LỜI NÓI ĐẦU
Năm 2006 Việt Nam là thành viên của tổ chức kinh tế quốc tế lớn nhất thế giới (WTO). Khi ra nhập tổ chức này có sự tác động rất mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới vào nước ta đến mọi lĩnh vực khác nhau như bảo hiểm, bưu chính viễn thông,… ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài tác động đó. Bên cạnh những cơ hội để phát triển, ngành ngân hàng còn có những khó khăn thách thức nhất định như phải đối mặt với hàng loạt các ngân hàng nước ngoài đang và sẽ vào Việt Nam trong thời gian không xa
48 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1358 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
Toàn cầu hóa hoạt động tài chính ngân hàng sẽ mở ra cơ hội trao đổi và hợp tác quốc tế về vấn đề tài chính – tiền tệ, nhưng cũng đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải đẩy nhanh hơn nữa tiến trình đổi mới thì mới có thể đứng vững và có đủ sức cạnh tranh bình đảng với các ngân hàng nước ngoài. Hiện nay, đa dạng hóa sản phẩm, hiện đại hóa cộng nghệ, nâng cao tỷ lệ an toàn vốn là các giải pháp mà các ngân hàng lựa chọn để khẳng định vị trí của mình trên thương trường. Với mong muốn tìm hiểu thêm về hoạt động của các ngân hàng thương mại trong quá trình hội nhập để từ đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tôi đã mạnh dạn chọn đề tài:"Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế". Nội dung của đề tài gồm 3 phần chính.
Chương 1: Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại trong điều kiện hội nhập.
Chương 2: thực trạng năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Chương 3: giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đến năm 2010.
CHƯƠNG 1
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP.
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1. khái niệm về ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương, chủ thể tham gia nói riêng. Với vai trò quan trọng như vậy, những quan điểm như thế nào về một Ngân hàng và sự phân biệt nó với các tổ chức phi Ngân hàng không phải là điều đơn giản. Rõ ràng có thế định nghĩa ngân hàng thông qua chức năng mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ không chỉ chức năng của các Ngân hàng thay đổi, mà có sự thâm nhập vào chức năng hoạt động Ngân hàng của các đối thủ cạnh tranh. Do đó tùy theo điều kiện của mỗi nước và sự phát triển của hệ thống tài chính nước đó mà có những định nghĩa khác nhau về Ngân hàng.
Theo luật Ngân hàng của Pháp thì Ngân hàng được định nghĩa:"Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào đó thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác, hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính".
Còn luật pháp Ấn Độ lại có cái nhìn về Ngân hàng như sau:"Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư".
Đó là các quan điểm về Ngân hàng đứng trên giác độ luật pháp. Còn đứng trên giác độ tài chính Ngân hàng thì sao?. Một định nghĩa về Ngân hàng được giáo sư Peter Rose đưa ra như sau:" Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế".
Ở Việt Nam, theo quy định tại luật các tổ chức tín dụng thì Ngân hàng được định nghĩa như sau:" Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán."
Như vậy, thông qua một số khái niệm về Ngân hàng thương mại, ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng với mục đích thu lợi nhuận, dù định nghĩa như thế nào đi chăng nữa thì Ngân hàng hàng thương mại phải có một số đặc trưng sau:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác.
Căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, ở nước ta các loại hình Ngân hàng thương mại được phép hoạt động theo luật tổ chức tín dụng bao gồm: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các hình thức Ngân hàng khác.
1.1.2. các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ nhận tiền gửi và cho vay, đó là hai mặt hoạt động tín dụng. Trong xu thế này, các Ngân hàng thương mại hoạt động theo loại hình đa năng thì hoạt động của nó tập trung vào ba hoạt động chính: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn, hoạt động trung gian.
Hoạt động huy động vốn đối với Ngân hàng thương mại.
đây là hoạt động đầu vào của Ngân hàng. Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của một Ngân hàng được hình thành từ những nguồn chính sau đây: vốn tự có của Ngân hàng, vốn vay (vay của các tổ chức tài chính, vay của dân cư, vay của Ngân hàng trung ương), lợi nhuận để lại, ngoài ra đối với một số Ngân hàng nguồn vốn hoạt động có thể hình thành từ vốn ủy thác của các tổ chức trong nền kinh tế,… Trong quá trình hoạt động của mình Ngân hàng thương mại phần lớn dựa vào việc huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế.
Hoạt động nguyên thủy của Ngân hàng là nhận tiền gửi của khách hàng và đây vẫn là nguồn đầu vào chủ yếu của Ngân hàng. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới quy mô tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng như: lãi suất, phương thức huy động của Ngân hàng, tình hình kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, phong tục tập quán của từng vùng, uy tín của từng Ngân hàng, các dịch vụ do Ngân hàng cung cấp,…Ngân hàngắm được yếu tố đó, Ngân hàng có thể điều chỉnh lượng vốn huy động sao cho phù hợp với nhu cầu của mình.
Các loại tiền gửi mà Ngân hàng cung cấp để huy động vốn là: tiền gửi thanh toán không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu tín dụng và đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, Ngân hàng có thể vay vốn từ dân cư, các đơn vị kinh tế, các tổ chức tín dụng khác thông qua một số hình thức như: phát hành trái phiếu, kỳ phiếu hoặc vay tái chiết khấu từ Ngân hàng trung ương.
Để được hoạt động và thực hiện huy động vốn, Ngân hàng phải có một lượng nhất định gọi là vốn tự có. Lượng vốn này chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng vốn sử dụng song nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của Ngân hàng. Vốn tự có là điều kiện bắt buộc để Ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi đầu tiên. Vốn tự có còn đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản, những thua lỗ về tài chính trong hoạt động tạm thời. Nó tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức mạnh tài chính của Ngân hàng. Và nó còn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới.
Đối với hoạt động sử dụng vốn.
đây là hoạt động cho vay và đầu tư bao gồm hoạt động ngân quỹ, hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư chứng khoán.
Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên của Ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp nhưng tính lỏng cao được coi như tiền mặt. Do đó Ngân hàng phải duy trì lượng tiền mặt ở một mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính thanh khoản vừa đảm bảo tính sinh lời.
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất quyết định sự thành bại của ngân hàng vì đây là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Cũng vì vậy mà đây là hoạt chứa nhiều rủi ro nhất. Để tránh điều đó, việc quản lý tiền cho vay được tiến hành rất chặt chẽ, đặc biệt là món vay lớn, với thời hạn dài. Ngân hàng thương mại có thể cho vay theo nhiều hình thức khác nhau.
Ngoài ra Ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng khoán trên thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng.
Hoạt động trung gian.
là việc Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một loạt các dịch vụ có liên quan. Ngân hàng sẽ nhận được một khoản thu dưới hình thức hoa hồng. Công nghệ Ngân hàng càng phát triển thì hoạt động này càng phong phú và doanh thu càng lớn. Các hoạt tiêu biểu là: chuyển tiền, thanh toán hộ khách thông qua các hình thức ghi chép trên tài khoản của khách hàng tại Ngân hàng, phát séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, môi giới mua bán chứng khoán, quản lý hộ tài sản cho khách hàng, tư vấn cho doanh nghiệp,…Ngày nay, xu hướng của Ngân hàng là hoạt động đa năng trên nhiều lĩnh vực với nhiều nghiệp vụ khác nhau. Các nghiệp vụ có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận cao nhất.
1.1.3. vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế đạt đến trình độ cao của kinh tế hàng hóa, ngân hàng đóng vai trò quan trọng, nó là hệ thống thần kinh, hệ thống tuần hoàn của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế chỉ có thể cất cánh, phát triển với tốc độ cao Ngân hàngếu có một hệ thống ngân hàng vững mạnh. Ngân hàng và nền có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau. Do đó, vai trò của Ngân hàng thương mại được thể hiện ở một số mặt sau:
NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Khi nhắc tới vai trò của Ngân hàng thương mại thì không thể không nhắc tới vai trò cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh điều đầu tiên các chủ doanh nghiệp các doanh nghiệp phải quan tâm đó là vốn. Nếu không có vốn thì doanh nghiệp sẽ bị mất cơ hội đầu tư, mất đi lợi nhuận mà lẽ ra có thể thu được.
Do nhược điểm của thị trường tài chnhs dẫn đến ảnh hưởng tới tính liên tục của chu trình tài chính như sự không khớp nhịp giữa cung vốn và cầu vốn qua vấn đề thời gian và lượng vốn, rủi ro đạo đức, rủi ro mất khả năng thanh toán,…NHTM với tư cách là một chủ thể kinh doanh trên lĩnh vực tài chính tiền tệ có thể khắc phục được những nhược điểm trên. NHTM chính là người đứng ra tiến hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế,…hình thành nên quỹ cho vay và sử dụng chúng để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Là một kênh phân phối vốn có hiệu quả NHTM đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh cải tiến quy trình cộng nghệ, từ đó nâng cao năng suất lao động để có thể đứng vững trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường. Với khả năng cung cấp vốn, NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường.
Để có thể tiếp cận với thị trường đầu ra và tìm kiếm lợi nhuận các doanh nghiệp cần phải quan tâm tới thị trường đầu vào của mình mà yếu tố đầu vào quan trọng nhất chính là vốn, đây luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh vì nó đặt nền tảng đầu tiên cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà phải biết khai thác các nguồn vốn khác tài trợ cho hoạt động của mình. Nguồn vốn tín dụng của NHTM sẽ giúp doanh nghiệp giải quyết được khó khăn đó. Như vậy, Ngân hàng chính là cầu nối đưa doanh nghiệp đến với thị trường giúp doanh nghiệp tìm kiếm được đầu vào, bôi trơn hoạt động sản xuất kinh doanh làm cho nó phát huy hiệu quả một cách tốt nhất trên thị trường, giúp doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn cả về không gian và thời gian.
NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Nếu NHTM có nhiệm vụ xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ thông qua các công cụ như: thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi suất,…thì các NHTM một mặt chịu sự tác động trực tiếp của các công cụ này mặt khác nó còn tham gia điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế thông qua mối quan hệ với các tổ chức kinh tế, cá nhân về các hoạt động tài chính tín dụng. Nói cách khác, thông qua hoạt động của NHTM với các chủ thể khác trong nền kinh tế, mọi thông tin có liên quan đến hoach định chính sách tiền tệ sẽ được phản hồi lại NHTW, giúp NHTW có thể hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp trong từng thời kỳ để đảm bảo thúc đẩy nền kinh tế tăng trường và phát triển ổn định.
NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
Trên thế giới, trong thời đại ngày này, mỗi quốc gia độc lập trường xuyên tiến hành những mối quan hệ đa dạng và phức tạp trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao, văn hóa, khoa học – kỹ thuật,…trong đó quan hệ kinh tế thường chiếm vị trí quan trọng, áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế của mỗi quốc gia khi mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh và toàn diện về mọi mặt mà quan trọng nhất là tài chính. Nhưng làm thế nào để có thể hòa nhập nền của một quốc gia với phần còn lại của thế giới? Câu hỏi này sẽ được giải đáp thông qua vai trò của hệ thống NHTM với hàng loạt các nghiệp vụ không ngừng được hoàn thiện và phát triển: thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hội, ủy thác đầu tư,…Hệ thống NHTM trong nước đã điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế, đưa nền tài chính trong nước bắt kịp với nền tài chính quốc tế.
1.1.4. các chức năng của NHTM.
Chức năng trung gian thanh toán.
Ngân hàng làm chức năng trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập tiền vào tài khoản tiền gửi của khách hàng như tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu chi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề để Ngân hàng thực hiện vài trò trung gian thanh toán. Mặt khác, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể trong nền kinh tế có nhiều hạn chế đó là rủi ro phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là với khách hàng ở cách xa nhau đã tạo nên nhu cầu thanh toán quan Ngân hàng.
Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế. Trước hết thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn. NHTM sẽ cung cấp cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán nhanh chóng và thuận tiện như: séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán, thanh toán điện tử, thanh toán bù trừ,…cho phép khách hàng lựa chọn hình thức thanh toán mà theo họ là hiệu quả và an toàn nhất. Điều này góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội. Mặt khác, chức năng này còn góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng thông qua việc thu phí thanh toán làm tăng uy tín của ngân hàng và tạo điều kiện cho Ngân hàng thu hút nguồn vốn tiền gửi.
Chu chuyển tiền tệ hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống NHTM nên các NHTM không ngừng đổi mới và cải tiến công nghệ để nâng cao chất lượng thanh toán đáp ứng nhu cầu của khách hàng ngày càng tốt hơn.
Chức năng làm trung gian tài chính.
Chức năng trung gian tín dụng là khái niệm cơ bản và đặc trưng nhất của NHTM và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng làm chức năng trung gian tín dụng khi nó là cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu vốn. Nói cách khác, ngân hàng sau khi huy động được các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền sẽ hình thành nên quỹ cho vay của Ngân hàng và sẽ sử dụng nó để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các chủ thể trong nền kinh tế mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng ngân hàng của NHTM đi vay là để cho vay.
Chức năng trung gian tín dụng xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tái xuất xã hội. Sở dĩ không phải là một tổ chức nào khác trong nền kinh tế mà lại là ngân hàng đứng ra thực hiện chức năng này vì ngân hàng là một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng, họ có đầy đủ kinh nghiệm và sự hiểu biết về tình hình cung cầu tín dụng trong nền kinh tế do vậy họ có thể khắc phục được những khiếm khuyết của thị trường tài chính đó là sự không khớp nhịp giữa cung cầu tín dụng về thời gian và số lượng tức là thông qua việc thu hút tiền gửi với một số lượng lớn Ngân hàng có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung cầu tín dụng cả về khối lượng vốn cho vay và thời gian cho vay.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã góp phần tạo ra lợi icus cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, Ngân hàng và người đi vay và đảm bảo lợi ích cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền.
vào cuối thế kỷ XIX, khi mà hệ thống Ngân hàng hai cấp đã hình thành trong đó NHTW có nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ còn các NHTM thực hiện vai trò kinh doanh tiền tệ. Khi đó, các NHTM thông qua chức năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng đã tạo ra tiền ghi sổ trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại NHTM. Nói cách khác, nhờ hoạt động trên hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
các Ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi không kỳ hạn từ một khoản tiền gửi ban đầu, hoặc từ khoản tiền nhận được từ NHTW thông qua việc cấp tín dụng cho các khác hàng là tổ chức phi Ngân hàng. Bất kỳ ngân hàng nào được phép huy động tiền gửi không kỳ hạn và cung cấp các dịch thanh toán cho khách hàng đều có khả năng tạo tiền. Sự kết hợp giữa chức năng trugn gian thanh toán và trung tín dụng làm cho hệ thông NHTM có khả năng tạo tiền gửi thanh toán. Từ một khoản tiền gửi ban đầu thông qua làm chức năng trung gian tín dụng Ngân hàng sử dụng để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ,…tức là ngân hàng đã tạo tiền. Còn ngược lại khi ngân hàng huy động được số vốn mà chưa cho vay Ngân hàng chưa hề tạo tiền. Sự tạo tiền của NHTM chỉ xảy ra khi mọi hoạt động kinh doanh của NHTM thực hiện bằng chuyển khoản ghi nợ cho tài khoản này và ghi có cho tài khoản khác có liên quan.
Thực hiện chức năng tạo tiền, với việc cho vay không có sự xuất hiện của tiền mặt, các NHTM đã giảm được khối lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm được chi phí, giúp điều tiết lượng tiền cung ứng phù hớp chính sách ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, giúp điều tiết lượng cung ứng phù hợp chính ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp, làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế đáp ứng nhu cầu chi trả của xã hội.
Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, khi NHTM thực hiện tốt chức năng thủ quỹ và trong gian thanh toán góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.
1.2. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NHTM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP.
1.2.1. xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình từng bước xây dựng một nền kinh tế mở, gắn kết nền kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và thế giới, là xu thế khách quan không một quốc gia nào có thế đứng ngoài cuộc. Hội nhập không phải là một hiện tượng mới. Tuy nhiên, đến quá trình toàn cầu hóa mới từ những thập niên 80 trở lại đây, Hội nhập kinh tế quốc tế mới trở thành một trào lưu, cuốn hút sự tham gia của tất cả các nước. Hội nhập kinh tế quốc tế được thúc đẩy bởi những nhân tố chính sau.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.
Hoạt động thương mại, tài chính – tiền tệ và đầu tư quốc tế gia tăng mạnh mẽ theo xu hướng tự do hóa.
Thương mại hàng hóa, dịch vụ ngày càng gia tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các nước.
Các công ty xuyên quốc gia ngày càng lớn mạnh đóng vai trò tiên phong của quá trình toàn cầu hóa.
Sự thay đổi cơ bản về khái niệm an ninh, lấy phát triển kinh tế là cách thức hữu hiệu để bảo đảm an ninh cho mỗi quốc gia.
Những yếu tố trên, đặc trưng của quá trình toàn cầu hóa, đã làm cho hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một trào lưu, một xu thế tất yếu. Bất cứ một nền kinh tế nào muốn không bị gạt ra ngoài lề của dòng chảy phát triển, đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh chính sách, mở cửa thị trường thông qua cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ rào cản phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hóa, luân chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật trên phạm vi thế giới ngày càng tự do, thông thoáng hơn.
1.2.2. cơ hội và thách thức của các nền kinh tế khi hội nhập.
Những cơ hội.
Việt Nam được hưởng ưu đãi trong hoạt động thương mại quốc tế: trong quá trình tồn tại GAT/ WTO đã thực hiện các vòng đàm phán nhằm tạo điều kiện cho tự do hóa thương mại trên cơ sở quy chế tối hậu giữa các quốc gia thanh viên. Với điều kiện tự nhiên ưu đãi và công nhân dồi dào, Việt Nam có cơ hội tận dụng những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh đặc biệt là các ngành nông nghiệp, dệt may, theo hiệp định dệt may của WTO (ACT) đến đầu 2005 các nước thành viên phải hoàn toàn xóa bỏ các hạn nghạch đối với hàng dệt may thì triển vọng xuất khẩu dệt may là rất lớn.
Tiến hành thương mại không có phân biệt đối xử: nguyên tắc không phân biệt đối xử còn biết đến dưới tên gọi "nguyên tắc đại ngộ quốc gia". Hiện nay Việt Nam đã là thanh viên của WTO nên trong buôn bán với các nước là thành viên của WTO, các nước này phải giành quy chế đối xử công bằng đối với Việt Nam. Cùng với sự phát triển của hoạt động ngoại thương, một số mặt hàng của Việt Nam đã có năng lực cạnh tranh trên một số thị trường như gạo, cà phê, thủy sản, dệt may. Khi đó các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu vào các quốc gia thành viên WTO như Hoa Kỳ, EU, Canada…được đối xử công bằng.
Gia nhập WTO là do động lực cho các cải cách môi trường kinh doanh trong nước: để trở thành thành viện của WTO thì các quốc gia nộp đơn xin gia nhập đều phải minh bạch hóa các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách thương mại. Kể từ khi Việt Nam nôp đơn xin gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành một số biên pháp cải cách như:
+ mở rộng quyền kinh doanh cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
+ về đầu tư nước ngoài: đây là lĩnh vực đang được hoàn thiện với các cải cách về thủ tục cấp giấy phép đầu tư, giảm yêu cầu về tỷ lệ kết hôi ngoại tệ, tăng cường ưu đãi.
+ về quyền sở hữu trí tuệ: Việt Nam đã cam kết về chương trình hành động thực hiện hiệp định về vấn đề thương mại có liên quan đến sở hữu trí tuệ và tham gia vào công ước quốc tế về bảo hộ sở hữu trí tuệ như: Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Hiệp ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa, công ước thành lập tổ chức sở hữu trí tuệ.
Tham gia WTO khuyến khích năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài, khi thực cam kết giảm hàng rào thuế quan và các biện pháp bảo hộ phi thuế quan, doanh nghiệp trong nước sẽ phải nỗ lực cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất để cạnh tranh với doanh nghiệp và sản phẩm của các nước mà không gặp phải thuế quan bảo hộ.
Đối với toàn bộ nền kinh tế, khi tham gia sâu hơn vào hoạt động thương mại quốc tế, những ngành lợi thế cạnh tranh dựa trên khai thác các nguồn lực tự nhiên sẽ giảm dần vai trò mà thay thế vào đó là các ngành dựa trên vốn, công nghệ để tạo ra giá trị gia tăng.
Những thách thức.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cơ hội luôn đi đôi với thách thức và khó khăn đi cùng với thực trạng kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay vẫn còn những mặt yếu kém, bất cập.
do trình độ phát triển kinh tế còn thấp, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nề kinh tế Việt Nam nhất là các ngành sản xuất kinh doanh và dịch vụ còn yếu, tham gia vào hội nhập, kinh doanh quốc phải đương đầu với cạnh tranh gay gắt với những đối thủ mạnh hơn nhiều lẫn cả trong thị trường nội địa lẫn thế giới. Tích lũy nội bộ và sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường; cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng bao cấp và bảo hộ còn nặng. Đầu tư của nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm mạnh. Tăng trường kinh tế những năm gần đây giảm sút.
Chúng ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện cơ chế của một nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành, quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Chưa có việc chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể phát triển chậm, các thành phần khác chưa phát huy hết năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh, chênh lệch giàu nghèo tăng nhanh. Ở nước ta hệ thống pháp luật của ta đang trong quá trình hoàn thiện. Nhiều chính sách luật lệ liên quan đến mở cửa thị trường và điều tiết quan hệ kinh tế đối ngoại còn thiếu hoặc chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là một thách thức lớn đối với nước ta.
Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống tài chính, ngân hàng, kế hoạch đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế, môi trường đầu tư kinh doanh còn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh.
Giáo dục đào tạo còn yếu về chất lượng, cơ cấu đào tạo chưa phù hợp, có nhiều tiêu cực trong dạy, học và thi cử…Khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cơ sở vật chất của ngành y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thông tin, thể thao còn nhiều thiếu thốn.
Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ỏ vùng núi, vùng sâu, vùng thường bị thiên tai. Số lao động chưa có việc làm và thiếu việc làm còn lớn. Nhiều tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, nạn ma túy, mại dâm, lây nhiễm HIV/ADIS có chiều hướng lan rộng. Môi trường sống bị ô nhiễm ngày càng nhiều.
Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới chậm hơn nhiều nước trong khu vực và thế giới. Trong khi xu hướng nhiều nước muốn đẩy nhanh tiên trình tự do hóa thương mại và đầu tư với quy mô sâu rộng hơn thì Việt Nam lại cần đủ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước, đây là một mâu thuẫn cần được xử lý trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Công tác hội nhập kinh tế quốc tế mới được triển khai chưa đồng bộ và vì vậy chưa tạo được sức mạnh tổng hợp cần thiết bảo đảm cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả cao.
Chúng ta chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hộ nhập kinh tế quốc tế, một lộ trình hợp lý thực hiện các cam kết quốc tế.
Doanh nghiệp nước ta nói chúng còn ít hiểu biết về thị trường thế giới và luật pháp quốc tế, nang lực quản lý còn yếu, trình độ công nghệ còn lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng quản lý còn yếu kém, tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự bao cấp, bảo hộ của nhà nước còn nặng.
Đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại còn thiếu và yếu, tổ chức chỉ đạo chưa sát và kịp thời, các cấp các ngành chưa quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp. Đây chính là nguyên nhân sâu xa của những yếu kém, khuyết điểm trong hợp tác kinh tế với nước ngoài.
Tóm lại, nhận thức đầy đủ về những thách thức và khó khăn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như vai trò và tầm quan trọng của nó trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước là điều có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở chỉ đạo định hướng cho các hoạt động trong hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Yếu tố cơ bản quyết định thanh công của hội nhập kinh tế quốc tế suy cho cùng, là nội lực của một quốc gia, là hiệu quả và sức cạnh tranh của một nền kinh tế.
1.2.3. năng lực cạnh tranh của NHTM trong điều kiện hội nhập.
1.2.3.1.Tính đặc thù trong cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM)
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, chỉ xuất hiện trong điều kiện của kinh tế thị trường. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh là môi trường tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh (KD) phát triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các tổ chức, là nhân tố quan trọng làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi tổ chức. Vì vậy, các tổ chức đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược phù hợp để chiến thắng trong cạnh tranh.
Giống như bất cứ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các NHTM trong KD luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không chỉ từ các NHTM khác, mà từ tất cả các tổ chức tín dụng đang cùng hoạt động KD trên thương trường với mục tiêu là để giành giật khách hàng (KH), tăng thị phần tín dụng cũng như mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Tuy vậy, so với sự cạnh tranh của các tổ chức kinh tế khác, cạnh tranh giữa các NHTM có những đặc thù nhất định. Cụ thể:
KD trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực KD rất nhạy cảm.
chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống văn hoá…mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường KD chung. Chẳng hạn: Chỉ cần một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể gây nên cơn chấn động rất lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Một NHTM hoạt động yếu kém, khả năng thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế và dân chúng trên địa bàn…Chính vì vậy, trong KD, các NHTM vừa phải cạnh tranh để từng bước mở rộng KH, mở rộng thị phần, nhưng cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn tính đối thủ của mình, bởi vì, nếu đối thủ là các NHTM khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả đem lại thường là rất to lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn chính NHTM này do tác động dây chuyền.
Hoạt động KD của các NHTM có liên quan đến tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội, đến từng cá nhân.
thông qua các hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm, cho vay cũng như các loại hình dịch vụ (DV) tài chính khác; đồng thời, trong hoạt động KD của mình, các NHTM cũng đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ các đối tượng KH chung. Chính vì vậy, nếu như một NHTM bị khó khăn trong KD, có nguy cơ đổ vỡ, thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần như tất cả các NHTM khác, không những thế, các tổ chức tài chính phi NH cũng sẽ bị “vạ lây”. Đây quả l._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6102.doc