MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng tất yếu của thời đại, xu hướng này như một “vòng xoáy” lôi cuốn được hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Điều này sẽ ảnh hưởng tới tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động trong nước. Lĩnh vực nhạy cảm nhất và chịu ảnh hưởng đầu tiên chính là lĩnh vực ngân hàng. Một khi gia nhập WTO, nghĩa là phải
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank) Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế , để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực hiện các cam kết song phương, đa phương, mở cửa thị trường tài chính ngân hàng, không hạn chế việc cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng của các nhà cung cấp nước ngoài, tính cạnh tranh trong lĩnh vực này sẽ trở nên vô cùng khốc liệt. Với năng lực hạn chế như hiện nay, các ngân hàng Việt Nam sẽ phải đối mặt với những rủi ro lớn, và gây ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Điều này đòi hỏi bản thân mỗi ngân hàng phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để không những đứng vững mà ngày càng phát triển hơn. Đặc biệt với Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VP Bank) - một ngân hàng cổ phần trung bình mà mục tiêu là sẽ trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam thì vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng. Từ những nhận thức như trên, tôi lựa chọn đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu, chuyên đề bao gồm 3 phần chính như sau:
Chương 1: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Do thời gian nghiên cứu đề tài có hạn, cũng như sự hiểu biết thực tế chưa nhiều nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của toàn thể các thầy giáo, cô giáo và những người quan tâm tới đề tài này để chuyên đề của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính, cũng như các cán bộ, nhân viên làm việc tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh – Chi nhánh Hoàn Kiếm đã hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực tập. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Lê Thanh Tâm, cô đã nhiệt tình giúp đỡ, góp ý để tôi hoàn thành chuyên đề của mình.
Bảng các từ viết tắt
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTMCP
Ngân hàng thương mại cổ phần
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
VĐL
Vốn điều lệ
CHƯƠNG I: NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, có mối liên hệ mật thiết với tất cả các ngành, các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Ngân hàng tài trợ cho Chính phủ để đầu tư phát triển và thực hiện các chính sách kinh tế mà chủ yếu là chính sách tiền tệ nhằm điều tiết nền kinh tế phát triển một cách ổn định. Như vậy có thể thấy rằng hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Có nhiều cách để định nghĩa về ngân hàng thương mại, có thể định nghĩa về ngân hàng thương mại trên phương diện những loại hình dịch vụ cung cấp: “Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” Giáo trình Ngân hàng thương mại, TS. Phan Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, tr11, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2004
.(1)
Theo Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có định nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nh tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại:
Bất kỳ một ngân hàng thương mại nào cũng có ba chức năng cơ bản
đó là: trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán, trung gian thanh toán.
* Trung gian tài chính:
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu và họ cần bổ sung vốn, (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu hay là họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại 2 loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền từ nhóm (2) sẽ chuyển sang nhóm (1) nếu cả 2 cùng có lợi. Tuy nhiên, nếu không có ngân hàng thì mối quan hệ trực tiếp giữa nhóm (1) và nhóm (2) (tín dụng trực tiếp) bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ tín dụng trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính là các ngân hàng. Ngân hàng tập hợp những người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của ngân hàng sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
* Tạo phương tiện thanh toán:
Tiền có 1 chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng đã không tạo ra được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng đã tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay thế cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nhận nợ đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó đã trở thành tiền giấy.
Việc in tiền đem lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài chính hoặc là Ngân hàng Trung ương. Từ đó chấm dứt việc ngân hàng thương mại tạo ra giấy bạc cho riêng mình.
Qua điều kiện phát triển thanh toán thông qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Do đó, bằng việc cho vay, làm tăng số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng, ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
* Trung gian thanh toán:
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Nhà nước hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Trong xu thế mở cửa, hội nhập hiện nay thì nhiều hình thức được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng tính hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung gian thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.3. Các hoạt động của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với nhiều hoạt động đa dạng, có thể tổng hợp những hoạt động đó theo 3 nhóm hoạt động cơ bản, đó là: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn
và các hoạt động trung gian khác.
1.1.3.1. Hoạt dộng huy động vốn
Nguồn vốn tiền gửi không kì hạn: đây là nguồn vốn hình thành dựa trên nhu cầu giao dịch, khi khách hàng muốn sử dụng các dịch vụ tài chính của ngân hàng. Nguồn vốn này có quy mô rất lớn, luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong số nguồn vốn, sự vận động lại phức tạp nên việc sử dụng rất mạo hiểm, cần phải thận trọng mới có phương pháp sử dụng hiệu quả.
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định sẽ được gửi vào ngân hàng sau một thời gian nhất định để hưởng lãi suất tương ứng với kì hạn đó (luôn cao hơn đối với lãi suất tiền gửi thanh toán).
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời và an toàn.
Nguồn vốn chủ sở hữu: để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định và còn được bổ sung trong quá trình hoạt động. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng.
Các nguồn vốn khác: đây thường là các nguồn không phải trả lãi, tuy nhiên chi phi để có và duy trì chúng là rất đáng kể, ví dụ như nguồn uỷ thác...
1.1.3.2. Sử dụng vốn
* Các hoạt động về ngân quỹ:
Dự trữ bắt buộc: đây là khoản dự trữ mà ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng thương mại nộp vào tài khoản tại ngân hàng Nhà nước nhằm mục đích: hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho hoạt động của ngân hàng thương mại, vận hành chính sách tiền tệ quốc gia, quản lý hoạt động ngân hàng thương mại.
Dự trữ vượt quá: là các khoản dự trữ tồn tại dưới dạng tiền mặt tại quỹ, các khoản tiền gửi tại ngân hàng khác, tiền mặt trong quá trình thu.
Nhìn chung, ngân quỹ của ngân hàng thương mại là tài sản không sinh lời (hoặc sinh lời thấp trong trường hợp tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác được hưởng lãi) song lại là tài khoản có tính thanh khoản cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên. Do vậy, mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ ngân quỹ ở mức thấp nhất có thể được.
* Cho vay: là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho người khác trong một thời gian, sau đó được quyền thu cả gốc lẫn lãi. Cho vay là khoản mục có tỷ lệ cao nhất trong các loại tài sản của ngân hàng. Có rất nhiều loại hình cho vay khác nhau đáp ứng nhu cầu của dân cư hay các doanh nghiệp.
* Các hoạt động đầu tư: Ngân hàng nhường quyền sở hữu cho người khác dưới hình thức hùn vốn, thu nhập căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ vốn góp. Có nhiều hình thức đầu tư: đầu tư vào chứng khoán, đầu tư vào các dự án, đầu tư dưới dạng liên doanh với nhau để hình thành các ngân hàng liên doanh.
* Các hoạt động sử dụng vốn khác: quảng cáo, quảng bá, tài trợ cho sự phát triển nguồn nhân lực, các chương trình phát triển.
1.1.3.3. Các hoạt động trung gian
* Chuyển tiền: Ngân hàng làm theo lệnh của khách hàng chuyển trả tiền cho một người nào đó.
* Thanh toán không dùng tiền mặt: Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các hình thức thanh toán ngày càng đa dạng: thanh toán bù trừ, sec, L/C, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, hối phiếu, thanh toán bằng thẻ...
* Cung cấp các dịch vụ tài chính:
Dịch vụ ủy thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý tài chính hộ. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính.
Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.
Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho 1 khách hàng là rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác...
1.2. Lý thuyết về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Vì sao lại có những công ty này mạnh hơn những công ty khác? Vì sao lại có những quốc gia này giàu có hơn những quốc gia khác? Liệu các nước kém phát triển hơn có thể phát triển kịp các quốc gia đã phát triển? Các công ty nhỏ, mới thành lập có khả năng cạnh tranh với các công ty lớn mà danh tiếng đã được khẳng định không? Làm thế nào để có thể cạnh tranh được.
Rất nhiều nhà kinh tế học, các nhà kinh tế đã đi tìm câu trả lời cho những câu trả lời này. Trong những năm thuộc thế kỷ 18 Adam Smith đã cố gắng lý giải câu hỏi “Cái gì làm cho một quốc gia trở nên giàu có?” và ông đã cho ra đời lý thuyết về lợi thế tuyệt đối trong tác phẩm “Bản chất về sự giàu có của các quốc gia”. Đi xa hơn học thuyết của Adam Smith, David Ricardo đã xây dựng lý thuyết lợi thế so sánh để lý giải về những lợi ích trong thương mại quốc tế và đồng thời cũng lý giải cho việc vì sao có những nước phát triển hơn nhờ vào việc khai thác những lợi thế tương đối của mình.
Trên cơ sở kế thừa lý thuyết về lợi thế so sánh, các nhà kinh tế học hiện đại đã tập trung phát triển và đang dần hình thành nên một hệ thống khái niệm mới về năng lực cạnh tranh. Rất nhiều các học thuyết đã được xây dựng để phân tích năng lực cạnh tranh của các quốc gia cũng như các công ty, doanh nghiệp. Trong đó, nổi bật nhất phải kể đến học thuyết của Michael Porter. Trong các tác phẩm của mình, Michael Porter đã có những nghiên cứu rất toàn diện về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, công ty và năng lực cạnh tranh của ngành cũng như của quốc gia.
Theo Michael Porter, “Để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn, hoặc là có khả năng khác biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức giá cao hơn trung bình.Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần ngày càng đạt được những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp những hàng hoá hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn” The Competitive Advantage of Nation, Micheal Porter, tr10, Nxb.The Free Presss, 1990.
).
Quan niệm của Porter đã đề cập đến vấn đề năng lực cạnh tranh còn bao hàm cả việc doanh nghiệp phải liên tục duy trì lợi thế cạnh tranh của mình. Nói cách khác, doanh nghiệp phải liên tục duy trì mức lợi nhuận trên cơ sở bám sát với nhịp độ phát triển của thị trường hoặc thậm chí chủ động tạo nên sự phát triển của thị trường. Việc hạ thấp giá thành sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh theo quan niệm mang tính dài hạn này của
Porter cũng như đại đa số các nhà nghiên cứu khác không bao gồm việc hạ thấp giá thành bằng những biện pháp có tính tiêu cực như cắt giảm lương nhân viên, cắt giảm các chi phí bảo hộ lao động, cắt giảm chi phí phúc lợi,
cắt giảm chi phí môi trường… Năng lực cạnh tranh ở đây cần phải được gắn liền với khả năng phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội.
Từ những quan điểm trên, áp dụng đối với các ngân hàng thương mại thì PGS, TS Nguyễn Thị Quy cho rằng: “Năng lực cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần, đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh” Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại trong xu thế hội nhập, PGS,TS Nguyễn Thị Quy, tr22, Nxb Lý luận Chính trị,Hà Nội, 2005
.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh nội tại của ngân hàng thương mại
Để có thể đánh giá năng lực cạnh tranh nội tại của ngân hàng thương mại cần đưa ra được một hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu này không chỉ phản ánh năng lực cạnh tranh hiện tại mà còn phải phản ánh được khả năng duy trì và phát triển lợi thế cạnh tranh của ngân hàng trong tương lai. Việc xác định được hệ thống các chỉ tiêu này có ý nghĩa rất quan trọng cho mỗi ngân hàng để có định hướng xây dựng, khai thác và phát triển lợi thế cạnh tranh của mình. Các chỉ tiêu bao gồm: tiềm lực tài chính, năng lực công nghệ, nguồn nhân lực, năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức, hệ thống kênh phân phối và mức độ đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp.
1.2.2.1. Tiềm lực tài chính
Đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại, vấn đề đầu tiên thường được quan tâm là tiềm lực tài chính của ngân hàng đó. Tiềm lực tài chính được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu khác nhau, ở đây chỉ
đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản nhất, đó là: mức độ an toàn vốn và khả năng huy động vốn, chất lượng tài sản, mức sinh lợi, khả năng thanh khoản.
- Mức độ an toàn vốn và khả năng huy động vốn: Tiềm lực về vốn thể hiện qua các chỉ tiêu cụ thể như: quy mô vốn chủ sở hữu, hệ số an toàn vốn. Năng lực tài chính của một ngân hàng thương mại thể hiện trước hết ở quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô vốn chủ sở hữu như là tấm đệm đảm bảo cho mỗi ngân hàng có khả năng chống đỡ trước những rủi ro trong hoạt động ngân hàng cũng như những rủi ro của môi trường kinh doanh. Vốn chủ sở hữu của các ngân hàng càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng chống đỡ cao hơn đối với những “cú sốc” của môi trường kinh doanh. Điều này ngày càng trở nên quan trọng trong điều kiện môi trường kinh doanh có những biến động khôn lường, khi sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng trong điều kiện hội nhập như hiện nay, những rủi ro bất ngờ luôn tiềm ẩn. Vốn chủ sở hữu còn ảnh hưởng tới khả năng đầu tư vào công nghệ ngân hàng vì ngân hàng chỉ có thể sử dụng vốn chủ sở hữu đầu tư vào công nghệ. Vì vậy, quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ sẽ là một bất lợi. Đây là một trong những nguồn lực quan trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Theo quyết định 457/QĐ – NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước thì tổ chức tín dụng trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ tối thiểu % giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro.
HSATV =
VCSH
Tổng tài sản "Có" rủi ro
- Chất lượng tài sản: phản ánh “sức khoẻ” của một ngân hàng. Chất lượng tài sản được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản, mức độ lập dự phòng và khả năng thu hồi các khoản nợ xấu, mức độ tập trung và đa dạng hoá của danh mục tín dụng, rủi ro tín dụng tiềm ẩn.
- Mức sinh lợi: là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của ngân hàng, đồng thời cũng phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Chỉ tiêu mức sinh lợi có thể được phân tích thông qua những chỉ tiêu cụ thể như: giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận (cho biết lợi nhuận được hình thành từ nguồn nào, từ hoạt động kinh doanh thông thường hay từ các khoản thu nhập bất thường), tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản có (ROA), tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), các chỉ tiêu về mức sinh lợi trong mối tương quan với chi phí. Trong số các chỉ tiêu này, hai chỉ tiêu thường được quan tâm để đo lường kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng là ROA, ROE.
Về chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA):
ROA =
Lợi nhuận ròng
* 100%
Tổng tài sản
Chỉ tiêu trên cho thấy khả năng bao quát của hoạt động ngân hàng thương mại trong việc tạo thu nhập từ tài sản. Các ngân hàng thường sử dụng ROA để đo lường mối quan hệ sinh lời của tài sản và nguồn vốn bởi vì một bộ phận nguồn vốn được sử dụng tạo nên tài sản không sinh lãi và có một bộ phận tài sản không sinh lãi lại tham gia tạo nên thu nhập cho ngân hàng. Do vậy nếu ROA lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại tốt, cơ cấu tài sản hợp lý. Tuy nhiên nếu ROA quá lớn làm cho các nhà quản trị lo lắng vì rủi ro nhìn chung luôn đi song hành với lợi nhuận.
Về chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE):
ROE =
Lợi nhuận ròng
* 100%
VCSH
ROE là chỉ tiêu được các ngân hàng quan tâm đến nhiều nhất, cho thấy khả năng sinh lời từ một đồng vốn của chủ, số lợi nhuận ròng mà một cổ đông có được. Do vậy, các ngân hàng luôn cố gắng tăng chỉ tiêu ROE để tăng tính hấp dẫn đối với các cổ đông bằng phương pháp như: kiểm soát chi tiêu, đầu tư, quản lý rủi ro có hiệu quả… Tuy nhiên, việc tăng ROE quá cao so với ROA chứng tỏ nguồn vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn và do vậy ảnh hưởng đến mức độ lành mạnh trong hoạt động của ngân hàng thương mại.
- Khả năng thanh khoản là khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán tiền của khách hàng, được tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh khoản của nguồn vốn.
Khả năng thanh khoản của ngân hàng được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như tỷ lệ khả năng chi trả (tài sản có có thể thanh toán ngay trên tài sản nợ phải thanh toán ngay), khả năng thanh toán tức thì, khả năng thanh toán nhanh, đánh giá định tính về năng lực quản lý thanh khoản của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là khả năng quản lý rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại.
Việc quản lý rủi ro thanh khoản đối với ngân hàng thương mại là rất quan trọng. Sự thiếu hụt của một ngân hàng đơn lẻ có thể có những tác động nghiêm trọng đến toàn hệ thống ngân hàng. Trong điều kiện bình thường, những ngân hàng không xây dựng được cho mình một chiến lược hiệu quả để duy trì thanh khoản đầy đủ thì tình hình khó khăn về nguồn vốn sẽ ảnh hưởng xấu đến kế hoạch kinh doanh của ngân hàng. Trong điều kiện nền kinh tế bị rơi vào khủng hoảng hay khi ngân hàng bị những tin đồn thất thiệt đe dọa đến uy tín của ngân hàng thì ngân hàng có thể bị lâm vào tình trạng khủng hoảng về khả năng thanh toán. Chi phí cơ hội của một tỷ lệ thanh khoản cao là việc bớt đi những cơ hội sử dụng nguồn vốn huy động được cho một cơ hội kinh doanh sinh lời như cho vay, mua cổ phiếu… Vì thế, các ngân hàng luôn phải cân nhắc giữa chi phí thanh khoản và rủi ro thanh khoản để xây dựng một chiến lược quản lý rủi ro thanh khoản hiệu quả.
Để xây dựng được một chiến lược quản lý rủi ro thanh khoản hiệu quả, đòi hỏi các ngân hàng phải có được hệ thống thông tin đầy đủ để đo lường, giám sát và kiểm soát và báo cáo rủi ro thanh khoản. Bên cạnh đó, phải có một đội ngũ chuyên viên có trình độ cao, giàu kinh nghiệm, có khả năng xây dựng được chiến lược và các quy trình quản lý thanh khoản, có khả năng giám sát và phản ứng linh hoạt trước những biến động bất thường trong cơ cấu tài sản nợ/có. Khả năng tiếp cận đến những nguồn vốn tài trợ cho những nhu cầu thanh khoản bất thường như qua cửa sổ chiết khấu của NHNN, vay các TCTD khác trên thị trường liên ngân hàng, sự phát triển thị trường thứ cấp cho các giao dịch giấy tờ có giá… cũng là vấn đề quan trọng quyết định khả năng quản lý rủi ro thanh khoản của một ngân hàng.
1.2.2.2. Năng lực công nghệ
Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là một trong những nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của mỗi ngân hàng. Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự động ATM… Công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng còn bao gồm hệ thống thông tin quản lý MIS, hệ thống báo cáo rủi ro… trong nội bộ ngân hàng. Khả năng nâng cấp và đổi mới công nghệ của các ngân hàng thương mại cũng là chỉ tiêu phản ánh năng lực công nghệ của một ngân hàng. Vì với tốc độ phát triển rất nhanh của ngành công nghệ thông tin nói chung và công nghệ lĩnh vực ngân hàng nói riêng, nếu chỉ tập trung phân tích vào khả năng công nghệ hiện tại mà không chú ý tới khả năng nâng cấp và thay đổi trong tương lai thì sẽ rất dễ có những nhận thức sai lầm về năng lực công nghệ của các ngân hàng. Vì thế, năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng công nghệ hiện tại mà còn bao gồm cả khả năng mở (nghĩa là khả năng đổi mới) của các công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế.
1.2.2.3. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp cũng như ngân hàng nào. Năng lực cạnh của nguồn nhân lực của một doanh nghiệp nói chung thể hiện ở những yếu tố như: trình độ đào tạo, trình độ thành thạo nghiệp vụ, động cơ phấn đấu, mức độ cam kết gắn bó với doanh nghiệp. Nhân sự của một ngân hàng là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của ngân hàng, đồng thời cũng là cái gốc của mọi cải tiến hay đổi mới. Trình độ, hay kỹ năng của người lao động là những chỉ tiêu quan trọng thể hiện chất lượng của nguồn nhân lực. Động cơ phấn đấu và mức độ cam kết gắn bó cũng là những chỉ tiêu quan trọng phản ánh một ngân hàng có lợi thế cạnh tranh từ nguồn nhân lực của mình hay không.
Ngân hàng là một ngành đòi hỏi người lao động phải có kinh nghiệm và trình độ cao được tích luỹ theo thời gian. Rõ ràng, nếu một ngân hàng có tốc độ lưu chuyển nhân viên cao sẽ không phải là một ngân hàng có lợi thế về nguồn nhân lực. Quá trình tuyển dụng và đào tạo một chuyên viên ngân hàng thường rất tốn kém cả về thời gian và công sức. Hiệu quả của các chính sách nhân sự, đặc biệt là chính sách tuyển dụng, cơ chế thù lao là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng duy trì một đội ngũ nhân sự chất lượng cao của một ngân hàng.
1.2.2.4. Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức
Năng lực quản lý phản ánh năng lực điều hành của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc của một ngân hàng. Năng lực quản lý thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của Hội đồng quản trị đối với Ban giám đốc cũng như Hội đồng quản trị đối với việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng; chính sách tiền lương và thu nhập đối với ban giám đốc; số lượng, chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược, chính sách và quy trình kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán kiểm soát nội bộ. Năng lực quản lý quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của ngân hàng. Một Hội đồng quản trị hay một Ban giám đốc yếu kém, không có khả năng đưa ra những chính sách, chiến lược hợp lý, thích ứng với những thay đổi của thị trường… sẽ làm lãng phí các nguồn lực và làm yếu đi năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó.
Năng lực quản lý của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc bị chi phối bởi cơ cấu tổ chức của ngân hàng thương mại. Cơ cấu tổ chức là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực của một ngân hàng có phù hợp với quy mô trình độ quản lý của ngân hàng; phù hợp với đặc trưng cạnh tranh của ngành và yêu cầu của thị trường hay không. Cơ cấu tổ chức của một ngân hàng thể hiện ở sự phân chia các phòng ban chức năng, các bộ phận tác nghiệp, các đơn vị trực thuộc… Hiệu quả của cơ chế quản lý không chỉ phản ánh ở số lượng các phòng ban, sự phân công, phân cấp giữa các phòng ban mà còn phụ thuộc vào mức độ phối hợp giữa các phòng ban, các đơn vị trong việc triển khai chiến lược kinh doanh, các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày, khả năng thích nghi và thay đổi của cơ cấu trước những biến động của ngành hay những biến động trong môi trường vĩ mô…
1.2.2.5. Hệ thống kênh phân phối và mức độ đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp
Hệ thống kênh phân phối luôn là một yếu tố quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Hệ thống kênh phân phối của ngân hàng thương mại được thể hiện ở số lượng các chi nhánh và các đơn vị trực thuộc khác (như sở giao dịch) và sự phân bổ các chi nhánh theo địa lý lãnh thổ. Việc triển khai các công nghệ ngân hàng hiện đại đang làm rút ngắn khoảng cách về không gian và làm giảm tác động của một mạng lưới chi nhánh rộng khắp đối với năng lực cạnh tranh của một ngân hàng. Tuy nhiên, vai trò của một mạng lưới chi nhánh rộng lớn vẫn rất có ý nghĩa, đặc biệt là trong điều kiện các dịch vụ truyền thống của ngân hàng vẫn còn phát triển. Hiệu quả của mạng lưới chi nhánh rộng cũng là một chỉ tiêu quan trọng, thể hiện thông qua tính hợp lý trong phân bố chi nhánh ở các vùng, miền cũng như vấn đề quản lý, giám sát hoạt động của các chi nhánh.
Mức độ đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp cũng là một chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của một ngân hàng. Một ngân hàng có nhiều loại hình dịch vụ cung cấp phù hợp với nhu cầu thị trường và năng lực quản lý của ngân hàng sẽ là một ngân hàng có lợi thế cạnh tranh. Sự đa dạng hoá các dịch vụ một mặt tạo cho ngân hàng phát triển ổn định hơn, mặt khác cho phép ngân hàng phát huy lợi thế nhờ quy mô. Tất nhiên, sự đa dạng hoá các dịch vụ cần phải được thực hiện trong tương quan so với các nguồn lực hiện có của ngân hàng. Nếu không, việc triển khai quá nhiều dịch vụ có thể khiến ngân hàng kinh doanh không hiệu quả do dàn trải quá mức các nguồn lực.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Hoạt động của các ngân hàng thương mại chịu tác động của nhiều nhân tố, chính những nhân tố này đã ảnh hưởng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng này thành hai nhóm lớn: Môi trường vi mô và môi trường vĩ mô.
Sơ đồ 1: Môi trường cạnh tranh của ngân hàng thương mại
MT chính phủ
luật pháp chính trị
MT toàn cầu
MT công nghệ
MT văn hoá
MT tự nhiên
Ngân hàng
Các NH mới
Dịch vụ thay thế mới
Khách
hàng
Các NH hiện tại
Môi trường
kinh tế
1.2.3.1. Môi trường vi mô
Nhiệm vụ của nhà chiến lược phải phân tích và phán đoán được năng lực của chính ngân hàng mình và các thế lực cạnh tranh trong môi trường ngành để xác định các cơ hội và đe doạ đối với ngân hàng mình. Từ sơ đồ 1 ta có thể thấy rõ mô hình phân tích 5 lực lượng được Michael Porter xây dựng đã giúp các nhà chiến lược trong phân tích được rõ ràng.
a. Bản thân ngân hàng thương mại:
Có nhiều yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại, một số yếu tố quan trọng nhất đó là: vốn của chủ, nguồn nhân lực, công nghệ và công tác marketing của ngân hàng.
* Vốn của chủ: Để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải tạo vốn, trước hết là vốn của chủ sở hữu. Nguồn vốn này cần đảm bảo lớn hơn một lượng vốn tối thiểu theo quy định của của pháp luật nhằm mục đích: thứ nhất, bù đắp những khoản thua lỗ trong kinh doanh, thứ hai dùng để tăng trưởng và mở rộng hoạt động của ngân hàng trong tương lai, thứ ba là để bảo vệ người gửi tiền và các nhà đầu tư, thứ tư là để chi cho cơ sở hạ tầng của ngân hàng._. (xây dựng trụ sở, mua sắm tài sản cố định…). Với vốn của chủ, ngân hàng đảm bảo có khả năng bù đắp cho những người gửi tiền trong trường hợp kinh doanh thua lỗ. Vì vậy, đây chính là một lợi thế trong hoạt động cạnh tranh của ngân hàng, các ngân hàng có vốn của chủ lớn hơn sẽ có lợi thế hơn hẳn các ngân hàng khác.
* Nguồn nhân lực: Hẳn ai cũng biết vai trò không thể thiếu của con người trong cuộc sống. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh dù công nghệ có hiện đại tới đâu, dù có tự động hoá cao đến mức nào thì vẫn cần có con người điều khiển, giám sát mọi hoạt động. Đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ (như lĩnh vực ngân hàng) thì vai trò của con người càng trở nên quan trọng vì quá trình sản xuất diễn ra đồng thời với quá trình tiêu thụ, sản phẩm dịch vụ được tạo ra ngay trong quá trình giao tiếp, trao đổi giữa cán bộ, nhân viên ngân hàng với khách hàng. Chất lượng sản phẩm dịch vụ do chính các cán bộ, nhân viên đó quyết định nên, do đó những cán bộ, nhân viên ngân hàng có ảnh hưởng lớn tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
* Trình độ công nghệ: Trong thời đại ngày nay, với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ nói chung, công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng thì ngân hàng nào có chính sách áp dụng công nghệ hiện đại, khả năng thích ứng công nghệ mới cao và có thể kết hợp với công nghệ của các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới sẽ tạo ra cho khách hàng nhiều tiện ích, phục vụ khách hàng tốt hơn, chính là đã tạo ra sức hấp dẫn đối với khách hàng.
* Công tác marketing: Một ngân hàng dù tốt nhưng để khách hàng biết đến một cách tường tận và rộng rãi thì phải tiến hành công tác marketing. Ngoài ra, công tác marketing giúp ngân hàng nâng cao uy tín, vị thế trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy, công tác marketing cũng có ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
b. Các ngân hàng hiện tại:
Mỗi ngân hàng đều hoạt động trong mối quan hệ với những ngân hàng khác, đây chính là những đối thủ cạnh tranh nhau. Mỗi ngân hàng phải hiểu rõ đối thủ của mình để đưa ra chiến lược kinh doanh hiệu quả trong tương lai. Việc cạnh tranh giữa các ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải liên tục đổi mới, tự làm mới mình cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của bản thân thì mới có thể tồn tại và phát triển được. Cạnh tranh giữa các ngân hàng bao gồm ba nội dung chủ yếu là: cơ cấu cạnh tranh ngành, tình trạng cầu và hàng rào lối ra.
- Cơ cấu cạnh tranh ngành dựa vào khả năng cung ứng dịch vụ của mỗi ngân hàng.
- Tình trạng cầu: đây là yếu tố quyết định mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng, nếu cầu tăng thì các ngân hàng có cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh, còn nếu cầu giảm thì sự cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn, khả năng mất thị phần luôn đe doạ các ngân hàng không có khả năng cạnh tranh.
- Hàng rào lối ra: đây là mối đe doạ cạnh tranh khi cầu của ngành giảm, nó có thể là đầu tư máy móc thiết bị, tài sản cố định, chi phí xã hội, rủi ro khi sa thải nhân công…
c. Các ngân hàng mới:
Đây chính là những đối thủ tiềm ẩn, không kém phần nguy hiểm so với các ngân hàng hiện tại, mà có khi còn đáng lo ngại hơn vì các ngân hàng mới có tiềm năng mới, động cơ và ước vọng giành được thị phần, có kinh nghiệm từ những ngân hàng hoạt động trước nó, có khả năng thích ứng với thời cuộc một cách nhanh chóng. Hơn nữa, các ngân hàng mới có thể có những chiến lược mới với sức mạnh mới mà những ngân hàng hiện tại chưa thể ứng phó kịp. Vì vậy, nếu để càng nhiều ngân hàng gia nhập thị trường thì sự cạnh tranh càng gay gắt, ngân hàng càng có nguy cơ bị giảm thị phần, lợi nhuận bị san sẻ, vị thế cạnh tranh bị thay đổi.
d. Khách hàng:
Khách hàng của ngân hàng thương mại là các cá nhân, tổ chức và ngay cả những ngân hàng khác. Khi những khách hàng này gửi tiền, lập tài khoản giao dịch… thì họ đóng vai trò là người bán, họ mong “bán” được với giá cao, tức là được hưởng mức lãi suất cao – đây chính là chi phí của ngân hàng. Ngược lại khi khách hàng muốn vay vốn để sản xuất kinh doanh, hoặc sử dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng thì họ muốn trả một mức phí thấp, điều này cũng có nghĩa là lợi nhuận của ngân hàng bị giảm xuống. Như vậy, ngân hàng phải chịu sự mâu thuẫn giữa hoạt động tạo lợi nhuận có hiệu quả và giữ chân được khách hàng cũng như có thể thu hút nguồn vốn rẻ nhất để sử dụng. Do vậy, vấn đề đặt ra cho các ngân hàng là phải có chính sách khách hàng hợp lý, vừa đảm bảo lợi nhuận của ngân hàng mà vẫn giữ chân các khách hàng ở lại với ngân hàng mình.
e. Dịch vụ mới thay thế:
Trong mô hình của mình, Michael Porter đề cập tới một lực lượng nữa là các dịch vụ mới thay thế, đây là các sản phẩm khác có thể thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Các sản phẩm mới thường có những ưu thế hơn sản phẩm bị thay thế nên dễ thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng. Sự ra đời và lớn mạnh không ngừng của các trung gian tài chính đang đặt các ngân hàng trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Các trung gian này cung cấp cho khách hàng những dịch vụ mới với nhiều tiện ích và có tính khác biệt, mở ra cơ hội cho khách hàng được lựa chọn. Các ngân hàng phải nỗ lực đổi mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng thì mới có thể tồn tại được.
Tất cả những yếu tố trên tác động tới lợi thế của ngân hàng, có yếu tố có tác động tích cực, góp phần tạo ra, hoặc nâng cao lợi thế của ngân hàng, nhưng cũng có những yếu tố có tác động tiêu cực, đe doạ sự phát triển của ngân hàng. Sự ảnh hưởng của những yếu tố này sẽ quyết định tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
1.2.3.2. Môi trường vĩ mô
Bên cạnh môi trường vi mô thì môi trường vĩ mô cũng có những tác động tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại, nói đến môi trường vĩ mô nghĩa là bao gồm những môi trường cơ bản như: môi trường kinh tế, môi trường văn hoá – xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường chính phủ, pháp luật và chính trị.
a. Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế có ý nghĩa đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Nếu coi hệ thống ngân hàng như là một hệ tuần hoàn trong một cơ thể sống là nền kinh tế thì hệ tuần hoàn đó có hoạt động tốt hay không, có đủ máu để lưu thông và chất lượng máu cũng như hệ thống mao mạch có tốt hay không lại phụ thuộc vào cơ thể sống đó. Cụ thể, bất kể một ngân hàng nào cũng thưòng quan tâm tới một số chỉ tiêu như: tốc độ phát triển của nền kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát. Một nền kinh tế có tốc độ phát triển cao sẽ tạo cơ hội cho đầu tư mở rộng hoạt động ngân hàng và ngược lại. Còn mức lãi suất sẽ quyết định tới mức cầu cho doanh nghiệp, nên các ngân hàng thường đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn với doanh nghiệp. Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, có thể đem lại cho ngân hàng một vận hội kinh doanh tốt hoặc cũng có thể là nguy cơ phá sản. Tỷ lệ lạm phát cũng ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thông qua việc ảnh hưởng tới sự nhiệt tình của các nhà đầu tư đối với các dự án. Nghiên cứu các chỉ tiêu của môi trường kinh tế cũng như chiều hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế là cơ sở quan trọng để các nhà chiến lược ngân hàng hoạch định về chiến lược đầu tư, đổi mới của mình.
b. Môi trường văn hoá – xã hội:
Một số yếu tố về văn hoá – xã hội có thể ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại, cụ thể nó ảnh hưởng thông qua việc tác động tới nhu cầu và nguồn nhân lực.
Những đặc điểm xã hội ảnh hưởng tới nhu cầu đối với các dịch vụ ngân hàng đó là: lòng tin của dân chúng đối với các ngân hàng, thói quen tiêu tiền và tiết kiệm của người dân, trình độ dân trí và khả năng hiểu biết về các dịch vụ của ngân hàng, mức thu nhập của người dân…
Có thể nói ngân hàng là ngành kinh doanh “lòng tin”. Ngân hàng là người giữ tiền cho người dân cũng như các doanh nghiệp, ngân hàng chính là người giữ hầu bao của nền kinh tế. Nếu ngân hàng không tạo được niềm tin trong dân chúng thì chắc chắn hoạt động ngân hàng sẽ không thể tồn tại. Thói quen tiêu dùng của người dân ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt là tập quán sử dụng tiền tệ. Nếu người dân có thói quen sử dụng tiền mặt nhiều thì rõ ràng ngân hàng sẽ bị hạn chế trong kinh doanh. Mức tiết kiệm của người dân càng cao càng ảnh hưởng đến nguồn cung ứng tín dụng cho các ngân hàng. Trình độ dân trí cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng. Dịch vụ ngân hàng là một loại dịch vụ cao cấp, không phải ai cũng tự tin để giao dịch với ngân hàng. Trình độ dân trí càng cao thì khả năng phổ biến các dịch vụ ngân hàng hiện đại càng thuận lợi, dễ dàng và có cơ hội để đổi mới của ngân hàng cũng sẽ cao hơn. Mức thu nhập của người dân sẽ là yếu tố quyết định tới nhu cầu đối với các dịch vụ ngân hàng, thu nhập có cao thì người dân mới có khả năng tiếp cận cũng như là có nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng và ngược lại.
Bên cạnh đó, một số đặc điểm văn hoá – xã hội ảnh hưởng tới nguồn nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng như: quan điểm về doanh nhân và kinh doanh, quan điểm về sự giàu có, quan điểm về thăng tiến, quan điểm về đạo đức nghề nghiệp, quan điểm về học tập và tự đào tạo, quan điểm về sự gắn bó với nghề nghiệp, quan điểm về rủi ro và thất bại…
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp. Một đất nước phải coi trọng doanh nghiệp và doanh nhân thì các doanh nghiệp nước đó mới có điều kiện thuận lợi để phát triển. Bên cạnh đó, ngân hàng còn là một ngành dịch vụ đòi hỏi nguồn nhân lực phải có trình độ nhất định, sự thành công của ngân hàng đòi hỏi phải có những cá nhân xuất sắc, có tham vọng kinh doanh, làm giàu và thăng tiến. Nếu một đất nước mà người dân coi trọng những giá trị trên thì những người có những phẩm chất đó sẽ có điều kiện phát triển và ngân hàng có nhiều cơ hội để tuyển chọn được nguồn nhân lực có nhiều phẩm chất đối với sự phát triển của mình. Ngân hàng đồng thời cũng là ngành chịu nhiều rủi ro nhất, vì thế những nhân viên ngân hàng phải là những người có khả năng phát hiện và đánh giá được rủi ro, dám chấp nhận rủi ro, đồng thời là người có sự thận trọng cần thiết, tôn trọng các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp. Coi trọng đạo đức cũng là một phẩm chất quan trọng đối với các nhân viên ngân hàng. Việc coi trọng đạo đức là cơ sở để ngân hàng giữ chữ tín đối với khách hàng, là chỗ dựa cho niềm tin của công chúng đối với ngân hàng. Một xã hội coi trọng đạo đức cũng là một điều kiện thuận lợi đối với việc nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngân hàng. Do sự đòi hỏi về mức độ tích luỹ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm nên tập quán về sự gắn bó với nghề nghiệp cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu người dân ở một nước có thói quen ít thay đổi chỗ làm việc và thường gắn bó với một doanh nghiệp nào đó trong một thời gian dài thì các ngân hàng nước đó sẽ có lợi thế trong việc duy trì và liên tục nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên của mình, trên cơ sở đó để nâng cao lợi thế cạnh tranh. Rất nhiều mảng hoạt động của ngân hàng đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao và kinh nghiệm tích luỹ liên tục. Ngân hàng cũng là một ngành có tốc độ đổi mới và cải tiến rất cao, vì vậy khả năng tự học, tự đào tạo của các nhân viên sẽ có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Một xã hội coi trọng việc học tập, rèn luyện cũng là một lợi thế đối với ngành ngân hàng của nước đó.
c. Môi trường tự nhiên:
Môi trường tự nhiên bao gồm nhiều yếu tố ảnh hưởng tới ngân hàng như: môi trường khí hậu, sinh thái, tổng dân số, tỷ lệ phát triển dân số, xu thế thay đổi về nhân khẩu học hay vị trí địa lý mà ngân hàng có trụ sở hay chi nhánh…
Môi trường khí hậu ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống của các cá nhân, tổ chức – khách hàng của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tới chính hoạt động của ngân hàng.
Môi trường dân số cũng là một yếu tố rất đáng quan tâm, các thông tin về tổng số dân, tỷ lệ tăng dân số, cấu trúc dân cư… sẽ giúp ngân hàng có thể dự đoán về thị trường hiện tại cũng như tương lai của ngân hàng. Căn cứ vào những thông tin trên, ngân hàng xác định được đoạn thị trường mục tiêu của mình để có những chiến lược, chính sách cụ thể cho phù hợp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngân hàng đó.
Vị trí của các ngân hàng cũng rất quan trọng, vì một trong những đặc tính của ngành dịch vụ là sản phẩm dịch vụ không nhìn thấy, chất lượng sản phẩm dịch vụ đó như thế nào tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Cái mà khách hàng nhìn thấy đầu tiên đó là cơ sở hạ tầng của ngân hàng, và vị trí địa lý của nó là một yếu tố mà nhiều khách hàng quan tâm. Một ngân hàng đóng tại vị trí trung tâm rõ ràng sẽ được nhiều khách hàng biết đến và chiếm được cảm tình ban đầu của họ. Đây chính là một lợi thế mà các ngân hàng phải khai thác.
d. Môi trường chính phủ, pháp luật và chính trị:
Chính phủ có vai trò quan trọng đối với bất kì một ngành nào, đặc biệt đối với ngành ngân hàng – người thủ quỹ của toàn nền kinh tế.
Chính phủ tác động đến sự phát triển của ngân hàng trước hết với vai trò của người quản lý, giám sát của toàn hệ thống thông qua vai trò của Ngân hàng Trung ương. Sự hoạt động an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng thương mại là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế ở một quốc gia. Do mối liên kết rất chặt chẽ của toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại, sự đổ vỡ của một ngân hàng thưòng gây ra những hậu quả rất to lớn và có khả năng gây ra hiệu ứng lan truyền lên toàn bộ hệ thống. Hơn nữa ngành ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tất cả các ngành khác trong nền kinh tế, sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng sẽ gây khó khăn cho tất cả các ngành đó. Vì thế, hoạt động của các ngân hàng thương mại phải chịu sự quản lý và giám sát hết sức chặt chẽ của các cơ quan nhà nước nói chung và của ngân hàng trung ương nói riêng.
Ngoài chức năng của một người quản lý, giám sát các hoạt động của hệ thống ngân hàng, chính phủ còn là chủ sở hữu, là con nợ và chủ nợ lớn, thậm chí lớn nhất của các ngân hàng thương mại. Chính phủ cũng đồng thời là người hoạch định đường lối phát triển chung của toàn ngành và điều phối nỗ lực chung của toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Chính phủ có thể có những chính sách tác động đến cung cầu, đến ổn định kinh tế vĩ mô, đến các điều kiện nhân tố sản xuất, các ngành liên quan và phụ trợ của ngành ngân hàng để tạo thuận lợi hay kìm hãm sự phát triển của ngành ngân hàng. Đánh giá vai trò của chính phủ trong việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại ở một nước vì vậy rất cần thiết.
Vai trò của Chính phủ thể hiện nhưng không giới hạn ở những nội dung: sự đầy đủ, tính đồng bộ và hiệu lực thi hành của các quy định pháp luật, các chính sách liên quan đến hoạt động ngân hàng, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại, vai trò của Chính phủ với tư cách là chủ sở hữu, con nợ, chủ nợ của các ngân hàng thương mại, hiệu quả của các chính sách, các biện pháp ưu đãi trong lĩnh vực ngân hàng và các lĩnh vực liên quan…
Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh nội tại của các ngân hàng thương mại cũng như các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại của một nước như trình bày ở trên đã thể hiện tương đối toàn diện năng lực cạnh tranh hiện tại cũng như khả năng duy trì và phát triển trong tương lai của các ngân hàng thương mại.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA VP BANK TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Tổng quan về VP BANK
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (tên giao dịch là VPBank) là một pháp nhân được thành lập trên cơ sở tự nguyện của các cổ đông theo Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính số 38/LTC-HĐNN8 ngày 24/05/1990 của Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được Thống đốc NHNN Việt Nam cấp giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP ngày 12/08/1993 với thời gian hoạt động là 99 năm.
Khi mới bắt đầu thành lập, VP Bank có số vốn điều lệ ban đầu là 20,01 tỷ VNĐ với 16 cổ đông sáng lập là các pháp nhân, thể nhân Việt Nam. Đến tháng 08/1994 VP Bank tiếp tục tăng số vốn điều lệ lên thành 70,01 tỷ VNĐ theo quyết định số 193/QD-NH5 ngày 12/09/1994. Ngày 18/03/1996 vốn điều lệ của VP Bank tăng lên thành 174,9 tỷ VNĐ theo quyết định số 53/QĐ-NH5 của NHNN tương đương 174900 cổ phiếu của 97 cổ đông đóng góp. Đến cuối năm 2004, VP Bank nhận được quyết định số 689/NHNN-HAN7 của NHNN chấp thuận cho VP Bank được nâng vốn điều lệ lên 198,4 tỷ đồng. Trong quý I năm 2005 theo công văn chấp thuận số 134/NHNN-HAN7 ngày 25/02/2005, NHNN chấp thuận cho VP Bank nâng vốn điều lệ lên 243,7 tỷ VNĐ.
Tính đến tháng 7/2005 hệ thống VP Bank có tổng cộng 30 điểm giao dịch gồm có: Hội sở chính tại Hà Nội, 10 chi nhánh cấp I tại các tỉnh, thành phố của đất nước là Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc và Bắc Giang, 15 chi nhánh cấp II và 4 phòng giao dịch. Trong năm 2005 và 2006 VP Bank dự kiến sẽ mở thêm khoảng 20 điểm giao dịch mới tại các tỉnh, thành phố trọng điểm kinh tế của cả nước.
Về nguồn nhân lực, VP Bank cũng có tốc độ phát triển mạnh. Tại thời điểm bắt đầu thành lập 12/08/1993 VP Bank chỉ hoạt động với 18 người thì tính đến nay số lượng cán bộ, nhân viên của VP Bank trên toàn hệ thống là 700 người, trong đó phân lớn các cán bộ, nhân viên có trình độ đại học và trên đại học (chiếm khoảng 87%). Với đội ngũ nhân viên trẻ khỏe, năng động, nhiệt tình, có học thức sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của VP Bank.
Trong quá trình hoạt động hơn 12 năm, VP Bank đã có những bước thăng trầm, nhưng đến nay VP Bank đang dần khẳng định sự tồn tại của mình và ngày càng phát triển.
*Thời kì đầu thành lập:
Ngay tên gọi “Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam” đã cho thấy mục đích hoạt động chính của các cổ đông là thành lập một ngân hàng dành cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong đó có các doanh nghiệp của các cổ đông tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn kinh doanh khi cần thiết. Chính những suy nghĩ phiến diện này đã làm cho VP Bank phạm phải những sai lầm vô cùng nghiêm trọng dẫn đến những hậu quả to lớn sau này. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận những thành công của VP Bank trong những năm đầu hoạt động:
Chỉ trong 4 tháng đầu hoạt động, VP Bank lãi được 101 triệu đồng
Năm 1994 lãi 10 tỷ đồng
Năm 1995 lãi 29,6 tỷ đồng
Mức lãi kỷ lục đạt vào năm 1996 là 75,9 tỷ đồng
Trong thời kỳ này, thu nhập của cán bộ công nhân viên VP Bank rất cao, 1 năm được thưởng 5-6 tháng lương. Tuy nhiên, những người lãnh đạo của VP Bank thời kỳ đó không ý thức được VP Bank đang ăn vào vốn của mình, bởi các khoản tiền lãi thì mới chỉ được nhìn thấy trên sổ sách, còn tiền thật thì đã đội nón ra đi theo các hợp đồng tín dụng với các đại gia mà không hẹn ngày trở lại.
*Thời kỳ khủng hoảng:
Thực chất trong giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của VP Bank những năm 95-96 đã tiềm ẩn những nguy cơ to lớn mà những người lãnh đạo thời kỳ đó không nhận thức hết được. Với những suy nghĩ cho rằng mục đích hàng đầu của VP Bank là để “phục vụ riêng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp riêng của các cổ đông” HĐQT và Ban điều hành lúc đó đã chủ trương cho các cổ đông vay vốn tín chấp hoặc thế chấp bằng chính cổ phiếu VP Bank và bảo lãnh cho cổ đông mở L/C mua hàng trả chậm vượt qua quy định cho phép… Chính vì thế, tuy năm 1996 VP Bank đạt mức lãi trước thuế kỷ lục lên đến 76 tỷ đồng, song chỉ là con số trên sổ sách, còn tiền thật thì đều đã cho vay đi mà không có khả năng thu hồi.
Tới cuối năm 96 đầu 97 tình hình tài chính thực tế của VP Bank không thể không bộc lộ rõ rệt. Lúc này thì VP Bank thực sự đứng trên bờ vực phá sản: Nợ quá hạn quá cao lên tới 71% so với tổng dư nợ, nợ L/C trả chậm lên tới trên 40 triệu USD, năng lực tài chính của VP Bank không đủ để thực hiện nghĩa vụ thanh toán, thanh khoản hàng ngày. Thêm vào đó, việc đưa thông tin thiếu chính xác về VP Bank của một số báo chí trong và ngoài nước càng gây thêm tâm lý bất an trong dân cư và sự mất lòng tin của khách hàng càng khiến VP Bank rơi vào chỗ không có lối thoát. Nguy cơ phá sản gần như cầm chắc trong tay. VP Bank bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt của NHNN. Trước tình hình đó, 8/3/1998 Đại hội cổ đông bất thường VP Bank đã được tổ chức nhằm củng cố lại bộ máy HĐQT và Ban điều hành, phân tích nguyên nhân đổ vỡ và tìm biện pháp chống lại các khó khăn. Tiếp theo Đại hội cổ đông thường niên 97 được tổ chức vào ngày 15/1/1998 đã bầu ra HĐQT và ban kiểm soát cho nhiệm kì mới 1998-2001. Cùng với sự trợ giúp, định hướng của NHNN TW và NHNN Hà Nội, HĐQT và ban điều hành mới đã cố gắng chèo lái đưa VP Bank vượt qua khó khăn.
Đến cuối năm 1997, tình hình VP Bank đã phần nào được cải thiện. Khả năng thanh toán từ chỗ rất thấp đã nâng dần lên đạt mức trên dưới 30%. Mặc dù vậy nguy cơ đổ vỡ vẫn còn nguyên, hoạt động tín dụng của VP Bank rất ít cơ hội tăng trưởng, lãi cho vay không bù đắp nổi chi phí đầu vào. Tuy không mất hết khách hàng song các khách hàng của VP Bank đều hết sức dè dặt trong quan hệ giao dịch.
Thời kì 1997-2000 là thời kì VP Bank vật lộn với những khó khăn thử thách để tìm ra một chiến lược phát triển phù hợp cho hoạt động ngân hàng và những biện pháp hữu hiệu để giải quyết những hậu quả nặng nề mà ngân hàng đang phải gánh chịu. Đồng thời sự giám sát ngặt nghèo của NHNN cũng khiến cho hoạt động của VP Bank vô cùng bế tắc, rất nhiều những hạn chế trói buộc hoạt động của ngân hàng như: ngừng hoàn toàn việc mở L/C trả chậm, giới hạn các món vay dưới 3 tỷ đồng, giới hạn mức huy động vốn là 85,2 tỷ đồng… Gần như nhất cử nhất động của VP Bank đều phải báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của NHNN. Khi đó Hội đồng quản trị đã rất quyết tâm giữ vững ngân hàng: công tác thu hồi nợ được đặt lên thành một chiến lược. Phòng thu hồi nợ được tách khỏi phòng tín dụng đảm bảo chuyên môn hóa trong công việc với một đội ngũ cán bộ thu hồi nợ được tăng cường và được tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động, các biện pháp kiên quyết và cứng rắn được đưa ra thực hiện, hoạt động tín dụng cũng rất được chú trọng. Bộ máy tổ chức được cơ cấu lại nhiều lần, thể hiện một kiên trì, quyết tâm của HĐQT trong việc tìm ra một cơ chế hoạt động tối ưu nhằm cứu ngân hàng ra khỏi cơn nguy khó. Các quy trình nghiệp vụ được nghiên cứu và ban hành theo 2 cấp: cấp HĐQT ban hành quy chế hoạt động, cấp Ban điều hành ban hành các quy định cụ thể, các ban tín dụng được thành lập nhằm tạo lập một cơ chế kiểm soát chặt chẽ, an toàn cho hoạt động tín dụng.
* Thời kỳ cải tổ:
Ngày 11/12/2000 Chủ tịch HĐQT đã ký quyết định số 196/QĐ-HĐQT thành lập Ban Đề án triển khai cải tổ VP Bank với những thành phần chính gồm trưởng ban là Chủ tịch HĐQT, các thành viên là các thành viên trong HĐQT, BKS, giám đốc các chi nhánh, một số trưởng phòng, ban chủ chốt tại Hội sở và các chi nhánh. Nhiệm vụ chính của Ban Cải tổ là đề ra và đi đến thống nhất một phương án cải tổ VP Bank có tính khả thi cao. Trải qua hơn một năm trời nỗ lực, Ban Đề án đã hoàn thành một phương án cải tổ VP Bank cụ thể và trình NHNN. Nội dung chính của phương án cải tổ gồm 2 phần: Cơ cấu lại tài chính của VP Bank và Cải tổ về nhân sự và quản lý. Cải tổ tài chính của VP Bank nhằm mục tiêu là lành mạnh hóa tình hình tài chính của VP Bank, giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức cho phép bằng các biện pháp: ưu tiên hàng đầu cho công tác thu hồi nợ, tiếp tục đàm phán với các chủ nợ nước ngoài để giải quyết số nợ L/C tồn đọng và giảm vốn điều lệ để xử lý nợ quá hạn, khó đòi, đồng thời, huy động thêm vốn cổ đông mới. Cải tổ về nhân sự và quản lý gắn chặt với việc thay đổi cung cách quản trị và điều hàng ngân hàng, đưa ra các chiến lược kinh doanh phù hợp cho tương lai, tổ chức lại hệ thống phòng, ban, tăng cường lãnh đạo hệ thống, hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ, tạo cơ chế hoạt động thuận lợi, xây dựng các chính sách phù hợp để động viên, khuyến khích nguồn nhân lực của ngân hàng trong việc phát huy hiệu quả hoạt động.
Phương án cải tổ đã được NHNN xem xét và phê duyệt để VP Bank đưa vào thực hiện, HĐQT đã tiến hành những bước cải tổ VP Bank, với mục tiêu xây dựng hình ảnh VP Bank là “một ngân hàng bán lẻ năng động, có uy tín với chất lượng phục vụ cao”, HĐQT đã tiến hành một loạt các cải cách về mô hình tổ chức vào tháng 6/2001, và tiếp theo là tháng 5/2002, cùng với những đợt cải cách mạnh mẽ những tháng đầu năm 2003 nhằm kiện toàn lại bộ máy tổ chức cho phù hợp với chiến lược hoạt động của ngân hàng, đồng thời tạo một cơ chế hoạt động thuận lợi cho các phòng ban nghiệp vụ với mục tiêu luôn hướng tới khách hàng. Trong tình thế VP Bank gặp nhiều hạn chế và rào cản của NHNN việc mở rộng tín dụng với quy mô lớn gần như không có cơ hội thì bán lẻ là con đường giúp cho VP Bank tồn tại. Mục tiêu của VP Bank trong năm 2001, 2002, và 2003 là đẩy mạnh tín dụng tiêu dùng, cho vay trả góp và tăng cường các hoạt động dịch vụ như thanh toán quốc tế, chuyển tiền… Bên cạnh đó, nhiệm vụ thu hồi nợ vẫn được ưu tiên số một.
Sau khi thực hiện cải tổ, VP Bank đã đạt được tốc độ phát triển khá cao kể cả về huy động vốn, cho vay và phát triển dịch vụ. Với khẩu hiệu “tận tình, chu đáo phục vụ khách hàng” và phương châm “tín nhiệm là trên hết”, khách hàng ngày càng tin cậy và yên tâm khi sử dụng sản phẩm dịch vụ của VP Bank . Kết quả năm 2004, VP Bank đã thực hiện vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch, với lợi nhuận trước thuế đạt 60,078 tỷ đồng tăng 40,28% so với năm 2003 (42,828 tỷ đồng), tăng 192,15% so với năm 2002 (20,564 tỷ đồng). Đến năm 2005, hoạt động của VP Bank đưa lại lợi nhuận trước thuế và DPRR là 83,32 tỷ đồng, tăng 23,242 tỷ đồng so với năm 2004, nghĩa là tăng 38,7%.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của VP Bank
Sơ đồ tổ chức:
Đại hội cổ đông
Hội đồng quản trị
Ban Kiểm soát
Hội đồng tín dụng
Ban Điều hành
Phòng Kiểm tra Kiểm toán nội bộ
Các Ban tín dụng
Hội sở
CN Hà Nội
CN HCM
CN Sài Gòn
CN Hải Phòng
CN Huế
CN Đà Nẵng
CN Cần Thơ
CN Quảng Ninh
CN Vĩnh Phúc
CN Bắc Giang
Phòng Kế toán
Phòng Ngân quỹ
Phòng Thanh toán
Quốc tế và Kiều hối
Phòng Thu hồi nợ
Trung tâm tin học
Trung tâm Kiều hối và phát Chuyển tiền nhanh Western Union
Trung tâm đào tạo
Phòng Tổng hợp
và Quản lý chi nhánh
Văn phòng VP Bank
Các
Chi nhánh cấp II và
các Phòng
giao dịch
2.2.3. Các hoạt động cơ bản của VP Bank
VPBank hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng trên cơ sở thực hiện các nghiệp vụ sau:
- Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của các tổ chức và cá nhân;
- Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước;
- Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác;
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức và cá nhân;
- Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá;
- Hùn vốn, liên doanh và mua cổ phần theo pháp luật hiện hành;
- Thực hiện dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng;
- Thực hiện kinh doanh ngoại tệ;
- Huy động nguồn vốn từ nước ngoài;
- Thanh toán quốc tế và thực hiện các dịch vụ khác liên quan đến thanh toán quốc tế;
- Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức, đặc biệt chuyển tiền nhanh Western Union.
2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của VP Bank trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
2.2.1. Thực trạng hoạt động kinh doanh của VP Bank thời gian qua
2.1.1.1. Huy động vốn
Huy động vốn là một hoạt động được VP Bank đặc biệt quan tâm trong năm 2005, với mục tiêu bảo đảm vốn cho vay, an toàn thanh khoản và tăng nhanh tài sản, nâng cao vị thế của VP Bank trong hệ thống ngân hàng. Do đó, trong năm qua các hoạt động huy động vốn từ khu vực dân cư cũng như khu vực liên ngân hàng đều được chú trọng khai thác triệt để.
Tình hình huy động vốn của VP Bank qua mấy năm gần đây được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của VP Bank
giai đoạn 2003-2005:
(đvị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng vốn huy động
2213
100%
3873
100%
5608
100%
Huy đông từ thị trường I
1243
56%
1825
42.7%
3210
57,2%
Huy động từ thị trường II
970
44%
2048
58.3%
2398
42,8%
(Nguồn: Báo cáo tài chính VP Bank các năm 2003, 2004,2005)
Kết quả đến hết năm 2005, tổng nguồn vốn huy động được là 5608 tỷ đồng, tăng 44,8% (1735 tỷ đồng), trong đó huy động từ thị trường I (tổ chức kinh tế và dân cư) là 3210 tỷ đồng, huy động từ thị trường II (TCTD) là 2398 tỷ đồng. Như vậy, dù số vốn huy động được trên thị trường II tăng lên rất đáng kể (350 tỷ đồng) nhưng số tiền huy động từ thị trường I vẫn chiếm tỷ trọng lớn (57,2%). Điều này chứng tỏ VP Bank đang dần chiếm được lòng tin của dân chúng, số lượng khách hàng đến với ngân hàng ngày càng tăng lên. Có được kết quả như trên là do cả nguồn vốn huy động được thị trường I và II đều tăng lên.
Trong lĩnh vực huy động tiền gửi từ khu vực dân cư, năm 2005 VP Bank đã thực hiện liên tiếp 3 đợt huy động vốn có bốc thăm trúng thưởng, được người gửi tiền hưởng ứng rất nhiệt tình (“VP Bank gửi tài lộc đầu xuân”, “Tiếp nối niềm vui”, “Vui cùng sinh nhật VP Bank”). Đầu tháng 3/2005, VP Bank đã đưa một hình thức huy động mới “Tiết kiệm VND được đảm bảo bằng USD”). Sản phẩm này đáp ứng được tâm lý của khách hàng e ngại sự mất giá của tiền VND so với USD nhưng lại muốn hưởng lãi suất cao của tiền VND nên đã thu hút được khá nhiều khách hàng.
Ngoài ra, trong năm 2005 VP Bank cũng đã mở thêm 10 chi nhánh mới, kèm theo các chương trình khuyến mại riêng cho khách hàng gửi tiền nhân dịp khai trương nên rất nhiều khách hàng đã đến giao dịch.
Trong khu vực liên ngân hàng, khác với thời kỳ bị kiểm soát đặc biệt, đến năm 2005 nhiều TCTD đã tin tưởng cấp hạn mức tín chấp cho VP Bank với số lượng hàng trăm tỷ đồng tại mỗi ngân hàng đối tác. Trong đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cấp hạn mức tín chấp cho VP Bank 200 tỷ đồng, Ngân hàng Công thương Việt Nam cấp hạn mức 300 tỷ đồng, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cấp hạn mức 5 triệu USD (tương đương 80 tỷ đồng)… Nguồn vốn huy động được trên thị trường liên ngân hàng đã giúp VP Bank tạo nguồn thanh khoản dồi dào và tận dụng các cơ hội kinh doanh hưởng chênh lệch tỷ giá, chênh lệch lãi suất, đóng góp thu nhập không nhỏ cho VP Bank trong ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36350.doc