Một loạt hơn chục dây chuyền chế biến cà phê của hãng Pinhalense-Brazil được đưa vào Việt Nam. Tiếp đó lại xuất hiện nhiều xưởng lắp ráp thiết bị do cơ sở công nghiệp Việt Nam chế tạo mô phỏng có cải tiến công nghệ của Brazil. Như thế so với thời gian trước đây thì hiện tại vấn đề công nghệ trong sản xuất và chế biến cà phê đã được quan tâm chặt chẽ hơn.
2.3. Về nguyên liệu.
Về nguyên liệu, nhờ có điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi và đất đai màu mỡ, phì nhiêu nên đã tạo điều kiện cho các giống cà phê phát triển tốt. Cả nước hiện có khoảng 390 ngàn ha cà phê phân bố trên nhiều địa bàn từ bắc chí nam. Cây trồng được chăm sóc tốt, đảm bảo chất lượng cho sản xuất. Vì vậy mà nguồn nguyên liệu rất dồi dào, luôn đảm bảo cung cấp đủ sản lượng cho sản xuất, xuất khẩu và dự trữ.
2.4. Về lao động.
Nhờ tạo được công ăn việc làm và mang lại nguồn thu nhập ổn định thường xuyên nên ngành cà phê đã thu hút hàng triệu lao động. Trong đó chiếm một lượng lớn là dân cư các vùng nông thôn, trung du và miền núi có điều kiện tự nhiên thuận lợi như các tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên, Gia Lai, Đăk Lăk… và tỉnh Thanh Hoá là một ví dụ điển hình. Đến năm 2001, diện tích cà phê của tỉnh trồng được là 3996 ha với 3213 hộ gia đình tham gia ở 46 xã cung cấp 6000 lao động. Riêng xã Thanh Xuân, huyện Như Xuân, 100% là đồng bào dân tộc thiểu số thì có tới 270 hộ dân lao động trong ngành. Từ đây có thể thấy rằng nguồn lao động trong ngành cà phê Việt Nam rất phong phú và dồi dào.
Qua nhìn nhận lại thực trạng phát triển ngành cà phê Việt Nam những năm qua cho thấy ngành đã đạt được nhiều thành tựu đáng ca ngợi. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây do kích thích mạnh mẽ của giá cả thị trường cà phê đã ra khỏi kiểm soát của ngành cũng như của nhà nước. Chính vì thế mà sự tăng trưởng nhanh chóng với mức độ lớn đã có tác động quan trọng trong việc góp phần đẩy ngành cà phê thế giới đến kỳ khủng hoảng thừa. Giá cà phê thế giới liên tục giảm đến mức thấp kỷ lục 30 năm lại đây. Ngành cà phê bước vào thời kỳ ảm đạm và có phần hoảng loạn. Đài phát thanh và báo chí thường xuyên đưa tin nông dân chặt phá cà phê ở nơi này, nơi khác...Có thể nói, đây là tình hình chung của ngành cà phê toàn cầu và nó có tác động lớn đến ngành cà phê nước ta.
II.3. Những lợi thế và bất lợi của ngành cà phê Việt Nam.
3.1. Lợi thế của ngành cà phê Việt Nam.
Qua đánh giá tổng quan về ngành cà phê Việt Nam trên đây có thể thấy, trong những năm gần đây, Việt Nam đã nhanh chóng trở thành một trong những nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới, chiếm lĩnh được một thị phần đáng kể, có mặt trên 50 quốc gia, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng sau thủy hải sản và gạo. Có được những thành tựu ấy là do ngành cà phê Việt Nam đã có những lợi thế to lớn, giúp ngành phát triển.
3.1.1. Lợi thế khách quan.
Việt Nam có thế mạnh về trồng cây cà phê do điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi. Đất đỏ bazan, rất thích hợp với cây cà phê, được phân rộng khắp lãnh thổ, trong đó tập trung nhiều ở hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ với diện tích hàng triệu ha. Khí hậu nhiệt đới gió mùa , lượng mưa phân bố đều các tháng trong năm , nhất là các tháng cà phê sinh trưởng. Cây cà phê cần hai yếu tố cơ bản là đất và nước thì cả hai yếu tố ấy đều có ở Việt Nam.
Hơn nữa với nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công lại rẻ và năng xuất lao động cao đã góp phần giảm chi phí đầu vào, tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm. Nhờ đó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam trênthị trường quốc tế. Ngoài ra, do nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới tăng nhanh nên sản phẩm cà phê cũng ngày càng được tiêu thụ mạnh.
3.1.2. Lợi thế chủ quan.
Với môi trường chính trị ổn định được cả thế giới công nhận, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm khi làm ăn với Việt Nam. Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để phát triển sản xuất và xuất khẩu cà phê. Như chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất, vườn cây cho người lao động đã nâng ý thức làm chủ lên cao, nhờ đó vườn cây được chăm sóc tốt, đầu tư thâm canh tăng cao, đất đai được sử dụng triệt để. Ngoài ra ngay từ năm 1994, thủ tướng chính phủ đã chỉ đạo thành lập quỹ hỗ trợ hay bảo hiểm ngành cà phê. ( Văn bản số 140/TB ngày 1/11/1994 của văn phòng chính phủ). Các năm sau chính phủ liên tiếp chỉ đạo và yêu cầu Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì và phối hợp với Bộ Tài chính, Ban vật giá chính phủ, Bộ Thương mại xây dựng quỹ hỗ trợ hay quỹ bảo hiểm cho ngành cà phê. Chính phủ chủ trương “ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ ban đầu một lần khi thành lập qũy” ( Văn bản số 589/KTTH ngày 3/2/1997 của chính phủ ). Ngoài ra còn huy động ngân sách Nhà nước để giúp đỡ nông dân qua khỏi những giai đoạn khó khăn như mua cà phê tạm trữ để nâng cao giá cho nông dân, miễn thuế nông nghiệp cho đất trồng cà phê, hoãn nợ và tiếp tục cho nông dân vay tiền chăm sóc vườn cây... Bên cạnh đó, những sửa đổi các chính sách hành chính cho nhanh và đơn giản thuận tiện, cùng với các chính sách mở cửa thu hút đầu tư, kêu gọi đầu tư cũng góp phần phát triển ngành. Đây chính là những thế mạnh, lợi thế của cà phê Việt Nam trên con đường cạnh tranh quốc tế.
3.2. Những hạn chế của ngành cà phê Việt Nam và nguyên nhân.
Tuy có nhiều lợi thế và thu được những thành quả đáng khích lệ nhưng trong tình hình diễn biến phức tạp của thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngành cà phê Việt Nam đã và đang bộc lộ những nhược điểm và hạn chế từ sản xuất đến xuất khẩu, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.
Vấn đề đặt ra lớn nhất trong xuất khẩu cà phê Việt Nam hiện nay là tính bền vững chưa cao. Những năm gần đây, tuy sản lượng xuất khẩu nhanh nhưng giá cả không ổn định, trong đó một số năm giảm sút lớn nên kim ngạch xuất khẩu tăng chậm hoặc sút giảm. Vấn đề này có liên quan đến sản xuất, chế biến và xuất khẩu, dẫn đến cung vượt cầu, công nghệ chế biến bảo quản sau thu hoạch không đáp ứng được yêu cầu tăng sản lượng và chất lượng, thị trường xuất khẩu chưa ổn định. Biểu hiện cụ thể là:
3.2.1. Tính bền vững của ngành cà phê Việt Nam chưa cao.
Thật thế, thị trường quy gom cà phê Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường quốc tế. Khi thị trường cà phê quốc tế sôi động làm cho hoạt động thu mua, quy gom nhộn nhịp, việc tiêu thụ cà phê ở các hộ sản xuất thuận lợi. Khi thị trường quốc tế thu hẹp, cà phê tụt giá, thị trường thu mua nội địa sẽ chao đảo, ách tắc, việc tiêu thụ của các hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn. Giá bán ra không bù đắp đủ chi phí sản xuất, lượng hàng tồn nhiều gây nên ứ đọng vốn.
Một dẫn chứng thực tế là niên vụ 1999-2000. Khi thị trường cà phê thế giới giảm mạnh đã gây ra những ảnh hưởng lớn đến thị trường cà phê trong nước. Theo báo cáo của Tổng công ty cà phê Việt Nam, trong 9 tháng đầu năm 2000, toàn Tổng công ty đã xuất khẩu được lượng cà phê bằng 255.3% so cùng kỳ năm 1999, nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 131.6%, chủ yếu do giá xuất khẩu cà phê (FOB) giảm mạnh và liên tục từ đầu năm 2000, tính ra giá xuất khẩu bình quân 9 tháng đầu năm 2000 chỉ bằng 51.6% so với mức giá bình quân cùng kỳ năm 1999 ( 709.8/1376 USD/tấn ). Cụ thể là ( FOB Việt Nam ): tháng 1/2000 đạt mức 850-900 USD/ tấn; đến tháng 3/2000 xuống còn 700-750 USD/ tấn; trong khoảng cuối quý 2/2000 giá đứng ở mức 700-720 USD/ tấn, nhưng sang đầu quý 3 giảm xuống còn 600-650 USD/ tấn. Có thể nói, đây là mức giá thấp nhất trong vòng 8 năm từ năm 1992 cho đến năm 2000. Tình hình thực tế đó đã gây ra những khó khăn thua thiệt to lớn cho cả người sản xuất và các nhà kinh doanh xuất khẩu cà phê Việt Nam. Cũng theo số liệu báo cáo của Tổng công ty cà phê Việt Nam, trong 9 tháng đầu năm 2000, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất khẩu cà phê đã phải chịu lỗ xấp xỉ 84 tỷ đồng; trong khi đó, lượng cà phê tồn kho tính đến đầu tháng 10/2000 là xấp xỉ 30000 tấn.
Qua nhìn nhận lại niên vụ cà phê 1999-2000 trên đây có thể khẳng định lại tính bền vững của ngành cà phê chưa cao, còn phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới
3.2.2. Cơ cấu cây trồng thiếu hợp lý.
Cơ cấu cây trồng không hợp lí, tập trung quá nhiều vào cà phê Robusta là loại cà phê phải cạnh tranh với những nước có bề dày kinh nghiệm và thị trường xuất khẩu ổn định như Brazil,Achentina, Indonesia...Chưa quan tâm đến mở rộng diện tích cà phê Arabica, loại cà phê có khả năng cạnh tranh mạnh hơn, được thị trường ưa chuộng hơn, giá lại cao và có tiềm năng phát triển lớn. Những năm gần đây tuy có một số doanh nghiệp có quan tâm chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng diện tích cà phê Arabica, nhưng giải pháp chưa đồng bộ nên kết quả thấp.
3.2.3. Chất lượng cà phê chưa cao.
Chất lượng cà phê Việt Nam còn thấp chưa tương xứng với lợi thế về đất đai và khí hậu Việt Nam, còn khoảng cách xa so với yêu cầu của thị trường thế giới. Ông Daniele Giovannucci, cố vấn cao cấp của Ngân hàng Thế giới, lấy hình ảnh Brazil, một đất nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới và so sánh:“ Chất lượng ổn định là điều dễ nhận thấy nhất đối với cà phê Brazil, trong khi đó vấn đề này đối với cà phê Việt Nam thì ngược lại.”Cà phê loại I chiếm từ 16-18%, loại II A chiếm tới trên 70%, còn lại là loại thấp hơn...Giá cà phê Robusta II 5% của Việt Nam thấp hơn giá cà phê cùng loại của Indonesia khoảng 90USD/ tấn, giá cà phê Robusta I ( trên sàng 16 ) thấp hơn giá cà phê Uganda ( trên sàng 15 ) đến 200 USD/ tấn. Các chuyên gia về lĩnh vực này từ Bộ NN và PTNT đánh giá, tình trạng giảm sút chất lượng cà phê xuất khẩu nước ta thời gian qua là từ nhiều yếu tố.
Ngay từ khâu chọn giống đã tồn tại nhiều bất cập. Giống cà phê ở nước ta từ trước đến nay vẫn chủ yếu là do bà con nông dân tự chọn, ươm giống và trồng nên không đảm bảo chất lượng. Cây phát triển kém, hạt nhỏ, đen, tỷ lệ đồng đều giữa các hạt thấp. Đầu tư trong lĩnh vực thuỷ lợi để tưới tiêu cho cà phê đạt thấp ( 22.4% tổng diện tích ). Nhiều vùng vào mùa khô hạn không đủ nước tưới, ảnh hưởng xấu đến quá trình sinh trưởng của cây.Thêm nữa, cà phê nước ta vẫn thu hái theo kiểu tuốt cành là phổ biến, quả xanh chín lẫn lộn, dẫn đến chất lượng cà phê chế biến thấp, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cũng cao ( thu hái xanh 50% có tỷ lệ tổn thất lên đến 8% ).
Ngoài ra, khâu chế biến cũng còn nhiều bất cập, góp phần ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cà phê. Trong khâu chế biến nước ta hiện nay vẫn sử dụng hai phương pháp, chế biến khô và chế biến ướt. Trong đó phương pháp chế biến khô vẫn được dùng phổ biến ( khoảng 80% sản lượng ). Phương pháp này cho hương vị cà phê không bằng phương pháp ướt. Mặt khác lại phụ thuộc nhiều vào thời tiết, tốn nhiều công phơi đảo, đòi hỏi diện tích kho và sân phơi lớn. Hiện nay, ở nước ta chế biến cà phê vẫn chủ yếu ở quy mô gia đình ( 80% sản lượng cà phê ). vì thế, tính đồng bộ kém, thiết bị chế biến đơn giản, chủ yếu là các máy xát nhỏ. Hiện tại, cả nước mới có 50 dây chuyền chế biến công nghiệp, trong đó có 14 dây chuyền nhập ngoại ( một của Anh và 3 của Brazil), số còn lại được chế tạo trong nước với tổng công suất 100000 tấn nhân/ năm ( công suất mỗi dây chuyền từ 1-4 tấn/ giờ ). Từ những thực tế trên đây, mặc dù chất lượng vốn có của cà phê vối ( Robusta ) trồng ở nước ta được đánh giá cao: chất lượng thử nếm có 35% rất tốt; 50% tốt; 10% ở mức trung bình và chỉ có 5% là loại trung bình kém. Song trên thực tế, chất lượng cà phê nhân suất khẩu của Việt Nam lại không thể hiện những chỉ tiêu trên. Mấy năm gần đây, tỷ lệ cà phê xuất khẩu loại I ở nước ta chỉ đạt mức dưới 20%. Ngoài các nguyên nhân trên, chất lượng cà phê xuất khẩu của ta bị giảm sút do sự đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch chưa tương xứng với tốc độ tăng nhanh của sản lượng. Thêm vào đó, giá thành sản xuất cà phê ở nước ta so với các nước là tương đối cao( tới hàng triệu đồng/tấn ).Giá thành sản xuất tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Cà phê Việt Nam là khoảng 13-15 triệu đồng/tấn; ở khu vực tư nhân giá thành khoảng dưới 10 triệu/tấn. Có thực tế này là do khấu hao cơ bản và xây dựng hạ tầng chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành. Chi phí về chế biến có sự dao động lớn ( từ 800-1800đ/kg ) phụ thuộc vào quy mô, loại hình và mức độ trang bị. Theo ý kiến của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, vấn đề đánh giá chất lượng cà phê của nước ta cũng có nhiều bất cập với các tiêu chuẩn quốc tế, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả xuất khẩu. Cách tính lỗi của tiêu chuẩn Việt Nam quy định theo %, trong khi tiêu chuẩn thị trường kỳ hạn Luân Đôn tính lỗi theo cách đếm. Tiêu chuẩn Việt Nam quy định kích cỡ hạt trên sàng số 16 ( 6.3 mm ), trong khi nhiều khách nước ngoài lại yêu cầu cà phê loại kích thước trên sàng là số 18 ( tức 7.15 mm ). Những bất đồng trong cách xác định tiêu chuẩn trên đây đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng xuất khẩu của cà phê Việt Nam. Vì vậy, thống nhất tiêu chuẩn trong đánh giá chất lượng là việc làm cần thiết, tránh những bất lợi cho ngành cà phê nước ta.
3.2.4. Thiếu tính đồng bộ giữa các khâu
Ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa gắn sản xuất với chế biến, thu mua, xuất khẩu. Thực trạng hiện tại là người sản xuất chỉ biết sản xuất còn các khâu sơ chế, chế biến, thu gom, xuất khẩu hoàn toàn do các doanh nghiệp, tư thương lo liệu. Tình hình trên đã dẫn đến hậu quả là sản lượng cà phê dư thừa, ứ đọng lớn, chất lượng và giá cả giảm. Một số năm nhà nước phải bù lỗ lãi suất ngân hàng để mua cà phê tạm trữ xuất khẩu. Người trồng cà phê luôn trong cảnh thiếu thông tin và thông tin không được cập nhật làm họ không nắm được giá cả diễn biến trong năm để có phương hướng điều chỉnh mức cầu thích hợp với diễn biến của thị trường cho mùa vụ tới. Thiếu thông tin người nông dân không còn kiểm soát được việc bán sản phẩm, khi nào thì nên bán, bán với giá bao nhiêu, vì vậy thường xuyên bị ép giá. Người trồng cà phê cho biết họ không nhận được sự giúp đỡ nào khi bán sản phẩm cho những công ty chế biến hoặc xuất khẩu cà phê. Hơn nữa, việc sản xuất phân tán tạo ra những khó khăn lớn trong việc tập trung nguồn hàng và giao hàng đúng hạn theo hợp đồng đã kí kết. Với trên 150 đơn vị xuất khẩu và gần chục công ty nước ngoài đặt cơ quan đại diện tại Việt Nam để kinh doanh, dẫn đến tình trạng lộn xộn trong kinh doanh, tranh mua, tranh bán, làm giảm giá cà phê xuất khẩu và mất uy tín đối với khách hàng. Việc chưa hình thành tập đoàn xuất khẩu cà phê Việt Nam cho đến nay là nhược điểm về tổ chức và quản lý, cần phải được xem xét. ở Brazil, ủy ban các nhà xuất khẩu cà phê Brazil ( Cecafe ) đã được thành lập từ lâu, đang chỉ đạo có hiệu qủa mọi hoạt động xuất khẩu cà phê nước này, đồng thời có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường cà phê thế giới.
3.2.5. Thiếu vốn
Xét cho cùng, nguyên nhân sâu xa của sự yếu kém về chất lượng, sự bất cập trong sản xuất và chế biến cũng là do nguồn kinh phí, nguồn vốn đầu tư. Thật thế, người trồng cà phê ở Việt Nam đa phần là các hộ nông dân nghèo và vốn họ đầu tư chủ yếu là vốn vay ngân hàng, phải trả lãi suất. Do đó việc đầu tư cho sản xuất có phần hạn chế, ảnh hưởng đến sản l._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8744.doc