Nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam

MỞ ĐẦU Dược phẩm là một loại hàng hóa có tính chất đặc biệt không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của con người, không chỉ được sử dụng phục vụ cho người tiêu dùng là dân cư mà còn là hàng hóa thiết yếu đối với bất kỳ quốc gia nào. Phạm vi và nhu cầu sử dụng thuốc là vô cùng lớn. Việt Nam là nước có dân số khá đông 86 triệu người, khí hậu nóng ẩm dẫn đến nhiều dịch bệnh. Một thị trường rộng lớn và nhiều tiềm năng nhưng ngành dược nước ta vẫn chưa khai thác được. Phần lớn dược phẩm phả

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nhập khẩu, Việt Nam mới chỉ sản xuất được các loại thuốc thông thường. Vậy công nghiệp dược Việt Nam đang đứng ở vị trí nào? Theo cách đánh giá của WHO (World Health Organization) công nghiệp dược các nước được chia ra thành 4 cấp độ: cấp độ 1 (hoàn toàn nhập khẩu), cấp độ 2 (sản xuất được một số generic, đa số phải nhập khẩu), cấp độ 3 (có công nghiệp dược nội địa sản xuất generic, xuất khẩu được một số dược phẩm), cấp độ 4 (sản xuất được nguyên liệu và phát minh ra thuốc mới). Công nghiệp dược Việt Nam đứng ở vị trí 2,5 – 3 theo thang phân loại 1- 4 của WHO (báo cáo của TS.Cao Minh Quang cục trưởng cục quản lý dược Việt Nam trong hội nghị ngành dược). Dược nội địa mới đáp ứng được hơn 50℅ nhu cầu trong nước mà chủ yếu là các loại thuốc thông thường thiếu các loại thuốc đặc trị có giá trị cao. Phân khúc thuốc chuyên khoa chủ yếu do dược nước ngoài chiếm giữ. Khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, thuế và các hàng rào bảo hộ khác giảm xuống dẫn đến sự tràn ngập của dược nước ngoài không chỉ chiếm giữ phân khúc thuốc đặc trị mà còn “lấn sân” sang phân khúc thuốc thông thường đã đẩy dược nội địa gặp rất nhiều khó khăn. Trong thời kỳ hội nhập, mọi doanh nghiệp phải cạnh tranh một cách công bằng, với một quốc gia đang phát triển và không có công nghệ nguồn như Việt Nam thì việc ngành dược xác định được bước đi đúng và trọng điểm đầu tư là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của ngành. Để dược phẩm Việt Nam có thể tồn tại và phát triển chúng ta cần phải trả lời một loạt các câu hỏi sau. Đó là: Dược phẩm Việt Nam đang đứng ở vị trí nào: được đánh giá thông qua các tiêu chí như doanh thu, thị phần, giá cả, chất lượng, mẫu mã, và thương hiệu của sản phẩm? Các yếu tố nào tác động đến sự tồn tại và phát triển của ngành dược? Làm thế nào để dược phẩm Việt Nam phát huy được các lợi thế sẵn có, tận dụng được cơ hội để khắc phục khó khăn đang gặp phải? Mục đích của đề tài nghiên cứu “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam” là sử dụng phương pháp mô tả và phương pháp kế thừa để phân tích thực trạng hiện nay của dược phẩm Việt Nam từ đó cung cấp thêm thông tin về năng lực cạnh tranh của lĩnh vực dược phẩm cho công tác xây dựng chiến lược và đề xuất các hướng ưu tiên phát triển đối với ngành dược trong tổng thể các ngành kinh tế quốc dân; đề xuất các giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực dược phẩm, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập cho người dân. Do dược phẩm rất rộng nên trong đề tài này em chỉ xin đi sâu nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của thuốc tân dược Việt Nam. Đề tài được cấu trúc như sau. Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo đề tài gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam. Chương II: Phân tích năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng và các anh chị trong Ban Thông Tin và Hợp tác quốc tế, Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng và các anh chị trong Ban đóng góp ý kiến để em tiếp tục hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Đoàn Thị Thùy Dương CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM I. Dược phẩm và phân loại dược phẩm 1. Quan niệm về dược phẩm và phân loại 1.1. Khái niệm về dược phẩm: Một trong các đối tượng nghiên cứu của báo cáo này là dược phẩm, vì thế cần làm rõ khái niệm về dược phẩm. Dược phẩm có thể hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất là công dụng chữa bệnh và thứ hai là sản phẩm của quá trình sản xuất, được lưu thông, phân phối và buôn bán trên thị trường. * Thứ nhất, đứng từ góc độ công dụng mà nhìn nhận, dược phẩm là một khái niệm khá phức tạp. Theo Bộ y tế, dược phẩm là thuốc và các hoạt động liên quan đến thuốc. Thuốc là chất hoặc hỗn hợp các chất dùng cho người nhằm mục đích phòng bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán bệnh hoặc điều chỉnh chức năng sinh lý cơ thể bao gồm thuốc thành phẩm, nguyên liệu làm thuốc, vắc xin, sinh phẩm y tế, trừ thực phẩm chức năng. Vắc xin là chế phẩm chứa kháng nguyên tạo cho cơ thể khả năng đáp ứng miễn dịch, được dùng với mục đích phòng bệnh. Sinh phẩm y tế là sản phẩm có nguồn gốc sinh học được dùng để phòng bệnh, chữa bệnh và chẩn đoán bệnh cho người. Nguyên liệu làm thuốc là chất tham gia vào thành phần cấu tạo sản phẩm trong quá trình sản xuất thuốc. Thuốc thành phẩm là dạng thuốc đã qua tất cả các giai đoạn sản xuất, kể cả đóng gói trong bao bì cuối cùng và dán nhãn. Những hoạt động liên quan đến thuốc gồm các hoạt động từ khâu sơ chế, sản xuất đến bao gói để có được thành phẩm bán trên thị trường. * Thứ hai, “dược phẩm” là một loại hàng hóa Dược phẩm cũng như tất cả các loại hàng hóa khác được sản xuất và kinh doanh trên thị trường, chịu tác động của các quy luật thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…. Song dược phẩm là một loại hàng hóa đặc biệt có những đặc điểm riêng khác với các loại hàng hóa thông thường khác. Đặc điểm 1: Dược phẩm là loại sản phẩm có liên quan trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của con người. Đây là sự khác biệt cơ bản nhất của dược phẩm so với các loại hàng hóa khác. Vì vậy dược phẩm được xếp vào loại hàng hóa có điều kiện. Điều này được hiểu là để sản xuất và kinh doanh dược phẩm thì trước khi đi vào hoạt động, các tổ chức cá nhân kinh doanh phải đảm bảo đủ các điều kiện như con người phải có trình độ chuyên môn về dược, doanh nghiệp phải đủ điều kiện về trang thiết bị y tế, phải được các cơ quan thẩm quyền về y tế cấp giấy chứng nhận…. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh dược phẩm thì các tổ chức cá nhân phải chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ của Nhà nước mà cụ thể là Bộ y tế (Cục quản lý dược Việt Nam). Xuất phát từ đặc điểm này, các tổ chức cá nhân khi tiến hành sản xuất kinh doanh dược phải luôn đặt mục tiêu chất lượng lên hàng đầu. Đặc điểm 2: Giữa thuốc và bệnh nhân có môi giới trung gian là thầy thuốc. Cả thầy thuốc và người bệnh đều bị thụ động, phụ thuộc vào người khác. Cứu sống người là thiên chức xã hội giao cho người thầy thuốc, chữa trị cho những người nào không tùy thuộc vào ý muốn bản thân thầy thuốc. Còn người tiêu dùng (bệnh nhân) dùng thuốc không phải tự mình lựa chọn mà do thầy thuốc quyết định. Do đó khi bệnh nhân dùng thuốc phải được sự chỉ dẫn về loại thuốc, liều lượng, cách dùng và tác dụng có thể xảy ra trong quá trình dùng thuốc. Đặc điểm 3: Phạm vi và nhu cầu sử dụng thuốc là rất lớn. Nhu cầu sử dụng dược phẩm phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau như: dân số, điều kiện tự nhiên, mức gia tăng thu nhập của người dân…. Tùy theo điều kiện kinh tế mà mỗi người có nhu cầu thuốc khác nhau. Thông thường, những người có thu nhập cao thích lựa chọn các loại thuốc ngoại (giá thành cao) trong khi đó những người có thu nhập thấp thì lựa chọn các sản phẩm có giá thấp hơn (thuốc nội). → Đứng từ góc độ thị trường mà xem xét, những đặc điểm nêu trên của dược phẩm có thể dẫn tới a) Độc quyền trong sản xuất và kinh doanh dược phẩm; b) Bí mật công nghiệp trong chế biến và sản xuất; c) Năng lực cạnh tranh của dược phẩm không chỉ phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, mà còn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn của đội ngũ thày thuốc của từng quốc gia. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, cần giảm độc quyền, công khai về công nghệ, đồng thời nâng cao năng lực và nhận thức của đội ngũ thày thuốc. 1.2. Phân loại dược phẩm (đứng từ góc độ sản xuất) Do thị trường dược phẩm hiện nay quá rộng lớn (có thể xem như rừng thuốc) ta không thể nào nhớ hết từng món thuốc. Do đó việc phân loại dược phẩm là rất quan trọng. Phân loại dược phẩm giúp người tiêu dùng đặc biệt là các bác sĩ, y tá… biết được một thuốc nằm trong nhóm thuốc nào, biết tính chất chung của nhóm thuốc đó, từ đó có thể suy ra tính chất của một thuốc cụ thể để lựa chọn trong sử dụng. Dưới đây là 3 cách phân loại dược phẩm Việt Nam cơ bản nhất. Theo cách thức sử dụng, dược phẩm chia thành hai loại: thuốc OTC (hàng không kê toa, chủ yếu bán ở các nhà thuốc bán lẻ) và thuốc điều trị (thuốc có kê toa, sử dụng trong bệnh viện và các trung tâm y tế). Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, thống kê thuốc kê toa và thuốc không kê toa chỉ mang ý nghĩa tương đối do các loại thuốc điều trị vẫn được bán tự do trên thị trường. Do đó với cách phân loại này có thể tạm thống kê theo thuốc phân phối vào hệ thống bệnh viện và thuốc phân phối ra thị trường. Theo thống kê của Cục quản lý dược Việt Nam, năm 2008, giá trị tiền thuốc sử dụng trong bệnh viện là 12.322 tỷ VND (tương đương 760 triệu USD), chiếm khoảng 50% giá trị tiền thuốc toàn thị trường. Theo bản quyền chế tác thuốc, dược phẩm được chia thành: thuốc generic (hết bản quyền sở hữu thuốc gốc) và hàng patent (có bản quyền). Hiện nay, ngành dược trong nước đang chủ yếu sản xuất thuốc generic có giá trị không cao và chiếm tới 69% tổng thị trường thuốc với các chủng loại liên quan nhiều đến thuốc kháng sinh, thuốc thông thường (vitamin, giảm đau, hạ sốt). Theo tây y hay y học cổ truyền, dược phẩm được chia thành: thuốc tân dược (gồm các loại thuốc được sản xuất từ các chất hóa học tổng hợp và thuốc có sự kết hợp dược liệu với các hoạt chất hóa học tổng hợp) và thuốc đông y (gồm các loại thuốc được sản xuất từ nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên từ động vật, thực vật hoặc khoáng chất, được bào chế theo lý luận và phương pháp y học cổ truyền của các nước phương Đông) Do sản phẩm dược phẩm là khá rộng nên đề tài nghiên cứu này chỉ tập trung vào nghiên cứu khái quát về năng lực cạnh tranh của thuốc tân dược Việt Nam, hay nói một cách khác là tân dược được sản xuất trong nước. Tân dược là gì đứng từ góc độ là sản phẩm của sản xuất ? Khác với thuốc đông y, tân dược thường được sản xuất trong các nhà máy, đòi hỏi độ chính xác cao, trình độ công nghệ cao. Phần lớn các dây truyền sản xuất tân dược được tự động hóa... Như vậy, trình độ sản xuất cũng là một yếu tố quan trọng đối với năng lực cạnh tranh của tân dược. 2. Quan niệm về cạnh tranh và các cấp độ của cạnh tranh 2.1. Quan niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh Cạnh tranh: Theo ngôn ngữ dân gian, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các nhà doanh nghiệp trong việc giành giật và giữ chân khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được một mục tiêu kinh doanh cụ thể như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Cạnh tranh được các nhà kinh tế học chia thành cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo, cạnh tranh dọc và cạnh tranh ngang. Cạnh tranh được nẩy sinh từ các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh là động lực phát triển của nền kinh tế, thúc đẩy thị trường phát triển, từ đó thúc đẩy xã hội phát triển. Theo thời gian, tính chất cạnh tranh trong nền kinh tế sẽ ngày càng quyết liệt hơn. Năng lực cạnh tranh: Năng lực cạnh tranh được nhắc đến rất nhiều trên báo chí cũng như các phương tiện thông tin đại chúng khác. Song, năng lực cạnh tranh vẫn là một khái niệm lỏng lẻo, có nhiều cách hiểu thậm chí rất khác nhau. Theo học giả kinh tế Michael Porter, là một người nổi tiếng trong lĩnh vực kinh tế ông cũng không đưa ra định nghĩa về năng lực cạnh tranh. Ông cho rằng: không có một định nghĩa thật sự về năng lực cạnh tranh và không có lý thuyết nào giải thích nó được chấp nhận một cách phổ biến . Theo tạp chí kinh tế và phát triển, số 84 tháng 6 năm 2004, Ths. Phạm Đình Huỳnh có đưa ra khái niệm như sau: “ Năng lực cạnh tranh là khả năng đạt được và duy trì thị phần có lãi ”. Còn theo OECD thì năng lực cạnh tranh là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho doanh nghiệp, các ngành, các địa phương, các quốc gia và khu vực phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế. Từ những khái niệm chung về năng lực cạnh tranh của hàng hóa nêu trên, cho thấy năng lượng cạnh tranh phụ thuộc vào điều kiện, bối cảnh phát triển của đất nước trong từng thời kỳ, có thể đánh giá bằng các chỉ tiêu kinh tế xã hội cụ thể như: - Thị phần của sản phẩm trên thị trường so với sản phẩm cùng loại; - Động thái thay đổi thị phần theo thời gian. Năng lực cạnh tranh có thể chia làm ba loại, năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lược cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh sản phẩm. Trên thực tế, năng năng cạnh tranh của sản phẩm là chung nhất, là thước đo đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, còn năng lực cạnh tranh của quốc gia là do đóng góp từ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nhận định này, sẽ được làm rõ thêm trong mục các cấp độ cạnh tranh sau đây. 2.2. Các cấp độ của cạnh tranh Một nền kinh tế muốn có năng lực cạnh tranh cao phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao, với nhiều sản phẩm và dịch vụ có lợi thế cạnh tranh trên thị trường. 2.2.1. Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia Năng lực cạnh tranh quốc gia là yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của tất cả các sản phẩm trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Có rất nhiều cách hiểu về năng lực cạnh tranh cấp quốc gia Theo Asia Development Outlook 2003 là khả năng cạnh tranh của một nước để sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được thử thách của thị trường quốc tế. Đồng thời, duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của công dân nước đó. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia phản ánh khả năng của một nước để tạo ra việc sản xuất sản phẩm, phân phối sản phẩm và dịch vụ trong thương mại quốc tế, trong khi kiếm được thu nhập tăng lên từ nguồn lực của nó. Theo diễn đàn kinh tế thế giới 1997 (WEF), thì năng lực cạnh tranh quốc gia được hiểu là “sức mạnh thể hiện trong hiệu quả kinh tế vĩ mô, đó là năng lực của một nền kinh tế đạt được và duy trì mức tăng trưởng bền vững, thu hút đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống người dân trên cơ sở xác định các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác” Theo diễn đàn kinh tế thế giới WEF, năng lực cạnh tranh của quốc gia được đo bằng tám chỉ tiêu: mức độ mở của nền kinh tế, vai trò của Nhà nước, vai trò của thị trường tài chính, môi trường công nghệ, kết cấu hạ tầng, chất lượng quản trị kinh doanh, hiệu quả và tính linh họat của thị trường lao động, môi trường pháp lý. 2.2.2. Năng lực cạnh tranh ngành Một quốc gia muốn có nền kinh tế phát triển, có năng lực cạnh tranh cao thì quốc gia đó cần phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao. Có thể hiểu năng lực cạnh tranh ngành (hay doanh nghiệp) là Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, còn thông qua một số tiêu chí khác như: nguồn lực về vốn, công nghệ, con người, quản lý; chất lượng và giá cả sản phẩm; hệ thống phân phối và dịch vụ sau bán hàng của doanh nghiệp; chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Theo mô hình kim cương của Micheal Porter, lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố bên trong nội bộ doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài trong môi trường kinh doanh quốc gia bao gồm: các điều kiện về yếu tố sản xuất, sức cầu về hàng hóa, các ngành phụ trợ, môi trường cạnh tranh ngành và vai trò của Chính Phủ. 2.2.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm Năng lực cạnh tranh của ngành hay doanh nghiệp lại được thể hiện thông qua năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của nó. Đây cũng là cái thể hiện rõ nhất năng lực cạnh tranh của các chủ thể nói chung. Theo tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 317, tháng 10 năm 2004 của TS Nguyễn Văn Thanh: “Năng lực cạnh tranh cấp sản phẩm được hiểu là khả năng sản phẩm có được nhằm duy trì được vị thế của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh” Năng lực cạnh tranh sản phẩm được nhận biết thông qua lợi thế cạnh tranh của sản phẩm đó với các sản phẩm khác cùng loại. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm có thể được đánh giá thông qua: giá sản phẩm, sự vượt trội về chất lượng sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm, thương hiệu… so với đối thủ cạnh tranh trên cùng một phân đoạn thị trường vào cùng một thời điểm. 2.2.4. Mối quan hệ giữa ba cấp cạnh tranh Có thể nói ba cấp độ của năng lực cạnh tranh mặc dù có sự độc lập tương đối nhưng giữa chúng vẫn tồn tại mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là yếu tố cơ bản, cốt lõi tạo nên năng lực cạnh tranh của ngành (doanh nghiệp), và tổng hợp lại góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Ngược lại năng lực cạnh tranh của quốc gia sẽ tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh ngành (doanh nghiệp), và chính năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp khi được nâng cao sẽ tạo nên sức hút, sự hấp dẫn với sản phẩm, dịch vụ của người tiêu dùng từ đó tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Như trên đã trình bày, năng lực cạnh tranh sản phẩm là quan trọng nhất, vì thế báo cáo này tập trung vào trình bày các kết quả nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của sản phẩm (lấy ví dụ là thuốc tân dược). 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô, các nhân tố thuộc nội bộ ngành cũng như các yếu tố trong bản thân nội tại doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm. 3.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô * Các yếu tố kinh tế: Các yếu tố kinh tế thuộc môi trường vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái….có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Lãi suất ngân hàng: lãi suất ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Tỷ lệ lãi suất là rất quan trọng khi người sản xuất cũng như người tiêu dùng thường xuyên vay tiền để thanh toán các khoản mua bán hàng hóa của mình. Đồng thời, lãi suất còn quyết định mức chi phí về vốn và do đó quyết định mức đầu tư. Nếu lãi suất ngân hàng cho vay cao sẽ dẫn đến chi phí đầu vào tăng lên, giá thành sản phẩm cũng vì thế tăng lên. Do đó năng lực cạnh tranh của hàng hóa sẽ giảm đi nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực mạnh về vốn. Và ngược lại, nếu lãi suất ngân hàng thấp sẽ làm giảm chi phí đầu vào, giá thành sản phẩm hạ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất và cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường bằng công cụ giá. Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là sự so sánh về giá trị của đồng tiền trong nước với đồng tiền của quốc gia khác. Thay đổi tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm đặc biệt đối với các sản phẩm phải nhập khẩu nguyên liệu đầu vào hay các sản phẩm có lợi thế về xuất khẩu. Nếu đồng nội tệ lên giá, sẽ khuyến khích nhập khẩu vì hàng nhập khẩu sẽ giảm và như vậy khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước; đồng thời xuất khẩu sẽ giảm do sản phẩm trong nước tăng giá. Và ngược lại, khi đồng nội tệ giảm giá thì khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu cũng sẽ tăng lên. Tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người: nền kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người cao dẫn đến khả năng tiêu thụ hàng hóa cao. Nền kinh tế phát triển cùng với các yếu tố như lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái,… ổn định sẽ tạo cơ hội tốt cho các doanh nghiệp mở rộng kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài. Từ đó dẫn tới nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. * Các yếu tố chính trị, pháp luật Yếu tố chính trị, pháp luật được thể hiện ở mức độ ổn định chính trị của quốc gia, cơ sở hành lang pháp lý…. Các sản phẩm muốn được đưa ra tiêu thụ trên thị trường phải tuân theo các quy định của Chính phủ về chất lượng, mẫu mã…Những quy định này có thể là cơ hội hoặc mối đe dọa với các sản phẩm. Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mức đầu tư vốn của nước ngoài vào việc phát triển sản phẩm đồng thời ảnh hưởng đến mức độ chi mua hàng hóa của người tiêu dùng. * Các yếu tố về văn hóa xã hội Tất cả các doanh nghiệp đều phải phân tích các yếu tố xã hội để nhận biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra đối với sản phẩm của mình. Khi một hay nhiều yếu tố thay đổi chúng có thể tác động đến các sản phẩm như trình độ dân trí, tập quán thị hiếu của người tiêu dùng, truyền thống văn hóa dân tộc… Các yếu tố văn hóa xã hội thường biến đổi hoặc tiến triển chậm nên đôi khi thường khó nhận biết. Cùng với sự phát triển kinh tế, sự biến động về các yếu tố văn hóa xã hội ngày càng có tác động mạnh hơn đến sự ra đời và tiêu thụ của các sản phẩm. Đây là yếu tố không những có tác động đáng kể tới sự lựa chọn và tiêu dùng hàng hóa của người tiêu dùng mà còn tác động lớn đến các quyết định của doanh nghiệp khi lựa chọn biểu tượng logo, mẫu mã, kiểu dáng cho sản phẩm… *. Yếu tố về môi trường kinh doanh quốc tế Mỗi doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, mỗi nền kinh tế lại là một bộ phận cấu thành nền kinh tế thế giới. Những thay đổi về môi trường quốc tế có thể xuất hiện cả những cơ hội cũng như nguy cơ về việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và ngoài nước. Hiện nay, trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt Nam đã gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như ASEAN, WTO…thì các doanh nghiệp mà đặc biệt là sản phẩm của ta sẽ chịu tác động lớn của hệ thống luật pháp thế giới. Môi trường kinh doanh quốc tế là cơ hội để sản phẩm Việt Nam có thể vươn ra thị trường rộng lớn nhưng cũng là những thách thức khó khăn buộc các doanh nghiệp phải nâng cao được năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của mình. 3.2. Các yếu tố thuộc nội bộ ngành Theo Michael Porter của trường quản trị kinh doanh Harvard thì trong nội bộ ngành chúng ta quan tâm đến các khía cạnh sau: * Áp lực từ phía khách hàng: Khách hàng được xem như là sự đe dọa mang tính cạnh tranh khi họ đẩy giá cả xuống hoặc khi họ yêu cầu chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn làm cho chi phí sản phẩm tăng lên. Ngược lại, nếu người mua có những yếu thế sẽ tạo cơ hội để tăng giá sản phẩm mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đây là yếu tố quyết định trực tiếp việc sản phẩm có năng lực cạnh tranh lớn hay không. * Áp lực từ nhà cung cấp: Nhà cung cấp là những cá nhân hoặc tổ chức trong nước hay ngoài nước chuyên cung cấp vật tư thiết bị, nguồn nhân lực, tài chính…để một doanh nghiệp có thể hoạt động. Việc nhà cung cấp đẩy mức giá lên cao sẽ đẩy giá sản phẩm tăng lên làm giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Đồng thời nhà cung cấp là một trong những nhân tố quan trọng quyết định chất lượng của sản phẩm. Vì vậy, để giảm áp lực từ phía nhà cung cấp đồng thời để tránh rủi ro thì các doanh nghiệp cần phải quan hệ với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau. Đây là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. * Áp lực từ sản phẩm cạnh tranh: Sản phẩm cạnh tranh là những sản phẩm cùng loại, có cùng tính năng tác dụng của các đối thủ cạnh tranh và cùng được tiêu thụ trên một thị trường. Nếu trên thị trường có càng nhiều sản phẩm cạnh tranh và các sản phẩm có sức cạnh tranh thực sự thì càng gây sức ép cho sản phẩm của doanh nghiệp. Sản phẩm có thể cạnh tranh bằng giá hoặc bằng các yếu tố như chất lượng, mẫu mã, thương hiệu… Mà hiện nay khi đời sống ngày càng được nâng cao thì sự cạnh tranh bằng các yếu tố chất lượng, mẫu mã, thương hiệu càng mạnh mẽ hơn so với cạnh tranh bằng giá. Vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm thì các doanh nghiệp phải thường xuyên đầu tư đổi mới công nghệ. * Áp lực từ đối thủ tiềm ẩn: Đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện không ở trong ngành nhưng sản xuất cùng một loại sản phẩm và có khả năng tham gia hoạt động kinh doanh trong ngành đó. Khi có đối thủ mới tham gia trong ngành có thể là yếu tố làm giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm hiện đang trong ngành từ đó làm giảm lợi nhuận của của doanh nghiệp do họ dựa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn giành được một phần thị phần.Do đó, để bảo vệ cho vị trí cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp thường quan tâm đến việc duy trì hàng rào hợp pháp ngăn sự xâm nhập từ bên ngoài. Theo nhà kinh tế học Joe Bain, ông xác định ba yếu tố trở ngại chủ yếu đối với việc nhảy vào một ngành kinh doanh: sự ưa chuộng sản phẩm, ưu thế về chi phí thấp, tính hiệu quả của sản xuất lớn. Nếu các doanh nghiệp có được những lợi thế này sẽ giữ được vị trí cạnh tranh cho sản phẩm của mình và buộc sản phẩm của các doanh nghiệp mới thâm nhập vào đương đầu với những khó khăn lớn. * Áp lực từ các doanh nghiệp trong nội bộ ngành: Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành là yếu tố quan trọng tạo ra cơ hội hoặc đe dọa cho các doanh nghiệp. Nếu sự cạnh tranh là yếu thì sẽ là cơ hội để nâng giá sản phẩm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. còn ngược lại, nếu sự cạnh tranh là gay gắt thì các doanh nghiệp sẽ hạ giá sản phẩm để cạnh tranh về giá do đó có nguy cơ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. 3.3. Các yếu tố thuộc nội bộ doanh nghiệp * Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực được coi là vấn đề vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và sản phẩm. Một nguồn nhân lực kém không đáp ứng được nhu cầu của thị trường sẽ là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thất bại của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được chia thành hai cấp. Đội ngũ quản lý: gồm ban lãnh đạo và đội ngũ trực tiếp quản lý sản xuất, kinh doanh sản phẩm. Đây là đội ngũ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh và xu hướng phát triển sản phẩm trong tương lai. Nếu họ là những người có kinh nghiệm, có khả năng nhìn xa trông rộng và đưa ra các quyết định đúng đắn thì doanh nghiệp đó sẽ có những sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Đội ngũ trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh: đội ngũ này chi phối trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm thông qua các yếu tố như: năng suất lao động, trình độ tay nghề, kỉ luật lao động, ý thức trách nhiệm, sự sáng tạo của họ…. Các yếu tố này kết hợp với yếu tố khoa học công nghệ sẽ ảnh hưởng đến số lượng, chất lượng, giá thành sản phẩm… góp phần quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. * Quy mô sản xuất kinh doanh: Cơ sở hạ tầng: là yếu tố hỗ trợ quan trọng giúp tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Cơ sở hạ tầng hiện đại sẽ làm tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất cao hơn, hao phí nhỏ… dẫn tới số lượng sản phẩm tăng, chi phí cận biên giảm và như vậy giá thành sản phẩm hạ nhờ đó nâng sức cạnh tranh của sản phẩm so với đối thủ. Khoa học công nghệ: đây là yếu tố đại diện cho sự sáng tạo, tiên tiến, cho sản phẩm mới cũng như loại bỏ những sản phẩm cũ, lạc hậu; tạo cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Một sản phẩm mới ra đời không thể thiếu được sự đóng góp của quá trình nghiên cứu và phát triển ( R&D) sản phẩm. Công nghệ hiện đại sẽ giúp doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, giá thành hạ do năng suất lao động tăng, hao phí nhỏ… * Tình hình tài chính: tài chính là yếu tố có vai trò quan trọng đảm bảo cho việc duy trì, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, khả năng huy động vốn lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, đa dạng hóa đổi mới, nâng cao chất lượng của sản phẩm; có khả năng thực hiện tốt công tác bán hàng và dịch vụ sau bán… tạo nên khả năng cạnh tranh cao hơn cho sản phẩm. II. Các tiêu chí và phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm 1. Phương pháp luận phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh 1.1. Đánh giá hiện trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm dược a) Vị trí của đánh giá hiện trạng năng lược cạnh tranh: Nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề rất phức tạp và khó khăn, dựa trên mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Nguyên nhân là cái có trước, nên nguyên nhân tạo ra năng lực cạnh tranh phải tìm ở hiện trạng, trước khi đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Vì thế, cần tìm nguyên nhân dẫn tới năng lực cạnh tranh từ hiện trạng trong mối quan hệ với ngành nghề sản xuất kinh doanh dược phẩm. b) Vai trò của đánh giá hiện trạng ngành dược và năng lực cạnh tranh: Phát hiện mối quan hệ năng lực cạnh tranh với các yếu tố ảnh hưởng chủ yếu như công nghệ sản xuất, kinh doanh, quản lý, tổ chức. Đánh giá hiện trạng là cơ sở để tìm ra nguyên nhân dẫn đến sự hình thành năng lực cạnh tranh và tìm ra những giải pháp thích hợp để đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Ưu điểm và hạn chế của đánh giá hiện trạng: Từ những phân tích nêu trên cho thấy ưu điểm của đánh giá hiện trạng là nó chỉ rõ được mối quan hệ nguyên nhân, kết quả ở hiện tại. Từ hiện trạng tổng hợp được các hệ số, thể hiện mối quan hệ qua thực tế làm định mức cho dự báo năng lực cạnh tranh. Tuy vậy hạn chế của đánh giá hiện trạng là vật chất luôn luôn biến động, lịch sử không phải là bài học tốt cho đánh giá năng lực cạnh tranh trong tương lai. Vì vậy, cần có một số giải pháp để khắc phục những hạn chế này. Nguyên tắc vận dụng đánh giá hiện trạng vào phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh là phải phát hiện cái mới và điều chỉnh cái cũ cho phù hợp với môi trường cạnh tranh ngày càng tăng. Đánh giá hiện trạng phải mang tính hệ thống, có nghĩa là lấy năng lực cạnh tranh làm mục tiêu chung của hệ thống, trên cơ sở đó xem xét các phân hệ ảnh hưởng hay quyết định đến mục tiêu một cách toàn diện. Các phân hệ chính của hệ thống phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh bao gồm khu vực sản xuất dược phẩm, linh vực kinh doanh và phân phối (thương mại), khu thể chế kinh tế của nhà nước và của thị trường, cơ chế chính sách ưu tiên của nhà nước. 1.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Có rất nhiều các chỉ tiêu để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm cả về định lượng lẫn định tính. Nhưng ta có thể kể tới một số chỉ tiêu quen thuộc như sau: 1.2.1. Mức doanh thu của sản phẩm qua từng năm Doanh thu là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện sản lượng và giá bán sản phẩm qua các năm. Thông qua chỉ._. tiêu doanh thu từng năm, ta có thể biết được kết quả kinh doanh là tăng hay giảm, có chiều hướng tốt hay xấu. Nhưng để xét xem việc kinh doanh sản phẩm đó có hiệu quả hay không thì cần phải xét đến chi phí để sản xuất ra sản phẩm, từ đó biết được lợi nhuận mà doanh nghiệp thu lại được. Doanh thu nhiều hơn và có tốc độ tăng nhanh hơn tốc độ tăng của chi phí sẽ là cơ sở để các doanh nghiệp ra quyết định mở rộng đầu tư sản xuất sản phẩm đó. Một sản phẩm duy trì được doanh thu và lợi nhuận tăng cao thì đồng nghĩa với việc sản phẩm đó có năng lực cạnh tranh cao và ngược lại. Đây là một trong những chỉ tiêu cơ bản nhất để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm khi tham gia thị trường. 1.2.2. Thị phần của sản phẩm trên thị trường qua từng năm Thị phần thể hiện khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm. Một sản phẩm có thị phần lớn và tăng dần sẽ là một sản phẩm có uy tín với người tiêu dùng, được nhiều người tiêu dùng lựa chọn. Thị phần đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Thị phần càng lớn thì năng lực cạnh tranh của sản phẩm càng cao và ngược lại. Tuy nhiên với các sản phẩm mới xâm nhập thị trường thì không thể lấy chỉ tiêu này để đánh giá được mà phải kết hợp thêm chỉ tiêu Tốc độ tăng trưởng của doanh thu hay thị phần. Nếu sản phẩm có tốc độ tăng thị phần cao thì sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao và ngược lại. 1.2.3. Chất lượng sản phẩm so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh Khi đời sống của người dân ngày càng nâng cao hay đối với những nước có thu nhập cao thì giá cả không phải mối quan tâm hàng đầu của họ nữa. Người tiêu dùng quan tâm nhiều đến chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là sự kết hợp hài hòa của năng suất lao động, trình độ công nghệ, mức độa an toàn của sản phẩm, các biện pháp bảo vệ thực vật… Mặt khác, khi hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra, để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thì yếu tố chất lượng sản phẩm đóng góp quan trọng cho sự tồn tại của sản phẩm trên thị trường. Sản phẩm đó không chỉ đạt tiêu chuẩn quốc gia mà phải đạt tiêu chuẩn quốc tế. Khi đó, chất lượng sản phẩm nói lên năng lực cạnh tranh của sản phẩm. 1.2.4. Giá cả sản phẩm Đây là chỉ tiêu định lượng mà ta dễ dàng nhận thấy nhất. Nếu các nhân tố khác không đổi thì sản phẩm nào có được giá bán thấp hơn sẽ có được năng lực cạnh tranh tốt hơn. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm là chi phí sản xuất, nhu cầu về sản phẩm…Trong đó chi phí sản xuất là yếu tố nảh hưởng lớn nhất đến giá bán sản phẩm. Chi phí sản xuất thấp hơn sẽ làm giá bán sản phẩm thấp hơn, nó sẽ có sức cạnh tranh tốt hơn về giá. Vì vậy, giá là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường. 1.2.5. Mức hấp dẫn của sản phẩm về mẫu mã, kiểu dáng…so với đối thủ cạnh tranh Được đánh giá thông qua kiểu dáng, màu sắc, bao bì sản phẩm. Trong cuộc sống hiện đại thì tiêu chí này ngày càng có vai trò quan trọng. Một sản phẩm có mẫu mã, màu sắc, kiểu dáng đẹp sẽ có sức hấp dẫn lớn đối với khách hàng. Mặc dù đây chỉ là chi tiêu định tính nhưng là yếu tố không thể thiếu tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm. 1.2.6. Thương hiệu của sản phẩm Thương hiệu là một khái niệm khá trừu tượng, nó “ vô hình ” nhưng là cái đích mà sản phẩm luôn muốn hướng tới. Một sản phẩm chỉ có được thương hiệu khi có được lòng tin và ấn tượng tốt của khách hàng. Người tiêu dùng yên tâm khi sử dụng và họ sẵn sàng trả giá cao hơn. Thương hiệu là một phương tiện giúp nhà sản xuất hay các nhà phân phối làm nổi bật tính riêng biệt cũng như ưu thế của sản phẩm của mình so với đối thủ cạnh tranh. Một thương hiệu thành công là một thương hiệu luôn có lượng lớn khách hàng trung thành. Vì vậy thương hiệu có ý nghĩa to lớn đối với năng lực cạnh tranh của sản phẩm và ngày càng trở nên quan trọng trong điều kiện hội nhập. 2. Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm Phương pháp hệ số lợi thế so sánh biểu lộ (RCA) Trong đó: Xi : là kim ngạch xuất khẩu mặt hàng i. Ni : là kim ngạch nhập khẩu mặt hàng i. -1 ≤ RCA ≤ 1 Nếu RCA = -1 thì nước đó chỉ có nhập khẩu mà không xuất khẩu sản phẩm i: sản phẩm i của nước đó không có năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế Nếu RCA = 1 thì nước đó chỉ có xuất khẩu mà không nhập khẩu sản phẩm i: sản phẩm i của nước đó có năng lực cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế. Nếu RCA > 0 thì sản phẩm i của nước đó có năng lực cạnh tranh. Nếu RCA < 0 thì sản phẩm i của nước đó không có năng lực cạnh tranh. Nếu RCA ≈ 0 thì tình trạng không rõ ràng. Phương pháp đánh giá theo hệ số cạnh tranh có ưu điểm đơn giản, dễ thực hiện và không cần nhiều số liệu. Tuy nhiên, hệ số này chỉ hoàn toàn dựa vào kim ngạch xuất nhập khẩu mà không tính toán tới hàng loạt các yếu tố tác động tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm như: các chính sách của Chính Phủ (thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp hỗ trợ xuất nhập khẩu…) III. Vai trò và ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực dược phẩm 1. Việt Nam là nước đông dân, nhiều loại bệnh tật cần có một ngành dược tầm cỡ đủ sức cạnh tranh trên thế giới Việt Nam nằm trong cực đông nam của bán đảo Đông Dương, vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm với ba mặt giáp biển. Do đó nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm tương đối trung bình khoảng 84% một năm, lượng mưa hàng năm ở mọi vùng đều lớn dao động từ 120 – 300 cm và một số nơi có thể gây ra lũ. Địa hình tương đối cao nhiều đồi núi, cao nguyên đặc biệt diện tích rừng và vùng rừng chiếm khoảng 30% diện tích. Với đặc điểm vị trí địa lý và khí hậu như vậy dẫn đến Việt Nam thường có nhiều dịch bệnh xuất hiện. Vì vậy nhu cầu thuốc là rất lớn. Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số diễn ra vào giữa năm 2009, nước ta hiện nay có khoảng 86 triệu dân và dân số vẫn không ngừng tăng. Đồng thời, khi đời sống ngày càng được nâng cao người tiêu dùng càng chú trọng nhiều hơn đến chăm sóc sức khỏe. Không phải chỉ khi có bệnh người ta mới tìm đến thuốc mà ngay cả khi khỏe mạnh các loại thuốc dùng phòng chống bệnh tật hay tăng cường sức khỏe cũng được sử dụng rất nhiều. Do đó, Việt Nam là một thị trường rộng lớn có nhiều tiềm năng mà ngành dược cần khai thác. 2. Sự phát triển của ngành dược phẩm góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập cho người dân Như đã nói ở trên, Việt Nam là một trong những quốc gia đông dân của thế giới và có tốc độ tăng dân số khá cao. Số lượng người ở độ tuổi lao động hàng năm lớn và không ngừng tăng. Điều đó tạo nên một áp lực rất lớn cho nền kinh tế khi số lượng việc làm thì không quá nhiều trong khi lực lượng lao động lại quá đông. Việc dư thừa lao động trong xã hội sẽ dẫn đến các hậu quả sau: Thứ nhất, hiện tượng thất nghiệp ở những người đã qua đào tạo làm hao tổn lớn thời gian, tiền bạc… của cá nhân cũng như Nhà nước. Đây là một sự lãng phí nguồn lực nghiêm trọng. Thứ hai, hiện tượng thất nghiệp ở những người lao động thủ công. Hiện tượng này sẽ làm cho chênh lệch thu nhập trong xã hội ngày càng cao. Số lượng này lớn có thể gây ra sự mất an ninh trật tự xã hội bởi các tệ nạn như: cờ bạc, trộm cắp… Vì vậy, giải quyết lượng lao động dư thừa là vô cùng quan trọng, và phát triển dược phẩm sẽ là một trong những hướng giải quyết vấn đề đó. 3. Năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam còn thấp so với các đối thủ cạnh tranh. Hiện nay, mặc dù dược phẩm mà đặc biệt là thuốc tân dược Việt Nam đã có nhiều bước tiến lớn trong sự phát triển nhưng vẫn còn đang phải “ loay hoay ” trên thị trường. Nước ta mới chỉ sản xuất được các loại thuốc thông thường như hạ sốt, giảm đau,…còn các loại thuốc đặc trị vẫn phải nhập của nước ngoài với mức giá cao. Do đó trên thị trường dược phẩm Việt Nam, thuốc nội không thể cạnh tranh được với thuốc ngoại cả về chất lượng, chủng loại, mẫu mã… Đồng thời, như đã nói ở trên, dược phẩm là một mặt hàng quan trọng liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của con người và Việt Nam là một thị trường rộng lớn nhiều tiềm năng. Vì vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam là nhiệm vụ rất quan trọng cần phải giải quyết. 4. Yêu cầu hội nhập đối với các mặt hàng nói chung và dược phẩm nói riêng ngày càng cao Ngày 25-7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Ðông-Nam Á (ASEAN) và ký Nghị định thư tham gia Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)/Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) (CEPT/AFTA). Chúng ta cũng là một trong số 25 thành viên sáng lập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) vào tháng 3-1996 và tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) từ tháng 11-1998. Việt Nam đang tích cực đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Và vào ngày 7 tháng 11 năm 2006 Việt Nam đã chính thức gia nhập vào cuộc chơi toàn cầu này. Điều này đã mở ra cho nền kinh tế Việt Nam những cơ hội và thách thức mới. Trong đó dược phẩm cũng không nằm ngoại lệ. Sau khi gia nhập WTO,bên cạnh nhiều điều kiện hội nhập sâu vào trong nền kinh tế thế giới, Việt Nam sẽ phải chịu sự cạnh tranh diễn ra gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đồng thời, Việt Nam phải cam kết mở cửa thị trường, giảm thuế và các hàng rào bảo hộ khác, minh bạch hóa chính sách. Dược phẩm là một loại hàng hóa đặc biệt nên đi kèm theo nó là rất nhiều các quy định của thế giới về tiêu chuẩn chất lượng mà trong điều kiện hiện nay thì các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dược phẩm đáp ứng được không nhiều. Và thực tế đó đã khiến cho dược phẩm trong nước gặp không ít khó khăn. CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM I. Quá trình hình thành và phát triển của dược phẩm 1. Giai đoạn trước năm 1954 Đây là giai đoạn mà đói nghèo, bệnh tật, thất học, sinh đẻ nhiều là cái vòng luẩn quẩn của người Việt Nam. Trước tình hình đó, Ngành Y tế đã xác định được hướng đi của ngành: tất cả phục vụ cho tiền tuyến, tổ chức và hoạt động của ngành phải hướng về nông thôn nơi sinh sống của 90% dân số, phòng bệnh là chính, tự lực cánh sinh và dựa vào dân. Trong cuộc chiến tranh đầy khó khăn, gian khổ kéo dài suốt 9 năm, Ngành Y tế cách mạng vẫn duy trì và không ngừng phát triển các hoạt động chuyên môn, động viên nhân dân tham gia các phong trào vệ sinh phòng bệnh, sử dụng nhiều hình thức thích hợp để tuyên truyền giáo dục cho nhân dân những kiến thức trong việc giữ gìn sức khỏe. Các viện vi trùng học tiếp tục sản xuất các loại vaccin phòng bệnh tả, đậu mùa, thương hàn, đảm bảo tiêm chủng cho toàn dân các vùng tự do, vùng sau lưng địch. Các bệnh viện, trường đại học, trung học, được di chuyển vào sâu trong rừng, sơ tán phân tán vào nhà dân hoặc được xây dựng trong các hang động để không làm gián đoạn công tác cấp cứu, khám chữa bệnh, công tác đào tạo cán bộ. Các phòng bào chế vẫn tiếp tục sản xuất thuốc thông thường bằng nguyên liệu tại chỗ và các loại thuốc tê, thuốc mê góp phần đáng kể vào việc xử lý vết thương chiến tranh. Một số cơ sở tự sản xuất được bơm tiêm, kim tiêm, kìm, kẹp... Năm 1950 lần đầu tiên những lọ pênixilin được sản xuất từ phòng bào chế Trường Đại học Y khoa ở Việt Bắc đã mang lại nhiều kết quả trong việc chống nhiễm trùng các vết thương. ở chiến trường miền Nam xuất hiện phương pháp trị liệu Filatov, toa thuốc Nam căn bản góp phần to lớn vào việc giải quyết các khó khăn về thuốc. Giai đoạn 1954 – 1975 Trong 10 năm, 1954 - 1964, Ngành Y tế đã tập trung xây dựng và phát triển y tế ở nông thôn làm cho bộ mặt nông thôn ở miền Bắc thay đổi rõ rệt. Năm 1961 lần đầu tiên chúng ta sản xuất được vaccin sabin phòng bệnh bại liệt, rồi vaccin BCG để đến ngày nay chúng ta có quyền tự hào đã thanh toán được bệnh đậu mùa (1987) và bệnh bại liệt (2000). Nhưng năm 1964, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc vô cùng ác liệt. Trước tình hình đó Ngành Y tế đã xác định được con đường đi thích hợp là phải chuyển hướng và hoạt động của ngành từ thời bình sang thời chiến, làm thế nào để công việc cấp cứu, mổ xẻ được tiến hành ngay tại chỗ. Cơ sở y tế cũng nằm trong mục tiêu đánh phá của máy bay Mỹ nên phải sơ tán, phân tán về nông thôn. Phòng mổ, nhà hộ sinh phải đưa xuống hầm hào dưới mặt đất hoặc vào các hang đá. Ngành Y tế đã tăng cường cán bộ, phương tiện, đưa những kỹ thuật cơ bản về cho xã, sản xuất huyến thanh tại huyện, phát động phong trào vệ sinh yêu nước chống Mỹ trong cả nước. Miền Bắc vừa lo giải quyết các vấn đề về cấp cứu phòng không, chống chiến tranh phá hoại, vừa hết lòng chi viện cho miền Nam về cán bộ, thuốc men, trang thiết bị. Lực lượng y tế cách mạng ở miền Nam, sau một thời gian dài hoạt động bí mật,đã xuất hiện công khai sau khi Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam được thành lập. Với tinh thần tự lực tự cường, với sự chi viện của miền Bắc, mặc dầu phải chịu đựng những hy sinh, tổn thất to lớn về cán bộ và cơ sở vật chất, y tế cách mạng miền Nam ngày càng lớn mạnh và phát triển rộng khắp Thực trạng của ngành dược phẩm Việt Nam. Giai đoạn từ 1975 đến nay Bước vào thời kỳ đổi mới, Ngành Y tế phải đối phó với những tác động của nền kinh tế thị trường, từng bước tháo gỡ khó khăn để thích ứng với cơ chế thị trường, đáp ứng được mong muốn của người dân ngày càng nhiều và càng cao về chăm sóc sức khỏe đã bị giảm sút sau 30 năm chiến tranh. Do xác định được phương châm: đa dạng hoá các hoạt động của ngành, xã hội hoá công tác y tế, nên đến nay công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đã tiến được một bước dài, bao gồm một hệ thống các cơ sở y tế nhà nước, y tế tư nhân, hướng tới việc phục vụ nhân dân với số lượng nhiều hơn và chất lượng cao hơn, hiệu quả hơn và công bằng hơn. Phương pháp quản lý các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước cũng thay đổi bằng cách thu một phần viện phí của người bệnh, xây dựng hệ thống bảo hiểm y tế, cho phép mở rộng bệnh viện tư, phòng khám tư, nhà thuốc tư. Nhiều tổ chức cá nhân đứng ra thành lập quỹ hỗ trợ bệnh nhân nghèo, nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, cấp thuốc miễn phí cho người nghèo... Sáu bệnh truyền nhiễm ở trẻ em trước đây đứng đầu danh sách các bệnh có tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong cao, nay nhờ việc tiêm chủng rộng rãi chúng ta đã thanh toán được bệnh bại liệt, khống chế được bệnh uốn ván sơ sinh, ho gà, bạch hầu. Từ việc tiêm phòng sáu loại vaccin do ta tự sản xuất: viêm gan siêu vi trùng và viêm não Nhật Bản, các chương trình phòng chống bệnh sốt rét, bệnh lao, bướu cổ do thiếu Iốt, nhiễm HIV/AIDS, thanh toán bệnh phong đạt kết quả khả quan. Nhìn chung, trong quá trình hình thành và phát triển, ngành dược Việt Nam đã cố gắng khắc phục những khó khăn và trở ngại trong từng giai đoạn để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thực trạng dược phẩm Việt Nam Như đã nói ở trên, sản phẩm dược phẩm rất đa dạng, theo xuất sứ có thể chia dược phẩm thành hai loại: thuốc đông y và thuốc tân dược và đề tài này nghiên cứu về thuốc tân dược của Việt Nam. 1. Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam. Năm 2008 là một năm đầy biến động của nền kinh tế toàn cầu. “Khủng hoảng tài chính”, “giảm phát kinh tế”, “phá sản”, vv ... là những cụm từ được nhắc đến nhiều nhất trong gần 100 năm qua. Năm 2009 nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế được áp dụng nhưng nhìn chung nền kinh tế toàn cầu vẫn đang trong giai đoạn dần hồi phục. Việt Nam đã là thành viên của WTO, cho nên mặc dù Việt Nam mới hội nhập nhưng cũng đã chịu những ảnh hưởng sâu sắc. Cũng như nhiều ngành khác, các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm gặp rất nhiều khó khăn do diễn biến phức tạp của thời tiết, dịch bệnh, và việc ảnh hưởng của sự suy giảm kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia dược Việt Nam được xem là đang nằm trong giai đoạn tăng trưởng. Tình hình tiêu dùng thuốc tân dược của Việt Nam. Trong những năm gần đây, khi đời sống ngày càng được nâng cao thì người dân ngày càng gia tăng các khoản chi tiêu về dịch vụ y tế, đặc biệt là chi tiêu cho dược phẩm. Bảng 1: Tiêu dùng thuốc trong nước giai đoạn 2001 – 2008 Năm Tổng trị giá tiền thuốc sử dụng (1.000USD) Bình quân tiền thuốc đầu người (USD) 2001 472.356 6,0 2002 525.807 6,7 2003 608.699 7,6 2004 707.535 8,6 2005 817.396 9,85 2006 956.353 11,23 2007 1.136.353 13,39 2008 1.425.657 16,45 Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam Thông qua tiêu dùng thuốc trong nước như bảng trên ta có thể thấy rằng giai đoạn từ 2001-2008, tiêu thụ thuốc tân dược của Việt Nam đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 19,9%. Nếu như năm 2002 mới chỉ tăng 11,3% so với năm trước đó, thì đến năm 2008 đã tăng 25,5% so với năm 2007. Tổng doanh thu toàn thị trường năm 2008 đạt mức 1,4 tỷ USD, chiếm 1,6% GDP của cả nước. Nếu như năm 2001 việc chi tiêu cho tiền thuốc theo đầu người mới chỉ ở mức 6,0 đô la Mỹ, thì năm 2008 con số này đã lên tới 16,45 đô la Mỹ, tăng gấp gần 3 lần năm 2001. Nếu so sánh với phần thu nhập tăng thêm, thì có thể nhận thấy rằng người dân đang có xu hướng chi tiêu ngày càng nhiều hơn cho dược phẩm. Tình hình sản xuất thuốc: Trước nhu cầu sử dụng dược phẩm ngày càng gia tăng đã làm cho ngành dược phẩm đẩy mạnh sản xuất. Trong giai đoạn từ 2001 – 2008, công nghiệp dược nội địa phát triển vững chắc cả về lượng và chất, sản lượng thuốc tân dược trong nước cũng đã có tăng trưởng vượt bậc. Sản lượng thuốc nội địa đã tăng từ 170,390 triệu đô la Mỹ ( 2001 ) lên đến 715,435 triệu đô la Mỹ chiếm khoảng 50,18% thị trường dược phẩm năm 2008. Hiện nay, sản xuất dược trong nước đã đảm bảo đáp ứng được khoảng 50,2% nhu cầu trong nước Hoạt động sản xuất thuốc trong nước đã bắt đầu có nhiều tiến triển. Các cơ sở sản xuất kinh doanh thuốc đã có thể dần dần bắt kịp với nhu cầu tiêu dùng dược phẩm trong nước. Đồng thời tốc độ tăng trưởng sản xuất và kinh doanh cũng tăng lên từ 2001 đến 2007 (126,34%). Do khủng hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra nên năm 2008 tốc độ tăng trưởng giảm so với năm 2007 còn 119,11%. Vượt qua khủng hoảng, chắc rằng với tốc độ tăng trưởng như vậy trong tương lai dược phẩm Việt Nam sẽ đạt được mức tăng trưởng song hành với mức tăng về nhu cầu sử dụng dược phẩm của người dân. Bên cạnh việc tăng trưởng về sản lượng sản xuất, các doanh nghiệp dược cũng đẩy mạnh việc đa dạng hóa các dòng sản phẩm. Trong 3 năm trở lại đây, mỗi năm có khoảng 2.000 loại thuốc mới đăng ký và được cấp phép đăng ký lưu hành, trong khi vào thời điểm năm 2003 mỗi năm chỉ có khoảng 700 sản phẩm mới được đăng ký mỗi năm. Hiện nay cả nước có 171 doanh nghiệp sản xuất dược phẩm, trong đó 92 doanh nghiệp sản xuất tân dược, còn lại là các doanh nghiệp về đông dược. Ngoài ra còn có 6 doanh nghiệp sản xuất vaccine và sinh phẩm y tế. Trong thời gian vừa qua, đa số doanh nghiệp dược đã tích lũy được nguồn vốn khá lớn từ việc gia tăng sản lượng tiêu thụ và thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài, nhờ vậy mà các doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng để tiếp tục đầu tư nâng cao năng lực sản xuất. Chủng loại và chất lượng sản phẩm. Thuốc sản xuất trong nước đang cố gắng thoát ra khỏi những danh mục hoạt chất generic, hướng tới những nhóm thuốc đang tăng tỷ lệ sử dụng, thuốc chuyên khoa (như : thuốc tim mạch, tiểu đường, thần kinh, nội tiết, ...). Các dạng bào chế cũng được phát triển hơn (như : thuốc tác dụng kéo dài, thuốc tiêm đông khô, thuốc sủi bọt, ...). Chất lượng thuốc trong nước đã được cải thiện rõ rệt. Theo thống kê của Bộ y tế, đến cuối năm 2009 số nhà máy sản xuất dược phẩm trong nước đạt tiêu chuẩn GMP (Good Manufacturing Practice – Thực hành tốt sản xuất thuốc) là 92 nhà máy. Thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ bắt đầu chú trọng đến các tiêu chuẩn này trong vài ba năm gần đây, nhưng cũng đang nỗ lực để gia tăng sức cạnh tranh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dược nội địa. Ngoài thực hiện theo tiêu chuẩn GMP, chất lượng dược phẩm còn được quản lý theo ISO 9001:2000 (hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về quản lý), ISO 14000:2004 (hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về môi trường),… Mặc dù đang trong giai đoạn phát triển, nhưng dược phẩm Việt Nam vẫn phải phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Do ngành công nghiệp hóa dược của Việt Nam còn hạn chế, nên có đến 90% nguyên liệu cho sản xuất thuốc tân dược phải nhập khẩu. Với việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, sản xuất dược nội địa có thể sẽ gặp nhiều rủi ro như rủi ro về giá cả nguyên liệu, rủi ro về chất lượng nguyên liệu… Hệ thống phân phối sản phẩm Dược phẩm tiếp cận người tiêu dùng qua hệ thống điều trị và hệ thống phân phối thương mại Hệ thống điều trị bao gồm các bệnh viện, các cơ sở điều trị tại các cấp. Tổng số cơ sở khám chữa bệnh tại Việt Nam năm 2007 là 13.438 đơn vị - Đây là kênh phân phối mà hầu hết các công ty dược luôn mong muốn và quan tâm phát triển do số lượng tiêu thụ rất lớn. Các doanh nghiệp dược tiếp cận và mở rộng thị trường thông qua hình thức chi hoa hồng hoặc chiết khấu cho các bác sĩ và dược sĩ của các bệnh viện. Bảng 2: Các cơ sở trong hệ thống điều trị Năm 2006 2007 Bệnh viện 903 956 Phòng khám đa khoa khu vực 847 829 Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng 51 51 Trạm y tế xã, phường 10672 10851 Trạm y tế của cơ quan, xí nghiệp 710 710 Các cơ sở khác 49 41 Tổng 13232 13438 Nguồn: Bộ Y tế Hệ thống thương mại: bao gồm các chi nhánh, đại lý, nhà phân phối và các nhà thuốc. Hiện nay các doanh nghiệp dược trong nước đang nỗ lực xây dựng kênh phân phối thương mại để giảm bớt sự phụ thuộc vào kênh phân phối điều trị vốn đang bị cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Hệ thống phân phối này chủ yếu đang là sân chơi của các nhà phân phối nội địa trong khi chỉ có ba nhà phân phối nước ngoài ở thị trường là Zeullig Pharma, Diethelm, Megaproduct. Bảng 3: Cơ cấu hệ thống phân phối thương mại. Năm 2005 2006 2007 Công ty thương mại 680 800 800 Công ty xuất nhập khẩu 79 89 90 Công ty sản xuất 174 178 180 Nhà cung ứng nước ngoài 270 320 370 Các điểm bán lẻ 29.541 39.319 39.016 Nguồn: Bộ Y tế Với kênh phân phối thương mại, thương hiệu sản phẩm được người tiêu dùng nhận diện tốt hơn nhất là trong điều kiện thị trường của Việt Nam khi mà sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước chủ yếu là thuốc phổ thông (generic). Hiện nay, Việt Nam có rất ít các nhà thuốc, đại lý đạt tiêu chuẩn GPP ( Thực hành tốt phân phối thuốc ). R&D nội địa chưa phát triển Công nghiệp hóa dược của Việt Nam còn khá yếu với công nghệ lạc hậu do ngành công nghiệp hóa dược chưa thực sự được chú trọng đầu tư. Dược Việt Nam mới chỉ tập trung vào công nghiệp bào chế, trùng lắp trong dòng sản phẩm, chưa chú trọng phát triển nguồn dược liệu, ít chú ý vào các loại thuốc chuyên khoa đặc trị. Hiện tại, dược phẩm Việt Nam mới chỉ đang ở giai đoạn bậc 2.5 trên thang đo tối đa bậc 5 về tiến bộ công nghệ. Ở giai đoạn này, hầu như thuốc sản xuất là loại generic (các thuốc đã hết bản quyền công nghệ gốc). Với việc sản xuất hàng generic, có thể cho rằng dược nước ta nghiên cứu và sản xuất sản phẩm mới chỉ dừng lại ở mức ‘R&C’ (nghiên cứu và sao chép). Thống kê chi phí của một số doanh nghiệp dược đầu ngành dưới đây đã phản ánh thực tế những hạn chế về R&D dược phẩm nói chung. Bảng 4: Chi phí cho R&D của một số doanh nghiệp Công ty DHG IMP DCL % chi phí nghiên cứu/doanh thu 1% 5% 2% Số nhân viên nghiên cứu 33 25 25 Nguồn: Tạp chí thương mại Kết quả hoạt động xuất – nhập khẩu dược phẩm Việt Nam Cùng với tốc độ phát triển kinh tế của cả nước, dược phẩm Việt nam đã không ngừng phát triển, đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả hoạt động và xây dựng thương hiệu trên thị trường. Lượng thuốc sản xuất trong nước đã đáp ứng được 50.2% nhu cầu tiêu dùng (năm 2009) và dành cho xuất khẩu sang các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù doanh thu xuất khẩu thuốc của doanh nghiệp dược nước ta còn nhỏ nhưng đây là nền tảng để thúc đẩy phát triển ngành dược và tiến tới xây dựng thương hiệu dược phẩm của Việt Nam. Về xuất khẩu:  Theo Cục quản lý dược Việt Nam, xuất khẩu dược phẩm trong những năm gần đây cũng có nhiều khởi sắc, tổng giá trị xuất khẩu năm 2007 đạt 22,1 triệu USD, tăng 22,1% so với năm 2006 và năm 2008 trị giá tiền thuốc xuất khẩu đạt 33,32 triệu USD thấp hơn 17,1% so với kế hoạch năm 2008 (39,0 triệu) do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Tuy nhiên, so với giá trị sản xuất thuốc trong nước, con số này còn quá khiêm tốn. Xuất khẩu dược phẩm năm 2008 chỉ mới đạt tỷ trọng 5,6% so với tổng giá trị dược phẩm sản xuất trong nước. Các doanh nghiệp đã cố gắng duy trì củng cố và phát triển các thị trường xuất khẩu truyền thống như khu vực Châu Âu: Nga, Ukraina, Moldova, một số nước Đông Âu cũ; khu vực Châu Á: Lào, Campuchia, Myanma, Malayxia; khu vực Châu Phi: Congo, Nigeria... Công ty Dược Hậu Giang cho biết, mấy năm trở lại đây công ty này đã xuất khẩu được một số đơn hàng sang Nga, Campuchia, tuy nhiên số lượng xuất khẩu còn rất nhỏ. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của công ty là Kim Tiền Thảo, thuốc kháng sinh, một số loại vitamin tổng hợp và một số mặt hàng khác theo yêu cầu của đối tác. Các đối tác của công ty chủ yếu là các Việt kiều, mua hàng của công ty rồi bán các nước sở tại.   Hình 1: Biểu đồ xu hướng về kim ngạch xuất khẩu dược phẩm Việt Nam. Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam Theo biểu đồ trên có thể thấy rằng trong những năm gần đây kim ngạch dược phẩm được xuất khẩu ra nước ngoài đang có xu hướng tăng lên. Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2006, kim ngach xuất khẩu có tăng nhưng mức tăng không cao: năm 2005 tăng 1.227 triệu USD so với năm 2004 ( 7.47% ), và năm 2006 tăng 1.671 triệu USD so với năm 2005 ( 9.46% ). Nhưng đến năm 2007, kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh 22.1 triệu USD và tăng vọt vào năm 2008 ( tăng 12.22 triệu USD so với năm 2007 ( 57.92% ) . Nguyên nhân dẫn đến kết quả này có thể là do việc Việt Nam gia nhập WTO đã tạo điều kiện cho dược phẩm Việt Nam được tiếp cận với các thị trường lớn, nhiều tiềm năng, với điều kiện cạnh tranh công bằng hơn. Việc xuất khẩu các mặt hàng dược phẩm ra thị trường thế giới cho thấy chất lượng sản phẩm dược Việt Nam ngày càng được nâng cao và bước đầu được thị trường thế giới chấp nhận. Về nhập khẩu Theo Cục quản lý dược Việt Nam, năm 2008 Việt Nam đã nhập khẩu 923,288 triệu USD trong đó nguyên liệu là 163,536 triệu USD, thành phẩm là 759,752 triệu USD tăng 13,8% so với năm 2007. Do ngành dược Việt Nam chủ yếu sản xuất thuốc generic nên vẫn còn nhiều loại thuốc chuyên khoa đặc trị, thuốc mới vẫn phải nhập khẩu, đặc biệt là thuốc hiếm nhập khẩu cho nhu cầu điều trị tại bệnh viện. Thị trường dược Việt Nam với dân số đông và năng lực sản xuất nội địa đang còn nhiều hạn chế nên đang là một thị trường rất hấp dẫn đối với các công ty dược nước ngoài. Những tập đoàn dược có tên tuổi lớn như Sanofi-Aventis, GSK, Servier, Pfizer, Novatis Group … đã xuất hiện tại Việt Nam và hoàn toàn chiếm lĩnh thị trường trong nước cho phân khúc thuốc đặc trị cũng như đang thâm nhập sâu hơn nữa phân khúc thuốc phổ thông. Hầu hết các tập đoàn dược chủ yếu đang hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức Văn phòng đại diện và ủy quyền cho các công ty dược trong nước để nhập khẩu hàng, sử dụng chủ yếu các nhà phân phối nước ngoài để phân phối đến các nhà thuốc bán lẻ. Theo cam kết gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam, từ 1/9/2009, các công ty dược phẩm nước ngoài có quyền mở chi nhánh tại Việt Nam và được tham gia nhập khẩu trực tiếp dược phẩm. Thêm vào đó, Việt Nam đang tiếp tục phải giảm thuế cho sản phẩm y tế là 5% và 2,5% cho thuốc nhập khẩu trong vòng 5 năm sau khi gia nhập WTO. Như vậy, thị trường dược đang mở rộng cửa cho các công ty nước ngoài, đặc biệt là trong lĩch vực nhập khẩu và hậu cần (logistic). Trước đây các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực dược vào Việt Nam đầu tư nhà máy sản xuất thì nay có khoảng 70% - 80% doanh nghiệp FDI này chuyển dần sang lĩnh vực lưu thông phân phối dược phẩm.      Theo dự báo của BMI ( công ty Business Monitor International Ltd), vào năm 2013, kim ngạch nhập khẩu thuốc sẽ vượt 1,37 tỷ USD trong khi xuất khẩu dược phẩm chỉ đạt 216 triệu USD. Hình 2: 10 quốc gia xuất khẩu dược phẩm lớn nhất vào Việt Nam. Nguồn: Tạp chí thương mại Các tập đoàn nước ngoài gia tăng thị phần tại Việt Nam nhờ vào lợi thế về tài chính và sản phẩm: Nguồn lực tài chính mạnh đã cho phép các tập đoàn này chi hoa hồng ở mức cao cho các bệnh viện và nhà phân phối, cũng như tăng cường tài trợ cho các trường y – dược, các cuộc hội thảo khoa học; Các sản phẩm nước ngoài hầu hết có giá trị cao và đa dạng về chủng loại, hiện diện ở tất cả các phân khúc từ phổ thông đến đặc trị, trong khi thuốc nội chủ yếu chỉ bao gồm các loại thuốc thông thường. Phân tích năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam Mức doanh thu của dược phẩm Việt Nam qua các năm Trong những năm gần đây, công nghiệp dược nội địa phát triển vượt bậc cả về chất và lượng. Các sản phẩm trong nước đã được người tiêu dùng quan tâm và sử dụng với số lượng khá lớn. Với dân số hơn 86 triệu người, Việt Nam là một thị trường rộng lớn nhiều tiềm năng. Mỗi năm đem lại cho ngành dược một lượng doanh thu khá lớn. Hình 3: Tăng trưởng tiêu dùng và sản xuất thuốc. Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Y tế, tổng giá trị tiền thuốc sử dụng tăng mạnh trong năm 2008: tổng giá trị khoảng 1.425 triệu USD tăng 25,4% so với năm 2007. Để đáp ứng nhu cầu đó, thuốc nội địa cũng ngày càng gia tăng sản xuất: thuốc sản xuất trong nước năm 2008 đạt giá trị 715.435 tăng 25,4% so với năm 2007. Bên cạnh việc tăng trưởng về sản lượng sản xuất, các doanh nghiệp dược cũng đẩy mạnh việc đa dạng hóa các dòng sản phẩm. Trong 3 năm trở lại đây, mỗi năm có khoảng 2.000 loại thuốc mới đăng ký và được cấp phép đăng ký lưu hành, trong khi vào thời điểm năm 2003 mỗi năm chỉ có khoảng 700 sản phẩm mới được đăng ký mỗi năm. Thị phần dược phẩm Việt Nam Thị trường dược Việt Nam với dân số đông và năng lực sản xuất nội địa đang còn nhiều hạn chế nên đang là một thị trường rất hấp dẫn với dược phẩm nước ngoài. Hình 4: doanh thu của một số công ty dược ở Việt Nam Nguồn: Tạp chí thương mại. Theo thống kê trên, doanh thu lớn chủ yếu thuộc về các tập đoàn nước ngoài. Đây là điều tất yếu vì Việt Nam là một thị trường giàu tiềm năng và vẫn có thể tiếp tục khai thác được, đồng thời dược phẩm trong nước còn chưa có ._.nh vì thế việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ là một vấn đề nan giải, rất dễ bị vi phạm. Việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ là một khó khăn khi mà ngành công nghiệp dược Việt Nam đang chủ yếu sản xuất các loại thuốc generic. Việc chi trả cho các bằng phát minh của nước ngoài để được phép sản xuất là nằm ngoài tầm với của các doanh nghiệp dược Việt Nam. Các cơ quan quản lý Nhà nước phải đối mặt với các tình huống vi phạm phức tạp hơn. Kết luận chương II Như vậy, trong những năm qua, dược phẩm Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu đáng kể trong quá trình hoạt động. Chúng ta đã có thể từng bước cung cấp cho thị trường những loại dược phẩm có giá trị, cung ứng tốt cho nhu cầu trong nước và bước đầu xuất khẩu dược phẩm. Đồng thời việc nghiên cứu và sản xuất một số loại nguyên liệu cung ứng cho nhu cầu sản xuất trong nước đã làm cho việc sản xuất dược phẩm nước ta trở nên đa dạng hơn. Dược nội địa không còn phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu mà thay vào đó đã từng bước sản xuất nguyên liệu và thành phẩm tân dược, bước đầu nâng cao năng lực cạnh tranh của thuốc trong nước. Bên cạnh những gì chúng ta đã đạt được trong những năm qua thì dược Việt Nam vẫn mắc phải những hạn chế như việc đầu tư không hiệu quả, cơ cấu sản xuất sản phẩm chưa hợp lý, các mặt hàng hầu như là sản phẩm thông thường…Các sản phẩm dược nội địa đã chưa thực sự chuyển đổi để có thể đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Với những điểm còn chưa hoàn thiện đó, chắc chắn dược Việt Nam phải từng bước hoàn thiện mình để tồn tại và phát triển. Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta sẽ nhận được rất nhiều cơ hội và thách thức. Trước hết chúng ta sẽ có được những lợi ích từ việc mở rộng thị trường, nhập khẩu nguyên liệu đầu vào, máy móc thiết bị, kinh nghiệm quản lý…Tất cả những lợi ích này giúp cho nền sản xuất trong nước ngày càng trưởng thành hơn. Đây cũng là cơ hội để tiếp cận với các nền sản xuất tiến tiến hiện đại trên thế giới, từng bước giảm bớt sự phụ thuộc về các loại thuốc đặc trị của nước ngoài. Đặc biệt để có thể đạt được mục tiêu phát triển ngành dược trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn thì dược trong nước cần phải nắm chắc cơ hội này và biến chúng trở thành đà bật để tiến một nấc thang nữa của sự cạnh tranh. Song hành với những cơ hội, các nhà sản xuất dược Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt nhất là khi hàng rào thuế quan được rỡ bỏ, giá các loại sản phẩm sẽ theo xu hướng giảm dần. Ngoài ra chúng ta còn phải đối mặt với sự cạnh tranh trực diện với các nhà sản xuất trên thế giới vốn có sức mạnh về tài chính, công nghệ, kinh nghiệm…Các doanh nghiệp sẽ phải chịu sức ép từ nhiều phía. Mặc dù Nhà nước đã đưa ra một số định hướng cho dược nội địa trong thời kỳ hội nhập nhưng vấn đề sống còn là dược phẩm trong nước có biết tận dụng cơ hội và khắc phục những thách thức đó như thế nào. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM Phương hướng, quan điểm, mục tiêu, dự báo của dược phẩm Việt Nam trong thời gian tới Phương hướng, quan điểm, mục tiêu của dược phẩm Việt Nam Bộ Y tế mà cụ thể là Cục quản lý dược Việt Nam đã xác định rõ phát triển ngành dược thành một ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập trong khu vực và thế giới nhằm đảm bảo cung ứng đủ thuốc thường xuyên và có chất lượng, bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý và an toàn, phục vụ sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Công nghệ hóa dược tại Việt Nam còn khá yếu với công nghệ lạc hậu. Chính phủ Việt Nam đã có kế hoạch phát triển ngành công nghệ hóa dược với mục tiêu đáp ứng 40% nguyên liệu kháng sinh phục vụ cho sản xuất trong nước vào năm 2015. Dược phẩm sẽ tập trung phát triển công nghiệp bào chế thuốc, công nghiệp hóa dược, công nghiệp chế biến và sản xuất thuốc có nguồn gốc dược liệu, khuyến khích các tổ chức cá nhân đầu tư vào các hoạt động sản xuất, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sản xuất thuốc tiên tiến; tổ chức sản xuất bao bì dược phẩm trong nước để đến năm 2020 đáp ứng cơ bản nhu cầu sử dụng bao bì trong nước; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao và công nghệ thông tin trong các họat động phát triển công nghiệp dược Việt Nam. Những dự báo trong thời gian tới Dược phẩm chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó dân số và thu nhập của người dân là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng của ngành và tiền thuốc bình quân đầu người. Theo Tổng cục Thống kê, hiện nay dân số Việt Nam có trên 86 triệu người và chắc chắn nhu cầu chữa bệnh và phòng bệnh của người dân sẽ tăng lên. Sự gia tăng về dân số cũng như nhu cầu sẽ khiến Việt Nam trở thành một thị trường giàu tiềm năng. Mặt khác cùng với sự phát triển của xã hội, trình độ dân trí được nâng cao kéo theo đó là sự hiểu biết về các mặt hàng dược phẩm cũng được nâng lên một cách nhanh chóng. Mặc dù, đơn thuốc do bác sĩ kê đơn tuy nhiên khi trình độ dân trí được nâng lên người tiêu dùng đã có thể nhận thức được đầy đủ về các loại dược phẩm. Như vậy, Việt Nam có thể coi là một thị trường đầy tiềm năng đối với hàng hóa nói chung và nhu cầu dược phẩm nói riêng. Trong thời gian tới khi đời sống của người dân được nâng cao thì nhu cầu chăm sóc sức khỏe cũng ngày càng được quan tâm hơn. Với nhu cầu sử dụng dược phẩm như vậy trên quy mô dân số tương đối lớn dược nội địa sẽ phải tìm cách đáp ứng được nhu cầu ngày một tăng này. Sự gia tăng về tiền thuốc bình quân đầu người cũng có nghĩa là nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu về dược phẩm của người dân cũng ngày một lớn. Với một thị trường tương đối lớn và giàu tiềm năng như vậy, dược nội địa cũng phải chú ý đến sự xâm chiếm thị trường từ bên ngoài. Dược nước ngoài luôn biết tận dụng thời cơ lấn sâu vào thị trường đang lên. Nhất là đối với dược phẩm, một mặt hàng mà bất cứ giai đoạn nào, thời kỳ nào con người cũng cần đến. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam Việc phát triển công nghiệp dược nội địa luôn luôn là mối quan tâm của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Các nước đang phát triển coi việc phát triển công nghiệp bào chế là vũ khí chống lại sự độc quyền của các công ty đa quốc gia dược phẩm khổng lồ nhằm bảo vệ sức khỏe nhân dân và đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, việc xác định bước đi đúng và trọng điểm đầu tư là yếu tố tối quan trọng quyết định sự thành bại. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm được thể hiện trên các tiêu chí: chất lượng, giá cả, các dịch vụ đi kèm…Để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong nước cũng như hoàn thành được nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đề tài này xin đề xuất một số giải pháp sau: Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm Thứ nhất: dược phẩm nội địa phải tận dụng lợi thế trong nước có đó là sự hiểu biết về cơ địa của người dân Việt Nam. Mặc dù các sản phẩm nước ngoài có ưu thế rất lớn về chất lượng sản phẩm, tuy nhiên các loại dược phẩm này lại khó điều chỉnh cho hợp với cơ địa của người Việt Nam. Chính vì vậy, các nhà sản xuất cần nhanh chóng sản xuất và cải tiến các loại thuốc phù hợp với người Việt Nam. Để có thể thực hiện được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động hơn trong việc điều tra đặc điểm nhu cầu cũng như mặt sinh lý của người dân. Đồng thời việc đầu tư cho nghiên cứu sản phẩm cũng là điều mà các doanh nghiệp sản xuất dược cần chú ý. Hiện nay công tác R&D của các doanh nghiệp trong nước còn chưa thực sực được chú trọng. Chính vì vậy đây là một nhiệm vụ cấp thiết đối với các doanh nghiệp nếu như muốn cạnh tranh được trên thị trường. Thứ hai: đưa ngành dược Việt Nam trở thành một ngành công nghiệp thực sự, tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy thì cần phải tiến hành quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ngành dược, mà yếu tố vốn sẽ là yếu tố quyết định. Các doanh nghiệp cần phải tăng cường tích lũy, đảm bảo nguồn vốn đầu tư cho các trang thiết bị kỹ thuật cùng với việc hoàn thiện và nâng cao trình độ sản xuất của dược phẩm trong nước. Như đã nói ở trên, trang thiết bị kỹ thuật luôn đóng một vai trò rất quan trọng đối với dược phẩm nhất là khi sự cạnh tranh ngày càng mạnh. Việc dược nội địa sử dụng nguồn vốn của mình để nâng cao cơ sở kỹ thuật sẽ là điều hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp cần phải đầu tư theo chiều sâu, từ đó tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Sử dụng nguồn vốn của mình để có thể tập trung cho một dòng sản phẩm cụ thể có chất lượng, và từng bước chiếm lĩnh thị trường. Vậy nguồn vốn đó ở đâu ra? Trước hết chính bản thân doanh nghiệp phải có ý thức sử dụng và tích lũy vốn của mình tránh thất thoát lãng phí. Muốn tồn tại và phát triển thì chúng ta cần phải biết dựa vào chính nguồn lực của bản thân doanh nghiệp. Nếu như các nhà sản xuất có thể giải quyết được việc sử dụng và tích lũy vốn đầu tư cho sản xuất, cơ cấu đầu tư hợp lý chắc chắn có thể khắc phục được tình trạng lạc hậu về trang thiết bị kỹ thuật như hiện nay. Thứ ba: Cần phải giải quyết vấn đề nguồn nhân lực. Con người luôn là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp, nhất là một ngành nghề đòi hỏi hàm lượng chất xám và công nghệ cao như ngành sản xuất dược phẩm. Công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có thể tiếp thu một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất công nghệ kỹ thuật hiện đại trên thế giới cần phải được tập trung giải quyết. Khi có một đội ngũ nhân lực về chất lượng sẽ tạo đà cho việc sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Trong đó cần chú ý đến các bộ phận sau: + Cán bộ quản lý: họ chính là người quyết định hướng đi cho doanh nghiệp. Toàn bộ những giải pháp phát triển doanh nghiệp có được thực hiện thành công hay không là do bộ phận này quyết định. Muốn doanh nghiệp phát triển được thì người lãnh đạo doanh nghiệp phải nắm được xu hướng của thị trường, từ đó đưa ra những hướng đi cụ thể và đúng đắn. Vì vậy, cần tạo điều kiện cho các cán bộ quản lý trẻ, có năng lực, có sáng tạo thực hiện hoạt động quản lý kinh doanh. + Lực lượng trong sản xuất: là những người giữ vai trò quyết định tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt, độ ổn định cao hay không. Việc sản xuất ra một mặt hàng sản phẩm không phải đơn giản. Từ công thức bào chế đến thành phẩm phải trải qua một giai đoạn khá dài. Người thực hiện việc sản xuất đều phải là những người được đào tạo trong ngành dược. Bên cạnh đó dược phẩm là một mặt hàng mà tác động trực tiếp đến sức khỏe con người. Chính vì thế người sản xuất phải được đào tạo và củng cố về kiến thức để có thể đáp ứng được yêu cầu của sản xuất. Các doanh nghiệp nên thường xuyên giúp cho những người công nhân trực tiếp sản xuất nâng cao trình độ tay nghề có như vậy họ mới có thể đáp ứng được yêu cầu sản xuất từ đó làm tăng chất lượng dược phẩm làm ra. Đặc biệt, để có thể có đội ngũ sản xuất có chất lượng cao, ngoài công tác đào tạo còn phải có chế độ kiểm tra giám sát chặt chẽ đội ngũ lao động, đưa họ vào nề nếp hoạt động sản xuất theo một trật tự đảm bảo các quy trình chất lượng. + Đối với các cán bộ nghiên cứu: đây sẽ là đội ngũ chính ảnh hưởng tới sự phát triển của sản phẩm. Việc nghiên cứu sản phẩm mới, các nhân tố cải thiện chất lượng sản phẩm sẽ giúp sản phẩm đứng vững được trên thị trường. Nhất là khi chúng ta gia nhập WTO, dược phẩm nước ngoài tràn vào thị trường Việt Nam, sự cạnh tranh sẽ ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Yếu tố quyết định trong ngành dược phẩm đó chính là công thức bào chế điều này sẽ do dược sĩ đảm nhận. Dược nội địa muốn phát triển được thì cần có đội ngũ dược sĩ có trình độ cao. Chính vì vậy mà việc đầu tư cho nguồn nhân lực có trình độ cao chính là yếu tố quyết định tương lai của dược trong nước. Một yếu tố quan trọng mà dược phẩm cần phải chú ý đó là chính sách đãi ngộ nhân tài. Các doanh nghiệp dược nước ngoài thường có chế độ ưu đãi hết sức hấp dẫn, chính vì vậy mà hầu hết nguồn nhân lực có chất lượng cao thường rơi vào tay các công ty dược phẩm nước ngoài. Ngay từ bây giờ dược trong nước cần có chiến lược cụ thể cho việc thu hút cũng như chế độ đãi ngộ cho bộ phận nhân lực có chất lượng cao này. Điều này chắc chắn sẽ giúp dược nội địa tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao và có tính cạnh tranh cao trên thị trường. Thứ tư: đầu tư đúng mức cho việc nghiên cứu sản xuất các loại thuốc đặc trị để có thể cạnh tranh với các loại thuốc nhập khẩu hiện nay. Theo đánh giá của WHO, hiện nay, dược Việt Nam đang ở cấp độ 2.5 – 3 theo thang phân loại của WHO. Chúng ta có thể tự sản xuất ra được một số dược phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và cũng đã có xuất khẩu ra nước ngoài, tuy nhiên phần lớn các loại thuốc đặc trị vẫn phải nhập từ nước ngoài. Như vậy, chúng ta cần khắc phục tình trạng này bằng cách cần có chiến lược đầu tư cho công tác nghiên cứu các loại thuốc đặc trị, từng bước thay thế các loại thuốc nhập khẩu đang chiếm lĩnh thị trường hiện nay. Tuy nhiên đây là một công việc hết sức khó khăn. Các hãng dược phẩm lớn trên thế giới để có được một công thức bào chế dược phẩm, họ không chỉ mất một thời gian khá dài mà còn phải mất những khoản chi phí lớn. Vì vậy với năng lực cạnh tranh hiện có của dược phẩm Việt Nam, chúng ta cần phải có những chiến lược lâu dài, từng bước một thì mới có thể đạt được mục đích của mình. Với khả năng trình độ công nghệ, kỹ thuật như hiện tại, chúng ta có thể hoàn thiện và cải tiến các sản phẩm đặc trị để phù hợp với cơ thể của người Việt Nam. Một số giải pháp tập trung đầu tư vào công tác phát triển cơ cấu sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm: - Nghiên cứu thị trường ngoài nước và trong nước để phát triển cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của thị trường. - Tập trung nghiên cứu các dạng bào chế đặc biệt, công nghệ bào chế cao, các hoạt chất mới phục vụ chuyên khoa đặc trị. - Khắc phục quan điểm phát triển sản phẩm dựa trên các tiêu chí: Lợi nhuận cao, đầu tư ít, khả năng quay vòng vốn nhanh, vòng đời sản phẩm ngắn, đăng ký chờ, đăng ký “giành chỗ”. - Xây dựng cơ cấu mặt hàng mới để phong phú hoá sản phẩm, trong một cơ chế thông thoáng của quản lý nhà nước về đăng ký thuốc. Nếu như các doanh nghiệp thực hiện tốt các giải pháp trên thì chắc chắn Việt Nam có thể đáp ứng được nhu cầu về các loại thuốc đặc trị của người dân. Thứ năm: đẩy mạnh quá trình hợp tác quốc tế thông qua việc liên kết với các hãng dược phẩm trên thế giới để từ đó có thể nâng cao chất lượng sản phẩm trong nước. Đồng thời chúng ta còn có thể tận dụng cơ hội này học hỏi tiếp nhận những kiến thức khoa học công nghệ kỹ thuật, hoạt động quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài. Với những giải pháp về chất lượng sản phẩm nêu ở trên, việc thực hiện ban đầu sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với nền kỹ thuật sản xuất trong nước còn phát triển ở trình độ thấp như hiện nay. Tuy nhiên, nếu dược phẩm nội địa biết tận dụng những cơ hội và thế mạnh của mình chắc chắn sản phẩm Việt Nam có thể vươn lên ở mức độ cạnh tranh cao hơn. Giải pháp về giá của sản phẩm Việc gia nhập WTO làm biểu thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu sẽ giảm xuống làm cho giá của các mặt hàng dược phẩm giảm xuống. Hay nói cách khác sự cạnh tranh về giá cả sẽ diến ra hết sức khốc liệt. Vậy dược phẩm Việt Nam phải làm gì để có thể cạnh tranh trên thị trường dược phẩm trong thời gian tới? Liên kết để giảm chi phí: để có thể đạt được mục tiêu là thuốc trong nước đáp ứng được nhu cầu dược phẩm trong nước, dược trong nước để cạnh tranh vẫn phải thực hiện biện pháp giảm thiểu chi phí cùng với việc nâng cao chất lượng thuốc trong nước. Có nhiều biện pháp để giảm thiểu chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất dược trong nước có thể thực hiện “ chiến lược liên minh giữa các đối tác không cạnh tranh ”. Hiện nay, do nhu cầu trong nước ngày càng tăng nên doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô của mình để đáp ứng nhu cầu thị trường. Các doanh nghiệp sản xuất tân dược trong nước có thể ký kết thỏa thuận liên ngành, liên hệ với các nhà cung cấp ( nguyên liệu, máy móc ) trong và ngoài nước để có thể giảm bớt các chi phí đầu vào không cần thiết. Làm như vậy có thể giúp cho các doanh nghiệp có thể giảm bớt áp lực từ phía nhà cung cấp, tạo một nguồn cung cấp đầu vào ổn định và có chất lượng. Việc liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau có thể giúp cho dược phẩm Việt Nam tập trung sức mạnh và đủ sức cạnh tranh trên thị trường dược phẩm. Tận dụng lợi thế cạnh tranh: Muốn hạ giá thành sản phẩm thì cần tập trung phát triển những lĩnh vực mà ta có lợi thế cạnh tranh hoặc có khả năng cạnh tranh cao nhất để tạo hiệu quả kinh tế, trên cơ sở đó cân đối nguyên liệu tốt để sản phẩm trong nước. Do đặc điểm khí hậu và thời tiết nước ta rất thuận lợi cho sự phát triển của các loài thực vật, trong số đó có nhữn loại được sử dụng làm thuốc. Chính vì thế chúng ta cần có những biện pháp để có thể tận dụng tối đa nguồn dược liệu trong thiên nhiên. Đây sẽ là nguồn nguyên liệu đầu vào tương đối tốt giúp cho việc sản xuất dược có thể giảm chi phí khi nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Việc khuyến khích sản xuất thuốc có nguồn gốc từ dược liệu trong nước đặc biệt là việc quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu làm thuốc là nhiệm vụ hết sức quan trọng của dược phẩm trong nước trong thời gian tới. Để đáp ứng được nhu cầu sản xuất dược phẩm trong nước thì khối lượng dược liệu phải đủ lớn. Vì vậy mà Việt Nam cần phải có biện pháp quy hoạch vùng nguyên liệu thật cụ thể và với quy mô lớn. Việc quy hoạch vùng nguyên liệu chắc chắn sẽ phải thực hiện trong thời gian tương đối dài. Đi liền với việc trồng các loại dược liệu, các doanh nghiệp cần kết hợp với các viện nghiên cứu không ngừng tìm hiểu và nghiên cứu mở rộng danh mục các loại cây thuốc có thể áp dụng cho sản xuất. Các loại dược liệu này sẽ đóng góp rất lớn cho sự phát triển của sản xuất dược phẩm. Như vậy để có thể thực hiện được việc quy hoạch các vùng nguyên liệu cần phải có sự đóng góp, chung sức của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Có như vậy thì ngành sản xuất dược phẩm trong nước sẽ có được một sự hậu thuẫn quan trọng về nguyên liệu để phát triển. Tận dụng tối đa cơ hội của việc gia nhập WTO: đó chính là việc khai thác nguồn nguyên liệu đầu vào có giá thấp, máy móc thiết bị được phép bán tại Việt Nam. Các nhà sản xuất trong nước nên tận dụng cơ hội này để có thể sản xuất với chi phí đầu vào thấp. Từ đó các sản phẩm trong nước có thể cạnh tranh về giá các sản phẩm trên thị trường. Một số giải pháp khác Các doanh nghiệp phải giải quyết được vấn đề thông tin thị trường dược phẩm trên thế giới và những luật lệ nguyên tắc của WTO. Khi tham gia vào bất kể tổ chức kinh tế chính trị nào thì bao giờ chúng ta cũng cần phải hiểu rõ môi trường đó như thế nào. Điều này phụ thuộc vào nguồn thông tin mà chúng ta có thể nắm giữ. Chính vì thế yếu tố thông tin cũng đóng góp một phần quyết định trong chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc thu thập thông tin về các loại sản phẩm, về giá cả có thể giúp doanh nghiệp xác định được những thời cơ và trở ngại trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm, quy trình sản xuất luôn phải tuân thủ theo những quy định của Bộ Y tế như GMP,GSP…Việc nắm vững các quy định, yêu cầu đòi hỏi của trong nước và quốc tế về chất lượng sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể hoàn thiện, nhanh chóng bổ sung cho phù hợp. Để có thể tiến nhanh hơn trên bậc thang cạnh tranh, các doanh nghiệp giờ đây phải làm chủ thông tin và sử dụng thông tin một cách hiệu quả nhất. Chuẩn bị về việc nghiên cứu thị trường: đây là nhiệm vụ dự báo thị trường mà doanh nghiệp chắc chắn phải thực hiện. Các doanh nghiệp phải trả lời được câu hỏi: Sản xuất sản phẩm gì? Bán cho ai? Bán với giá nào?...Tất cả các yếu tố đó quyết định đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm từ đó tạo ra được thương hiệu cho sản phẩm. Đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp, đưa dược phẩm trong nước đến gần với người dân hơn. Đây sẽ là nhiệm vụ hết sức khó khăn vì trình độ ngành dược của chúng ta vẫn còn khá thấp, cùng với tâm lý chuộng thuốc ngoại cũng ảnh hưởng lớn đến xây dựng thương hiệu dược phẩm lớn mạnh trên thị trường. Khuyến nghị 4.1. Công tác quản lý nhà nước * Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung những văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là những văn bản không phù hợp với thực tế và cam kết hội nhập quốc tế, theo hướng đảm bảo tính đồng bộ với hệ thống pháp luật chung, phù hợp với tình hình thực tế và đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, minh bạch và tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động của doanh nghiệp. * Củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về dược từ trung ương đến địa phương, chú trọng công tác đào tạo và bố trí nhân lực ở tuyến tỉnh, tuyến huyện, quan tâm đến những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa: - Tại Cục Quản lý dược: bổ sung và củng cố đội ngũ cán bộ của Cục . Phối hợp chặt chẽ với Vụ Khoa học - Đào tạo để thực hiện tốt cơ chế đào tạo cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ cho những địa phương gặp khó khăn về nhân lực dược. - Tại địa phương: Tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các Sở Y tế chủ động báo cáo UBND tỉnh/thành phố để kiện toàn tổ chức và cán bộ tại cơ quan quản lý dược; Tham mưu, đề xuất những chính sách thu hút cán bộ dược về công tác tại địa phương; có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại kiến thức chuyên môn về dược cho cán bộ y tế. * Tăng cường và duy trì sự phối hợp giữa các Vụ- Cục trong Bộ Y tế, với các Bộ, Ban ngành có liên quan và các Hội nghề nghiệp để làm tốt hơn nữa công tác quản lý nhà nước về dược; giám sát việc thực thi pháp luật về dược nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và nhà sản xuất về chất lượng thuốc và sở hữu trí tuệ của thuốc. *. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Thực hiện hậu kiểm với hầu hết các lĩnh vực; thanh tra- kiểm tra đột xuất việc thực hiện các GP’s, đặc biệt là GMP để đảm bảo chất lượng thuốc từ khâu sản xuất đến lưu thông trên thị trường. 4.2. Công tác sản xuất, cung ứng thuốc cho nhân dân * Tạo mọi điều kiện để phát triển sản xuất thuốc trong nước nhằm tăng nguồn cung cho nhu cầu sử dụng trong nước và tăng cường xuất khẩu thông qua việc ban hành, sửa đổi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo môi trường pháp lý thông thoáng, minh bạch hơn nữa. Để thực hiện thành công chủ trương này, Bộ Y tế (Cục Quản lý dược) cũng cần nhiều hơn nữa ý kiến góp ý, kiến nghị của các Nhà sản xuất cũng như củacác Bộ, ngành có liên quan. * Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh để khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất thuốc: đầu tư nhà máy, sản xuất nhượng quyền, chuyển giao công nghệ; ưu tiên cho những dự án sản xuất thuốc mới, thuốc chuyên khoa sâu, những dạng bào chế công nghệ cao, sản xuất vắc xin, vv ... Đảm bảo công khai, minh bạch và sửa đổi bất cập, tăng cường tiền kiểm trong đăng ký thuốc; * Khẩn trương kiện toàn hệ thống phân phối thuốc nhằm mục tiêu cung ứng thường xuyên, kịp thời và đủ thuốc đảm bảo chất lượng, giá cả hợp lý và đảm bảo sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả phục vụ công tác điều trị thông qua việc: Tiếp tục triển khai Quyết định, Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Y tế về lộ trình GP’s ở tất cả các lĩnh vực kinh doanh dược phẩm, đảm bảo chất lượng thuốc lưu thông trên thị trường. Kiên trì mục tiêu thực hiện GPP và GDP để tạo ra sự thay đổi về chất của hệ thống bán lẻ thuốc trên toàn quốc. Trên cơ sở đó, phát triển và giữ vững thị phần chủ đạo hệ thống bán lẻ thuốc, trong điều kiện thực thi quyền xuất nhập khẩu thuốc theo cam kết với WTO cho các thương nhân nước ngoài. * Triển khai công tác quản lý dược bệnh viện. Triển khai thí điểm đấu thầu thuốc quốc gia, trước mắt ở một số sản phẩm có số lượng lớn và sử dụng ở cả 3 tuyến trung ương, tuyến tỉnh và tuyến huyện, đảm bảo quản lý chặt chẽ công tác cung ứng thuốc cho bệnh viện. * Tiếp tục triển khai áp dụng đồng bộ các giải pháp quản lý giá thuốc, tăng cường nhân lực, sửa đổi quy chế trong kiểm soát giá thuốc, quan tâm quản lý giá thuốc tại nhà thuốc bệnh viện. Duy trì chỉ số giá nhóm hàng dược phẩm-y tế ở mức giá tăng thấp hơn so với tỉ lệ tăng chỉ số giá tiêu dùng. Đảm bảo không để xảy ra tăng giá thuốc đột biến, tăng giá đồng loạt trên thị trường. 4. 3. Công tác đảm bảo chất lượng Thuốc * Tăng cường năng lực của cơ quan kiểm nghiệm thuốc và vắc xin sinh phẩm y tế: Thành lập các Trung tâm kiểm nghiệm thuốc, trung tâm thông tin thuốc. Kiện toàn tổ chức và nâng cấp cơ sở vật chất cho hai trung tâm thử tương đương sinh học và đánh giá sinh khả dụng của thuốc tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Nâng cấp cơ sở vật chất, tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của Viện kiểm định quốc gia vắc xin và sinh phẩm y tế đạt tiêu chuẩn quốc tế * Tăng cường công tác quản lý chất lượng thuốc: - Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát chất lượng thuốc: lấy mẫu thuốc kiểm tra chất lượng có trọng tâm, trọng điểm đối với hoạt chất, dạng bào chế, nhà sản xuất, nước sản xuất có nguy cơ cao vi phạm chất lượng, dễ bị biến đổi chất lượng trong quá trình lưu thông. - Thực hiện tốt hơn cơ chế tiền kiểm và hậu kiểm đối với chất lượng thuốc, chủ động phối hợp với các cơ quan hữu quan trong phòng chống thuốc giả, thuốc nhập lậu, thuốc không rõ nguồn gốc trên thị trường. Tăng cường kiểm tra, thanh tra đột xuất việc thực hiện các nguyên tắc GP’s ở các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dược phẩm. - Nâng cao trách nhiệm các cở sở sản xuất kinh doanh về đảm bảo chất lượng thuốc, quan tâm giám sát chất lượng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Chủ động phát hiện và thu hồi thuốc kém chất lượng. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ quy trình sản xuất thuốc theo tiêu chuẩn, nguyên tắc GMP, GLP, GSP. * Nâng cao kiến thức về GP’s: Tiếp tục mở các lớp GP’s, đào tạo và đào tạo lại để đảm bảo các cán bộ quản lý và cán bộ sản xuất đều được đào tạo GP’s. 4.4. Công tác đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, an toàn * Tăng cường công tác tuyên truyền sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và có hiệu quả bằng nhiều hình thức, nâng cao kiến thức trong việc sử dụng thuốc cho người dân, cụ thể: - Thực hiện tốt hậu kiểm đối với Thông tin- quảng cáo thuốc, đảm bảo cho người dân được thông tin chính xác về thuốc. Phối hợp chặt chẽ với các Báo, Đài để hạn chế tối đa những quảng cáo thuốc chưa có hoặc không đúng với hồ sơ đăng ký quảng cáo thuốc tại Cục Quản lý dược. - Xử lý nghiêm khắc, đúng pháp luật những trường hợp vi phạm thông tin thuốc, quảng cáo sai sự thật về thuốc; những trường hợp quảng cáo biến tướng dưới dạng tư vấn sử dụng thuốc, thư cảm ơn. * Nâng cao vai trò, trách nhiệm và năng lực của Hội đồng thuốc và điều trị tại các bệnh viện. Sở Y tế, các trường, các viện có kế hoạch và tạo mọi điều kiện về tài liệu, thông tin và cơ chế để Hội đồng thuốc và điều trị phát huy được vai trò hướng dẫn sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả. Phát hiện và báo cáo kịp thời các phản ứng có hại của thuốc. Duy trì các lớp tập huấn về dược lâm sàng cho cán bộ y tế địa phương. 4.5. Công tác hợp tác quốc tế Duy trì, mở rộng hợp tác với các nước trên thế giới và trong khối ASEAN, 3 nước Đông Dương và các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ; chủ động hội nhập, trước hết là hài hoà quy chế trong lĩnh vực dược, cụ thể: * Triển khai thực hiện lộ trình thoả thuận công nhận lẫn nhau trong thanh tra GMP đối với các cơ sở sản xuất dược trong khu vực ASEAN * Tiếp tục triển khai các hoạt động trong khuôn khổ hợp tác với * Tham gia các cuộc hội nghị, hội thảo, tập huấn, đào tạo quốc tế thường niên. KẾT LUẬN Dược phẩm là một loại hàng hóa đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của con người. Trong những năm vừa qua, dược nội địa đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Chúng ta đã có thể từng bước cung cấp cho thị trường những loại sản phẩm có giá trị, cung ứng tốt cho nhu cầu trong nước và bước đầu xuất khẩu dược phẩm. Tuy nhiên, hiện nay dược trong nước mới chủ yếu sản xuất các loại thuốc thông thường thiếu các loại thuốc chuyên khoa, đặc trị; khoảng 90℅ nguyên liệu sản xuất dược phải nhập khẩu từ nước ngoài dẫn đến nhiều rủi ro cho các nhà sản xuất. Việt Nam là quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa hình thành nên một nguồn nguyên liệu dược phong phú; nhưng hiện nay nguồn dược liệu này được khai thác một cách bừa bãi thiếu quy hoạch dẫn đến mất dần các loại thuốc quý. Đây là một sự lãng phí to lớn. Việt Nam là nước có xuất phát điểm thấp: là một nước nông nghiệp không có công nghệ nguồn mà việc sản xuất thuốc tân dược đòi hỏi phải có khoa học kỹ thuật cao, nguồn vốn đầu tư lớn. Do đó, dược nội địa cần phải có chiến lược phát triển lâu dài, phải có kế hoạch đầu tư, tránh đầu tư dàn trải gây lãng phí nguồn vốn. Đặc biệt hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO, ngoài các cơ hội dược trong nước phải đối mặt với nhiều thách thức: sự tràn ngập của dược nước ngoài. Vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển dược phẩm Việt Nam cần phát huy những lợi thế của đất nước như nguồn dược liệu phong phú, lịch sử y học từ lâu đới, nguồn nhân công được đào tạo cơ bản tốt… để có thể đưa dược nội địa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra thế giới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kế hoạch kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân. Giáo trình Thương mại quốc tế - Bộ môn Thương mại Quốc tế - NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2007. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “ Đánh giá lợi thế so sánh của việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế bằng công cụ định lượng ” Niên giám thống kê của Tổng cục thống kê, năm 2005, 2006,2007,2008 Tạp chí kinh tê và phát triển, số 84 (2004), số 317(2004), Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 11/ 2009. Báo cáo tổng kết công tác dược năm 2008, triển khai kế hoạch năm 2009, TS. Trương Quốc Cường – Cục trưởng Cục quản lý dược – Bộ y Các website tham khảo: (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) www.mof.gov.vn (Bộ Tài Chính) (Trung tâm phát triển Thương mại điện tử, Cục thương mại điện tử và Công nghệ thông tin – Bộ Công thương) ( Viện dược liệu) (Bộ y tế) ( Cục quản lý dược Việt Nam) Và một số website khác. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT WEF : diễn đàn kinh tế thế giới. GMP : Thực hành tốt sản xuất thuốc GPP : Thực hành tốt nhà thuốc. GLP : Thực hành tốt kiểm nghiệm thuốc GDP : Thực hành tốt phân phối thuốc R&D : nghiên cứu và phát triển TCCL: tiêu chuẩn chất lượng MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25648.doc
Tài liệu liên quan