Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Toàn cầu hóa và khu vực hóa là một xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới. Đối với ngành tài chính ngân hàng, hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam; mở rộng cơ hội trao đổi hợp tác quốc tế giữa các ngân hàng thương mại trong hoạt động kinh doanh tiền tệ; đồng thời các ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và phát huy lợi thế so sán

doc110 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1436 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Tuy nhiên, các ngân hàng Việt Nam cũng gặp phải thách thức to lớn trong cạnh tranh với các ngân hàng trong nước và với ngân hàng nước ngoài. Qua 45 năm hình thành và phát triển, ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam hiện nay đã xây dựng cho mình một vị trí quan trọng và một thương hiệu nổi tiếng trong hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam. Nhưng trước áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt với các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài, ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế về năng lực cạnh tranh, hiệu quả hoạt động vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Xuất phát từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam nói riêng là một đòi hỏi cấp thiết. Vì vậy đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam” được chọn để nghiên cứu nhằm đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương, góp phần phát triển và khẳng định vị thế của ngân hàng này trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài tập trung vào: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại - Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam dựa trên các chỉ tiêu cơ bản: năng lực tài chính, khả năng ứng dụng công nghệ, nguồn nhân lực, trình độ quản lý và cơ cấu tổ chức, năng lực hoạt động. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là NHTMCP Ngoại thương Việt Nam Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích- tổng hợp, phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp logic, phương pháp mô tả và khái quát hóa đối tượng nghiên cứu. Kết cấu của luận văn Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh Cạnh tranh là quy luật tất yếu, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Để tồn tại trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh như là lựa chọn duy nhất. Cạnh tranh chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường, nơi có sự cung ứng hàng hóa, dịch vụ của ít nhất hai doanh nghiệp (người kinh doanh) trong cùng một điều kiện giống nhau. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp phải bằng mọi biện pháp khách nhau để sử dụng tối đa các nguồn lực (khả năng) mà mình có để vượt lên trên đối thủ cạnh tranh cùng loại để khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế. Ở cấp độ vi mô, có quan điểm cho rằng “những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là những doanh nghiệp đạt được mức tiến bộ cao hơn mức trung bình về chất lượng hàng hóa và dịch vụ và/hoặc có khả năng cắt giảm các chi phí tương đối cho phép họ tăng được lợi nhuận và/hoặc thị phần…”. Định nghĩa như trên đã phần nào phản ánh được tương đối toàn diện về năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Nó chỉ rõ được mục tiêu của chỉ tiêu và những đặc điểm cơ bản của việc cạnh tranh thành công. Nhưng nhược điểm của định nghĩa trên là không chỉ ra được khả năng đó do đâu mà có. Định nghĩa trên khiến cho năng lực cạnh tranh mang tính tĩnh. Nhưng thực tế, năng lực cạnh tranh là một khái niệm động. Một doanh nghiệp lúc này có lợi thế cạnh tranh nhờ những ưu thế như nguồn lao động rẻ hay gần nguồn nguyên liệu nhưng lúc khác có thể sẽ mất lợi thế cạnh tranh khi doanh nghiệp khác có lợi thế trên cơ sở những tiến bộ khoa học kỹ thuật hay nhờ ưu thế về quy mô. Vì thế, một doanh nghiệp được gọi là có khả năng cạnh tranh còn phải là doanh nghiệp có khả năng duy trì và liên tục tăng cường khả năng cạnh tranh của mình. Michael Porter, một giáo sư của trường kinh doanh Harvard, trong các tác phẩm của mình, ông cho rằng để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả năng khác biệt hóa sản phẩm để đạt được những mức giá cao hơn trung bình. Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần ngày càng đạt được những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp hàng hóa hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn. Quan niệm của Porter đã đề cập đến vấn đề năng lực cạnh tranh còn bao hàm cả việc doanh nghiệp phải liên tục duy trì lợi thế cạnh tranh của mình. Năng lực cạnh tranh ở đây cần phải được gắn liền với khái niệm phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội. Ở giác độ vĩ mô, khái niệm năng lực cạnh tranh của một quốc gia cũng chưa có được một đáp án thống nhất. Báo cáo về đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu định nghĩa năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo thời gian. Báo cáo đầu tiên về Năng lực cạnh tranh của Công nghiệp Châu Âu (CEC 1996a) cũng chỉ ra rằng “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng quốc gia đó tạo ra mức tăng trưởng phúc lợi cao và gia tăng mức sống cho người dân của nước mình. 1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Khái niệm Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về năng lực hay lợi thế cạnh tranh song cho đến nay, khó có thể đưa ra một định nghĩa chuẩn về khái niệm năng lực cạnh tranh đúng cho mọi trường hợp. Tuy nhiên, đối với từng đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu vẫn cần phải đưa ra được một định nghĩa về năng lực cạnh tranh (bao gồm cả vị thế cạnh tranh hiện tại lẫn khả năng duy trì và phát triển vị thế đó trong tương lai) của một quốc gia, một ngành hay một doanh nghiệp một cách chính xác làm căn cứ khoa học cho việc đưa ra những chính sách, những giải pháp hợp lý và hiệu quả. Đối với lĩnh vực ngân hàng, tài chính, năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại có thể được tóm lại như sau: “Năng lực cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần; đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh”. Nhìn chung năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại đều được xem xét thông qua khả năng tạo và duy trì lợi nhuận thị phần nhất định trên thị trường. Mỗi ngân hàng thương mại phải duy trì được các lợi thế so sánh của mình với các đối thủ cạnh tranh trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng nhằm thỏa mãn tốt nhất các yêu cầu của khách hàng và giành thắng lợi trong quá trình cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại thể hiện thành các lợi thế so sánh với đối thủ cạnh tranh khác nhưng các lợi thế đó không phải là bất biến. Điều đó phụ thuộc vào mỗi ngân hàng trong việc thường xuyên duy trì và tăng cường năng lực cạnh tranh. Có những ngân hàng thương mại gần như không có lợi thế hoặc lợi thế chỉ ở dạng tiềm năng tuy nhiên do biết cách khai thác và sử dụng một cách hợp lý hiệu quả các lợi thế tiềm năng đó đã nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình trên thương trường. 1.1.2.2. Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Cạnh tranh là động lực cho phát triển của ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Cạnh tranh thúc đẩy các ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng phục vụ nhu cầu khách hàng, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng nguồn lực. Theo ông Michael Fairbanks1 - một chuyên gia nghiên cứu và tư vấn về năng lực cạnh tranh, thì cạnh tranh tạo động lực tối đa hoá hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nền kinh tế. Ngoài ra, cạnh tranh của ngân hàng mang lại lợi ích cho khách hàng vì được sử dụng dịch vụ rẻ hơn, chất lượng cao hơn, hậu mãi tốt hơn. Nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển và khẳng định vị trí, thu hút khách hàng. Nếu sức cạnh tranh thấp, ngân hàng sẽ bị thôn tính, sát nhập hoặc phá sản. Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của sự phát triển. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một nhu cầu tất yếu của các ngân hàng thương mại trong suốt quá trình hình thành và phát triển. Tuy nhiên, việc hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi cao hơn đối với năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Theo đó, việc nâng cao năng lực cạnh tranh có ý nghĩa sống còn, giúp các ngân hàng thương mại có thể tồn tại và phát triển ngay trên "sân nhà" và từng bước vươn ra thị trường khu vực và thế giới. Tài chính – ngân hàng là một trong những lĩnh vực được mở cửa mạnh nhất ngay sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Theo cam kết giữa Việt Nam và các nước thành viên, từ nay đến năm 2010, các ngân hàng nước ngoài sẽ được phép thực hiện hầu hết các dịch vụ ngân hàng như một ngân hàng trong nước (trừ dịch vụ tư vấn và cung cấp thông tin ngân hàng). Đây là thách thức, nhưng cũng là cơ hội để mỗi ngân hàng không ngừng tự hoàn thiện mình, trong đó có việc nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, mở rộng dịch vụ ngân hàng theo hướng tiện ích, tăng cường khả năng phòng chống rủi ro nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. 1.2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại 1.2.1. Năng lực tài chính Năng lực tài chính là thước đo sức mạnh của một ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Năng lực tài chính thể hiện qua các chỉ tiêu: 1.2.1.1. Vốn chủ sở hữu và mức độ an toàn vốn: * Tiềm lực vốn của ngân hàng thương mại được đánh giá cao hay thấp là phụ thuộc vào quy mô vốn chủ sở hữu và hệ số an toàn vốn. Chỉ tiêu này phản ánh sức mạnh tài chính của một ngân hàng và khả năng chống đỡ rủi ro. Đây là một trong những nguồn lực quan trọng quyết định khả năng của một ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. - Nguồn vốn hình thành ban đầu: Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, ngân sách Nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần thoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân. - Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện có thể. Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu. Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…: để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định… Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết. - Các quỹ Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo qui định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, khen thưởng, quỹ giám đốc… Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tùy thuộc vào mục đích sử dụng quỹ. - Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng (vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. * Vai trò của vốn chủ sở hữu - Vốn chủ sở hữu tuy chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ (khoảng 8%) trong tổng nguồn vốn huy động kinh doanh của một ngân hàng nhưng đóng vai trò rất quan trọng. Vốn là điều kiện tiên quyết để thành lập ngân hàng, đây là nguồn vốn khởi đầu tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, cung cấp năng lực tài chính cho quá trình tăng trưởng như mở rộng quy mô, mua sắm trang thiết bị, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới, là cơ sở để huy động các nguồn vốn khác, tạo lập uy tín của ngân hàng thương mại với khách hàng và nhà đầu tư, tăng sức cạnh tranh cho ngân hàng. - Vốn chủ sở hữu dùng để chống đỡ, bù đắp rủi ro: vốn chủ sở hữu có chức năng bảo vệ ngân hàng thương mại, giúp ngân hàng thương mại chống lại rủi ro phá sản, bù đắp những thua lỗ về mặt tài chính và nghiệp vụ. Vốn chủ sở hữu càng lớn thì ngân hàng thương mại càng có điều kiện để đa dạng hóa các nghiệp vụ ngân hàng tăng lợi nhuận đồng thời tăng sức chịu đựng của ngân hàng khi tình hình kinh tế và hoạt động kinh doanh ngân hàng trải qua giai đoạn khó khăn. - Vốn chủ sở hữu lớn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, tăng giới hạn tín dụng đối với khách hàng: Khách hàng cảm thấy yên tâm khi gửi tiền vào ngân hàng nào có khả năng tài chính mạnh mà vốn chủ sở hữu là một yếu tố nói lên điều đó. Bên cạnh đó vốn chủ sở hữu cũng ảnh hưởng tới giới hạn tín dụng đối với khách hàng. Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với mỗi khách hàng không vượt quá 15% vốn chủ sở hữu. Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn chủ sở hữu. Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn chủ sở hữu. Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn chủ sở hữu. Nếu quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ, ngân hàng không thể đáp ứng những khoản vay lớn của khách hàng, làm mất cơ hội tăng lợi nhuận và làm giảm sức cạnh tranh của ngân hàng. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: Theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN thì tổ chức tín dụng (trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% giữa vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản có rủi ro. 1.2.1.2. Khả năng sinh lời Khả năng sinh lời phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một ngân hàng thương mại làm ăn kinh doanh tốt, khả năng sinh lời cao sẽ có điều kiện trích lập các quỹ dự trữ, đầu tư mở rộng mạng lưới giao dịch, đầu tư công nghệ, khách hàng cảm thấy yên tâm tin tưởng và gửi tiền, do đó nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Đánh giá mức sinh lợi của một ngân hàng thông qua chỉ tiêu như giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế; tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu ROE (return on equity), tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản có ROA (return on assets)… ROA = (Lợi nhuận ròng sau thuế / Vốn chủ sở hữu và các quỹ) x 100 Chỉ tiêu này được coi là thước đo hiệu quả đầu tư của ngân hàng hay hiệu quả khai thác tài sản có. ROA giúp các nhà quản trị ngân hàng thấy được khả năng bao quát của ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản có, là thước đo hiệu quả đầu tư của ngân hàng vì mọi tài sản có đều là những khoản đầu tư. Nói cách khác, ROA giúp ta xác định hiệu quả kinh doanh tốt, ngân hàng có cơ cấu tài sản hợp lý, có sự điều động linh hoạt giữa các mục tiêu trên tài sản có trước những biến động của nền kinh tế. ROE = (Lợi nhuận ròng sau thuế / Tổng tài sản có bình quân) x 100 Chỉ tiêu này được coi là một thước đo hiệu quả của một đồng vốn ngân hàng bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. ROE đo lường hiệu quả sử dụng một đồng vốn chủ sở hữu. Mức sinh lời trên vốn chủ sở hữu là mục tiêu tìm kiếm của bất cứ chủ ngân hàng nào, song nếu ROE quá lớn so với ROA chứng tỏ vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng hay ngân hàng đã huy động quá nhiều vốn từ các đối tượng khác để cho vay, làm tăng rủi ro kinh doanh. Trong cạnh tranh, nếu ngân hàng có năng lực cạnh tranh tốt thì hoạt động và thu được lợi nhuận cao hơn các đối thủ khác. Chỉ tiêu ROA, ROE cũng được các tổ chức tài chính quốc tế sử dụng đánh giá điều kiện hội nhập quốc tế của ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế, mức ROA tối thiểu phải đạt trên 1% và tỷ lệ ROE tối thiểu phải đạt 15% mới bảo đảm mực hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng. 1.2.1.3. Khả năng phòng ngừa và chống đỡ rủi ro: Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại luôn đi kèm với rủi ro. Rủi ro của ngân hàng thương mại gồm nhiều loại khác nhau như rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất… Nếu khả năng phòng ngừa và chống đỡ rủi ro thấp thì khi rủi ro xảy ra, huy động kinh doanh ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn đình trệ, làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Do đó, việc xây dựng các biện pháp và công cụ để phòng ngừa và chống đỡ rủi ro là hết sức cần thiết và đây cũng được xem là một tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Ngoài ra, đối với các nhà đầu tư mua cổ phần ngân hàng và khách hàng đến gửi tiền tại ngân hàng, ngoài mục tiêu sinh lời cho các khoản đầu tư và tiền gửi của mình thì họ cũng mong muốn chọn được các ngân hàng có độ an toàn cao để bảo đảm an toàn cho tiền vốn của mình. Việc thực thi có hiệu quả công tác phòng ngừa, chống đỡ rủi ro thể hiện ở các mặt sau: - Thiết lập đầy đủ bộ máy quản lý, kiểm soát rủi ro và có cơ chế quản lý, phân công nhiệm vụ rõ ràng: Hội đồng quản trị: thông qua chính sách quản lý, kiểm soát rủi ro trong khả năng ngân hàng có thể chấp nhận được nói chung và đối với từng lĩnh vực nghiệp vụ nói riêng trên cơ sở đánh giá phân tích tính khả thi của chiến lược hoạt động kinh doanh, kế hoạch kinh doanh từng thời ký và thực trạng hoạt động của ngân hàng cùng những yếu tố tác động từ ngoài, căn cư chính sách quản lý, kiểm soát rủi ro để chỉ đạo triển khai thực hiện, định kỳ đánh giá và điều chỉnh phù hợp tình hình thực tế. Ban kiểm soát: thông qua công tác giám sát và kiểm toán độc lập để kiểm tra, đánh giá việc triển khai thực hiện và việc tuân thủ về định hướng chung và quy trình quản lý, kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Đề xuất việc ngăn ngừa xử lý những sai hạm nhằm hoàn thiện công tác quản lý, kiểm soát rủi ro. Ban điều hành: căn cứ chính sách quản lý, kiểm soát rủi ro để triển khai thực hiện thông qua việc thiết lập hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ dưới hình thức các chốt kiểm soát và các quy trình xử lý nghiệp vụ có sự giám sát lẫn nhau giữa các cá nhân và các bộ phận liên quan, hạn mức rủi ro có thể chấp nhận và các tiêu chi cảnh báo, giám sát nhằm ngăn ngừa, kịp thời xử lý khi có dấu hiệu rủi ro. Định kỳ đánh giá, đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý, kiểm soát rủi ro. Mô hình quản lý, kiểm soát rủi ro được thiết lập theo hướng quản lý tập trung tại trụ sở chính trên cơ sở hệ thống thông tin báo cáo trực tuyến được thiết lập giữa trụ sở chính với các sở giao dịch, chi nhánh nhằm bảo đảm số liệu báo cáo cập nhật, kịp thời, chính xác để phục vụ công tác quản lý, điều hành và kiểm soát rủi ro. - Chính sách quản lý, kiểm soát rủi ro đánh giá toàn diện về các loại hình rủi ro trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các rủi ro có ảnh hưởng trọng yếu tới an toàn hoạt động ngân hàng (rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường, rủi ro hối đoái, rủi ro hoạt động…); đồng thời đảm bảo các nguyên tắc quản lý rủi ro: Nguyên tắc chấp nhận rủi ro: nhà quản lý ngân hàng cần phải chấp nhận rủi ro ở mức cho phép nếu như mong muốn có được thu nhập phù hợp từ những hoạt động nghiệp vụ của mình. Việc chấp nhận mức độ, loại rủi ro ngân hàng nào chính là điều kiện quan trọng điều tiết những tác động tiêu cực chính trong quá trình quản lý rủi ro. Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép: đòi hỏi phần lớn rủi ro trong “gói rủi ro cho phép” phải có khả năng điều tiết trong quá trình quản lý, không phụ thuộc vào hoàn cảnh khách quan hoặc chủ quan của nó. Chỉ đối với những loại rủi ro này, các nhà quản lý mới có thể sử dụng những “vũ khí”, “nghệ thuật” của mình để điều tiết chúng. Những rủi ro không có khả năng điều chỉnh phải được chuyển sang các công ty bảo hiểm bên ngoài. Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt: không gộp các nhóm rủi ro khác nhau vào một nhóm để cùng đưa ra một phương pháp điều chỉnh. Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập: chỉ chấp nhận các mức độ rủi ro mà thiệt hải khi chúng xảy ra không được cao quá mức thu nhập phù hợp. Nguyên tắc hiệu quả kinh tế: chi phí ngân hàng bỏ ra điều tiết những tác động tiêu cực của rủi ro khi xảy ra phải thấp hơn giá trị thiệt hại do những rủi ro ngân hàng có khả năng xảy ra ở mức độ cao nhất. Nguyên tắc hợp lý về thời gian: thời gian tồn tại của một nghiệp vụ ngân hàng càng lâu thì biên độ xảy ra rủi ro càng lớn, khả năng điều tiết tác động tiêu cực của nó và tính kinh tế của quản lý rủi ro càng thấp. Vì vậy, ngân hàng phải đảm bảo có mức thu nhập phụ trội cần thiết không chỉ vì lợi nhuận mà còn vì mục đích bù đắp những chi phí để điều tiết tác động của rủi ro trong trường hợp chúng xảy ra. Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng: hệ thống quản lý rủi ro cần được dựa trên nền tảng những tiêu chí chung của chiến lược phát triển của ngân hàng và chính sách đìu hành hoạt động riêng biệt của ngân hàng. Nguyên tắc chuyển đẩy các rủi ro không cho phép: các rủi ro không tương thích khả năng của ngân hàng trong điều tiếu hậu quả tiêu cực khi chúng xảy ra hay không phù hợp với yêu cầu cụ thể của chiến lược và chính sách điều hành hoạt động ngân hàng cần được loại bỏ khỏi “gói rủi ro cho phép”. 1.2.2. Khả năng ứng dụng công nghệ Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là một trong những nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của mỗi ngân hàng. Vai trò của công nghệ đối với các hoạt động ngân hàng được thể hiện: - Cho phép lưu trữ và đẩy nhanh tốc độ xử lý các dữ liệu tạo điều kiện cho công tác hạch toán kế toán, lưu trữ và báo cáo. Nhờ đó, ngân hàng giảm thời gian của quy trình xử lý nghiệp vụ, cập nhật số liệu báo cáo phục vụ hữu hiệu cho công tác điều hành, quản lý, kiểm soát đối với hoạt động ngân hàng. - Cho phép đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và liên kết với các doanh nghiệp khác trong việc bán chéo sản phẩm dịch vụ. - Cho phép thiết lập hệ thống giao dịch trực tuyến, xóa bỏ giới hạn trong hoạt động ngân hàng về địa giới hành chính, thời gian giao dịch và yêu cầu phải đến địa điểm ngân hàng để thực hiện giao dịch, góp phần quan trọng vào hoạt động thương mại điện tử. - Cho phép thiết lập hệ thống thông tin quản lý trực tiếp phục vụ hữu hiệu cho công tác quản lý điều hành theo mô hình tập trung, nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự động ATM… mà còn bao gồm hệ thống thông tin quản lý, hệ thống báo cáo rủi ro…trong nội bộ ngân hàng. Đặc biệt trong điều kiện ngành công nghệ thông tin nói chung và công nghệ ngân hàng nói riêng phát triển nhanh chóng như hiện nay, khả năng nâng cấp và đổi mới công nghệ cũng là chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực công nghệ của một ngân hàng. Với tốc độ phát triển rất nhanh của ngành công nghệ thông tin nói chung và công nghệ lĩnh vực ngân hàng nói riêng, nếu chỉ tập trung phân tích vào khả năng công nghệ hiện tại mà không chú ý tới khả năng nâng cấp và thay đổi trong tương lai thì sẽ rất dễ có những nhận thức sai lầm về năng lực công nghệ của các ngân hàng. Vì thế năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng công nghệ hiện tại mà còn bao gồm cả khả năng mở (khả năng đổi mới) của các công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế. Đổi mới công nghệ ngân hàng là tin học hóa hoạt động ngân hàng, tin học hóa các nghiệp vụ ngân hàng, mở rộng dịch vụ ngân hàng hiện đại trên nền công nghệ mới gắn liền với việc thay đổi cơ chế pháp lý phù hợp. 1.2.3. Nguồn nhân lực Con người luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động kinh tế xã hội. Trong lĩnh vực ngân hàng, con người là một nguồn lực đặc biệt quan trọng, là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của ngân hàng và là nền tảng cho mọi cải tiến và phát triển. - Trình độ chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm hoạt động ngân hàng của những người tham gia công tác quản trị, kiểm soát, điều hành ngân hàng quyết định tới chất lượng và tính khả thi của việc xây dựng và thực hiện chiến lược hoạt động kinh doanh cũng như chính sách quản lý, kiểm soát rủi ro của ngân hàng. Nhiều kinh nghiệm của thế giới cho thấy một đội ngũ lãnh đạo giỏi luôn là yếu tố đưa hoạt động ngân hàng phát triển. - Trình độ chuyên môn cao, thao tác nghiệp vụ thành thạo, kinh nghiệm của đội ngũ các nhân viên ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, có thể phục vụ khách hàng chu đáo, chính xác, nhanh chóng, chất lượng công tác quản lý tốt và kiểm soát được rủi ro. - Chính sách nhân sự, đào tạo và sử dụng, đãi ngộ hợp lý sẽ giữ được cán bộ có trình độ, năng lực tận tâm phục vụ cho sự nghiệp ngân hàng đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ, thu hút những người có trình độ cao đến với ngân hàng. Nguồn nhân lực có trình độ cao, có năng lực và kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng chính là nguồn tài sản có giá trị của ngân hàng. Ngân hàng là một ngành đòi hỏi người lao động phải có kinh nghiệm và trình độ cao được tích lũy theo thời gian. Rõ ràng, nếu một ngân hàng có tốc độ lưu chuyển nhân viên cao sẽ không phải là một ngân hàng có lợi thế về nguồn nhân lực. Hiệu quả của các chính sách nhân sự, đặc biệt chính sách tuyển dụng, cơ chế thù lao là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng duy trì một đội ngũ nhana sự chất lượng cao của một ngân hàng. 1.2.4. Trình độ quản lý và cơ cấu tổ chức Trình độ quản lý có vai trò quan trọng trong việc quyết định năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Nếu trình độ quản lý không tốt sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, bộ máy quản lý cồng kềnh gây lãng phí, chất lượng nguồn nhân lực không cao… làm giảm năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Đối với các nâng cao đang phát triển như Việt Nam, khi hội nhập quốc tế về ngân hàng, sự tham gia của các ngân hàng thương mại nâng cao ngoài có tiềm lực tài chính hùng mạnh, trình độ quản lý cao, có bề dày kinh nghiệm trên thị trường quốc tế sẽ là một thách thực không nhỏ đối với các ngân hàng thương mại trong nâng cao. Do đó các ngân hàng thương mại trong nâng cao phải nâng cao trình độ quản lý trong đó đặc biệt quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực. Trình độ quản lý phản ánh năng lực điều hành của hội đồng quản trị cũng như ban giám đốc của một ngân hàng. Năng lực quản lý thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của hội đồng quản trị đối với ban giám đốc; mục tiêu, động cơ, mức độ cam kết của ban giám đốc cũng như hội đồng quản trị đối với việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng; chính sách tiền lương và thu nhập đối với ban giám đốc; số lượng, chất lượng và hiệu lực thực hiện cảu các chiến lược, chính sahcs và quy trình kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán kiểm soát nội bộ. Năng lực quản lý quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của ngân hàng. Một ban giám đốc hay hội đồng quản trị yếu kém, không có khả năng đưa ra những chính sách, chiến lược hợp lý, thích ứng với thay đổi của thị trường… sẽ làm lãng phí nguồn lực và làm yếu đi năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó. Năng lực quản lý của hội đồng quản trị cũng như ban giám đốc cũng bị chi phối bởi cơ cấu tổ chức của ngân hàng thương mại. Cơ cấu tổ chức là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực của một ngân hàng có phù hợp với quy mô, trình độ quản lý của ngân hàng; phù hợp với đặc trưng cạnh tranh của ngành và yêu cầu của thị trường hay không. Cơ cấu tổ chức của một ngân hàng thể hiện ở sự phân chia các phòng ban chức năng, các bộ phận tác nghiệp, cac đơn vị trực thuộc… Hiệu quả của cơ chế quản lý không chỉ phản ánh ở số lượng các phòng ban, sự phân công, phân cấp giữa các phòng ban mà còn phụ thuộc vào mức độ phối hợp giữa các phòng ban, các đơn vị trong việc triển khai chiến lược kinh doanh, các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày, khả năng thích nghi và thay đổi của cơ cấu trước những biến động của ngành hay biến động môi trường vĩ mô. 1.2.5. Năng lực hoạt động 1.2.5.1 Khả năng huy động vốn Huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của các ngân hàng thương mại, quyết định quy mô kinh doanh. Ngân hàng nào có khả năng huy động vốn lớn thì có triển vọng mở rộng thị phần tín dụng, đầu tư và dịch vụ khác nhằm tăng lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Khả năng huy động vốn của ngân hàng được đánh giá thông qua một số tiêu chí như: thị phần huy động vốn, mức tăng trưởng huy động vốn, lãi suất huy động cạnh tranh, sự đa dạng hóa về kỳ hạn gửi, sự thuận tiện khi giao dịch, các chương trình mark._.eting hiệu quả… Thị phần huy động vốn của NH A = (Nguồn vốn huy động của NH A / Tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ các NH) x 100 Tốc độ tăng trưởng vốn huy động của NH A = (Nguồn vốn huy động năm nay - Nguồn vốn huy động năm trước) / Nguồn vốn huy động năm trước x 100 1.2.5.2 Hoạt động tín dụng, đầu tư Hoạt động tín dụng và đầu tư là hoạt động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận, nhất là ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân hàng thương mại tốt sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, phát triển khả năng huy động vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh và từ đó nâng cao được năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Một số chỉ tiêu thường dùng đánh giá hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại: - Thị phần tín dụng của ngân hàng: là mức so sánh gữa dư nợ tín dụng của ngân hàng này với tổng dư nợ của thị trường tín dụng ngân hàng. - Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và đầu tư của ngân hàng là mức so sánh gữa mức tăng dư nợ tín dụng và đầu tư ở các thời kỳ kế tiếp nhau. Cũng có thể so sánh tốc độ tăng trưởng của các ngân hàng khác nhau để thấy rõ năng lực hoạt động giữa chúng. - Khả năng cho vay, bảo lãnh tối đa đối với một khách hàng hoặc một nhóm khách hàng có liên quan, phụ thuộc vào tỷ lệ giới hạn tối đa cho vay, bảo lãnh so với mức vốn tự có của ngân hàng. Theo quy định tại Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc NHNN thì giới hạn cho vay, bảo lãnh như sau: + Tổng mức cho vay của TCTD đối với một khách hàng không quá 15% vốn tự có của TCTD, đối với một nhóm khách hàng có liên quan không quá 40% vốn tự có của TCTD. + Tổng mức cho vay và bảo lãnh của TCTD đối với một khách hàng không quá 25% vốn tự có của TCTD, đối với một nhóm khách hàng có liên quan không quá 60%. - Khả năng đầu tư góp vốn, liên doanh tối đa của ngân hàng. Theo quy định tại Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc NHNN xác định như sau: + Mức đầu tư vào một khoản đầu tư thương mại dưới hình thức góp vốn đầu tư, liên doanh, mua cổ phần của tổ chức tín dụng không được quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư hoặc 11% giá trị dự án đầu tư. + Tổng mức đầu tư trong tất cả các khoản đầu tư thương mại của tổ chức tín dụng không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của tổ chức tín dụng. + Tổ chức tín dụng đầu tư vào một khoản đầu tư thương mại vượt quá tỷ lệ quy định 11% nêu trên phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận trước bằng văn bản với điều kiện khoản đầu tư đó là hợp lý và tổ chức tín dụng đã chấp hành các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng, có tỷ lệ nợ xấu từ 3% tổng dư nợ trở xuống. - Khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay và đầu tư thể hiện: khả năng sinh lời từ kết quả cho vay và đầu tư; tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay, đầu tư trên tổng thu nhập của ngân hàng; chất lượng hoạt động cho vay thông qua tỷ lệ nợ xấu trên tổng doanh nghiệp thấp; khả năng đa dạng hóa hoạt động kinh doanh thông qua hoạt động đầu tư; góp vốn vào các doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động khác, đặc biệt là lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm để giúp ngân hàng tăng khả năng đa dạng hóa sản phẩm, liên kết giữa các sản phẩm và bán chéo sản phẩm. 1.2.5.3 Phát triển sản phẩm dịch vụ khác * Khả năng cung cấp các dịch vụ trung gian thanh toán Nền kinh tế càng phát triển các dịch vụ ngân hàng cũng phát triển theo đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của khách hàng. Hoạt động này mang lại thu nhập khá quan trọng cho ngân hàng và chứa đựng ít rủi ro. Ở các nước phát triển, thu nhập từ nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ chiếm trên 50% thu nhập của ngân hàng. Đây là một tiêu chí đánh giá năng lực hoạt động của ngân hàng thương mại, thể hiện ở: - Ngân hàng có thể cung ứng nhiều các phương tiện thanh toán (séc, ủy nhiệm chi, thu tín dụng, ủy nhiệm thu, thanh toán chuyển tiền, thẻ ngân hàng…) do đó khách hàng có nhiều sự lựa chọn. - Ngân hàng có thể thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế trên cơ sở tham gia thị trường thanh toán liên ngân hàng và thiết lập các quan hệ đại lý thanh toán với các ngân hàng khác, đặc biệt là quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của khách hàng. - Ngân hàng đảm bảo việc thanh toán, chi trả nhanh cóng, chính xác theo nhu cầu của khách hàng. - Ngân hàng có khả năng cung ứng các dịch vụ thanh toán trực tuyến thông qua hệ thống công nghệ tin học, viễn thông như internetbanking, phonebanking, homebanking… - Ngân hàng có số lượng thẻ ngân hàng được phát hành lớn, doanh số giao dịch qua thẻ ngân hàng cao, đặc biệt là có hệ thống máy ATM và thiết lập hệ thống đơn vị đại lý chấp nhận thanh toán thẻ nhiều, có khả năng liên kết với hệ thống thanh toán thẻ của nhiều ngân hàng trong và ngoài nước. Sự phát triển đa dạng của đời sống xã hội cùng với sự tiến bộ về khoa học công nghệ đòi hỏi các ngân hàng thương mại ngoài việc cạnh tranh về giá còn phải không ngừng tìm tòi, phát triển những hình thức dịch vụ mới, đa dạng hóa danh mục, chủng loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, tăng thêm thị phần và lợi nhuận cho ngân hàng. * Khả năng đa dạng hóa sản phẩm trong từng dịch vụ ngân hàng và nhiều loại dịch vụ ngân hàng, thể hiện: - Có nhiều hình thức huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế như phát hành trái phiếu, giấy tờ có giá, nhận tiền gửi nội, ngoại tệ, hoặc gửi vàng tiết kiệm với nhiều hình thức khác nhau (có nhiều kỳ hạn huy động vốn, trả lại trước hoặc sau, gửi một nơi, rút nhiều nơi, gửi tiền tiết kiệm tích lũy…) - Có nhiều hình thức cho vay, tài trợ thương mại khác nhau về kỳ hạn vay, trả, loại đồng tiền, cách giải ngân, cách trả gốc và lãi, chiết khấu giấy tờ có giá… - Có nhiều hình thức thanh toán với nhiều loại phương tiện thanh toán tiện ích, hiện đại như thẻ thanh toán, thanh toán điện tử (internetbanking, telephonebanking, homebanking…) - Có nhiều sản phẩm dịch vụ hỗ trợ khách hàng như tư vấn tài chính, các sản phẩm phái sinh giúp khách hàng phòng rủi ro, môi giới bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ, kinh doanh vàng bạc, ngoại hối, nhận ủy thác và làm đại lý, kinh doanh dịch vụ bảo hiểm… 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại 1.3.1. Các nhân tố bên ngoài 1.3.1.1. Môi trường kinh tế Sự phát triển của nên kinh tế trong nước và quốc tế có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ ngày càng tăng sẽ tác động đến khả năng thu hút tiền gửi, khả năng cho vay đầu tư và phát triển các dịch vụ ngân hàng của ngân hàng thương mại. Ngân hàng là một ngành chứa đựng nhiều rủi ro. Mỗi một biến động bất lợi của môi trường kinh tế vĩ mô đều có thể ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của một ngân hàng. Một nước có nền kinh tế phát triển ổn định, tốc độ tăng trưởng cao, các chỉ số về lạm phát, lãi suất, tỷ giá phát triển ổn định, năng lực cạnh tranh cao sẽ là một điều kiện hết sức thuận lợi cho sự phát triển của toàn bộ hệ thống ngân hàng, giúp các ngân hàng thương mại trong nước có điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của mình. Và ngược lại, sự bất ổn định về kinh tế có thể tạo ra sự dè dặt, co cụm của những nỗ lực đầu tư của các doanh nghiệp nói chung và của các ngân hàng thương mại nói riêng. 1.3.1.2. Đối thủ cạnh tranh Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các chủ thể nói chung và trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng là một quy luật khách quan. Trong phạm vi quốc gia, đối thủ cạnh tranh của các ngân hàng chính là các ngân hàng khác, ngoài ra còn có các định chế tài chính phi ngân hàng như công ty bảo hiểm, công ty tiết kiệm bưu điện, quỹ tín dụng nhân dân, công ty tài chính. Trong điều kiện hội nhập, có nhiều ngân hàng quốc tế vào đầu tư và ngược lại các ngân hàng thương mại mở rộng phạm vi kinh doanh ra thị trường quốc tế, do đó các ngân hàng thương mại chịu sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài, chịu sự cạnh tranh của các đối thủ ở nước sở tại, nơi mà ngân hàng thương mại thành lập chi nhánh và tiến hành hoạt động kinh doanh. Số lượng các đối thủ cạnh tranh càng nhiều thì mức độ cạnh tranh càng cao. Trong quá trình kinh doanh, nếu một ngân hàng thương mại có năng lực cạnh tranh thấp hơn các đối thủ cạnh tranh khác thì ngân hàng thương mại đó sẽ có khả năng bị giảm doanh thu, thị phần bị thu hẹp hoặc nặng hơn có thể bị phá sản. Do đó, để đứng vững và giàn phần thắng trong cạnh tranh, đòi hỏi mỗi ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nghiên cứu điểm mạnh, điểm yếu, lợi thế cạnh tranh của đối thủ để có chiến lược kinh doanh hợp lý. 1.3.1.3. Hệ thống luật pháp Hệ thống luật pháp trước hết tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Hệ thống luật pháp tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Luật quy định những điều kiện cần thiết về mặt pháp lý để một ngân hàng thương mại được phép kinh doanh, những lĩnh vực kinh doanh hợp pháp, giới hạn về quy mô huy động vốn, khả năng cấp tín dụng, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, các quy định đảm bảo an toàn. Ngoài ra, những quy định của luật cũng tác động đến khả năng tham gia cạnh tranh của các chủ thể trên thị trường tài chính, gia tăng hay kìm hãm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trên thị trường quốc tế. Khi có sự thay đổi về luật, các quy định trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của quốc gia sẽ kéo thao sự điều chỉnh trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Hệ thống pháp luật là cơ sở pháp lý xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các chủ thể, đề ra các quy định và các nguyên tắc trong cạnh tranh, chi phối đến việc mở rộng hay giới hạn quy mô cạnh tranh của thị trường, phát triển môi trường cạnh tranh tạo động lực thúc đẩy các ngân hàng thương mại tự nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Hệ thống luật pháp một mặt tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, đảm bảo quyền lợi chính đáng và hợp pháp của các ngân hàng thương mại nhưng mặt khác cũng thực hiện chức năng ngăn ngừa và có chế tài xử phạt thích đáng đối với hoạt động tiêu cực, cạnh tranh không lành mạnh. 1.3.1.4. Đặc điểm văn hóa xã hội Năng lực cạnh tranh của một ngành có thể bị tác động bởi một số yếu tố văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực ngân hàng, các đặc điểm đó tác động rất nhiều đến yếu tố con người thông qua việc tác động đến nhu cầu và nguồn nhân lực. Trước hết, những đặc điểm xã hội ảnh hưởng đến cầu đối với các dịch vụ ngân hàng như lòng tin của dân chúng; thói quen tiêu dùng và tiết kiệm của người dân; trình độ dân trí và khả năng hiểu biết về các dịch vụ của ngân hàng; mức thu nhập của người dân. Ngân hàng là người giữ túi tiền cho người dân và các doanh nghiệp, nếu hệ thống ngân hàng không được người dân tin tưởng thì chắc chắn ngân hàng không thể phát triển. Thói quen tiêu dùng của người dân cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là thói quen sử dụng tiền tệ. Nếu người dân sử dụng tiền mặt nhiều thì người dân mất đi cơ hội kinh doanh. Mức tiết kiệm của người dân càng cao càng có ảnh hưởng đến nguồn cung tín dụng cho các ngân hàng. Trình độ dân trí cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng. Trình độ dân trí ở một quốc gia càng cao thì khả năng phổ biến dịch vụ ngân hàng hiện đại càng thuận tiền , cơ hội đổi mới của các ngân hàng cũng cao hơn. Mức thu nhập cũng vậy, người dân có thu nhập càng cao càng có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng nhiều hơn. Ngoài ra, đặc điểm văn hóa xã hội ảnh hưởng đến nguồn nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng có thể kể đến như quan điểm về doanh nhân và kinh doanh; quan điểm về sự giàu có; quan điểm về thăng tiến; về đạo đức nghề nghiệp; quan điểm về học tập, tự đào tạo; quan điểm về sự gắn bó nghề nghiệp hay quan điểm về rủi ro thất bại… Phải quan niệm rõ ràng, ngân hàng trước hết là một doanh nghiệp, do đó được toàn xã hội coi trọng và tạo điều kiện phát triển. Bên cạnh đó, ngân hàng là một ngành dịch vụ chất xám và cần có những cá nhân xuất sắc, có tham vọng kinh doanh, làm giàu và thăng tiến sẽ tạo nên thành công của ngân hàng. Ở một đất nước, những giá trị trên được quan tâm và coi trọng thì sẽ tạo điều kiện cho những người có phẩm chất đó phát triển, đồng thời các ngân hàng có nhiều cơ hội tuyển chọn nguồn nhân lực tốt và phù hợp. Ngân hàng là một ngành có nhiều rủi ro, những người làm việc trong lĩnh vực ngân hàng phải là những người có khả năng phát hiện và đánh giá được rủi ro, dám chấp nhận rủi ro, đồng thời là người có sự thận trọng cần thiết, tôn trọng các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp. Việc coi trọng đạo đức là cơ sở để ngân hàng giữ chữ tín đối với khách hàng, gây dựng niềm tin của công chúng. Một xã hội coi trọng đạo đức cũng là điều kiện thuận lợi đối với việc nâng cao vị thế cạnh tranh của ngân hàng. Sự gắn bó với nghề nghiệp cũng có ý nghĩa trong việc giúp người lao động có thời gian và cơ hội tích lũy kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm, từ đó giúp ngân hàng duy trì được đội ngũ nhân lực ổn định và có trình độ cao. Ngân hàng là một ngành có tốc độ đổi mới và cải tiến rất cao, vì thế khả năng tự học, tự đào tạo của các nhân viên có ý nghĩa lớn đối với việc duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Một xã hội coi trọng việc học tập và rèn luyện cũng mang lại thuận lợi đối với ngành ngân hàng. 1.3.1.5. Vai trò của nhà nước và NHTW Vai trò của Nhà nước là một yếu tố mang tính chất xúc tác rất quan trọng với sự phát triển của bất kỳ ngành nào ở một nước. Đối với lĩnh vực ngân hàng, Nhà nước lại càng đóng một vai trò quan trọng. Nhà nước tác động đến sự phát triển của các ngân hàng trước hết với vai trò của người quản lý và giám sát của toàn hệ thống thông qua vai trò của ngân hàng Nhà nước. Sự hoạt động lành mạnh và an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế ở một quốc gia. Do những mối liên kết rất chặt chẽ của toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại, sự đồ vỡ của một ngân hàng thường gây ra những hậu quả rất to lớn và cớ khả năng gây ra hiệu ứng lan truyền lên toàn hệ thống. Vì thế, hoạt động của các ngân hàng thương mại phải chịu sự quản lý và giám sát hết sức chặt chẽ của các cơ quan nhà nước nói chung và của ngân hàng Nhà nước nói riêng. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước cao nhất trong lĩnh vực ngân hàng, có chức năng soạn thảo các dự thảo luật, ban hành các quy định hướng dẫn về mặt pháp lý trong kinh doanh ngân hàng nhằm đảm bảo hoạt động của các ngân hàng thương mại, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại… Với vai trò quan trọng như vậy đòi hỏi ngân hàng Nhà nước phải có năng lực quản lý điều hành phù hợp. Nếu năng lực quản lý điều hành của ngân hàng Nhà nước không tốt sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và hội nhập của các ngân hàng thương mại. Ví dụ không đưa ra được các quy định pháp lý kịp thời hướng dẫn hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, không có các biện pháp cảnh cáo, ngăn chặn cần thiết đối với các hành vi tiêu cực, gian lận, vi phạm những điều bị cấm hoặc không khuyến khích, hạn chế về năng lực điều hành chính sách tiền tệ. 1.3.2. Các nhân tố bên trong Ngân hàng là một lĩnh vực dịch vụ đặc thù mà đối tượng kinh doanh là quyền sử dụng tiền tệ và các nghiệp vụ kinh doanh liên quan đến tiền tệ khác (như thanh toán, mua bán ngoại hối…). Các nhân tố nội tại của ngành như nguồn nhân lực, công nghệ, cơ chế điều hành, cơ sở vật chất kỹ thuật… ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của ngành. Một ngân hàng thương mại có đội ngũ cán bộ quản lý nhân viên giỏi sẽ có khả năng quản lý điều hành tốt mọi hoạt động của ngân hàng, có khả năng hoạch định và thực thi chiến lược một cách hiệu quả, có kỹ năng thao tác nghiệp vụ thành thạo trong quá trình cung ứng sản phẩm…Ưu thế về nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Chất lượng nguồn nhân lực là kết quả của sự cạnh tranh trong quá khử đồng thời lại chính là năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại trong tương lai. Trong thời đại kỹ thuật công nghệ số phát triển với tốc độ nhanh chóng không ngừng, đã trở thành nhân tố quan trọng nhất trong các nhân tố cấu thành cơ sở hạ tầng của các ngân hàng thương mại. Công nghệ tự động thực hiện ngày càng nhiều công việc tác nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng với thời gian ngày càng ngắn, độ chính xác ngày càng cao đồng thời đem lại tiện ích cao cho các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Cơ chế điều hành cũng là yếu tố tác động quan trọng, nếu cơ chế quản lý điều hành không tốt thì sẽ dẫn đến bộ máy cồng kềnh, hoạt động thiếu hiệu quả, mất cơ hội kinh doanh, không ứng phó kịp thời trước những diễn biến của thị trường, lãng phí về nguồn lực con người và vật chất, dẫn tới giảm năng lực cạnh tranh. Đây cũng là thách thức lớn của các ngân hàng thương mại Việt Nam khi hội nhập vid năng lực quản trị điều hành của các ngân hàng hiện nay còn hạn chế. Cơ sở vật chất kỹ thuật cũng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng thương mại. Một ngân hàng thương mại có mạng lưới chi nhánh rộng lớn, nơi giao dịch sạch đẹp, thuận tiện cho khách hàng, có công nghệ hiện đại, trang thiết bị kỹ thuật đạt chuẩn, đồng bộ sẽ có cơ hội thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch, tăng khả năng cạnh tranh. Chương 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 2.1. Khái quát về ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Ngày 01 tháng 04 năm 1963, NHNT chính thức được thành lập theo Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 30 tháng 10 năm 1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Trung ương (nay là NHNN). Theo Quyết định nói trên, NHNT đóng vai trò là ngân hàng chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam tại thời điểm đó hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm cho vay tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ kinh tế đối ngoại khác (vận tải, bảo hiểm...), thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các ngân hàng nước ngoài, làm đại lý cho Chính phủ trong các quan hệ thanh toán, vay nợ, viện trợ với các nước xã hội chủ nghĩa (cũ)... Ngoài ra, NHNT còn tham mưu cho Ban lãnh đạo NHNN về các chính sách quản lý ngoại tệ, vàng bạc, quản lý quỹ ngoại tệ của Nhà nước và về quan hệ với Ngân hàng Trung ương các nước, các Tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Ngày 21 tháng 09 năm 1996, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 286/QĐ-NH5 về việc thành lập lại NHNT theo mô hình Tổng công ty 90, 91 được quy định tại Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ. Trải qua gần 45 năm xây dựng và trưởng thành, tính đến thời điểm cuối năm 2006, NHNT đã phát triển lớn mạnh theo mô hình ngân hàng đa năng với 58 Chi nhánh, 1 Sở Giao dịch, 87 Phòng Giao dịch và 4 Công ty con trực thuộc trên toàn quốc; 2 Văn phòng đại diện và 1 Công ty con tại nước ngoài, với đội ngũ cán bộ gần 6.500 người. Ngoài ra, NHNT còn tham gia góp vốn, liên doanh liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau như kinh doanh bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư... Tổng tài sản của NHNT tại thời điểm cuối năm 2006 lên tới xấp xỉ 170 nghìn tỷ VND (tương đương 10,4 tỷ USD), tổng dư nợ đạt gần 68 nghìn tỷ VND (4,25 tỷ USD), vốn chủ sở hữu đạt hơn 11.127 tỷ VND, đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% theo chuẩn quốc tế. Quá trình phát triển của NHNT được chia làm các giai đoạn chủ yếu như sau: - Giai đoạn 1963-1975: Trong giai đoạn này, NHNT đã hoàn thành nhiệm vụ đối nội và đối ngoại được Nhà nước giao phó: thực hiện chức năng ngân hàng đối ngoại độc quyền, tiếp nhận viện trợ nước ngoài phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế ở miền Bắc và phục vụ công cuộc giải phóng miền Nam. - Giai đoạn 1975-1990: Sau ngày giải phóng miền Nam, NHNT đã tham gia tiếp quản các ngân hàng cũ, hoàn tất các thủ tục pháp lý, thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ được giao với vai trò hội viên của Việt Nam tại IMF, WB, ADB, xác định quyền sở hữu về tài sản quốc gia đối với các tài sản là hàng hóa, ngoại tệ hiện đang ở bên ngoài. Trong giai đoạn khó khăn của nền kinh tế đất nước trước việc bị Mỹ cấm vận, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa giảm sút, cán cân thương mại mất cân đối nghiêm trọng, cán cân thanh toán quốc tế luôn bội chi, NHNT đã thực hiện chủ trương mở rộng đầu tư cho xuất khẩu, kiến nghị Nhà nước ban hành các cơ chế khuyến khích xuất khẩu, mở rộng dịch vụ thu ngoại tệ thông qua cơ chế thưởng ngoại tệ, cơ chế cấp quyền sử dụng ngoại tệ góp phần tạo nguồn cung ngoại tệ cho nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất, phân bón, thuốc trừ sâu và lương thực. - Giai đoạn 1990-1996: Ngày 14 tháng 11 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Chỉ thị số 403/CT chuyển NHNT theo Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng thành NHTM Quốc doanh, lấy tên là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam gọi tắt là Ngân hàng Ngoại thương. Cùng với việc Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty Tài chính ngày 23 tháng 05 năm 1990, NHNT được chính thức chuyển từ một ngân hàng chuyên doanh, độc quyền trong hoạt động kinh tế đối ngoại sang một NHTM Quốc doanh hoạt động đa năng và tự do cạnh tranh với các loại hình ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác. Năm 1995, NHNT đã tham gia vào hệ thống thanh toán SWIFT và trở thành đầu mối thanh toán quốc tế quan trọng của cả nước. - Giai đoạn 1996-1999: Giai đoạn này NHNT tiếp tục đầu tư, phát triển mở rộng các lĩnh vực hoạt động kinh doanh, đi tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng như hoàn thành hệ thống ngân hàng trực tuyến, hệ thống ngân hàng lõi – Core Banking (Vietcombank Vision 2010),trở thành thành viên của tổ chức thanh toán thẻ quốc tế Visa Card, Master Card... Cũng trong giai đoạn này, NHNT cũng đã tham gia đầu tư vào một loạt các dự án lớn trong các lĩnh vực trọng yếu của đất nước như đường ống Nam Côn Sơn, Đạm Phú Mỹ, Đuôi hơi Phú Mỹ, Thuỷ điện Yaly… - Giai đoạn 1999-2006: Với bề dày kinh nghiệm hoạt động ngân hàng đối ngoại và sau nhiều bước đi quá độ, NHNT đã từng bước tiếp cận, nhanh chóng thích nghi với nền kinh tế thị trường, giữ vững vai trò chủ lực trong hệ thống NHTM Việt Nam và là NHTM hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực tài trợ thương mại, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối và ứng dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNT tiếp tục phát huy vai trò chủ đạo trên thị trường tiền tệ góp phần thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia. Thương hiệu Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được cộng đồng trong nước và quốc tế biết đến như một biểu trưng của hệ thống NHTM Việt Nam. Cũng trong giai đoạn này, NHNT là một trong những thành viên đầu tiên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và là thành viên của nhiều hiệp hội tài chính khác như Hiệp hội Ngân hàng Châu Á (ABA), tổ chức thanh toán thẻ quốc tế Amex Express năm 2002. Tính đến thời điểm này, NHNT đã có quan hệ ngân hàng đại lý với khoảng 1.200 ngân hàng và định chế tài chính tại 85 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, đảm bảo phục vụ tốt các yêu cầu của khách hàng trên phạm vi toàn cầu. Ngoài ra, NHNT còn là NHTM duy nhất tại Việt Nam được tạp chí “The Banker” – tạp chí ngân hàng uy tín trong giới tài chính quốc tế của Anh Quốc bình chọn là “Ngân hàng tốt nhất của Việt Nam” liên tục trong 5 năm 2000 – 2004. Để có đủ điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và chuẩn bị cho quá trình triển khai cổ phần hóa, từ cuối năm 1999, Ban lãnh đạo NHNT đã xây dựng chiến lược phát triển tới năm 2010 với mục tiêu trở thành một Tập đoàn đầu tư tài chính ngân hàng hoạt động đa năng, kết hợp bán buôn với bán lẻ, đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng, giữ vị trí ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam và phấn đấu trở thành ngân hàng quốc tế trong khu vực. Nhằm cụ thể hóa chiến lược phát triển nói trên, NHNT đã xây dựng Đề án Tái cơ cấu NHNT giai đoạn 2001 – 2005 được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 162/2001/QĐ-TTg ngày 23 tháng 10 năm 2001. Mục tiêu cơ bản của Đề án bao gồm: (i) nâng cao năng lực tài chính; (ii) mở rộng hoạt động kinh doanh; (iii) hiện đại hóa công nghệ và phát triển sản phẩm mới; và (iv) xây dựng mô thức quản lý hiện đại, đặc biệt là trong công tác quản trị rủi ro và kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Sau 05 năm thực hiện Đề án Tái cơ cấu, đến nay, NHNT đã hoàn thành thắng lợi các mục tiêu đề ra thông qua việc: (i) xử lý về cơ bản nợ xấu và từng bước nâng cao năng lực tài chính; (ii) đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, mở rộng hoạt động kinh doanh nhằm tiến tới xây dựng Tập đoàn đầu tư tài chính ngân hàng đa năng; (iii) tạo dựng một nền tảng công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ quản lý toàn hệ thống, phát triển sản phẩm mới, mở rộng tiện ích cho khách hàng; và (iv) từng bước áp dụng các mô thức quản lý theo chuẩn mực quốc tế thông qua việc cơ cấu lại tổ chức, phát triển mạng lưới, ứng dụng các chuẩn mực quản lý tốt nhất. - Tháng 6/2008 đến nay: Ngày 23/5, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã quyết định cấp Giấy phép (số 138/GP-NHNN ) thành lập và hoạt động cho NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam sau khi cổ phần hoá, chuyển đổi Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam từ Ngân hàng thương mại Nhà nước thành Ngân hàng thương mại cổ phần từ ngày 2/6/2008. NH TMCP NTVN được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Vốn điều lệ của NH TMCP NTVN là 12.100.860.260.000 đồng. NH TMCP NTVN có thời gian hoạt động là 99 năm, được hoạt động trên các địa bàn trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật và sau khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Trong thời gian hoạt động, Ngân hàng này phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật và tuân thủ pháp luật Việt Nam, các quy định tại giấy phép thành lập và hoạt động, điều lệ tổ chức và hoạt động của NH TMCP Ngoại thương Việt Nam đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuẩn y. Theo nội dung của giấy phép thành lập và hoạt động, lĩnh vực kinh doanh của NH TMCP Ngoại thương Việt Nam  là kinh doanh ngân hàng với các nghiệp vụ được phép tiến hành kinh doanh bao gồm: huy động vốn, hoạt động tín dụng, dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, các hoạt động khác theo quy định.   2.1.2. Các mốc lịch sử chính và thành tựu được ghi nhận: - Ngày 30 tháng 10 năm 1962, NHNT được thành lập theo Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Trung ương (nay là NHNN). - Ngày 01 tháng 04 năm 1963, chính thức khai trương hoạt động NHNT như là một ngân hàng đối ngoại độc quyền. - Năm 1978, NHNT thành lập Công ty Tài chính ở Hồng Kông – Vinafico Hong Kong. - Ngày 14 tháng 11 năm 1990, NHNT chính thức chuyển từ một ngân hàng chuyên doanh, độc quyền trong hoạt động kinh tế đối ngoại sang một NHTM NN hoạt động đa năng theo Quyết định số 403-CT ngày 14 tháng 11 năm 1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. - Năm 1993, NHNT được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Hai. - Năm 1993, NHNT thành lập ngân hàng liên doanh với đối tác Hàn Quốc (First Vina Bank) nay là ShinhanVina Bank. - Năm 1994, NHNT thành lập Công ty Thuê mua và Đầu tư trực thuộc NHNT nay là Công ty Quản lý Nợ và Khai thác Tài sản. - Năm 1995, NHNT được tạp chí Asia Money – tạp chí tiền tệ uy tín ở Châu Á bình chọn là Ngân hàng hạng nhất tại Việt Nam năm 1995. - Ngày 21 tháng 09 năm 1996, Thống đốc NHNN ra Quyết định số 286/QĐ-NH5 về việc thành lập lại NHNT trên cơ sở Quyết định số 68/QĐ-NH5 ngày 27 tháng 3 năm 1993 của Thống đốc NHNN. Theo đó, NHNT được hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90, 91 quy định tại Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ với tên giao dịch quốc tế: Bank for Foreign Trade of Viet Nam, tên viết tắt là Vietcombank. - Năm 1996, NHNT thành lập Văn phòng đại diện tại Paris – Cộng hòa Pháp, tại Moscow – Cộng hòa liên bang Nga. - Năm 1996, NHNT khai trương Công ty liên doanh Vietcombank Tower 198 với đối tác Singapore. - Năm 1997, NHNT thành lập Văn phòng đại diện tại Singapore. - Năm 1997, NHNT đăng ký nhãn hiệu kinh doanh độc quyền tại Cục sở hữu Công Nghiệp, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. - Năm 1998, NHNT thành lập Công ty cho thuê tài chính NHNT – VCB Leasing. - Năm 2002, NHNT thành lập Công ty TNHH Chứng khoán NHNT – VCBS. - Năm 2003, NHNT được Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Ba. - Năm 2003, NHNT được tạp chí EUROMONEY bình chọn là ngân hàng tốt nhất năm 2003 tại Việt Nam. - Năm 2003, sản phẩm thẻ Connect 24 của NHNT là sản phẩm ngân hàng duy nhất được trao giải thưởng “Sao vàng Đất Việt”. - Năm 2004: NHNT được tạp chí The Banker bình chọn là “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam” năm thứ 5 liên tiếp. - Năm 2005: NHNT được trao giải thưởng Sao Khuê 2005 – do Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam (VINASA) tổ chức dưới sự bảo trợ của Ban chỉ đạo quốc gia về công nghệ thông tin và Bộ Bưu chính Viễn thông. NHNT là đơn vị ngân hàng duy nhất được nhận giải thưởng này. - Năm 2005: NHNT chi nhánh Đồng Nai vinh dự là chi nhánh đầu tiên của hệ thống NHNT được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lao động” vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới từ năm 1995-2004, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. - Năm 2005, NHNT góp vốn thành lập Công ty liên doanh quản lý Quỹ đầu tư Chứng khoán – VCBF. - Năm 2006: Tổng Giám đốc NHNT nhận giải thưởng “Nhà lãnh đạo ngân hàng châu Á tiêu biểu”. - Năm 2006: NHNT vinh dự là 1 trong 4 đơn vị được trao danh hiệu “Điển hình sáng tạo” trong Hội nghị quốc gia về thúc đẩy sáng tạo cho Việt Nam - Năm 2006: Tổng Giám đốc NHNT được bầu giữ chức Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng Châu Á. - Năm 2007, NHNT được trao tặng giải thưởng Thương hiệu mạnh Việt Nam 2006 do Thời báo Kinh tế và Cục xúc tiến Bộ Thương mại tổ chức. Đặc biệt thương hiệu Vietcombank lọt vào Top Ten (mười thương hiệu mạnh nhất) trong số 98 th._.ương mại điện tử tại Việt Nam. 3.2.3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực Trong dài hạn, nguồn nhân lực là nguồn lực được đánh giá là quan trọng nhất của ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam. Một đội ngũ lao động được tuyển dụng, đào tạo và trả lương hợp lý là cơ sở để các ngân hàng khai thác tối ưu những nguồn lực về vốn và công nghệ, tạo ra những lợi thế cạnh tranh cao cấp. Nhiệm vụ nâng cao chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực là một nhiệm vụ mang tính chiến lược và cấp bách không chỉ để giải quyết nhu cầu cạnh tranh hiện tại mà còn nhằm đáp ứng chiến lược phát triển lâu dài. Ngân hàng Ngoại thương cần phải xây dựng được một chiến lược về quản trị nguồn nhân lực và thiết lập cơ chế thực thi chiến lược đó một cách có hiệu quả. Ngân hàng cần có sự phân tích đánh giá thỏa đáng, khách quan thực chất nguồn nhân lực của mình. Điều này không nên dừng tại đánh giá tổng thể mà cần đến chi tiết từ cán bộ quản lý đến nhân viên tác nghiệp ngân hàng, từng loại cán bộ theo cơ cấu nghiệp vụ đến tuổi tác và trình độ… Việc đánh giá thực chất nguồn nhân lực cần dựa trên cơ sở các tiêu chí đánh giá phù hợp nhất với thông lệ quốc tế: Năng lực phẩm chất, học vấn và kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ của từng loại cán bộ nhân viên ngân hàng. Có kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cần được hình thành trên cơ sở quy trình quản lý và chuẩn hóa cán bộ. Trong đó việc chuẩn hóa cán bộ căn cứ vào yêu cầu tối thiểu phải đáp ứng về năng lực phẩm chất, học vấn và kinh nghiệm, yêu cầu về kỹ năng của từng loại chức danh công việc trong ngân hàng. Việc đào tạo nguồn nhân lực của ngân hàng phải kết hợp nhiều hình thức, trong đó đặc biệt đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao nguồn nhân lực hiện có theo yêu cầu mới, kết hợp đào tạo kỹ năng nghiệp vụ với việc nâng cao đạo đức phẩm chất nghề nghiệp của cán bộ nhân viên ngân hàng, kết hợp đào tạo với sàng lọc và cơ cấu lại bộ máy, mạng lưới giao dịch. Đào tạo kiến thức quản trị ngân hàng đáp ứng yêu cầu quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế thông qua các chương trình, dự án đào tạo quốc tế kết hợp cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài. Minh bạch hóa cơ chế tuyển dụng và áp dụng các khuyến khích để thu hút lao động có trình độ cao. Quy trình thi tuyển phải được tổ chức thật sự nghiêm túc, tránh tình trạng gian lận, tạo sự công bằng với tất cả các ứng cử viên. Đề thi phải được đảm bảo về chất lượng, đánh giá đúng được năng lực của ứng cử viên, đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của NH và phải được bảo mật. NH cũng phải quan tâm và hoàn thiện cơ chế đãi ngộ bổ nhiệm minh bạch có tác dụng thu hút nhân tài, hoàn thiện và thực hiện quy trình bổ nhiệm cán bộ đảm bảo tính khách quan, khoa học, bổ nhiệm đúng người đúng việc; hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn lãnh đạo điều hành các cấp; hạn chế tình trạng tiêu cực, bổ nhiệm người không đủ phẩm chất, năng lực lãnh đạo; tăng cường sự giám sát, thanh tra của Nhà nước, NHNN, Công đoàn và cán bộ nhân viên ngân hàng trong việc bổ nhiệm. NH xây dựng chính sách trả lương, thưởng không chỉ trên cơ sở lợi nhuận mà còn trên cơ sở những tiến bộ về mặt kiến thức, kỹ năng, khả năng ứng dụng công nghệ… của nhân viên nhằm tạo động lực khuyến khích các nhân viên không ngừng học tập và rèn luyện nâng cao năng lực nghề nghiệp. NH TMCP Ngoại thương có thể xem xét chính sách thưởng bằng cổ phiếu. Đây là biện pháp đang được nhiều ngân hàng trong khu vực cũng như trên thế giới áp dụng để khuyến khích đồng thời tạo ra sự gắn kết hầu như suốt đời của các nhân viên cũng như các nhà quản lý sản xuất sắc của ngân hàng. Bên cạnh chế độ lương, thưởng hàng năm, các chính sách đãi ngộ khác như chế độ bảo hiểm cho nhân viên, các chế độ về chăm sóc sức khỏe… cũng là những thành phần rất quan trọng trong chính sách nhân sự của ngân hàng góp phần động viên nhân viên, đặc biệt tạo ra sự gắn bó lâu dài của các nhân viên với ngân hàng. 3.2.4. Giải pháp nâng cao trình độ quản lý và hoàn thiện cơ cấu tổ chức Nâng cao trình độ quản lý: Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân sự quản lý: ngân hàng cần xây dựng kế hoạch nhân sự quản lý, có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ nguồn để đảm bảo tính kế thừa liên tục. Tổ chức khoá đào tạo riêng biệt cho cán bộ quản lý và hợp tác với ngân hàng nước ngoài tổ chức những khoá tập huấn ở nước ngoài cho cán bộ quản lý. Khoá đào tạo cho nhà quản lý cần chú trọng đến những xu thế mới trong sự phát triển của lĩnh vực ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là xu thế về sự thay đổi danh mục tài sản của ngân hàng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý điều hành ngân hàng: Cần thiết lập cơ chế giám sát hiệu quả, minh bạch hoá thông tin với hệ thống các báo cáo đầy đủ hệ thống thống thông tin quản lý thông suốt. Thực hiện phân công phân, phân nhiệm rõ ràng giữa các phòng ban cũng như ở từng vị trí điều hành, đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự điều hành minh bạch, thông suốt. Tăng cường về số lượng, nâng cao chất lượng các công cụ quản lý: Xây dựng hệ thống thông tin quản lý đảm bảo sự thông suốt của các luồng thông tin từ các phòng ban thậm chí từ mỗi nhân viên về ban lãnh đạo, từ ban lãnh đạo về các phòng ban và tới từng nhân viên. Thiết kế và sử dụng mẫu báo cáo phù hợp nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin chính xác về tình hình hoạt động của ngân hàng và các biến động của thị trường để phục vụ cho việc ra quyết định của ban lãnh đạo, đặc biệt chú trọng đến các báo cáo phục vụ công tác quản lý rủi ro. Thiết lập quy trình xử lý nghiệp vụ đầy đủ và rõ ràng đảm bảo sự tuân thủ các quy định về an toàn và hiệu quả trong toàn hệ thống, đồng thời tăng cường khả năng khai thác công nghệ của ngân hàng. Ngoài ra, cần tăng cường cơ chế giám sát và kiểm tra thông qua vai trò của ban giám sát cũng như ban kiểm toán, kiểm soát nội bộ và thực hiện nghiêm túc việc kiểm toán độc lập hàng năm. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức: Với mục tiêu phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động để trở thành một Tập đoàn đầu tư tài chính ngân hàng đa năng. Theo đó, bên cạnh các công ty trực thuộc hiện có là Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ đầu tư, Công ty liên doanh bảo hiểm nhân thọ, Công ty cho thuê tài chính, Công ty quản lý và khai thác tài sản, Công ty tài chính tại Hồng Kông… NH TMCP Ngoại thương Việt Nam tiếp tục triển khai thành lập hàng loạt các công ty hoạt động trong các lĩnh vực tài chính (Công ty tài chính hoạt động trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng,…) và phi tài chính (Công ty đầu tư xây dựng đường cao tốc, dự án kết cấu hạ tầng, công ty đầu tư kinh doanh bất động sản, viện nghiên cứu…). Ngoài ra cũng xúc tiến việc mở chi nhánh tại nước ngoài. Chú trọng việc cơ cấu lại mô hình tổ chức theo định hướng khách hàng (bán buôn/bán lẻ) và tiêu chí kinh doanh (bán hàng/ tác nghiệp/ quản lý rủi ro/ hỗ trợ kinh doanh); áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong quản trị điều hành. Chú ý các nhiệm vụ cụ thể như sau: - Phát triển mô hình tập đoàn tài chính và áp dụng chuẩn mực quốc tế trong quản trị điều hành: Ngày 26/9/2007, thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 1289/QD-TTg phê duyệt phương án cổ phần hóa NHNT. Theo đó, việc hình thành Tập đoàn tài chính ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ do Hội đồng quản trị của NH TMCP NTVN quết đinh, được áp dụng mô hình quản trị theo thông lệ quốc tế tốt nhất nếu không có xung đột với luật pháp Việt Nam. - Kiện toàn lại tổ chức của NH TMCP NTVN sau cổ phần hóa theo mô hình công ty mẹ/ công ty con: Triển khai áp dụng mô hình tổ chức và mô hình quản trị theo các thông lệ và tập quán quốc tế tốt nhất tại Công ty mẹ và các đơn vị thành viên (theo Dự án liên kết kỹ thuật với ING); phát triển đa dạng hóa sở hữu đối với các Công ty con/ đơn vị thành viên… (Sơ đồ 3.1 mô hình tổ chức 1). - Xây dựng mô hình tổ chức, quản trị và hoạt động của Tập đoàn đầu tư tài chính Vietcombank (VCB Financial Holdings): Theo chỉ đạo của Chính phủ, NH TMCP NTVN từng bước triển khai thực hiện chuẩn bị các điều kiện hình thành Tập đoàn đầu tư tài chính Vietcombank theo mô hình tổ chức và quản trị phù hợp thông lệ quốc tế tốt nhất (Mô hình Tập đoàn/ Công ty cổ phần đầu tư tài chính- Financial Holdings) (Sơ đồ 3.2 mô tả mô hình tổ chức 2). Sơ đồ 3.1: Mô hình tổ chức 1 Sơ đồ 3.2 Mô hình tổ chức 2 - Áp dụng các chuẩn mực về tổ chức và quản trị doanh nghiệp: Xây dựng mô hình tổ chức quản trị và hoạt động của NH TMCP NTVN theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, các văn bản hướng dẫn liên quan và quy định áp dụng cho Công ty đại chúng cũng như luật chuyên ngành; Áp dụng mô thức tổ chức/ quản trị theo thông lệ quốc tế tốt nhất để triển khai mô hình tổ chức và quản trị Tập đoàn đầu tư tài chính nếu không có vướng mắc và xung đột luật pháp Việt Nam. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro, cụ thể: - Chuẩn hoá các quy trình, thủ tục quản lý và tác nghiệp theo chuẩn mực quốc tế. Theo đó, các hệ thống quản lý khác hàng, quản lý tín dụng, quản lý tài chính đặc biệt là quản lý rủi ro sẽ được hoàn thiện và nâng cao chất lượng theo chuẩn mực quốc tế. - Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống báo cáo quản lý nội bộ và hệ thống kế toán quản lý nhằm hỗ trợ công tác quản lý kinh doanh, ứng dụng hiệu quả các hệ thống thông tin quản lý trong việc hỗ trợ ra quyết định trong hoạt động kinh doanh cũng như tăng cường vai trò diều hành kinh doanh, kiểm soát và quản lý rủi ro của ngân hàng. - Tiếp tục thực hiện việc phân tách rõ ràng chức năng nhiệm vụ giữa ba bộ phận: quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro và tác nghiệp trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh chủ đạo của NH TMCP Ngoại thương Việt Nam. 3.2.5. Giải pháp nâng cao năng lực hoạt động - Xây dựng chiến lược kinh doanh Nhà quản lý cần nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng. Đây là sản phẩm tập trung trí tuệ cao của tập thẻ lãnh đạo, quản lý và chuyên gia ngân hàng. Có định hướng chiến lược rõ ràng, toàn diện sẽ nâng cao sức cạnh tranh và tạo ra sự phát triển bền vững cho ngân hàng. Xây dựng chiến lược kinh doanh trên cơ sở đánh giá thực tế phát triển kihdoanh hiện tại và ít nhất trong 03 năm quá khứ, đặt trong bối cảnh chung của nền kinh tế trong nước và quốc tế, của hoạt động ngân hàng. NH TMCP Ngoại thương phải đánh giá được thực lực của mình và khả năng của các đối tác cùng tham gia cạnh tranh trên thị trường là ngân hàng nước ngoài và đối tác cung cấp sản phẩm tương đồng. Lưu ý về sự khác biệt chuẩn mực đánh giá so với ngân hàng nước ngoài, nhất là chuẩn mực kế toán, quản trị rủi ro, nên việc so sánh năng lực giữa NH Việt Nam và NH nước ngoài chưa nhất quán. Vì vậy, NH TMCP Ngoại thương sử dụng đồng thời 2 hệ thống số liệu: theo chuẩn kế toán Việt Nam dùng so sánh với NH Việt Nam và quốc tế so sánh với NH nước ngoài. Việc phân tích môi trường kinh tế và thể chế kinh doanh tác động đến phát triển kinh doanh đối với NH TMCP Ngoại thương là cần thiết. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tình hình kinh tế tài chính có nhiều biến động như hiện nay. Cần dự báo các rủi ro có thể xảy ra do bất ổn của nền kinh tế thế giới và trong điều kiện NH Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế theo lộ trình. Đặt ra các mục tiêu chiến lược tổng quát và cụ thể từng lĩnh vực, trong đó xác định mục tiêu, chương trình trọng tâm, trọng điểm cho từng lộ trình thực hiện, quan tâm những lĩnh vực, loại hình dịch vụ mà sự phát triển của nó có ý nghĩa thực hiện mục tiêu hội nhập. - Phát triển sản phẩm dịch vụ NH TMCP Ngoại thương Việt Nam cần chú ý đến việc xây dựng chính sách sản phẩm dịch vụ để nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng. Thực hiện nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng hiện có, kết hợp với đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ mới nhằm thoả mãn nhu cầu khách hàng. Về phát triển dịch vụ tín dụng: NH TMCP Ngoại thương cần chú ý trong việc tăng quy mô tín dụng để cạnh tranh chiếm lĩnh thị phần phải đảm bảo giới hạn tỷ lệ nợ xấu. Cần đa dạng hoá khách hàng, lĩnh vực, ngành để cấp tín dụng, lưu ý trong việc xác định giới hạn cho vay, bảo lãnh đối với một khách hàng, một nhóm khách hàng có liên quan và giới hạn đầu tư, góp vốn vào một doanh nghiệp, dự án trên cơ sở góc độ báo cáo tài chính hợp nhất của ngân hàng với các công ty trực thuộc/ công ty con của mình và báo cáo tài chính hợp nhất của khách hàng. Để thu hút khách hàng tiềm năng, NH TMCP Ngoại thương cần linh hoạt trong việc đưa ra các điều kiện cho vay bằng cách đưa ra nhiều phương thức trả nợ, thời hạn vay và lãi suất ưu đãi hoặc phương thức giải ngân ứng với nhiều mức lãi suất khác nhau căn cứ theo tình hình thực tế và thoả thuận giữa hai bên. Tiếp tục nghiên cứu phát triển các sản phẩm tín dụng bán lẻ như du học, cho vay tín chấp (đối với các cán bộ quản lý tại các công ty), tín dụng bảo hiểm.Với sản phẩm này, khách hàng được tiếp cận khoản vay mua nhà, ô tô và được bảo hiểm cho khoản vay đó. Thời hạn bảo hiểm trùng với thời hạn khoản vay, chỉ nộp phí bảo hiểm duy nhất một lần khi vay vốn. Khi xảy ra rủi ro, công ty bảo hiểm sẽ thay khách hàng trả cho ngân hàng với mức chi trả tối đa nhất định theo thoả thuận giữa công ty bảo hiểm và ngân hàng. Kết hợp với Đại sứ quán và các trường Đại học nổi tiếng ở nước ngoài để phát triển sản phẩm cho vay du học, một sản phẩm rất có tiềm năng hiện nay. Về dịch vụ huy động vốn: Hiện nay, NH TMCP Ngoại thương đang chiếm lợi thế về thị phần huy động vốn do đó cần tiếp tục phát huy lợi thế này. Đa dạng hoá các phương thức và hình thức huy động vốn với các thủ tục, điều kiện giao dịch thuận tiện và các biện pháp bảo đảm hợp lý giá trị tiền gửi của khách hàng. Trong đó chú trọng nguồn tiền gửi tiết kiệm của khách hàng, tiền gửi, tiền vay thị trường liên ngân hàng, đồng thời đẩy mạnh phát hành giấy tờ có giá; dịch vụ tài khoản; tiếp nhận vốn uỷ thác; quản lý tài sản. Đa dạng hoá kỳ hạn tiền gửi theo yêu cầu của khách hàng tính theo ngày nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng, điều này đòi hỏi ngân hàng phải chủ động hơn trong việc sử dụng vốn, thanh toán các khoản tiền gửi của khách hàng khi đến hạn, hạn chế rủi ro thanh khoản. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng dịch vụ huy động vốn, kết hợp với phát triển các dịch vụ tín dụng, đầu tư, thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ tài khoản và quản lý tài sản trên nguyên tắc chia sẻ rủi ro và lợi nhuận giữa khách hàng và ngân hàng để góp phần xây dựng hệ thống dịch vụ ngân hàng trọn gói và đa tiện ích. Thay đổi cơ cấu nguồn vốn huy động theo hướng tăng nguồn vốn huy động trung và dài hạn, trong đó từng bước phát hành các công cụ nợ và trái phiếu dài hạn phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc này sẽ hạn chế việc sử dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, có thể dẫn đến rủi ro kỳ hạn. Cần xác định cạnh tranh huy động vốn chủ yếu dựa vào chất lượng, tính tiện ích, công nghệ, hiệu quả của dịch vụ huy động vốn, uy tín và độ tin cậy của ngân hàng thay cho hình thức cạnh tranh chủ yếu dựa vào lãi suất, lợi thế quy mô chi phối hoặc độc quyền cung cấp dịch vụ. Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ: Để thực hiện tốt nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của mình, NH TMCP Ngoại thương cần luôn chú trọng đến dự báo chính xác diễn biến của thị trường tài chính quốc tế để đưa ra quyết sách kinh doanh ngoại tệ trong và ngoài nước. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, sự bất ổn tình hình tài chính toàn cầu, việc dự báo không thể lường hết được diễn biến bất thường của thị trường tài chính, do vậy NH TMCP Ngoại thương phải có sự phân cấp và kiểm soát chặt chẽ hơn mạng lưới kinh doanh ngoại tệ của mình. Về dịch vụ thanh toán: NH tiếp tục đầu tư hiẹn đại hoá hệ thông công nghệ gồm phần mềm và phần cứng nhằm đẩy nhanh tốc độ xử lý nghiệp vụ, từng bước tăng cường xử lý tự động hoá đảm bảo thông tin quản lý trực tuyến; thiết lập và củng cố các môi quan hệ ngân hàng với ngân hàng quốc tế, tổ chức chuyển tiền quốc tế uy tín. Tăng cường tiện ích và phát triển các sản phẩm thẻ mới: NH TMCP Ngoại thương tiếp tục tăng cường các tính năng mới cho thẻ nội địa như thanh toán tiền điện, điện thoại, thanh toán tièn lãi tín dụng trả góp… Tiếp tục xây dựng mạng lưới các điểm đặt máy ATM thuận lợi cho khách hàng như gần trường học, các trung tâm thương mại lớn, cơ quan, siêu thị… Xây dựng mới mạng lưới các điểm chấp nhận thẻ tạo điều kiện phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam. Nghiên cứu, triển khai các sản phẩm thẻ mới, thông minh, liên kết có khả năng tích hợp nhiều hệ thống, triển khai nhiều loại hình dịch vụ. Điều này mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng hơn, khách hàng nhận được nhiều ưu đãi hơn từ phía ngân hàng và các đối tác, không những thế còn giúp giảm chi phí cho khách hàng. Do đó nâng tầm cạnh tranh và tạo cơ hội để khách hàng có thể tiếp cận nhiều dịch vụ khác nhau. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với NHNN - Hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng bao bồm Luật NHNN, luật các Tổ chức tín dụng, đồng thời tiếp tục triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong kinh doanh ngân hàng phù hợp với quy định và cam kết hội nhập, nâng cao độ an toàn, khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và NH TMCP NTVN nói riêng. Cùng với việc thực hiện các cam kết trong lĩnh vực ngân hàng, rất nhiều các điều khoản của các văn bản pháp luật hiện hành cần phải được sửa đổi, bổ sung nhằm phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Có nhiều nghiệp vụ kinh doanh mới mà các ngân hàng ở các nước được thực hiện nhưng pháp luật Việt Nam chưa có quy định. Ví dụ các nghiệp vụ liên quan nghiệp vụ giao dịch tương lai, giao dịch quyền chọn, các nghiệp vụ về tư vấn, quản lý quỹ đầu tư, kinh doanh chứng khoán, thanh toán bù trừ các tài sản tài chính… Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần sớm ban hành các văn bản điều chỉnh loại hình nghiệp vụ này, đồng thời cho phép các ngân hàng Việt Nam nhanh chóng triển khai thí điểm các loại hình dịch vụ mới này để có sự chuẩn bị cần thiết trong việc cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài khi thực hiện mở cửa trong những loại hình dịch vụ đó. - Cải tiến hệ thống kế toán ngân hàng phù hợp chuẩn mực kế toán quốc tế, phân loại nợ xấu theo thông lệ quốc tế để phản ánh đầy đủ, chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và NH TMCP NTVN nói riêng, từ đó, đề ra các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Chế độ hạch toán kế toán và các quy định liên quan đến việc công khai hóa thông tin cũng là một mảng rất quan trọng. Hiện nay,việc hạch toán theo VAS có nhiều điểm khác so với hạch toán theo IAS, khác biệt chủ yếu liên quan đến việc phân loại nợ xấu, nợ không sinh lời. Do đó gây ra những khó khăn nhất định trong việc đánh giá thực trạng năng lực tài chính của các ngân hàng Việt Nam cũng như việc trích lập đầy đủ các khoản dự phòng, đảm bảo sự an toàn trọng hoạt động của các ngân hàng. Việc sửa đổi các quy định liên quan đến việc phân loại các khoản nợ khó đòi nói riêng và chuẩn mực kế toán trong lĩnh vực ngân hàng phù hợp hơn với các chuẩn mực quốc tế là điều kiện quan trọng đảm bảo sự minh bạch hơn trong hoạt động của các ngân hàng. Đây là một công cụ quản lý quan trọng để ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể tăng cường hiệu quả các hoạt động giám sát của mình đối với hệ thống ngân hàng. - Chú trọng xây dựng mạng lưới thông tin hiện đại: NHNN cần lập chương trình về thông tin ngân hàng trên internet cập nhật thông tin tài chính, tiền tệ quốc tế. Đồng thời phổ biến rộng rãi về các cam kết quốc tế trên lĩnh vực tài chính ngân hàng và lộ trình triển khai, thực hiện của ngành. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần nghiên cứu ban hành các văn bản quy định việc bắt buộc công khai hóa thông tin, những nội dung cần công khai và thời gian thực hiện công khai hóa thông tin trong đó đặc biệt là các quy định liên quan đến việc công khai hóa các báo cáo tài chính của các ngân hàng. Hiện nay các quy định về công khai hoá thông tin của các ngân hàng còn rất hạn chế. Yêu cầu các ngân hàng thực hiện công khai hóa thông tin là yêu cầu quan trọng nhằm tạo dựng lòng tin công chúng và nhà đầu tư đối với các hoạt động của ngân hàng. NH TMCP Ngoại thương Việt Nam đã thực hiện công bố báo cáo thường niên và các hoạt động dịch vụ của mình trên website và dưới dạng văn bản. Tuy nhiên, thời gian ra công bố kéo dài đến 1 năm, chưa có tính cập nhật. - Kiểm soát tốt hơn tình hình dữ trữ quốc tế và dự trữ ngoại hối từng bước gia tăng dự trữ ngoại tệ nhằm ứng phó với biến động tài chính, tiền tệ quốc tế. Thông qua quản lý ngoại hối từng bước nâng cao sức mạnh của đồng tiền Việt Nam trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi và được chấp nhận trong thanh toán quốc tế. - Tăng cường công tác thanh tra giám sát đối với hoạt động ngân hàng và hoạt động liên quan thị trường tiền tệ. Cần thiết lập bộ máy thanh tra, kiểm soát có hiệu lực, đảm bảo an toàn tài chính. Hoàn thiện cơ chế chính sách đối với hoạt động thanh tra ngân hàng, áp dụng nguyên tắc giám sát theo chuẩn mực quốc tế. Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý của NHNN, chuyển dần công tác thanh tra giám sát sang phương thức trực tuyến, giám sát từ xa, cảnh cáo sớm rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Hiện nay, hoạt động thanh tra giám sát của NHNN vẫn được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc kiểm tra tính tuân thủ các quy định hiện hành mà chưa tập trung phân tích, đánh giá các rủi ro tiềm tàng trong hoạt động của các ngân hàng. Để tăng cường khả năng phát hiện rủi ro, NHNN có thể nghiên cứu tiến tới áp dụng các biện pháp và công cụ giám sát tiên tiến trên thế giới trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc giám sát ngân hàng của Ủy ban Basel. Hệ thống giám sát ngân hàng và cảnh báo từ xa như: ORAP, SAABA của Pháp, PATROL của Italia, TRAM của Anh, SCOR của Hoa Kỳ; các hệ thống giám sát tại chỗ kết hợp với từ xa như: BAKIS của Đức, RAST của Hà Lan, RATE của Anh và CAMELS của Mỹ… NHNN có thể nghiên cứu các công cụ này để lựa chọn và xây dựng một hệ thống đánh giá và giám sát riêng phù hợp hơn với tình hình thực tiễn ở Việt Nam. - Nâng cao năng lực đội ngũ nguồn nhân lực : chất lượng đồi ngũ nguồn nhân lực công tác tại NHNN đang còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được những thay đổi phức tạp của tình hình mới. Vì thế, đẩy mạnh đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực là một nhiệm vụ cấp bách mà NHNN cần chú trọng thực hiện. 3.3.2 Kiến nghị đối với Chính phủ - Xây dựng hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô đồng bộ và ổn định, đáng tin cậy tạo môi trường hoạt động ngân hàng có hiệu quả và an toàn. - Xây dựng các văn bản đồng bộ điều chỉnh cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng cũng là nhiệm vụ rất quan trọng. Các quy định về cạnh tranh và chống độc quyền hiện nay ở Việt Nam còn thiếu. Các quy định về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng hầu như chưa có, sự gia tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường có thể sẽ làm xuất hiện những hình thức và công cụ cạnh tranh không lành mạnh, có thể gây xáo trộn thậm chí rối loạn thị trường. Vì thế, các văn bản pháp luật điều chỉnh cạnh tranh và chống độc quyền cần sớm nghiên cứu và ban hành nhằm đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh bình đẳng, minh bạch, an toàn và sự phát triển ổn định của các ngân hàng. Loại bỏ hình thức bảo hộ, ưu đãi trong lĩnh vực ngân hàng và phân biệt đối xử giữa các tổ chức tín dụng. Từng bước nới lỏng kiểm soát, phạm vi hoạt động của ngân hàng nước ngoài theo lộ trình cam kết, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng. - Hệ thống các văn bản liên quan đến phá sản doanh nghiệp, thu hồi nợ và các biện pháp xử lý tài sản thế chấp cũng cần được xem xét, sửa đổi nhằm đảm bảo sự công khai, minh bạch và nhất quán trong quá trình xử lý thu hồi nợ cho ngân hàng. Chính phủ cần ban hành các quy định nhằm đẩy nhanh việc chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cũng như tốc độ cấp sổ đỏ nhằm hỗ trợ các ngân hàng trong việc thực hiện các khoản vay thế chấp cũng như trong quy trình xử lý tài sản thế chấp bằng đất đai thuận tiện hơn, minh bạch hơn. Các quy định liên quan đến các hình thức đấu giá, phát mại tài sản thế chấp cũng cần được hoàn thiện hơn. - Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế: xây dựng mới và bổ sung văn bản quy phạm pháp luật như luật tổ chức tín dụng mới, luật phát mại tài sản, pháp lệnh giao dịch đảm bảo; hoàn thiện luật thương mại điện tử thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt thông qua thẻ ngân hàng; ban hành đầy đủ văn bản hướng dẫn đối với luật đã ban hành như luật cạnh tranh, luật chứng khoán, pháp lệnh ngoại hối…; ban hành thêm luật phù hợp với tình hình hội nhập như quy chế sử dụng phương tiện thanh toán điện tử, giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, văn bản điện tử trong hợp đồng thương mại và dân sự. Việc xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý theo chuẩn mực quốc tế, tránh mâu thuẫn và chồng chéo. - Tăng cường quyền lực cho ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong điều chỉnh các chính sách tài chính tiền tệ và các hoạt động ngân hàng. Cần có những sửa đổi đối với các quy định hiện hành về vai trò và chức năng của ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm đảm bảo quyền lực thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ và hoạt động giám sát ngân hàng một cách hiệu quả hơn KẾT LUẬN Trong bối cảnh nền kinh tế cạnh tranh và hội nhập sâu rộng, nâng cao năng lực cạnh tranh là điều kiện quan trọng, có ý nghĩa sống còn, giúp NH TMCP Ngoại thương Việt Nam tồn tại vững mạnh và phát triển, khẳng định vị thế dẫn đầu của mình trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, từng bước vươn ra thị trường khu vực và thế giới. Đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam” trước tiên đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại. Qua đó tập trung nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của NH TMCP Ngoại thương Việt Nam so với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy NH TMCP Ngoại thương Việt Nam hiện đang là ngân hàng dẫn đầu trong các ngân hàng thương mại Việt Nam nhưng vẫn còn những mặt hạn chế, và để có thể giữ vững vị trí như vậy, đặc biệt để theo kịp các ngân hàng thương mại quốc tế, NH TMCP Ngoại thương Việt Nam cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để phát huy các nguồn lực hiện có, tận dụng thế mạnh và thời cơ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Trên cơ sở đề ra các định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của NH TMCP Ngoại thương Việt Nam, đề tài cũng nghiên cứu một số giải pháp và đề xuất kiến nghị với NHNN và Chính phủ nhằm giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của NH TMCP Ngoại thương Việt Nam. Đề tài mong muốn đóng góp ý kiến nghiên cứu cá nhân vào vấn đề lớn và cấp bách. Phạm vi nghiên cứu rộng, phức tạp và khả năng cá nhân còn hạn chế nên chắc chắn rằng đề tài còn nhiều khuyết điểm. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Thầy giáo, Cô giáo và Bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Công ty chứng khoán Bảo Việt (2008), Báo cáo phân tích ngành Ngân hàng, Hà Nội. Phan Thị Thu Hà (2006), Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội. Phan Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Thu Thảo (2002), Ngân hàng thương mại, quản trị và nghiệp vụ, NXB Giáo dục, Hà Nội. Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam (2008), Báo cáo hoạt động thẻ Ngân hàng, Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2004, 2005, 2006, 2007), Báo cáo thường niên, Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Kỷ yếu hội thảo khoa học về nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam, NXB Phương Đông, Hà Nội. Ngân hàng Ngoại thương (2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007), Báo cáo thường niên, Hà Nội. Ngân hàng Ngoại thương (2008), Kế hoạch kinh doanh, Hà Nội Lê Xuân Nghĩa, Vũ Quang Thịnh, Đặng Như Vân, Phạm Ngọc Linh (2006), Năng lực cạnh tranh và tác động của Tự do hóa thương mại Dịch vụ ở Việt Nam: Ngành dịch vụ Ngân hàng, Dự án “Tăng cường năng lực quản lý và xúc tiến hoạt động thương mại dịch vụ ở Việt Nam trong Bối cảnh Hội nhập- VIE/02/009”, Hà Nội. Nguyễn Thị Quy (2003), Năng lực cạnh tranh của NHTM Việt Nam trong xu thế hội nhập, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TÓM TẮT LUẬN VĂN DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DNNN Doanh nghiệp Nhà nước DPRR Dự phòng rủi ro NH Ngân hàng NH TMCP NTVN Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam NHNN Ngân hàng Nhà nước NHNT Ngân hàng Ngoại thương NHTM Ngân hàng thương mại NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMQD Ngân hàng thương mại quốc doanh NQH Nợ quá hạn TCTD Tổ chức tín dụng VCB Vietcombank DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ I. SƠ ĐỒ Sơ đồ 2.1: Mô hình NHTMCP Ngoại thương Việt Nam và các công ty con, công ty trực thuộc (mô hình công ty mẹ- công ty con) 51 Sơ đồ 3.1: Mô hình tổ chức 1 92 Sơ đồ 3.2 Mô hình tổ chức 2 93 II. BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Vốn chủ sở hữu của VCB 34 Biểu đồ 2.2: Diễn biến lãi suất trung bình giai đoạn 2003- 2009 46 Biểu đồ 2.3: So sánh số lượng chi nhánh của một số ngân hàng năm 2007 52 Biểu đồ2.4: Tình hình phát hành thẻ nội địa đến 30/06/2008 65 Biểu đồ 2.5: Tình hình phát hành thẻ quốc tế đến 30/6/2008 66 Biểu đồ 2.6: Hệ thống máy ATM tại thị trường Việt Nam đến 30/6/2008 67 III. BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Vốn chủ sở hữu của NH TMCP Ngoại thương Việt Nam 34 Bảng 2.2: Tăng trưởng vốn chủ sở hữu của NH TMCP NTVN 34 Bảng 2.3: Vốn chủ sở hữu của VCB và một số NHTMNN 35 Bảng 2.4: Vốn chủ sở hữu của một số NHTMCP 35 Bảng 2.5: Tỷ lệ CAR của một số ngân hàng 36 Bảng 2.6: Một số chỉ số tài chính của ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam 37 Bảng 2.7: Khả năng sinh lời của VCB và một số NHTMNN 38 Bảng 2.8: Khả năng sinh lời của VCB và một số NHTMCP 39 Bảng 2.9: Tỷ lệ cho vay/huy động tiền gửi của một số ngân hàng 42 Bảng 2.10: Tỷ lệ cho vay/Tổng tài sản của một số ngân hàng 44 Bảng 2.11: Cơ cấu huy động vốn của NHTMCP Ngoại thương theo nguồn huy động 53 Bảng 2.12: Cơ cấu huy động vốn năm 2007 của NH TMCP NTVN 55 Bảng 2.13: Tình hình dư nợ của NHTMCP Ngoại thương 2001- 2007 57 Bảng 2.14: Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tại thời điểm 31/12/2006 theo Quyết định 493 của NHNN 58 Bảng 2.15: Chất lượng hoạt động tín dụng của NHTMCP Ngoại thương 59 Bảng 2.16: Dư nợ tín dụng của NHNT và các NHTMQD khác 60 Bảng 2.17: Dư nợ tín dụng một số NHTMCP 61 Bảng 2.18: Hoạt động đầu tư góp vốn liên doanh liên kết của VCB 62 Bảng 2.19: Hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng Ngoại thương 2004- 2007 63 Bảng 2.20: Một số chỉ tiêu chủ yếu hoạt động kinh doanh chứng khoán 69 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-96.doc
Tài liệu liên quan