MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh hội nhập ngân hàng, xây dựng hệ thống ngân hàng vững mạnh trở thành kênh dẫn nhập vốn hàng đầu, là cách tốt nhất cho nền kinh tế đang cần vốn như Việt Nam từng bước chuyển dịch cơ cấu vốn theo định hướng công nghiệp hóa
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1279 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình (ABBank) trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế , để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và hiện đại hóa đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường tài chính-tiền tệ Việt Nam sẽ phát triển mạnh hơn cả theo chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt là sự gia tăng hoạt động của các định chế tài chính như các ngân hàng thương mại cổ phần, các tổ chức tài chính phi ngân hàng và các tổ chức tài chính ngân hàng đa quốc gia. Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ tiếp tục được hoàn thiện theo hướng đầy đủ hơn, đồng bộ hơn, minh bạch hơn và bình đẳng hơn giữa các chủ thể tham gia thị trường. Rõ ràng là những biến đổi này sẽ tạo ra cho các ngân hàng Việt Nam môi trường kinh doanh mới với nhiều điều kiện thuận lợi, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh và hợp tác cùng phát triển.
Tuy nhiên, chính sức ép của cạnh tranh và hội nhập sẽ buộc các ngân hàng Việt Nam phải nỗ lực đổi mới để có thể tồn tại và phát triển. Hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi can thiệp của các cơ quan chính quyền, tình trạng tài chính yếu kém, khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện, công nghệ ngân hàng tụt hậu so với các nước, nợ khó đòi cao, môi trường kinh tế vĩ mô chưa ổn định đã đặt hệ thống ngân hàng vào tình thế rủi ro khá cao. Vì vậy, lĩnh vực ngân hàng cần nhanh chóng hội nhập cùng với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới, xây dựng hệ thống ngân hàng có năng lực cạnh tranh vững mạnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn và cung ứng sản phẩm dịch vụ cho nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. Không nằm ngoài xu thế đó, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương cũng xác định phải chủ động đẩy mạnh quá trình cải cách, tiếp tục đổi mới triệt để và toàn diện hơn để nâng cao năng lực cạnh tranh, vững bước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
Dựa trên những phân tích trên, em chọn đề tài : "Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng An Bình trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế". Báo cáo thực tập nghiên cứu tình hình hoạt động và thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng An Bình, trên cơ sở đó tính toán một số chỉ tiêu phân tích, rút ra nhận xét chủ quan, mạnh dạn đưa ra những kiến nghị mong muốn góp một phần nhỏ trong quá trình không ngừng đổi mới và hoàn thiện của NH.
Mục đích của đề tài nhằm đánh giá năng lực cạnh tranh của Ngân hàng An Bình ở thời điểm hiện tại; đồng thời xác định các cản trở hạn chế năng lực cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng trong thời gian tới.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu theo 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
Chương 2: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng An Bình
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng An Bình
CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
1. Khái niệm cạnh tranh
Trước đây, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã đề cập tới vấn đề cạnh tranh của các nhà tư bản. Theo C.Mác: "Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch". Ở đây, C.Mác đã đề cập tới vấn đề cạnh tranh trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mà đặc trưng của chế độ này là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do vậy, theo quan niệm này thì cạnh tranh có nguồn gốc từ chế độ tư hữu. Cạnh tranh được xem xét là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại. Quan niệm đó về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ tiêu cực.
Ở Việt Nam, trong một thời gian dài trước đây, cạnh tranh cũng được nhìn nhận dưới góc độ tiêu cực: cạnh tranh gắn với đổ vỡ, cạnh tranh là tiêu diệt lẫn nhau, là “cá lớn nuốt cá bé”. Nhận thức không đầy đủ về cạnh tranh đã dẫn tới không thừa nhận cạnh tranh, tạo ra sự độc quyền, nuôi dưỡng độc quyền trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại hiện nay, cạnh tranh là động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất - kinh doanh (năng lực tổ chức quản lý, trình độ công nghệ, trình độ tay nghề, ...), nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng nguồn lực. Cạnh tranh không phải chỉ có tranh giành, mà cạnh tranh luôn đi với hợp tác, cạnh tranh trong sự hợp tác và bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Do đó, ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường hàng hoá cụ thể nào đó nhằm giành giật khách hàng và thị trường, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hoá và thu được lợi nhuận cao. Cạnh tranh là sức mạnh mà hầu hết các nền kinh tế thị trường tự do dựa vào để đảm bảo rằng các doanh nghiệp thoả mãn được các nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng. Khi có cạnh tranh, không một chính phủ nào cần phải quy định các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gì với số lượng, chất lượng và giá cả thế nào. Cạnh tranh trực tiếp quy định những vấn đề đó với các doanh nghiệp.
2. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh) của doanh nghiệp. Có quan niệm gắn sức cạnh tranh với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan điểm lại gắn sức cạnh tranh của doanh nghiệp theo thị phần mà nó chiếm giữ, có người lại đồng nghĩa công cụ cạnh tranh với các chỉ tiêu đo lường sức cạnh tranh của hàng hoá, của doanh nghiệp, và thậm chí có người còn đồng nghĩa sức cạnh tranh với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp...
Tuy nhiên có thể hiểu một cách chung nhất: “Năng lực cạnh tranh chính là thực lực và lợi thế mà quốc gia (ngành, doanh nghiệp hay sản phẩm dịch vụ) có thể huy động được để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường thế giới một cách lâu dài và có ý chí nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế của mình và cho quốc gia (ngành, doanh nghiệp hay sản phẩm dịch vụ) mình.”
Như vậy, năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, được cấu thành bởi nhiều yếu tố và chịu sự tác động của cả môi trường vi mô và vĩ mô, là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố và chịu tác động của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài của quốc gia ( ngành, doanh nghiệp, hay sản phẩm dịch vụ)
3. Kinh nghiệm
3.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về Ngân hàng thương mại. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện đại: “Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Ở Hoa Kỳ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào đó thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh Ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và được phép sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và là phương tiện thanh toán.”
Như vậy, Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của ngân hàng thương mại.. Hoạt động của ngân hàng thương mại phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Qua những khái niệm trên, ta có thể rút ra một số điểm đặc trưng của Ngân hàng thương mại như sau:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác
Hiện nay, ngân hàng thương mại thực sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu.
3.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại thể hiện ở thực lực và lợi thế của Ngân hàng thương mại đó so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại trước hết phải được tạo ra từ thực lực của chính ngân hàng đó. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi ngân hàng, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị … một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại thể hiện ở khả năng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ với giá cả thấp hoặc hợp lý, chất lượng cao, uy tín cao, thực hiện tốt các cam kết với các bạn hàng và làm hài lòng khách hàng. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, ngoài các yếu tố nội hàm, Ngân hàng thương mại còn phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, Ngân hàng thương mại có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Nói tóm lại, năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại là sự tổng hợp của các yếu tố từ công tác chỉ đạo và điều hành, chất lượng đội ngũ cán bộ, uy tín và thương hiệu của Ngân hàng thương mại. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, khả năng thu lợi nhuận của Ngân hàng trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển trong một thời gian dài đòi hỏi Ngân hàng thương mại phải có một năng lực cạnh tranh tốt. Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại được cấu thành nên từ những lợi thế cạnh tranh trong từng giai đoạn của Ngân hàng. Đó là những lợi thế Ngân hàng có được tạo ra và sử dụng trong cạnh tranh, nhờ đó Ngân hàng có thể tạo ra một số tính trội hơn, ưu việt hơn so với đối thủ trực tiếp. Xem xét dưới góc độ hoạt động cơ bản, các lĩnh vực cạnh tranh chủ yếu của Ngân hàng thương mại được phân như sau:
* Cạnh tranh trong lĩnh vực huy động vốn:
Huy động vốn là một trong những hoạt động tạo vốn quan trọng hàng đầu của các Ngân hàng thương mại. Với chức năng và nhiệm vụ của mình, các Ngân hàng thương mại đã thu hút, tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư vào Ngân hàng. Mặt khác, trên cơ sở nguồn vốn huy động được, Ngân hàng sẽ tiến hành hoạt động cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, cho các mục tiêu phát triển kinh tế của vùng, ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn của xã hội, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Với hoạt động huy động vốn, các Ngân hàng thương mại đã thực sự huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá. Nếu như không có Ngân hàng thương mại, việc huy động của cải xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng sẽ chậm đi rất nhiều. Nhờ hoạt động này của Ngân hàng thương mại, tiền tiết kiệm của cá nhân, đoàn thể, các tổ chức kinh tế được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Nó chuyển của cải, tài nguyên xã hội từ nơi chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao mức sống xã hội.
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng ngày càng mở rộng, uy tín và vị thế của Ngân hàng sẽ càng được khẳng định, Ngân hàng sẽ chủ động trong hoạt động kinh doanh, mở rộng quan hệ với các thành phần kinh tế, tổ chức, dân cư. Điều quan trọng là Ngân hàng cần phải căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của từng vùng, từng ngành trong cả nước,… để từ đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
* Cạnh tranh trong lĩnh vực sử dụng vốn.
Đây là hoạt động trực tiếp đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Đối tượng kinh doanh của Ngân hàng thương mại là tiền tệ và quyền sử dụng tiền tệ, do vậy lợi tức của Ngân hàng có được chủ yếu từ việc đầu tư và cho vay. Nếu một Ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào nhưng không có kế hoạch sử dụng vốn hợp lý, hiệu quả thì không những không đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng, ngược lại còn không có nguồn bù đắp chi phí từ việc huy động. Do vậy, có thể nói sử dụng vốn là hoạt động hết sức quan trọng của mỗi Ngân hàng. Hoạt động sử dụng vốn bao gồm các hoạt động ngân quỹ, cho vay, đầu tư tài chính,…
Một Ngân hàng có hoạt động sử dụng vốn với hiệu quả cao sẽ nâng cao vai trò, uy tín của Ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường, từ đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch với mình, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hoạt động huy động vốn. Vì vậy, nhiệm vụ của mỗi Ngân hàng là phải thường xuyên bám vào các mục tiêu phát triển kinh tế của vùng, ngành, đất nước,… nhằm đưa ra các hình thức đầu tư đúng đắn, có hiệu quả cao, thực hiện nghiên cứu thị trường, nghiên cứu của ngân hàng. Ở các nước phát triển, Ngân hàng thương mại thực hiện rất nhu cầu sử dụng vốn của xã hội, thực hiện cho vay theo dự án đầu tư, chương trình phục hồi sản xuất.
* Cạnh tranh trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ trung gian của ngân hàng
Đó là các hoạt động Ngân hàng cung ứng dịch vụ phục vụ khách hàng. Nền kinh tế ngày càng phát triển, các dịch vụ của Ngân hàng cũng phát triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng của khách hàng, Ngân hàng thực hiện hoạt động trung gian và được hưởng thu nhập từ phí hoặc hoa hồng. Các hoạt động trung gian phản ánh mức độ phát triển nhiều hoạt động trung gian và luôn có dịch vụ cung cấp nhiều tiện ích cho khách hàng. Thu nhập từ các hoạt động trung gian chiếm khoảng 30-35% tổng thu nhập của Ngân hàng.
Việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ cung ứng sẽ làm tăng thu nhập cho Ngân hàng, tăng uy tín và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Có thể thấy, xu hướng nguồn thu về dịch vụ trung gian ngày càng tăng và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu về kinh doanh của Ngân hàng. Đồng thời với các hoạt động trung gian này, ngân hàng thương mại góp phần làm tăng khả năng chu chuyển của đồng vốn, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông trong xã hội. Mặt khác, thực hiện tốt các hoạt động này, Ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn. Điều đó cũng tạo điều kiện phát triển hoạt động huy động vốn và cho vay của Ngân hàng.
3.3. Tính đặc thù trong cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại
Giống như bất cứ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các Ngân hàng thương mại trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không chỉ từ các Ngân hàng thương mại khác, mà từ tất cả các tổ chức tín dụng đang cùng hoạt động kinh doanh trên thương trường với mục tiêu là để giành giật khách hàng, tăng thị phần tín dụng cũng như mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Tuy vậy, so với sự cạnh tranh của các tổ chức kinh tế khác, cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại có những đặc thù nhất định. Cụ thể:
(1) Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống văn hoá… mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung. Chẳng hạn: chỉ cần một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể gây nên cơn chấn động rất lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Một Ngân hàng thương mại hoạt động yếu kém, khả năng thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế và dân chúng trên địa bàn… Chính vì vậy, trong kinh doanh, các Ngân hàng thương mại tuy phải cạnh tranh để từng bước mở rộng khách hàng, mở rộng thị phần, nhưng cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn tính đối thủ của mình, bởi vì, nếu đối thủ là các Ngân hàng thương mại khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả đem lại thường là rất to lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn chính Ngân hàng thương mại này do tác động dây chuyền.
(2) Hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại có liên quan đến tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm, cho vay cũng như các loại hình dịch vụ tài chính khác; đồng thời, trong hoạt động kinh doanh của mình, các Ngân hàng thương mại cũng đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ các đối tượng khách hàng chung. Chính vì vậy, nếu như một Ngân hàng thương mại bị khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ đổ vỡ, thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần như tất cả các Ngân hàng thương mại khác, không những thế, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng sẽ bị ảnh hưởng. Đây quả là điều mà các Ngân hàng thương mại không bao giờ mong muốn. Chính vì vậy, các Ngân hàng thương mại trong kinh doanh luôn vừa phải cạnh tranh lẫn nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với nhau, nhằm hướng tới một môi trường lành mạnh để tránh rủi ro hệ thống.
(3) Do hoạt động của các Ngân hàng thương mại có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các Ngân hàng thương mại mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương các nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn đã chỉ ra những bài học đắt giá, khi mà Ngân hàng Trung ương thờ ơ trước những diễn biến bất lợi của thị trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường tài chính - tiền tệ làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, sự cạnh tranh trong hệ thống các Ngân hàng thương mại không thể dẫn đến làm suy yếu và thôn tính lẫn nhau như các loại hình kinh doanh khác trong nền kinh tế.
(4) Hoạt động của các Ngân hàng thương mại liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế đối ngoại, do vậy, kinh doanh trong hệ thống Ngân hàng thương mại chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước và quốc tế, như: Môi trường pháp luật, tập quán kinh doanh của các nước, các thông lệ quốc tế… đặc biệt nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng này. Điều đó cũng có nghĩa là, sự cạnh tranh trong hệ thống các Ngân hàng thương mại trước hết phải chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều thông lệ, tập quán kinh doanh tiền tệ của các nước, sự cạnh tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ thuật công nghệ đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh tối thiểu; bởi vì, một Ngân hàng thương mại mở ra một loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng là đã phải chấp nhận cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại khác đang hoạt động trong cùng lĩnh vực, tuy nhiên, muốn lĩnh vực dịch vụ này được thực hiện thì đòi hỏi phải đáp ứng tối thiểu về điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính mà thiếu nó thì không thể hoạt động được. Như vậy, sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại là loại hình cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn bất cứ loại hình kinh doanh nào khác.
3.4. Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, cạnh tranh mang tính tất yếu, khách quan và đó cũng là động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, cạnh tranh sẽ không chỉ là tạo động lực để phát triển mà còn phải đối mặt với những yếu tố không lành mạnh nhằm chiếm lĩnh ưu thế trên thương trường, để thu lợi nhuận cao hơn và đương nhiên nảy sinh sự thôn tính, sáp nhập, phá sản, giải thể và cả những rủi ro về đạo đức…
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng được biểu hiện bằng tiềm năng về tài chính, quản trị điều hành, chất lượng đội ngũ, chất lượng và hiệu quả hoạt động, tốc độ đổi mới về công nghệ và sản phẩm… Năng lực tài chính của một Ngân hàng thương mại là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở quy mô vốn tự có, chất lượng tài sản, chất lượng nguồn vốn, khả năng sinh lời và khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh.
Một Ngân hàng thương mại có năng lực tài chính tốt phải là Ngân hàng thương mại luôn duy trì được hoạt động bình thường và phát triển một cách ổn định, bền vững trong mọi điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước và trên thế giới. Ngân hàng thương mại có khả năng cung cấp tín dụng có hiệu quả và các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế. Ngân hàng thương mại luôn đáp ứng đầy đủ yêu cầu khách hàng về vốn và các dịch vụ ngân hàng phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong nước và thế giới. Ngân hàng thương mại còn phải bảo đảm được sự tồn tại và phát triển của mình một cách an toàn, không xảy ra những đổ vỡ hay phá sản. Năng lực tài chính của một Ngân hàng thương mại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Năng lực tài chính của một Ngân hàng thương mại càng được đảm bảo thì mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng càng thấp và năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trên thị trường càng cao. Do vậy, năng lực tài chính của Ngân hàng thương mại phải không ngừng được nâng cao và hoàn thiện và là điều kiện không thể thiếu được bất cứ một Ngân hàng thương mại nào.
Năng lực tài chính của Ngân hàng thương mại được đánh giá dựa trên các yếu tố định lượng và các yếu tố định tính.
+ Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có, bao gồm: quy mô vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời…
+ Các yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính được thể hiện qua trình độ tổ chức, trình độ quản lý, trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực…
Như vậy, năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại có thể được đánh giá qua các tiêu chí sau:
(1) Nguồn lực tài chính: bao gồm yếu tố vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời…
* Yêú tố vốn
Nguồn vốn của Ngân hàng được hình thành theo nhiều kênh dẫn khác nhau, trong đó tiền gửi của khách hàng là nguồn tiền quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của Ngân hàng. Nguồn vốn đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Nó cung cấp năng lực tài chính cho quá trình tăng trưởng, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động cũng như cho sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ mới của Ngân hàng thương mại; giúp Ngân hàng thương mại chống lại rủi ro phá sản, bù đắp những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ; bảo vệ người gửi tiền khi gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh, đồng thời nâng cao uy tín của Ngân hàng thương mại với khách hàng, các nhà đầu tư. Vì vậy có thể khẳng định: Vốn là yếu tố quan trọng tạo đối với Ngân hàng thương mại, vì nó nói nên sức mạnh và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trên thị trường trong nước. Đồng thời, đó cũng là cơ sở để Ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động tới các thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Do đó, quy mô vốn có thể coi là tiêu chí hết sức quan trọng khi đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại, thể hiện năng lực tài chính vốn có của chính bản thân Ngân hàng thương mại.
Đối với yếu tố vốn của Ngân hàng, ta sẽ tập trung đánh giá theo hai chỉ tiêu sau:
Quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, đặc biệt là tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm và vay: Đây là chỉ tiêu đánh giá khối lượng vốn huy động. Nó có ảnh hưởng đến quy mô phát triển hoạt động ngân hàng bởi hoạt động kinh doanh cơ bản của ngân hàng là huy động để cho vay và các hoạt động thanh toán khác. Nếu nguồn vốn không ổn định và có chất lượng không tốt sẽ dễ làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán và đưa đến thua lỗ, phá sản. Vậy mặt chất lượng biểu hiện trong tính hiệu quả về tác dụng thực tiễn và mức độ ảnh hưởng của quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh trong từng giai đoạn cụ thể.
Cơ cấu nguồn vốn và sự thay đổi cơ cấu: Cơ cấu vốn, sự biến động về cơ cấu vốn sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo là rủi ro, biến động về thu nhập, vì vậy cơ cấu vốn cần phải có sự ổn định và phù hợp với hoạt động của ngân hàng.
* Chất lượng tài sản:
Hoạt động chính của Ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của Ngân hàng. Do Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ nên phần lớn tài sản của Ngân hàng là các tài sản tài chính, bao gồm các hợp đồng cho vay, hợp đồng thuê - mua, các chứng khoán, các khoản tiền gửi ... ( tài sản sinh lời), một phần nhỏ trong khối tài sản của Ngân hàng là tài sản cố định như nhà cửa, trang thiết bị ...( tài sản không sinh lời), trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng của Ngân hàng. Mỗi loại tài sản được hình thành theo các cách thức khác nhau, vì những mục tiêu khác nhau song đều tập trung đảm bảo an toàn và sinh lợi cho Ngân hàng.
Một danh mục tài sản nếu bao gồm phần lớn các tài sản rủi ro cao sẽ làm giảm uy tín, hạn chế thu nhập của Ngân hàng, hạn chế Ngân hàng mở rộng quy mô trong môi trường kinh doanh đầy biến động, khả năng mở rộng thị trường nguồn vốn của Ngân hàng sẽ bị giảm sút. Nguồn tiền suy giảm nhanh và mạnh có thể đẩy Ngân hàng đến phá sản. Như vậy, chất lượng tài sản của Ngân hàng thương mại là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về tài chính, năng lực quản lý của một tổ chức tín dụng.
* Khả năng thanh toán ( Tính thanh khoản):
Tính thanh khoản của Ngân hàng là khả năng của Ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Thực hiện chức năng trung gian tài chính, trung gian thanh toán, Ngân hàng thường xuyên phải duy trì khả năng thanh toán, tức duy trì thanh khoản của Ngân hàng. Việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng một cách thương xuyên và trong những trường hợp đặc biệt khẩn cấp là yêu cầu cấp thiết và là nội dung quan trọng trong công tác quản lý của Ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro. Nó liên quan tới sự tồn tại và phát triển của mỗi Ngân hàng và của cả hệ thống.
Tính thanh khoản của Ngân hàng được tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh khoản của nguồn. Do vậy, một Ngân hàng có tính thanh khoản cao khi có nhiều tài sản thanh khoản hoặc có khả năng mở rộng nguồn nhanh với chi phí thấp hoặc cả hai, phù hợp với nhu cầu thanh khoản
* Khả năng sinh lời:
Sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng chủ yếu dựa vào khả năng sinh lời của Ngân hàng. Cách an toàn tuyệt đối là không làm gì cả. Tuy nhiên đối với Ngân hàng, giữ tiền trong két cũng không phải là giải pháp an toàn. Tăng khả năng sinh lời có thể coi là cách đảm bảo an toàn nhất. Nó là cách tốt nhất để có thể trả lương cao cho người lao động, để tăng năng suất và tính liêm khiết rất cần thiết đối với cán bộ Ngân hàng. Đồng thời, nó là biện pháp quan trọng để Ngân hàng tăng quỹ tích luỹ ( tăng vốn của chủ), thiết lập quỹ dự phòng lớn, đủ sức chống đỡ rủi ro.
Khả năng sinh lời của Ngân hàng thương mại gắn liền với chất lượng tài sản và hiệu quả sử dụng tài sản của Ngân hàng thương mại. Nâng cao chất lượng tài sản, chất lượng nguồn vốn cũng chính là nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Khả năng sinh lời là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh và mức độ phát triển của một Ngân hàng thương mại. Để đánh giá khả năng sinh lời của Ngân hàng thương mại, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên tài sản có (ROA), chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên vốn tự có (ROE) hoặc chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên doanh thu.
Chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên tài sản có (ROA):
ROA =
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Ý nghĩa của chỉ tiêu này một đồng tài sản có tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy chất lượng của công việc quản lý tài sản có - tài sản có sinh lời càng lớn thì hệ số này càng lớn
Chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên vốn tự có (ROE):
ROE =
Lợi nhuận sau thuế
Tài sản sinh lãi
Ý nghĩa của chỉ tiêu này là một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, khả năng sinh lời trên một đồng vốn của Ngân hàng. Hệ số này càng lớn thì khả năng sinh lời tài chính càng lớn.
(2) Chất lượng sản phẩm dịch vụ:
Chất l._.ượng sản phẩm dịch vụ luôn là vấn đề quan tâm của mọi khách hàng và của mọi ngân hàng. Chất lượng sản phẩm dịch vụ ngày nay trở thành một lợi thế cạnh tranh mang ý nghĩa sống còn đối với mọi Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Trong xu hướng phát triển ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển hiện nay, ngân hàng được coi như một siêu thị dịch vụ, một bách hoá tài chính với hàng trăm, thậm chí hàng nghìn dịch vụ khác nhau tuỳ theo cách phân loại và tuỳ theo trình độ phát triển của ngân hàng. Ngân hàng cung ứng các sản phẩm dịch vụ là để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nếu như chất lượng của các sản phẩm dịch vụ ngày càng hoàn hảo, có chất lượng cao thì khách hàng sẽ gắn bó lâu dài và chấp nhận ngân hàng. Không những vậy, những lời khen, sự chấp nhận, thoả mãn về chất lượng của khách hàng hiện hữu họ sẽ thông tin tới những người khác có nhu cầu dịch vụ tìm đến ngân hàng để giao dịch. Điều này góp phần nâng cao uy tín, thương hiệu của Ngân hàng, tạo điều kiện để Ngân hàng mở rộng mạng lưới hoạt động, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Như vậy, chất lượng sản phẩm dịch vụ luôn được đánh giá theo quan điểm của khách hàng. Nó thể hiện qua sự tin tưởng, cảm tình, ưa thích của khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng. Chất lượng sản phẩm dịch vụ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ. Ngoài ra, đối tượng kinh doanh của các Ngân hàng thương mại là tiền tệ, nên chất lượng dịch vụ không chỉ được đánh giá thông qua chất lượng phục vụ của nhân viên Ngân hàng mà còn được đánh giá thông qua độ an toàn chính xác trong xử lý nghiệp vụ, tính đơn giản, thuận tiện trong giao dịch và khoảng thời gian cần thiết để có thể hoàn tất một giao dịch.
Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng thương mại bao gồm:
Chất lượng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ.
Độ an toàn, chính xác.
Thủ tục giao dịch.
Tốc độ xử lý giao dịch.
(3) Chất lượng nguồn nhân lực:
Sự phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính ngân hàng đòi hỏi nguồn cung cấp nhân lực rất lớn, nhất là nguồn nhân lực có kinh nghiệm làm việc và đáp ứng được nhu cầu mới. Bởi vì theo nguyên lý, con người là yếu tố quyết định.
Về mặt quản lý: Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự, tài sản, nguồn vốn, phòng tránh rủi ro tốt nhất, quản lý các danh muc đầu tư hiệu quả thì hoạt động của ngân hàng sẽ đảm bảo an toàn và tăng trưỏng, tăng uy tín, thu hút khách hàng.
Về mặt nghiệp vụ: Với trình độ nghiệp vụ cao, mọi thao tác nghiệp vụ thực hiện chính xác, hiệu quả, tác phong làm việc nhiệt tình, cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng sẽ gây ấn tượng tốt đối với khách hàng. Khách hàng là người có quyền lựa chọn, vì vậy họ sẽ chọn nơi làm họ hài lòng nhất để gửi tiền, vay tiền tiền và sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng cung cấp.
Chính vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh trước yêu cầu của hội nhập, các Ngân hàng thương mại cần hết sức quan tâm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và có chiến lược lâu dài phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Chất lượng nguồn nhân lực có thể được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau:
Số lượng lao động
Độ tuổi lao động
Cơ cấu lao động qua các cấp học như: trung cấp, cao đẳng, đại học ...
Trình độ ngoại ngữ, tin học ...
(4) Năng lực quản trị, điều hành:
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Cũng như các doanh nghiệp khác, các Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mang lại rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên không tránh khỏi rủi ro. Từng nghiệp vụ cụ thể của ngân hàng nếu không được quản lý theo những qui trình chặt chẽ cũng có nhiều khả năng rủi ro. Ví dụ: các nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh, thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, tiền tệ kho quỹ, huy động và sử dụng vốn,...Vì vậy công tác quản trị trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng giữ vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa, hạn chế và xử lý rủi ro, đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Quản trị ngân hàng là điều hành những quan hệ liên quan đến việc xây dựng chiến lược, chiến thuật, phân tích, nghiên cứu, điều chỉnh, kiểm tra, quản lý tài chính, hoạt động marketing, quản lý nhân sự và điều hành các nghiệp vụ ngân hàng. Quản trị ngân hàng tác động đến giá trị và hoạt động của Ngân hàng, đồng thời quản trị ngân hàng cũng tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng và rủi ro của khủng hoảng tài chính, cả đối với các ngân hàng cá thể và toàn bộ hệ thống ngân hàng của nền kinh tế. Quản trị ngân hàng tốt là một trong những cơ sở tạo niềm tin của công chúng vào ngân hàng. Do vậy, việc quản trị trong Ngân hàng thương mại có vai trò quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của nó.
(5) Trình độ công nghệ:
Ngày nay các Ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau theo hướng phát triển đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng đi kèm với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, mà chất lượng dịch vụ ngân hàng luôn phụ thuộc và trình độ công nghệ ngân hàng. Nếu trình độ công nghệ ngân hàng không tiên tiến, hiện đại thì chất lượng dịch vụ cũng không thể nâng cao được. Do đó, một xu thế tất yếu là các Ngân hàng thương mại phải ứng dụng công nghệ tiên tiến để phát triển và nâng cao chất lựong dịch vụ ngân hàng. Việc ứng dụng và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại là vấn đề tất yếu, vấn đề sống còn của các Ngân hàng nhằm nâng cao năng lực hoạt động, năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng trong quá trình hội nhập. Nó giúp cho Ngân hàng thoả mãn hơn trước các nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Nếu một ngân hàng ứng dụng và sử dụng công nghệ có hiệu quả thì Ngân hàng đó sẽ mở rộng không giới hạn về không gian hoạt động, thời gian phục vụ và cung cấp những dịch vụ Ngân hàng mới tối đa hoá tiện ích cho khách hàng.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, việc thu thập thông tin là rất cần thiết. Nhờ có hệ thống tin học hiện đại, Ngân hàng có thể thu thập thông tin về khách hàng, về thị trường tốt hơn, qua đó có thể xác định được thị trường đầu tư vốn có hiệu quả, phát triển nghiệp vụ và dịch vụ của mình, hạn chế rủi ro trong kinh doanh, tạo điều kiện mở rộng vốn tự có.
Như vậy, xác định đúng tầm quan trọng của công nghệ và việc hiện đại hoá công nghệ là một trong những điều kiện cơ bản để hướng tới việc đảm bảo các chuẩn mực quốc tế của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình cạnh tranh và hội nhập. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là điều tất yếu phù hợp với tiềm lực tài chính của ngân hàng, phù hợp với mặt bằng chung về công nghệ của đất nước, đảm bảo xu thế chung của khu vực và quốc tế.
Trình độ công nghệ của Ngân hàng được thể hiện qua những dịch vụ mà ngân hàng đã và đang áp dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động.
(6) Uy tín thương hiệu của Ngân hàng:
Thương hiệu là tài sản vô cùng quý giá đối với doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng. Thương hiệu là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất tạo nên khả năng nhận biết, gợi nhớ, phân biệt và định hướng cho khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ. Ngày nay, thương hiệu càng có ý nghĩa rất quan trọng và việc xây dựng thương hiệu là cả một quá trình khó khăn. Bởi lẽ, các đối thủ cạnh tranh cũng sẽ có những phản ứng rất nhanh và khách hàng yêu cầu cao hơn đối với một sản phẩm. Do đó, phải xem việc xây dựng thương hiệu là một quá trình đầu tư dài hạn và phải có đường đi nước bước thích hợp. thương hiệu không phụ thuộc hoàn toàn vào thời gian xuất hiện trên thị trường, mà còn nhiều yếu tố khác như thông tin, chất lượng về sản phẩm, sự truyền tải những thông tin, thương hiệu đó v.v đến với người tiêu dùng một các chính xác và nhanh nhất. Trong thời đại ngày nay, với hệ thống mạng internet toàn cầu thì mọi ngăn cách về địa lý coi như không có. Các doanh nghiệp sử dụng hệ thống Internet, Website làm kênh truyền thông trực tiếp truyền tải các chiến lược quảng bá, xây dựng thương hiệu một cách hữu hiệu. Đối với một ngân hàng thương mại, việc xây dựng thương hiệu còn khó khăn hơn do tính đặc thù của các sản phẩm. Đó là tính chất vô hình và thường có nhiều điểm giống nhau giữa các sản phẩm, dịch vụ của các ngân hàng. Do đó, thương hiệu đối với một Ngân hàng thương mại không chỉ đơn thuần là một nhãn hiệu, một cái tên mà nó bao gồm cả uy tín, chất lượng, giá cả sản phẩm dịch vụ, phong cách giao dịch và văn hoá của mỗi ngân hàng.
Thương hiệu được coi như một tài sản có giá trị rất lớn bởi nó có khả năng tác động đến thái độ và hành vi của khách hàng. Nó đảm bảo uy tín của Ngân hàng với tư cách như là một thể nhân ra vào thị trường, đồng thời là một công cụ đảm bảo tính cạnh tranh cao của Ngân hàng trên thị trường. Đặc biệt, trong xu thế của toàn cầu hoá thì thương hiệu ngày càng trở lên quan trọng đối với sự sống còn của Ngân hàng. Thương hiệu có thể cam kết một tiêu chuẩn hay đẳng cấp chất lượng của một sản phẩm dịch vụ và đáp ứng mong muốn của khách hàng, giúp họ tìm kiếm, lựa chọn sản phẩm một cách dễ dàng, thuận tiện. Lòng trung thành với thương hiệu của khách hàng cho phép Ngân hàng dự báo và kiểm soát thị trường. Hơn nữa, nó tạo nên một rào cản, gây khó khăn cho các Ngân hàng khác muốn xâm nhập thị trường. Như vậy, thương hiệu có thể được coi như một cách thức hữu hiệu để Ngân hàng đảm bảo lợi thế cạnh tranh.
Để xây dựng và chiếm lĩnh lòng tin đối với người tiêu dùng, đòi hỏi sản phẩm của ngân hàng đó cần phải có những điểm phù hợp,đồng thời phải có sự khác biệt đối với sản phẩm của ngân hàng khác. Sự phù hợp trong sản phẩm là khả năng thuơng hiệu đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Còn sự khác biệt là để thể hiện sự vượt trội của thương hiệu đó. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải phải thường xuyên có những sản phẩm, dịch vụ mới hoặc gia tăng chức năng vượt trội so với sản phẩm, dịch vụ cùng loại. Và việc truyển tải sự phù hợp và sự khác biệt trong từng sản phẩm đến với khách hàng là một quá trình liên tục thông qua nhiều phương thức. Đó có thể là quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, bằng tờ rơi hay từ việc trực tiếp trong việc giao tiếp, quan hệ với khách hàng và công chúng.
Như vậy, uy tín thương hiệu của Ngân hàng được thể hiện ở:
Cở sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật.
Thâm niên hoạt động.
Mạng lưới hoạt động.
Chất lượng dịch vụ.
Tình hình tài chính của ngân hàng.
Hình thức sở hữu của ngân hàng...
3.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại dựa theo mô hình Kim cương của Michael Porter
Mô hình Kim cương là một trong những sáng kiến rất nổi tiếng của M. Porter. Nó là một công cụ rất tốt để phân tích, chẩn đoán các lợi thế, bất lợi trong xây dựng năng lực cạnh tranh của một ngành, một địa phương hay sản phẩm nào đó. Theo mô hình “Kim cương” về năng lực cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại phụ thuộc vào 4 nhóm yếu tố:
(1) Các điều kiện về cầu:
Khách hàng trong một nền kinh tế càng khắc khe đối với nhà sản xuất thì khả năng nâng cao cạnh tranh của sản phẩm càng lớn. Nếu trong nước có nhu cầu lớn về một sản phẩm hay dịch vụ nào đó, thì nghành đó sẽ có lợi thế trong cạnh tranh toàn cầu. Những ngành phải cạnh tranh mạnh ở trong nước thì mới có khả năng cạnh tranh quốc tế tốt hơn. Thị trường trong nước với số cầu lớn, có những khách hàng đòi hỏi cao và môi trường cạnh tranh trong ngành khốc liệt hơn sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn. Đối với các ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, phân tích về cầu nhằm xác định tính phức tạp của cầu trong ngành ngân hàng, để từ đó nhằm định hướng khả năng cạnh tranh, sự đa dạng của các loại hình dịch vụ và mức độ công nghệ của ngành.
Sơ đồ 1.1: Mô hình kim cương
Môi trường kinh doanh, chiến lược, cơ cấu và đối thủ cạnh tranh
Những ngành công nghiệp liên quan và
phụ trợ
Các điều kiện về yếu tố đầu vào
Các điều kiện
về cầu
(Nguồn:
(2) Các điều kiện về yếu tố đầu vào:
Các điều kiện về yếu tố đầu vào là khả năng cung ứng nguồn nguyên liệu, nguồn nhân công có trình độ hay cơ sở hạ tầng cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong một doanh nghiệp nếu các điều kiện đó chưa sẵn có thì cũng không được xem là bất lợi, thậm chí nó còn khuyến khích tính cạnh tranh. Với điều kiện bất lợi đó, buộc các doanh nghiệp phải hành động một cách sáng tạo. Chất lượng lao động, vốn và lao động rẻ, cơ sở hạ tầng mạnh và công nghệ cao sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của ngành, của các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng.
Việc phân tích các điều kiện về các yếu tố đầu vào nhằm xem xét tới tính hiệu quả, chất lượng và sự chuyên môn hoá của những yếu tố này mà các tổ chức tài chính sử dụng trong quá trình cạnh tranh để có nguồn nhân lực, nguồn vốn, cơ sở vật chất, cơ sở khoa học công nghệ.
(3) Môi trường kinh doanh, chiến lược, cơ cấu của ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh:
Ổn định môi trường kinh doanh trong nước đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại xác định tầm nhìn, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn. Điều này đồng nghĩa với việc tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường và thích ứng với thay đổi của môi trường bên ngoài ngày càng khó dự đoán đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Bên cạnh đó, những ngân hàng có chiến lược và cơ cấu phù hợp với các định chế và chính sách cuả quốc gia, hoạt động trong môi trường có cạnh tranh trong nước căng thẳng hơn sẽ có tính cạnh tranh quốc tế mạnh hơn. Mặt khác, nếu ngân hàng tập trung nghiên cứu và thu thập được đầy đủ những thông tin cần thiết về các đối thủ cạnh tranh, hiểu rõ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng mình thì ngân hàng đó có thể xây dựng được chiến lược kinh doanh hiệu quả. Như vậy, một điều chắc chắn xảy ra là những quyết định chiến lược của các ngân hàng có tác động ảnh hưởng đến tính cạnh tranh trong tương lai của họ. Một cơ cấu lành mạnh của ngân hàng và mức độ tập trung cao của các đối thủ cạnh tranh trong ngành sẽ quyết định mức lợi thế cạnh tranh của ngân hàng nói riêng và của cả ngành nói chung. Khả năng cạnh tranh tổng hợp sẽ hỗ trợ các ngân hàng nói riêng và ngành ngân hàng trong nước nói chung cạnh tranh với các đối thủ từ bên ngoài trong bối cảnh hội nhập.
(4) Những ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ:
Tính cạnh tranh của một ngành phụ thuộc vào sức mạnh của các nhà cung cấp các nhập lượng và các dịch vụ hỗ trợ. Các ngành này rất có ích trong việc hỗ trợ cho việc trao đổi thông tin và thúc đẩy việc trao đổi ý kiến và sáng kiến đổi mới, đồng thời cũng phải chấp nhận cạnh tranh quốc tế. Các nhà cung cấp nhập lượng có khả năng cạnh tranh trên toàn cầu có thể mang lại cho doanh nghiệp - khách hàng của họ lợi thế về chi phí và chất lượng. Các ngành có quan hệ ngang cũng mang lại lợi thế cạnh tranh thông qua sự lan truyền công nghệ. Sự hiện diện cụm công nghiệp tạo ra cho doanh nghiệp lợi thế kinh tế theo quy mô. Không nằm ngoài quy luật đó, những ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ cũng có tác động tới lợi thế cạnh tranh của các dịch vụ ngân hàng do những ngành này cung cấp đầu vào cho ngành ngân hàng. Sự có mặt và phát triển của nhóm các ngành kinh tế liên quan như viễn thông, công nghệ thông tin, dịch vụ kiểm toán sẽ làm tăng năng suất cũng như sức cạnh tranh của các dịch vụ ngân hàng.
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG AN BÌNH
1. Khái quát về quá trình hình thành, phát triển và tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng An Bình
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng An Bình
Ngân hàng An Bình (ABBANK) là một trong các ngân hàng cổ phần hàng đầu và là một trong mười ngân hàng có vốn điều lệ lớn nhất Việt Nam.
Sau hơn 15 năm phát triển và trưởng thành từ năm 1993, ABBANK đã có sự bứt phá mạnh mẽ trong 3 năm gần đây, với sự liên kết từ những tập đoàn kinh tế lớn mạnh trong và ngoài nước như:
- Tập đoàn Điện lực Việt nam (EVN) - cổ đông chiến lược của ABBANK với tỉ lệ góp vốn điều lệ khoảng 27%
- Maybank, ngân hàng lớn nhất Malaysia - cổ đông chiến lược nước ngoài, hiện đang sở hữu 15% cổ phần của ABBANK
Với vốn điều lệ trên 2.700 tỉ đồng, mạng lưới gần 70 điểm giao dịch tại 20 tỉnh thành trên toàn quốc vào cuối năm 2008, ABBANK đang phục vụ hàng ngàn khách hàng doanh nghiệp và hàng vạn khách hàng cá nhân. Tổng tài sản, doanh thu và lợi nhuận của ABBANK đã tăng trưởng liên tục hơn 300% trong hai năm gần đây.
Các nhóm khách hàng mục tiêu hiện nay của ABBANK bao gồm: nhóm khách hàng doanh nghiệp, nhóm khách hàng cá nhân và nhóm khách hàng đầu tư.
Đối với khách hàng Doanh nghiệp: ABBANK sẽ cung ứng sản phẩm – dịch vụ tài chính ngân hàng trọn gói như: sản phẩm cho vay, sản phẩm bao thanh toán, sản phẩm bảo lãnh, sản phẩm tài trợ xuất nhập khẩu, sản phẩm tài khoản, dịch vụ thanh toán quốc tế...
Đối với các khách hàng cá nhân: ABBANK cung cấp nhanh chóng và đầy đủ chuỗi sản phẩm tín dụng tiêu dùng và các sản phẩm tiết kiệm linh hoạt. Ví dụ: Cho vay trả góp mua nhà, đất, xây sửa nhà; cho vay trả góp mua nhà, đất 30 năm và có bảo hiểm nhân thọ cho người vay; cho vay trả góp mua ô tô; cho vay tiêu dùng tín chấp; cho vay sản xuất kinh doanh trả góp; cho vay bổ sung vốn lưu động; cho vay tiêu dùng thế chấp linh hoạt.; các sản phẩm tiết kiệm YOUsaving: tiết kiệm theo thời gian thực gửi, tiết kiệm bậc thang,... và các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền trong và ngoài nước...
Với các khách hàng đầu tư: ABBANK thực hiện các dịch vụ ủy thác và tư vấn đầu tư cho các khách hàng công ty và cá nhân. Riêng với các khách hàng công ty, ABBANK cũng cung cấp thêm các dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn phát hành và bảo lãnh phát hành trái phiếu, đại lý thanh toán cho các đợt phát hành trái phiếu. Định vị và sự khác biệt của ABBANK với các ngân hàng khác là việc cung ứng các giải pháp tài chính linh hoạt, hiệu quả và an toàn với dịch vụ thân thiện, lấy nhu cầu và sự hài lòng của khách hàng là trọng tâm của mọi mô hình kinh doanh và cơ cấu tổ chức, bảo đảm chất lượng phục vụ tốt và đồng nhất trên nền tảng công nghệ, quy trình chuẩn, và sự chuyên nghiệp của nhân viên.
Các hoạt động chính:
Cho vay tài trợ, uỷ thác theo chương trình: Đài Loan (SMEDF); Việt Đức (DEG, KFW) và các hiệp định tín dụng khung
Thấu chi, cho vay tiêu dùng.
Hùn vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính trong nước và quốc tế
Đầu tư trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế
* Bảo lãnh :
Bảo lãnh, tái bảo lãnh (trong nước và quốc tế): Bảo lãnh dự thầu; Bảo lãnh thực hiện hợp đồng; Bảo lãnh thanh toán.
* Thanh toán và Tài trợ thương mại:
Phát hành, thanh toán thư tín dụng nhập khẩu; thông báo, xác nhận, thanh toán thư tín dụng nhập khẩu.
Nhờ thu xuất, nhập khẩu (Collection); Nhờ thu hối phiếu trả ngay (D/P) và nhờ thu chấp nhận hối phiếu (D/A).
Chuyển tiền trong nước và quốc tế
Chuyển tiền nhanh Western Union
Thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc.
Chi trả lương cho doanh nghiệp qua tài khoản, qua ATM
Chi trả Kiều hối…
* Ngân quỹ:
Mua, bán ngoại tệ (Spot, Forward, Swap…)
Mua, bán các chứng từ có giá (trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, thương phiếu…)
Thu, chi hộ tiền mặt VNĐ và ngoại tệ...
Cho thuê két sắt; cất giữ bảo quản vàng, bạc, đá quý, giấy tờ có giá, bằng phát minh sáng chế.
* Thẻ và ngân hàng điện tử:
Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng nội địa, thẻ tín dụng quốc tế (VISA, MASTER CARD…)
Dịch vụ thẻ ATM, thẻ tiền mặt (Cash card).
Internet Banking, Phone Banking, SMS Banking
* Hoạt động khác:
Khai thác bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ
Tư vấn đầu tư và tài chính
Cho thuê tài chính
Môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn, lưu ký chứng khoán
Tiếp nhận, quản lý và khai thác các tài sản xiết nợ qua Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản.
Để hoàn thiện các dịch vụ liên quan hiện có nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, đồng thời tạo đà cho sự phát triển và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế, ABBANK đang hướng đến trở thành một ngân hàng TMCP hàng đầu Việt Nam, hoạt động đa năng theo mô hình một Tập đoàn Tài chính – Ngân hàng, hoạt động chuyên nghiệp theo những thông lệ quốc tế tốt nhất với năng lực hiện đại, đủ năng lực cạnh tranh với các ngân hàng trong nước và quốc tế hoạt động tại Việt Nam.
1.2. Cơ cấu tổ chức của ABBANK
Bộ máy quản lý của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng, nghĩa là các phòng ban của công ty có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và cùng chịu sự quản lý của giám đốc.
Chi nhánh bao gồm 10 phòng ban:
* Phòng khách hàng doanh nghiệp: Phòng khách hàng doanh nghiệp là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp để khai thác vốn bằng Việt Nam đồng ( VNĐ) và ngoại tệ, thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam, trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp.
* Phòng khách hàng cá nhân: Phòng khách hàng cá nhân là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ, thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam, trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng cá nhân.
* Phòng/ Tổ quản lý rủi ro: Phòng quản lý rủi ro có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc chi nhánh về công tác quản lý rủi ro của chi nhánh; quản lý giám sát thực hiên danh mục cho vay, đầu tư đảm bảo tuân thủ các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng. Thẩm định hoặc tái thẩm định khách hàng, dự án, phương án đề nghị cấp tín dụng. Thực hiện chức năng đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
* Phòng quản lý nợ có vấn đề: Phòng quản lý nợ có vấn đề chịu trách nhiệm về quản lý và xử lý các khoản nợ có vấn đề ( bao gồm các khoản nợ: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, nợ quá hạn, nợ xấu); quản lý, khai thác và xử lý tài sản đảm bảo nợ vay theo quy định của Nhà nước nhằm thu hồi các khoản nợ gốc và lãi tiền vay; quản lý, theo dõi và thu hồi các khoản nợ đã được xử lý rủi ro.
* Phòng kế toán: Phòng kế toán là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch với khách hàng; các nghiệp vụ và công việc liên quan đến công tác quản lý tài chính, chi tiêu nội bộ tại chi nhánh; cung cấp các dịch vụ ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh toán, xử lý hạch toán các giao dịch. Quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy, quản lý quỹ tiền mặt đến từng giao dịch viên theo đúng quy định của Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm của Ngân hàng.
* Phòng/ Tổ Thanh toán xuất nhập khẩu: Phòng Thanh toán xuất nhập khẩu là phòng nghiệp vụ về thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh theo quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
* Phòng Tiền tệ kho quỹ: Phòng Tiền tệ kho quỹ là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam; ứng và thu tiền cho các Quỹ tiết kiệm, các Điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu, chi tiền mặt lớn.
* Phòng Tổ chức hành chính: Phòng Tổ chức hành chính là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam; thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh an toàn chi nhánh.
* Phòng/ Tổ Thông tin điện toán: Thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi nhánh; bảo trì bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của chi nhánh.
* Phòng/Tổ tổng hợp: Phòng Tổng hợp là phòng nghiệp vụ tham mưu cho Giám đốc chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của chi nhánh.
1.3. Tình hình hoạt động của ABBANK007 là năm phát triển vượt
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
Trong năm 2007, tổng huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư của ABBANK đã tăng 350% đạt 6.981 tỷ đồng trong đó huy động từ các tổ chức kinh tế chiếm 72% và từ dân cư chiếm 28%.
Hoạt động huy động vốn từ các tổ chức kinh tế là một trong các hoạt động khởi sắc nhất của ABBANKtrong năm 2007 đạt 5.501 tỷ tăng 323%. Huy động vốn từ các hộ dân cư tăng 487% đạt 1.480 tỷ.Mức tăng trưởng huy động này có được do ABBANK đã mở rộng mạng lưới với 54 điểm giao dịch mới trong năm, việc điều chỉnh lãi suất linh hoạt phù hợp với các thay đổi của thị trường,và việc tăng cường các hoạt động quảng cáo, truyền thông và khuyến mãi.
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
Năm 2007 đánh dấu sự tăng trưởng lớn trong hoạt động tín dụng của ABBANK, đóng góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận. Năm 2007 là năm thứ 3 liên tiếp ABBANK tăng trưởng tín dụng trên cơ sở áp dụng đầy đủ các thông lệ và chuẩn mực quốc tế và của Ngân hàng Nhà nước Việt nam về an toàn tín dụng và phân loại nợ trong hoạt động tín dụng của mình.
ABBANK rất chú trọng việc lựa chọn khách hàng và áp dụng các quy trình thẩm định và tái thẩm định chặt chẽ để giảm thiểu các khoản nợ xấu. Tổng dư nợ tín dụng, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007 tăng 502% đạt 6.858 tỷ trong đó khách hàng doanh nghiệp chiếm61,4% và khách hàng cá nhân chiếm 38,6%. Xét về thời hạn vay, năm 2007 tổng dư nợ ngắn hạn chiếm 50% tổng dư nợ tín dụng, dư nợ cho vay trung hạn chíếm 29% và dài hạn chiếm 21%. Phân bổ theo nhóm khách hàng, doanh số phát vay cho đối tượng được phân chia như sau: (1) Nông, lâm thủy sản chiếm 0,68%, (2) Khai thác và xây dựng chiếm 6,62%, (3) Sản xuất, chế biến chiếm 12,15%, (4) Thương mại, dịch vụ chiếm 43,45%, (5) Đầu tư, góp vốn CP chiếm 2,20%, (6) Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng (tiêu dùng, mua nhà, xe, chữa bệnh, du học, buôn bán nhỏ lẻ…) chiếm 34,9%
HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ
Năm 2007, hoạt động TTQT của ABBANK đã phát triển đầy ấn tượng với các thành tựu sau: triển khai được tất cả các sản phẩm TTQT trên toàn hệ thống, phát triển hệ thống ngân hàng đại lý với trên 2,000 ngân hàng tại hơn 70 quốc gia, doanh số TTQT: hàng xuất khẩu, nhập khẩu đạt 150 triệu USD, xử lý tập trung hoạt động TTQT theo mô hình Ngân hàng hiện đại, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo chuẩn của SWIFT, đạt độ chính xác và an toàn cao. ABBANK hân hạnh được nhận giải “Ngân hàng thanh toán quốc tế xuất sắc 2007” do Wachoviabank – một trong bốn ngân hàng lớn nhất của Mỹ trao tặng. Giải thưởng đã khẳng định được vị thế của ABBANK trên thị trường trong nước và trên thế giới
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
Năm 2007 đánh dấu những nỗ lực to lớn trong hoạt động Đầu tư Tài chính của ABBANK. Chiến lược đầu tư ABBANK lựa chọn là an toàn, hiệu quả, đa dạng và linh hoạt. Trong hoạt động đầu tư dài hạn, Ngân hàng đang góp vốn thành lập các công ty/tổ chức tài chính như: Công ty cổ phần EVN-Campuchia, Công ty cổ phần dịch vụ thẻ Smartlink, Công ty cổ phần tài chính điện lực,...với tổng vốn đầu tư đã thực hiện là hơn 70 tỷ đồng. Thực hiện chiến lược phát triển danh mục đầu tư bền vững thông qua các khoản đầu tư tài chính dài hạn, ABBANK hướng tới một chiến lược đầu tư vào các công ty hoạt động trong các ngành kinh tế trọng điểm của đất nước như điện lực, phát triển cơ sở hạ tầng… Song song với hoạt động góp vốn thành lập mới, ABBANK đầu tư đang nắm giữ cổ phần của các tổ chức tài chính, doanh nghiệp lớn, uy tín, có tiềm năng tăng trưởngcao như: Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, Công ty cổ phần mạng thanh toán Paynet, Công ty cổ phần
Tập đoàn công nghệ CMC.
2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng ABBANK
2.1. Nguồn lực tài chính
Như được đề cập ở mục 1.2.3, nguồn lực tài chính hiện có của một Ngân hàng thương mại bao gồm: quy mô vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời…, do đó để xem xét và đánh giá năng lực tài chính của Ngân hàng ABBANK, ta sẽ tiến hành phân tích các yếu tố này.
* Yếu tố vốn:
Tăng trưởng nguồn vốn, đặc biệt là tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm là một trong những mục tiêu quan trọng của các ngân hàng. Để phân tích quy mô và kết cấu huy động vốn của ABBANK, ta sẽ tập trung phân tích theo hai chỉ tiêu sau:
Quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, đặc biệt là tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm và vay
Cơ cấu nguồn vốn và sự thay đổi cơ cấu
Về quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn:
Bảng 2.4: Tổng nguồn vốn của NH trong ba năm vừa qua
(Đơn vị tính: tỉ VNĐ)
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Tổng nguồn vốn
485,541
1888,002
14478,551
Tăng tuyệt đối so với năm trước
_
1402,461
12590,549
(Nguồn: Báo cáo thường niên )
Về cơ cấu nguồn vốn:
CÔNG TÁC PHÁT HÀNH THẺ VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CHẤP NHẬN THẺ
Trong năm 2007, ABBANK chính thức tham gia thị trường thẻ Việt Nam bằng việc cho ra mắt Thẻ ghi nợ nội địa YOUcard. YOUcard ra đời được khách hàng và giới chuyên môn đánh giá cao trên cơ sở mạng lưới ATM/ POS chấp nhận thẻ rộng khắp trên toàn quốc. Để có thành công này cùng với việc hoàn thiện Hệ thống phát hành thẻ thanh toán riêng, ABBANK đã nỗ lực tham gia và kết nối thành công với các Tổ chức thẻ lớn trong nước: Mạng SmartLink, BanknetVN và Paynet, đưa số Điểm chấp nhận thẻ YOUcard lên đến 5.000 ATM và 10.000 POS trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Năm 2008, ABBANK sẽ tiến hành tham gia các Tổ chức Thẻ quốc tế như VISA, MasterCard … cũng như nghiên cứu các ứng dụng và công nghệ tiên tiến để phát triển Dịch vụ Internet Banking và Mobile Banking áp dụng với thẻ YOUcard nhằm mở rộng phạm vi sử dụng thẻ ra quy mô quốc tế, đồng thời mở rộng mạng lưới ATM từ 16 điểm lên 50 điểm trên toàn quốc. Dự kiến sẽ phát hành 100.000 thẻ trong năm 2008, tập trung vào các khách hàng mục tiêu như Tập đoàn EVN và các Công ty thành viên, các Cổ đông, khách hàng Doanh nghiệp có quan hệ Tín dụng và Tiền gửi với Ngân hàng và các khách hàng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22406.doc